Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

TU LIEU VIET VAN HOA DAN GIAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.99 KB, 37 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tranh dân gian Đông Hồ</b>



Ðây là những bức tranh dân gian tiêu biểu cho nền mỹ


thuật cổ truyền của Việt Nam. Mỗi bức tranh tượng trưng


cho một câu chuyện hay một biểu tượng dân gian. Tranh


được vẽ trên một loại giấy chế tạo bằng tay và mực là màu


sắc thực, lấy từ cây cỏ và vật liệu tự nhiên. Xưa những bức


tranh này được trưng bày trong những ngày Tết.



Trạng Chuột ơn vua cưới vợ làng


Kiệu son lộng lẫy lọng hoa vàng!



Nàng dâu xứ chuột chân đi đất


Ngón nhỏ bùn non vẫn dính chân!



(Tranh Đám cưới chuột)



Tranh Dân gian Đơng Hồ xưa kia có những đề tài gần như


riêng về chủng loại (về sau các dịng tranh có giao thoa với


nhau, nên có mở rộng thêm). Các loại như:



<b>Đề tài Lịch sử</b>

: thường gắn với các nhân vật như các tranh:


Hai bà Trưng, Bà Triệu, Đinh Tiên Hoàng cờ lau tập trận,


Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nguyên...



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

“Trong như ngọc, trắng như ngà


Đây chèo đấy hứng cho vừa lịng nhau”



<i>(Hứng Dừa)</i>



<b>Các tích văn học, hoặc dân gian</b>

: Kiều, Thạch Sanh, hoặc



4 tố nữ với Cầm, Kỳ, Thi, Hoạ...



<b>Đặc biệt nổi bật là tranh các con vật như</b>

: các tranh Lợn:


Lợn đàn, Lợn độc, Lợn ăn cây dáy. Các Tranh Gà: Gà đàn,


Gà -Đại cát, Gà -Thư hùng, Gà trống - nghinh xuân. Tranh


các con vật khác như: Vịt, Trâu, Mèo, Rồng - Rước Rồng,


Hổ - Ngũ Hổ, Chuột, Cá, Cóc.



<b>Đề tài tứ quý</b>

: Mai - Hạc (mùa Xuân), Phù dung - Chim


Trĩ (mùa Hạ), Ngô Đồng - Chim Phượng (mùa Thu), Tùng


- Chim Công (mùa Đông).



Con vật khi là đề tài riêng, hoặc khi được nghệ nhân sáng


tạo em bé với gia cầm như bức Vinh hoa, Phúc Lộc song


toàn với (em bé ôm gà trống), (em bé ôm rùa), (em bé ôm


cá), ... Hoặc đưa con vật vào tranh với lối ẩn dụ nhằm phản


ánh nội dung xã hội con người như các tranh: Đám cưới


chuột, Thày đồ Cóc...



Tranh in cũng thể hiện tính dí dỏm, khung cảnh ấm cúng


của Tết Nguyên Đán đó là: hạnh phúc, may mắn và thịnh


vượng. Các con vật gần gũi với làng quê như gà trống, trâu,


rồng và cá là biểu trưng cho hạnh phúc, thịnh vượng, sự


chăm chỉ cần cù, thông minh.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

“đám cưới chuột” là sự thể hiện tài tình các thói hư tật xấu


của xã hội phong kiến thơng qua hình tượng các con vật


một cách dí dỏm và sâu sắc.



Tranh làng Ðông Hồ không phải vẽ theo cảm hứng nghệ



thuật mà người dùng ta dùng ván để in. Ðể có những bản


khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu.


Những người vẽ mẫu và bản khắc ván địi hỏi họ phải có


lịng u nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có


trình độ kỹ thuật cao. Cơng đoạn in tranh có lẽ khơng khó


lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in.



Tranh dân gian Ðông Hồ không áp dụng chặt chẽ về cơ thể


học, các nguyên tắc về ánh sáng hay luật xa gần của tranh


hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian mang nhiều


tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc. Tất


cả đều sử dụng lối vẽ đơn tuyến bình đồ để thể hiện, do đó


xem tranh dân gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét


ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý hợp tình.



<b>Dưới đây là một số bức tranh dân gian</b>



"Thôi thôi một giận làm lành



Chị đừng tức giận cho nhục lòng ta”…


(Đánh Ghen)



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chơi cá


Chơi chim


Chuột rước đèn



Đấu vật


Thầy đồ cóc



Học bài



Múa rồng


Trưng Trắc


Lợn Đơng Hồ



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Em bé cưỡi trâu thả diều


Em bé cưỡi trâu thổi sáo



<b>Tranh dân gian Việt Nam</b>


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Bước tới: menu, tìm kiếm


Đấu vật - Một bức tranh của dịng tranh dân gian Đơng Hồ


<b>Tranh dân gian Việt Nam</b> là một loại hình mỹ thuật cổ truyền của dân gian Việt Nam.


<b>Mục lục</b>



[ẩn]


 1 Lịch sử
 2 Đặc điểm


o 2.1 Cách vẽ, in ấn


o 2.2 Nguyên liệu và cách tạo màu cho tranh
o 2.3 Bố cục của tranh


 3 Đề tài và nội dung của tranh dân gian
 4 Những dịng tranh chính



o 4.1 Dịng tranh dân gian Đơng Hồ
o 4.2 Dòng tranh Hàng Trống
o 4.3 Tranh Kim Hoàng
o 4.4 Tranh làng Sình


 5 Liên kết ngoài


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Lịch sử</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nghề và một số gia đình làm tranh. Về cơ bản có hai loại tranh chính là tranh Tết và tranh
thờ. Sở dĩ tranh dân gian Việt Nam xuất hiện rất sớm là bởi vì nó với hai loại chính là
tranh tết và tranh thờ xuất hiện gần như cùng lúc với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của


người Việt và việc thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên.


Vào thời nhà Lý (thế kỷ 12) đã bắt đầu xuất hiện những gia đình hay thậm chí là cả một


làng chuyên làm khắc ván, làm tranh. Đến cuối đời nhà Trần nhiều nơi đã in được tiền
giấy (là một cách thể hiện của tranh dân gian) và sang đời nhà Hồ tiền giấy đã được phát
triển mạnh.


Tời thời kỳ Lê sơ việc in khắc tranh đã được tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của


Trung Quốc và sau khi vào Việt Nam đã được cải tiến thêm cho phù hợp. Cùng với đó là
sự phân hoá của tranh dân gian xuất hiện ngày càng rõ nét.


Đến đời nhà Mạc (thế kỷ 16) một thay đổi đặc biệt đã xảy ra, tranh dân gian không cịn là
sản phẩm riêng của những người nơng dân nghèo khó nữa, mà đã được cả tầng lớp quý
tộc ở kinh thành Thăng Long ưa thích, thường sử dụng vào dịp Tết Nguyên Đán.



Sang thế kỷ 18 - 19, tranh dân gian đã dần đi vào giai đoạn ổn định và phát triển mạnh
mẽ. Nghề làm tranh đã lan truyền rộng rãi hầu khắp cả nước. Cùng với đó là sự phân hóa,
những dịng tranh mới xuất hiện, được gọi tên theo địa danh nơi sản xuất, đã có những
phong cách riêng của mình. Nét riêng của mỗi dịng tranh được thể hiện ngay từ quy trình
làm tranh cũng như trong mỗi đường nét của tranh. Đó là sự khác biệt giữa kỹ thuật khắc
ván in, kỹ thuật vẽ, nguyên liệu làm tranh, cách pha chế tạo màu sắc riêng...


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Đặc điểm</b>



Tranh dân gian Việt Nam dù có nhiều dịng tranh khác nhau nhưng nhìn chung đều được
dựng hình theo kiểu lấy các nét khoanh, lấy các mảng màu và bao lại tồn hình. Các
thành phần trong tranh khơng có một điểm nhìn cố định mà hầu hết được thiết kế để có
thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau. Cách tạo màu cũng vậy, tất cả đều nhằm
làm cho bức tranh thật dễ nhìn.


<b>[sửa] Cách vẽ, in ấn</b>



Do đặc điểm của tranh dân gian là để phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân,
phục vụ việc thờ cúng, trang hoàng cho ngày Tết cho nên cần phải có số lượng lớn mà
giá cả khơng được đắt. Vì thế mà người làm tranh đã sử dụng phương pháp khắc ván rồi
từ đó sao in ra nhiều bức tranh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Ngồi các dịng tranh sử dụng phương pháp khắc thì cịn có những bức tranh vẽ tay của
các nghệ nhân. Phương pháp vẽ tranh trực tiếp này chủ yếu được dùng ở vùng các dân
tộc thiểu số ở vùng núi miền Bắc như người: Tày, Nùng, Dao...


<b>[sửa] Nguyên liệu và cách tạo màu cho tranh</b>



Tranh thường được in hoặc vẽ trực tiếp lên giấy. Loại giấy phổ biến thường được các


dòng tranh dùng hơn cả là giấy dó. Từ loại giấy này có thể làm ra giấy điệp, loại giấy mà
tranh Đơng Hồ sử dụng in hình. Đặc điểm của loại giấy này là độ bền rất cao, mà lại xốp
nhẹ, khơng nh khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc gịn gẫy, ẩm nát. Với đặc tính chống ẩm
rất cao, giấy dó giúp cho các bức tranh khơng bị ẩm mốc, trường tồn cùng thời gian.
Mỗi dịng tranh thường có cách tạo màu, pha chế màu sắc riêng, nhưng nhìn chung thì
màu sắc cho những bức tranh thường được tạo nên từ những nguyên liệu đơn giản, dân dã
bằng rất nhiều phương pháp khác nhau.


Ví dụ như trong tranh Đơng Hồ, thường chỉ có 3 đến 4 màu mà thôi, màu sắc được tạo
nên từ:


 Than xoan tạo màu đen,
 Rỉ đồng tạo màu xanh,
 Hoa hòe tạo màu đỏ,
 Lá chàm tạo màu xanh mát,


 Màu vàng ấm lấy từ hoa hoè hay quả dành dành,


 Màu trắng óng ánh thì dùng vỏ trai điệp ở biển nghiền mịn


 Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ,
 Màu vàng cũng tạo nên từ hoa hoè,


 Màu chàm từ các nguyên liệu của rừng núi,
 Màu son của sỏi đồi tán nhuyễn.


Những màu sắc đó lại được pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh Hàng
Trống một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện đại không thể nào có được. + màu
sắc trong tranh Hàng Trống: thường chỉ có 3 đến 5 màu, màu sắc dùng phẩm màu để vẽ.

<b>[sửa] Bố cục của tranh</b>




Hầu hết tranh dân gian được vẽ theo quan niệm "sống" hơn "giống". Đường nét của mỗi
bức tranh hết sức gạn lọc, thuần khiết, cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem hơn là
vẽ đúng luật. Các thành phần trong tranh khơng có một điểm nhìn cố định mà hầu hết
được thiết kế để có thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau.


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Đề tài và nội dung của tranh dân gian</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Tranh phản ánh từ những gì gần gũi, thân thiết nhất với người dân cho đến những điều
thiêng liêng cao quý trong các tranh thờ.


Những truyện Nôm như <i>Truyện Kiều</i> và <i>Nhị Độ Mai</i> cũng được dùng làm đề tài tranh.


<i>Truyện Kiều</i> thì có cảnh ba chị em đi tảo mộ gặp Kim trọng. <i>Nhị Đọ Mai</i> thì vẽ cảnh
Hạnh Nguyên đi cống Hồ.


Những đề tài dân dã như: cóc, chuột, đàn gà, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống, đánh
vật... Cùng tồn tại với những đề tài như: Phú Quý, Tố Nữ, ...


Lịch sử Việt Nam cũng là một đề tài được tranh dân gian đề cập đến rất nhiều, như: bà


Trưng Trắc cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Đinh Bộ Lĩnh cờ lau
tập trận... rồi sang thời kỳ lịch sử hiện đại có Việt Nam độc lập, bình dân học vụ, bắt sống
giặc lái máy bay, Bác Hồ về thăm làng...


Nội dung của tranh cũng hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi bức tranh đều mang một ý
nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người, mang trong nó là
cả những ước vọng của người dân, từ những ước mong giản dị cho tới những điều cao
quý. Đó có thể là mong ước về một cuộc sống no ấm của nhà nông với sự thể hiện của
tranh "Mẹ con đàn lợn", hay sự thể hiện ý chí kiên cường bất khuất của đấng nam nhi với


"Tranh gà trống" sặc sỡ và oai vệ, và nó cũng thể hiện cho 5 đức tính quý của con người:
văn (vẻ đẹp – mào gà), vũ (cứng rắn – cựa gà), nhân (lòng thương yêu đồng loại – khi
kiếm được mồi luôn gọi đàn đến cùng ăn), dũng (sức mạnh – gặp kẻ thù thì kiên quyết
chống lại), tín (hàng ngày báo giờ rất đúng). Tranh gà đẹp và ý nghĩa như thế, nên nhà
thơ Đoàn Văn Cừ đã viết trong bài thơ <i>Chợ têt</i>: "Lũ trẻ còn mải ngắm bức tranh gà/ Quên
cả chị bên đường đang đứng gọi".


Còn tranh "Đám cưới chuột" lại là một minh chứng sống động và hóm hỉnh cho quan hệ
mạnh hiếp yếu trong xã hội. Chuột làm đám cưới phải lo lễ vật cống cho mèo, cầu xin
mèo để yên cho đám cưới được tiến hành.


Dù được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng tranh dân gian của các dòng
tranh đều có điểm giống nhau là ln đề cao cái đẹp, đề cao đạo lý làm người, giáo dục
những phẩm chất tốt và cầu mong những điều tốt đẹp trong cuộc sống.


Về nội dung, tranh dân gian Việt Nam có thể chia 4 nhóm:


1. Tranh thờ: được các trung tâm làm tranh dân gian dành một tỉ lệ lớn. Sử dụng ở
các chùa, đền, điện, phủ và nhà dân để canh gác, trừ tà, yểm quỷ (“Vũ Đình -
Thiên Ất”, “Tiến Tài - Tiến Lộc”, “Táo quân - Thổ cơng”, “Ngũ Hổ”...). Tranh
làng Sình (Huế), Đồ Thế (Nam Bộ) - theo mê tín để đốt thế mạng cho người sống;
2. Tranh chúc tụng: chủ yếu là tranh Tết (“Gà - Lợn”, “Thất Đồng”, “Tam Đa”...);
3. Tranh sinh hoạt: phong phú, vui vẻ, đơi khi có tính châm biếm nhẹ nhàng (“Tứ


quý”, “Tứ dân”, “Đánh ghen”, “Hứng dừa”...);


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Những dịng tranh chính</b>



Cùng với những đổi thay của đất nước, tranh dân gian cũng vậy, có nhiều dịng tranh xuất
hiện. Có dịng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dịng tranh nhanh


chóng biến mất. Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng tranh dân gian hiện
khơng cịn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn của mỗi dịng tranh vẫn cịn đó,
như là một chứng tích của xã hội Việt Nam một thời, nó sẽ vãn mãi là di sản của dân tộc
Việt Nam.


Có một số dịng tranh dân gian chính đã một thời cực thịnh và ngày nay còn lưu giữ được
một phần, như:


 Tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh)
 Tranh Hàng Trống (Hà Nội)


 Tranh Kim Hoàng (Hà Tây)
 Tranh làng Sình (Huế)


<b>[sửa] Dịng tranh dân gian Đơng Hồ</b>



<i>Đọc bài: Tranh Đông Hồ</i>


Chơi bịt mắt bắt dê


Nhắc tới tranh dân gian Việt Nam khơng thể khơng nói tới dịng tranh khắc gỗ Đơng Hồ.
Dịng tranh này ra đời từ khoảng thế kỷ 17 và phát triển cho đến nửa đầu thế kỷ 20 sau đó
suy tàn dần. Mang trong mình những nét tinh túy riêng với những giá trị văn hóa to lớn.
Những khác biệt của dòng tranh này so với cách dòng tranh khác được thể hiện từ những
khâu như vẽ mẫu, khác bản in, sản xuất và chế biến màu cho đến in vẽ tranh. Đây là dòng
tranh khắc ván, sử dụng ván gỗ để in tranh, tranh có bao nhiêu màu thì có bấy lần in.
Dịng tranh này có đề tài rất phong phú, nó phản ảnh hầu như tất cả những gì diễn ra
trong cuộc sống, sinh hoạt thường ngày cũng như những mối quan hệ xã hội ở miền nơng
thơn Bắc Bộ. Từ những gì dân dã nhất như hái dừa, đánh ghen, gà trống,... cho tới những
bức tranh thờ: Phú Quý, Nhân Nghĩa...



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

đều có treo một vài tờ tranh Đông Hồ. Cùng với thời gian, với sức mạnh mang trong
mình, tranh Đơng Hồ ngày càng lan tỏa ra các vùng xung quanh, để rồi nó đã trở thành
một phần khơng thể thiếu của đời sơng văn hóa tinh thần của người dân.


Dù đã có thời gian đi vào lãng quên, nhưng ngày nay dòng tranh này vẫn còn giữ được
những giá trị to lớn của nó. Tranh Đơng Hồ vẫn tồn tại như là một biểu tượng văn hoá
của người dân Việt.


Các tác phẩm : Gà mái , Bà Triệu , Thạch Sanh , Hứng dừa , Gà Đại Cát , Đám cưới
chuột


<b>[sửa] Dòng tranh Hàng Trống</b>



<i>Đọc bài: Tranh Hàng Trống</i>


Tranh thờ Ngũ Hổ


Tranh Hàng Trống là một dòng tranh dân gian được làm chủ yếu ở các phố Hàng Trống,
Hàng Nón... của Hà Nội. Dịng tranh này có nhiều điểm riêng biệt so với các dịng tranh
dân gian khác.


Nhìn chung thì tranh Hàng Trống có phần nổi trội hơn về thể loại tranh thờ, do ảnh
hưởng Phật giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện khả công
phu, không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Khác với dịng tranh Đơng Hồ, nó khơng được in tất cả bằng ván khắc mà chỉ in "một
nửa", in những đường nét chính sau đó lại tô vẽ lại, cụ thể kỹ thuật tranh Hàng Trống kết
hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quệt
phẩm nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế làm cho màu sắc rất


uyển chuyển. Nhờ vậy, mà nó đáp ứng được địi hỏi của khách mua tranh chốn kinh kỳ.
Các tác phẩm : Ngũ Hổ , Bịt mắt bắt dê , chợ quê , Phật Bà Quan Âm


<b>[sửa] Tranh Kim Hoàng</b>



<i>Đọc bài: Tranh Kim Hoàng</i>


Tranh Kim Hoàng là sản phẩm tranh ra đời từ sự hợp nhất 2 làng Kim Bảng và Hoàng
Bảng vào năm Chính Hịa thứ 22 (1701). Dân làng thường làm tranh từ Rằm tháng 11 âm
lịch cho tới Tết Ngun Đán.


Điểm khác biệt của dịng tranh này là nó không sử dụng giấy in quyét điệp như tranh
Đông Hồ mà cũng không sử dụng giấy xuyên như tranh Hàng Trống mà in trên giấy Đỏ,
giấy Hồng Điều hay giấy Tàu vàng.


<b>[sửa] Tranh làng Sình</b>



<i>Đọc bài: Tranh làng Sình</i>


Nghề làm tranh tại làng Sình (nằm ven bờ sơng Hương, Huế) đã ra đời không biết từ bao
giờ, và tranh của làng đa phần phục vụ cho việc thờ cúng của người dân khắp vùng.
Tranh làng Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng. Với khoảng hơn 50 đề tài tranh
phản ảnh tín ngưỡng cổ sơ, người dân thờ tranh cầu mong người yên, vật thịnh ... Tranh
có nhiều cỡ khác nhau, ứng với nó là kiểu in vẽ cũng khác nhau. In tranh khổ lớn thì đặt
bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một
đầu, quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa
đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy
ván in dập lên.


Bản in đen chờ cho khô thì đem tơ màu. Màu tơ của tranh làng Sình tuy khơng được tỉa


tót và vờn đậm nhạt như tranh Hàng Trống, nhưng mỗi màu đều có chỗ cố định trên
tranh, tạo nên sự hòa sắc phù hợp với ý nghĩa từng tranh.


Điểm nổi bật ở tranh làng Sình là đường nét và bố cục cịn mang tính thô sơ chất phác
một cách hồn nhiên. Nhưng nét độc đáo nhất của nó lại là ở chỗ tơ màu. Khi đó nghệ
nhân mới được thả mình theo sự tưởng tượng tự nhiên.


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Liên kết ngoài</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

 Sức sống của tranh Đơng Hồ


[ẩn]


x • t • s


<b>Tết</b>
Tết


Nguyên
Đán


<b>Ẩm thực:</b>Bánh chưng<b> ·</b>Bánh giầy<b> ·</b>Bánh tét<b> ·</b>Dưa hành<b> ·</b>Mứt<b> ·</b>Thịt mỡ<b> ·</b>
Thịt kho hột vịt


<b>Phong tục:</b>Cây nêu<b> ·</b>Câu đối<b> ·</b>Hoa đào<b> ·</b>Hoa mai<b> ·</b>Lì xì<b> ·</b>Mâm ngũ quả<b> ·</b>
Pháo hoa <b> ·</b>Tràng pháo<b> ·Tranh Tết</b>


<b>Liên quan:</b>Đường hoa Nguyễn Huệ


Một số


Tết
khác


Tết Nguyên tiêu<b> ·</b>Tết Thanh minh<b> ·</b>Tết Hàn thực<b> ·</b>Tết Đoan ngọ<b> ·</b>Ngày
Thiếu nhi <b> ·</b>Vu-lan<b> ·</b>Tết Trung thu<b> ·</b>Tết Cơm mới


Tết trên
thế giới


Tết Dương lịch<b> ·</b>Tết Khơ-me<b> ·</b>Tết Lào<b> ·</b>Tết Thái<b> ·</b>Tết Trùng cửu<b> ·</b>Tết
Trùng thập


Lấy từ “ />


Thể loại: Tranh dân gian Việt Nam | Mỹ thuật dân gian Việt Nam
<b>Công cụ cá nhân</b>


 Tính năng mới


 Đăng nhập / Mở tài khoản


<b>Khơng gian tên</b>


 Bài viết
 Thảo luận


<b>Biến thể</b>
<b>Xem</b>


 Đọc
 Sửa



 Xem lịch sử


<b>Tác vụ</b>
<b>Tìm kiếm</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

 Trang Chính
 Cộng đồng
 Thời sự


 Thay đổi gần đây
 Bài viết ngẫu nhiên
 Trợ giúp


 Quyên góp


<b>In/xuất ra</b>


 Tạo một quyển sách
 Tải về dưới dạng PDF
 Bản để in ra


<b>Gõ tiếng Việt (?)</b>


Tự động [F9]


Telex (?)
VNI (?)
VIQR (?)
VIQR*


Tắt [F12]


Bỏ dấu kiểu cũ [F7]


Đúng chính tả [F8]


<b>Cơng cụ</b>


 Các liên kết đến đây
 Thay đổi liên quan
 Các trang đặc biệt
 Liên kết thường trực
 Chú thích trang này


 Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 06:34, ngày 24 tháng 9 năm 2010.
 Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons


Ghi


công/Chia sẻ tương tự ; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Xem Điều khoản
Sử dụng để biết thêm chi tiết.


Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ
chức phi lợi nhuận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

 Lời phủ nhận






Làng tranh dân gian Đông Hồ


Thứ Hai, 01/12/2003 - 12:19 AM
Làng Mái xưa kia nay đổi tên là làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh, một làng nhỏ nằm sát bờ nam đê sông Đuống, cách thủ đô Hà Nội chừng ba
mươi km về hướng đông.


Đây là một trong những làng cịn giữ gìn được các di sản cổ xưa nhất của vùng đất
Kinh Bắc.


<i>Hỡi cô thắt lưng bao xanh</i>
<i>Có về làng Mái với anh thì về</i>


<i>Làng Mái có lịch có lề </i>
<i>Có ao tắm mát có nghề làm tranh.</i>


Ðông Hồ, một cái tên làng quen thuộc xinh xắn nằm bên bờ sông Ðuống thuộc
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh đã từ lâu đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi
người dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân
tộc.


Tranh làng Ðông Hồ không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người dùng ta
dùng ván để in. Ðể có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ
mẫu. Những người vẽ mẫu và bản khắc ván đòi hỏi họ phải có lịng u nghệ thuật
và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao. Cơng đoạn in tranh có lẽ
khơng khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in.


Giấy dùng in tranh là loại giấy gió mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng
ánh lấy từ vỏ con sò, con hến đã tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Ðông Hồ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Tranh dân gian Ðông Hồ không áp dụng chặt chẽ về cơ thể học, các nguyên tắc về
ánh sáng hay luật xa gần của tranh hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian
mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc. Tất cả đều sử
dụng lối vẽ đơn tuyến bình đồ để thể hiện, do đó xem tranh dân gian ta thường bắt
gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý hợp tình.


Khơng chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước sành điệu, u thích
tranh dân gian Tết Ðơng Hồ về tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà khơng ít du
khách, những người trong lĩnh vực hội hoạ, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để
nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ.


Ðã có một thời gian tranh dân gian Ðông Hồ bị lãng quên nên nghề làm tranh mai
một ít nhiều. Khơng ít hộ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ vàng mã. Những vài năm
năm trở lại đây người Ðông Hồ lại hoan hỉ trở lại với nghề tranh nhiều hơn bởi người
dân của ta đã lại nhận ra vẻ đẹp trong sự mộc mạc giản dị của tranh Ðông Hồ là
không thể thiếu được trong cuộc sống thường nhật, nhất là ngày Tết.


<b>Phần IV</b>


<b>Thời điểm xuất hiện tranh dân gian Việt Nam</b>


<i>N</i>

<i>hững bức tranh dân gian của trẻ em Lạc Việt mua về dán đầy tường chơi trong những ngày </i>
<i>Tết. Với màu sắc sặc sỡ vui mắt, hình ảnh và nội dung trực tiếp của những bức tranh dân gian </i>
<i>Việt Nam mang tính giáo dục những giá trị nhân bản, đạo lý và khuyến khích vươn tới những </i>
<i>mục đích của con người trong xã hội đương thời: lễ trí, nhân nghĩa, phú quí, vinh hoa; hoặc tính </i>
<i>vui sống trong lao động và sự yên bình. </i>


Nhưng hàm nghĩa sâu xa của những bức tranh dân gian Việt Nam lại mang đầy tính
minh triết của văn hố Đơng phương về những ước mơ thánh thiện của con người. Từ
đời này qua đời khác, trải bao thăng trầm của lịch sử, tranh dân gian Việt Nam còn


được lưu truyền tới tận ngày nay. Nhưng tranh dân gian Việt Nam bắt đầu có từ bao
giờ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

thấy những di sản cịn lại của nó qua những thăng trầm của lịch sử hay không mà
thôi. Bởi vậy, nếu cho rằng trước thời Việt Nam hưng quốc (thế kỷ X), người Việt
khơng có tranh là điều phi lý. Như vậy, dân tộc Việt Nam phải có tranh vẽ của mình,
phản ánh cái nhìn cái nghĩ của dân tộc Việt từ rất lâu trong cổ sử. Người viết xin
được trình bày sự minh chứng của mình như sau:


Nếu sắp xếp những bức tranh dân gian Việt Nam theo trình tự từ nội dung phản ánh
tính triết học của nền văn minh cổ Đơng phương, cho đến những tranh dân gian
phản ánh quan niệm sống của người Lạc Việt và đến những tranh về đề tài lịch sử
gần đây. Chúng ta sẽ nhận ra ngay những phương pháp thể hiện rất khác nhau. Dưới
đây là những bức tranh dân gian được thực hiện vào thời hiện đại:


<b>Phụ nữ đảm đang</b> (*)
Tranh Nguyễn Đăng Chế


<i>(*) Chú thích: Tranh trong sách “Nghệ thuật Việt Nam”, tập 1 - Sắc màu mùa xuân, Nxb Kim </i>
<i>Đồng 2001.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i>(*) Chú thích: Tranh trong sách “Nghệ thuật Việt Nam”, tập 1 - Sắc màu mùa xuân, Nxb Kim </i>
<i>Đồng 2001.</i>


So sánh những bức tranh trên với những tranh lịch sử sau:


<b>Phù Đổng Thiên Vương</b>


<b>Bà Trưng</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Qua sự so sánh trên thì tranh của các nghệ sĩ hiện đại mặc dù bút pháp sắc sảo,
nhưng về phương pháp thể hiện không khác những bức tranh dân gian được trình
bày trong phần này. Chúng có tính minh họa cho một sự kiện lịch sử hoặc những vấn
đề xã hội. Nội dung những bức tranh này nhắc nhở cho thế hệ sau những sự kiện lịch
sử đáng ghi nhớ của dân tộc và ca ngợi chiến công của ông cha chống ngoại xâm.
Những bức tranh này so với Đinh Tiên Hoàng đã rất khác về phương pháp thể hiện.
Nếu so với hai bức tranh thể hiện Hai Bà Trưng; Bà Triệu ở trên, lại có một khoảng
cách lớn về phương pháp thể hiện. Do đó, người viết cho rằng về niên đại xuất hiện
những bức tranh mang tính minh họa phải rất muộn sau những bức tranh Bà Trưng,
Bà Triệu ở trên. Những bức tranh càng về sau nặng về tính minh họa sự kiện. Cịn
những bức tranh trên như: Bà Trưng, Bà Triệu rất có chiều sâu về nội dung. Có thể
nói là đã lột tả được cái thần của con người và sự kiện. Chính những phương pháp và
phong cách thể hiện khác nhau này, cùng nội dung triết học của nó, đã chứng tỏ một
thời kỳ lịch sử rất dài của tranh dân gian Việt Nam trải hàng thiên niên kỷ.


Căn cứ vào nội dung những bức tranh dân gian Việt Nam đã được trình bày trong
sách này; người viết cho rằng nó đã có nguồn gốc từ thời rất xa xưa. Có thể đã xuất
hiện vào khoảng đầu thời Hùng Vương thứ XVIII hoặc trước đó. Bởi vì trong tranh
dân gian Việt Nam có những nội dung mang tính minh triết về cội nguồn văn hóa
Đơng phương, khác hẳn những gì mà cổ thư chữ Hán đã thể hiện. Điều này đã chứng
tỏ nó khơng thể xuất hiện sau thời Hán và tất nhiên không thể gọi là ảnh hưởng văn
hóa Hán. Đương nhiên, người Lạc Việt phải làm ra giấy từ thời kỳ này. Đây cũng là
một điều kiện tiên quyết để khẳng định sự ra đời của những bức tranh dân gian Việt
Nam. Người ta khơng thể lưu truyền ý tưởng về hình tượng cho những bức tranh vẽ
trên giấy qua hàng thiên niên kỷ, nếu giấy không thực sự tồn tại làm cơ sở thể hiện
những ý tưởng đó. Cũng có thể cho rằng: hình tượng những bức tranh này được vẽ
trên vải và được lưu truyền, sau đó người Việt mới chuyển sang vẽ trên giấy. Nhưng
người viết cho rằng ý kiến lưu truyền ý tưởng thể hiện nội dung tranh dân gian lưu
truyền qua vải là khơng thực tế, vì lối vẽ trên vải khác hẳn phương pháp thực hiện
những bức tranh này trên giấy dó như hiện nay: thực hiện in bằng ván khắc. Một


hình ảnh sinh động minh họa cho ý tưởng này và cũng là cơ sở ban đầu cho ý tưởng
trên, chính là hình vẽ trên trống đồng được trình bày với bạn đọc sau đây:


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

dân gian Việt Nam, khi nội dung của nó đã chứng tỏ nó phải ra đời từ rất lâu trong
lịch sử văn hóa Đơng phương.


<i>C</i>

<i>uốn sách nhỏ này trình bày với bạn đọc là sự minh chứng tiếp tục của một quan niệm nhất </i>
<i>quán là: Lịch sử Việt Nam trải gần 5000 văn hiến và là cội nguồn đích thực của nền văn minh </i>
<i>Đông phương. Tất cả các sự minh chứng đều tuân thủ theo tiêu chí khoa học hiện đại là:</i>


<i>“Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng nếu nó giải thích được hầu hết những </i>
<i>vấn đề liên quan đến nó”.</i>


Bởi vậy, sẽ hồn tồn vơ lý nếu tranh dân gian Việt Nam khơng phải hoặc không thể
là sự minh chứng tiếp tục cho sự kỳ vĩ của nền văn minh Lạc Việt. Nhưng may mắn
thay, sự trung thành với những di sản văn hóa của tổ tiên của những nghệ nhân Lạc
Việt – trải qua nhiều thế hệ – đã truyền lại cho đến tận ngày hôm nay, những bức
tranh quý giá về cội nguồn minh triết Đông phương. Những lập luận thơng qua
những di sản văn hóa phi vật thể lưu truyền trong dân gian, mang nặng tính suy lý
chủ quan; nhưng hệ quả của những lập luận này lại là tính hợp lý cho mọi hiện tượng
liên quan đến nó. Điều này có thể là những hiện tượng mới lạ so với những phương
pháp tìm hiểu cổ sử thơng qua vật chứng khảo cổ. Nhưng bài báo được trích dẫn dưới
đây trong tạp chí Tia Sáng số tháng 4. 2002 có tựa là: <i>“Nhân đọc EDEN IN</i>


<i>THE EAST – đặt lại vấn đề cội nguồn dân tộc và văn minh Việt Nam”</i> – Tác giả
Nguyễn Văn, đã chứng tỏ cho sự thống nhất về kết luận của những phương pháp
khác nhau trong việc tìm hiểu cổ sử Đơng phương.


<i>Một phần trong giới sử học Tây phương từng quan niệm, hay nói đúng hơn là giả định, rằng các </i>
<i>nền văn minh Đông Nam Á, trong đó có cả Việt Nam chỉ là những nhánh của hai nền văn hóa lớn</i>


<i>hơn: Trung Hoa và Ấn Độ. Giả định này đã được dùng như một sử liệu, một thuyết đáng tin cậy, </i>
<i>được lưu truyền qua từng thế hệ như là một sự thật, một “thuyết chính thống”. Tính dễ dãi chấp </i>
<i>nhận sử liệu đó đã vơ tình gieo vào lịng nhiều nguời Việt một tâm lý tự ti, đánh giá thấp nền văn </i>
<i>hóa Việt Nam khi so sánh với các nền văn hóa khác. Nhưng nếu chịu khó nhìn vào thực tế và </i>
<i>cân nhắc một số dữ kiện nghiên cứu khoa học gần đây thì xem chừng những niềm tin trên đây </i>
<i>khó mà đứng vững được.</i>


<i>Đơng Nam Á là một trong những vùng đất với nhiều sắc dân và nhiều nền văn minh phong phú </i>
<i>nhất và cổ nhất của nhân loại. Với những kiến trúc độc đáo, chạm trổ tinh vi của đền đài, chùa </i>
<i>chiền ở Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Campuchia đã cho thấy phảng phất nhiều dấu vết của </i>
<i>một nền văn minh sáng chói trước đây.</i>


<i>Thực vậy, với một lịch sử lâu đời và nhiều nền văn minh phong phú như thế, song Đông Nam Á </i>
<i>lại không được các nhà sử học để ý đến như vùng đất khác. Nếu có, các sách cũng chỉ viết một </i>
<i>cách sơ sài, chỉ tập trung vào hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Mãi đến gần đây, văn minh</i>
<i>Thời đại Đồng thiếc Đông Sơn và các nền văn hóa trước đó (Thiên niên kỷ thứ nhất trCN) của </i>
<i>Việt Nam mới được công nhận là văn minh nguyên thủy của khu vực Đông Nam Á. Ngơn ngữ </i>
<i>Austronesian có nguồn gốc từ Đơng Nam Á (bị quên lãng) hiện diện rất rộng, trong các quần đảo</i>
<i>Melanesia, Polinesia và Micronesia, Đài Loan, Hawaii, và New Zealand, vượt Thái Bình Dương, </i>
<i>đến tận Ấn Độ dương khá lâu, có thể trước khi Phật Thích Ca ra đời.</i>


<i>Mãi đến thập niên 1960, một số nhà khảo cổ học trên thế giới, dựa vào nhiều kết quả của một </i>
<i>loạt nghiên cứu ở Việt Nam và Thái Lan, đã bắt đầu chất vấn sự chính xác và tính logic của </i>
<i>thuyết chính thống trên đây [1]. Gần đây, đã có thêm một số nhà nghiên cứu từ Việt Nam, Thái </i>
<i>Lan, và Indonesia công bố nhiều dữ kiện khảo cổ học cho thấy rằng thuyết văn hóa Đơng Nam Á</i>
<i>xuất phát từ văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ khơng cịn đứng vững nữa.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i>những dữ kiện dồi dào được thu thập một cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, </i>
<i>Oppenheimer trực tiếp thách thức thuyết chính thống và làm thay đổi những quan niệm về thời </i>
<i>tiền sử mà chúng ta từng hiểu và từng được dạy. Đặc biệt, cuốn sách đặt trọng tâm vào việc </i>


<i>thẩm định lại các quan điểm về văn minh vào thời tiền sử ở Đông Nam Á, và lần đầu tiên, đặt </i>
<i>vùng Đông Nam Á vào vị trí xứng đáng của một vùng đất thường bị lãng quên bên cạnh hai nền </i>
<i>văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ. Ông cho rằng:</i>


<i><b>a)</b> Trận đại hồng thủy được đề cập đến trong Kinh Thánh là có thật và xảy ra vào cuối kỷ Băng </i>
<i>hà, nhấn chìm lục địa Đơng Nam Á, dân chúng phải di tản đi các vùng đất khác để sống.</i>


<i><b>b)</b> Những dân tộc thuộc phần đảo Polynesian không phải xuất phát từ Trung Quốc, mà có nguồn </i>
<i>gốc từ Đông Nam Á.</i>


<i><b>c)</b> Người Trung Quốc không phải là người sáng chế ra kỹ thuật trồng lúa, mà chính là một số dân</i>
<i>thuộc vùng Đông Nam Á đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp đầu tiên của nhân loại.</i>


<i><b>d)</b> Đông Nam Á là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay. Theo Oppenheimer, Atlantis của </i>
<i>Đông Nam Á, tạm gọi là “Sundaland”, bởi vì vùng này là một thềm lục địa Sunda, nơi từng là </i>
<i>trung tâm hàng đầu về cuộc cách mạng thời đại đồ đá mới, bắt đầu phát triển kỹ thuật trồng trọt, </i>
<i>dùng đá để nghiền hạt lúa, vào khoảng 24.000 ngàn năm trước đây, tức là trước cả Ai Cập và </i>
<i>Palestine khoảng 10.000 năm.</i>


<i>Khám phá về hạt lúa ở hang Sakai – miền Bắc Thái Lan, hệ thống nơng nghiệp được tìm thấy ở </i>
<i>Indonesia, ở Việt Nam – thời Phùng Nguyên – gần đây cho thấy cư dân ở đây đã biết trồng lúa </i>
<i>rất sớm, từ 5.000 đến 8.000 năm về trước (lâu đời hơn cả thời đại mà những thành tựu được xem</i>
<i>là “cách mạng” về trồng lúa ở Trung Quốc). Ngoài ra, nhà khảo cổ học Wilhelm G. Solheim II, </i>
<i>trong loạt nghiên cứu từ 1965 đến 1968, cho thấy nền văn minh Hịa Bình là nền văn minh nông </i>
<i>nghiệp đầu tiên trên thế giới, khoảng 15.000 năm trCN. Một nhà khảo cổ học khác, Peter </i>
<i>Bellwood, cũng xác nhận nguyên thủy của cây lúa rất có thể là ở chung quanh vùng Đông Nam </i>
<i>Á, Trong Eden in the East, Oppenheimer cũng có kết luận tương tự: thay vào một mơ hình cho </i>
<i>rằng Trung Quốc là xứ sở nguyên thủy của kỹ thuật trồng lúa, chúng ta lại có một mơ hình khác </i>
<i>mà trong đó các dân tộc “mandi” nói tiếng Nam Á ở Đông Dương dạy người Trung Quốc các kỹ </i>
<i>thuật trồng lúa. Người Hịa Bình cịn truyền bá văn minh nơng nghiệp đến nhiều nơi khác: Nhật, </i>


<i>Đài Loan, Phi Luật Tân, Indonesia, Madagascar và Đông Phi từ khoảng 4000 đến 2000 trCN.</i>
<i>Ngay cả trong lĩnh vực kỹ nghệ chế biến, sản xuất, người Đông Nam Á, mà đặt biệt là người Việt </i>
<i>Nam, đã phát triển kỹ thuật làm đồ đồng, đồ thiếc và đồ gốm khá cao. Người dân ở vào thời </i>
<i>Phùng Nguyên đã từng sản xuất nhiều vũ khí phức tạp, có thể đánh xa và gây tổn thương hàng </i>
<i>loạt. Đối chiếu với những khám phá ở Đông Sơn và Phùng Nguyên, xem ra thuyết người Trung </i>
<i>Quốc khám phá ra vũ khí đầu tiên khơng còn vững nữa!</i>


<i>Về đồ gốm, người Việt Nam đã sản xuất nhiều sản phẩm nghệ thuật công phu và thanh tú, và </i>
<i>những sản phẩm này được bán trong khắp vùng Đông Nam Á qua đến tận xứ Melanesia. Thị </i>
<i>trường xuất khẩu này đã hình thành trước sự ảnh hưởng của Ấn Độ. Các dụng cụ bằng đá tìm </i>
<i>được ở Úc châu, đồ gốm ở Nhật đều có nguồn gốc từ Hịa Bình (khoảng 10.000 đến 20.000 năm</i>
<i>trCN). Solheim II nhấn mạnh rằng cả hai nền văn minh nổi tiếng của Trung Hoa là Lung Shan và </i>
<i>Yang Sao đều xuất phát từ Hịa Bình.</i>


<i><b>Theo thuyết của Oppenheimer thì người Trung Quốc và Ấn Độ ngày nay có gốc gác từ </b></i>


<i><b>Đông Nam Á,</b> chứ không phải ngược lại. Một số học giả khác (như Colani, Hornell, van Stein, </i>


<i>Geldern, Karlgren, Krom) cũng cho rằng làn sóng người từ Bắc Việt tràn xuống phía Nam và vào </i>
<i>Ấn Độ trước khi vùng này bị giống dân Aryan xâm chiếm. Solheim II căn cứ trên những dữ kiện </i>
<i>khảo cổ thì thấy rằng giống người Hịa Bình tràn lan xuống phía Nam, bắc và sang hướng tây.</i>


<i><b>Gần đây hơn, một nghiên cứu quan trọng – thuộc Trường Đại học Texas (Mỹ) và Viện </b></i>
<i><b>Nghiên cứu Di truyền học Trung Quốc – được công bố trên tập san của Viện Hàn lâm </b></i>
<i><b>Quốc gia Khoa học Mỹ cho thấy nguồn gốc của người Trung Hoa (và cả người Đông Á) rất</b></i>
<i><b>có thể là do người từ Đơng Nam Á di dân lên [3]. Như vậy, cho rằng dân tộc Việt là xuất </b></i>
<i><b>phát từ người Trung Hoa có thể là một ngộ nhận!</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<i>học để cho ra đời một cuốn sách làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam Á học và khảo cổ </i>
<i>phải ngẩn ngơ. Oppenheimer đã, khơng những trực tiếp chất vấn, mà cịn thách đố, những </i>


<i>thuyết mà giới chuyên môn chấp nhận như những “chân lý”. Kể từ ngày xuất bản cuốn sách cho </i>
<i>đến nay, gần như chưa có một chất vấn nào về tính khoa học của thuyết mà Oppenheimer đề </i>
<i>xuất. Có người cịn cho rằng đây là một quyển sách quan trọng vào bậc nhất trong ngành Đông </i>
<i>Nam Á học!</i>


<i>Tóm lại, nhiều khám phá khảo cổ học mới đây, và nhất là cuốn sách Eden in the East, đã nhanh </i>
<i>chóng đưa vùng đất bị lãng quên của Đông Nam Á vào một nơi trang trọng của bản đồ thế giới, </i>
<i>và là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay. Và qua những khám phá này, chúng ta đã có dữ </i>
<i>kiện để đặt vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam, chất vấn những thuyết mà ta từng </i>
<i>được dạy và từng tin như là những chân lý. Chúng ta có bằng chứng để phát biểu rằng trước khi </i>
<i>tiếp xúc với người Hán từ phương bắc đến, tổ tiên chúng ta đã tạo dựng nên một nền văn minh </i>
<i>khá cao, nếu khơng muốn nói là cáo nhất trong vùng Đơng Nam Á.</i>


<i><b>Chú thích trong báo:</b></i>


<i><b>1.</b> Đọc (i) “On the improbability of Austronesian origins in South China”, William Meacham, Asian </i>
<i>Perspectives, quyển 25, năm 1984-5; (ii) “The nusantao and North-South dispersals”, Wilhelm G.</i>
<i>Solheim II, “Indo-Pacific Prehistory Association Bulletin”, quyển 2, năm 1996; (iii) “Southeast Asia</i>
<i>and Korea: from the beginnings of food production to the first states”, W. Solheim II; “The History </i>
<i>of Humanity: scientific and cultural development”, quyển I: “Prehistory and the Beginning of </i>
<i>Civilization”, do UNESCO/Routledge (London), 1994.</i>


<i><b>2.</b> “Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia”, của Stephen Oppenheimer, Nhà</i>
<i>xuất bản Phoenix (London), 1998. Sách khổ 13 x 20 cm, dày 560 trang, kể cả 47 trang tài liệu </i>
<i>tham khảo và 28 trang bảng danh mục, chữ loại nhỏ. Giá đề 15 đô-la Canada, hoặc 9 bảng Anh.</i>


<i><b>3.</b> Đọc: (i) Genetic relationship of populations in Chiana”, J.Y. Chu và đồng nghiệp; Proceedings </i>
<i>of the National Academy of Science (USA) 1998, số 95, trang 11763-11768; (ii) “Y-chromosome </i>
<i>evidence for a north ward migration of modern humans into Eastern Asia during the last Ice age” </i>
<i>B. Su và đồng nghiệp, American Journal of Human Genetics, 1999, số 65, trang 1718-1724.</i>



Qua phần trích dẫn trên, bạn đọc cũng nhận thấy rằng: Với những cơng trình nghiên
cứu mới nhất, một số nhà khoa học trên thế giới bằng những phương pháp khác
nhau, đều có một kết luận về nền văn minh Đơng Nam Á chính là nguồn gốc nền văn
minh Phương Đơng.


Những cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học này sử dụng những phương pháp
tiếp cận phổ biến, nên có thể dễ được chấp nhận. Nhưng về căn bản những phương
pháp này khác phương pháp tiếp cận của người viết trong những sách đã trình bày
với bạn đọc dù kết luận có điểm tương đồng. Do đó, người viết vẫn bày tỏ một nhận
xét cho rằng: tính hợp lý trong việc giải thích những hiện tượng liên quan vẫn là một
điều kiện cần thiết cho một giả thuyết khoa học. Bởi vậy, mặc dù có một kết luận
giống nhau, nhưng người viết chỉ xin được dẫn chứng bài báo trên như một sự minh
họa sắc sảo, chứ không coi là một bằng chứng cho luận điểm của mình. Bởi vì những
học giả đó chỉ đề cập đến một nền văn minh Đông Nam Á chung chung, khi trên thực
tế không thể có một nền văn minh kỳ vĩ mà sự lan tỏa rộng lớn như vậy, lại không
tồn tại một nhà nước để bảo đảm sự tồn tại, tính phổ biến và sự phát triển cân đối
của nền văn minh đó. Người viết ln tin tưởng và chia sẻ với bạn đọc quan niệm cho
rằng:


Nhà nước Văn Lang dưới thời đại của các vua Hùng là một thời đại huy hồng trong
cổ sử nhân loại, chính là sự khởi đầu cho gần 5000 năm văn hiến trong lịch sử Việt
Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>Tranh dân gian Đông Hồ</b>



Ðây là những bức tranh dân gian tiêu biểu cho nền mỹ thuật cổ truyền


của Việt Nam. Mỗi bức tranh tượng trưng cho một câu chuyện hay một


biểu tượng dân gian. Tranh được vẽ trên một loại giấy chế tạo bằng tay


và mực là màu sắc thực, lấy từ cây cỏ và vật liệu tự nhiên. Xưa những



bức tranh này được trưng bày trong những ngày Tết.



Trạng Chuột ơn vua cưới vợ làng


Kiệu son lộng lẫy lọng hoa vàng!


Nàng dâu xứ chuột chân đi đất


Ngón nhỏ bùn non vẫn dính chân!


(Tranh

<i>Đám cưới chuột)</i>



Tranh Dân gian Đơng Hồ xưa kia có những đề tài gần như riêng về


chủng loại (về sau các dịng tranh có giao thoa với nhau, nên có mở


rộng thêm). Các loại như:



<b>Đề tài Lịch sử</b>

: thường gắn với các nhân vật như các tranh: Hai bà



Trưng, Bà Triệu, Đinh Tiên Hoàng cờ lau tập trận, Trần Hưng Đạo


chiến thắng quân Nguyên...



<b>Đề tài sinh hoạt như các tranh:</b>

Đấu vật, Đánh đu, Hội làng, Hứng dừa,



Đánh ghen, Chăn trâu - thổi sáo, Chăn trâu - thả diều...



“Trong như ngọc, trắng như ngà



Đây chèo đấy hứng cho vừa lịng nhau”



<i>(Hứng Dừa)</i>



<b>Các tích văn học, hoặc dân gian</b>

: Kiều, Thạch Sanh, hoặc 4 tố nữ với



Cầm, Kỳ, Thi, Hoạ...




<b>Đặc biệt nổi bật là tranh các con vật như</b>

: các tranh Lợn: Lợn đàn, Lợn



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Gà trống - nghinh xuân. Tranh các con vật khác như: Vịt, Trâu, Mèo,


Rồng - Rước Rồng, Hổ - Ngũ Hổ, Chuột, Cá, Cóc.



<b>Đề tài tứ quý</b>

: Mai - Hạc (mùa Xuân), Phù dung - Chim Trĩ (mùa Hạ),



Ngô Đồng - Chim Phượng (mùa Thu), Tùng - Chim Công (mùa Đông).


Con vật khi là đề tài riêng, hoặc khi được nghệ nhân sáng tạo em bé với


gia cầm như bức Vinh hoa, Phúc Lộc song toàn với (em bé ôm gà trống),


(em bé ôm rùa), (em bé ôm cá), ... Hoặc đưa con vật vào tranh với lối ẩn


dụ nhằm phản ánh nội dung xã hội con người như các tranh: Đám cưới


chuột, Thày đồ Cóc...



Tranh in cũng thể hiện tính dí dỏm, khung cảnh ấm cúng của Tết


Nguyên Đán đó là: hạnh phúc, may mắn và thịnh vượng. Các con vật


gần gũi với làng quê như gà trống, trâu, rồng và cá là biểu trưng cho


hạnh phúc, thịnh vượng, sự chăm chỉ cần cù, thơng minh.



Chúng ta có thể thấy những bình luận về xã hội phong kiến qua các


hình tượng tranh Đơng Hồ. Bức tranh nổi tiếng “đám cưới chuột” là sự


thể hiện tài tình các thói hư tật xấu của xã hội phong kiến thơng qua


hình tượng các con vật một cách dí dỏm và sâu sắc.



Tranh làng Ðông Hồ không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà


người dùng ta dùng ván để in. Ðể có những bản khắc đạt đến trình độ


tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu và bản khắc ván


đòi hỏi họ phải có lịng u nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải


có trình độ kỹ thuật cao. Cơng đoạn in tranh có lẽ khơng khó lắm bởi lẽ



ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in.



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<b>Dưới đây là một số bức tranh dân gian</b>



"Thôi thôi một giận làm lành



Chị đừng tức giận cho nhục lòng ta”…


(

<i>Đánh Ghen</i>

)



<i>Bắt dê</i>



Cá chép



Chơi cá



Chơi chim



Chuột rước đèn



Đấu vật



Thầy đồ cóc



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Múa rồng



Trưng Trắc



Lợn Đơng Hồ



Nghỉ ngơi giữa buổi trưa




Gà trên sân



Em bé cưỡi trâu thả diều



Em bé cưỡi trâu thổi sáo


__________________


<i><b>…Âm nhạc như làm tan biến nỗi cô đơn, vơi đi ưu phiền… hãy để những</b></i>


<i><b>giai điệu cảm xúc dắt ta</b></i>



<i><b>đi lang thang khắp nơi trong cái vô hạn của không gian và thời gian…</b></i>



Ðây là những bức tranh dân gian tiêu biểu cho nền mỹ thuật cổ truyền của Việt-Nam.
Mỗi bức tranh là tượng trưng cho một câu chuyện hay một biểu tượng dân gian. Tranh
được vẽ trên một loại giấy chế tạo bằng tay và mực là màu sắc thực, lấy từ cây cỏ và vật
liệu tự nhiên.


<i>Tranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, đã từng có thời gian phát triển rất mạnh </i>
<i>mẽ, ngày nay nó có phần giảm sút nhưng vẫn cịn được giữ gìn bảo tồn trong một số làng</i>
<i>nghề và một số gia đình làm tranh. Về cơ bản có hai loại tranh chính là tranh Tết và </i>
<i>tranh thờ. Sở dĩ tranh dân gian Việt Nam xuất hiện rất sớm là bởi vì nó với hai loại chính</i>
<i>là tranh tết và tranh thờ xuất hiện gần như cùng lúc với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của </i>
<i>người Việt và việc thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<i>giấy (là một cách thể hiện của tranh dân gian) và sang đời nhà Hồ tiền giấy đã được </i>
<i>phát triển mạnh.</i>


<i>Tời thời kỳ Lê sơ việc in khắc tranh đã được tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của Trung</i>
<i>Quốc và sau khi vào Việt Nam đã được cải tiến thêm cho phù hợp. Cùng với đó là sự </i>


<i>phân hoá của tranh dân gian xuất hiện ngày càng rõ nét.</i>


<i>Đến đời nhà Mạc (thế kỷ 16) một thay đổi đặc biệt đã xảy ra, tranh dân gian khơng cịn </i>
<i>là sản phẩm riêng của những người nơng dân nghèo khó nữa, mà đã được cả tầng lớp </i>
<i>quý tộc ở kinh thành Thăng Long ưa thích, thường sử dụng vào dịp Tết Nguyên Đán.</i>
<i>Sang thế kỷ 18 – 19, tranh dân gian đã dần đi vào giai đoạn ổn định và phát triển mạnh </i>
<i>mẽ. Nghề làm tranh đã lan truyền rộng rãi hầu khắp cả nước. Cùng với đó là sự phân </i>
<i>hóa, những dịng tranh mới xuất hiện, được gọi tên theo địa danh nơi sản xuất, đã có </i>
<i>những phong cách riêng của mình. Nét riêng của mỗi dòng tranh được thể hiện ngay từ </i>
<i>quy trình làm tranh cũng như trong mỗi đường nét của tranh. Đó là sự khác biệt giữa kỹ </i>
<i>thuật khắc ván in, kỹ thuật vẽ, nguyên liệu làm tranh, cách pha chế tạo màu sắc riêng…</i>


Bạn có thể xem chi tiết tại:
/>



MaxReading.com


Thế Giới Trong Tầm Tay
Phần mềm học tiếng Anh


Luyện tiếng Anh bằng cách chat với một cô gái xinh đẹp. Bé tập tô màu
Cùng bé thỏa sức sáng tạo trong thế giới màu sắc. Gõ bàn phím


Luyện gõ bàn phím nhanh với mười ngón tay.
* Sách hay


* Phần mềm
* Ảnh đẹp
* Nhạc chuông
* Âm thanh thực


* Tin tức


* Âm nhạc


Việt Nam Văn hóa Việt


[Tăng kích thước font chữ] [Giảm kích thước font chữ] Tơ nền văn bản khi click
Tranh dân gian


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Việt Nam với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nhân hoá các hiện tượng thiên nhiên thành
các vị thần nên cùng với tranh Tết, tranh thờ cũng có rất sớm. Cả hai đã trở thành nhu cầu
của nếp sống văn hoá, là thành tố của mỹ thuật cổ truyền và hợp thành văn hoá truyền
thống của dân tộc.


Do nhu cầu của tục chơi tranh Tết và thờ cúng, tranh dân gian phải có số lượng lớn nên
người Việt Nam từ lâu đã biết đến kỹ thuật khắc ván để in. Vào thời Lý (thế kỷ 12) đã có
những gia đình chuyên làm nghề khắc ván. Cuối thời Trần đã in được tiền giấy. Đến thời
Lê Sơ lại tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của Trung Quốc và cải tiến thêm một bước
nữa. Cũng từ đây, trong dòng chảy của mỹ thuật truyền thống - dân gian bắt đầu có sự
phân hóa để ngày càng phát triển đậm nét.


Trong bối cảnh đó, đến thời Mạc (thế kỷ 16) tranh dân gian phát triển khá mạnh, được cả
các tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long sử dụng vào dịp Tết mà bài thơ Tứ thời
khuê vịnh của nhà thơ đương thời Hoàng Sơ Khải đã xác nhận sự hiện diện của các loại
tranh thờ, tranh gà và tranh Tố nữ:


"Chung Quỳ khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ, phịng linh ngăn tà
Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương"



Đến thế kỷ 18 - 19 tranh dân gian Việt Nam đã ổn định và phát triển cao. Bảo tàng Lịch
Sử (Hà Nội) còn giữ được những ván khắc từ thời Minh Mạng thứ 4 (tức 1823). Địa bàn
làm tranh dàn trải trong cả nước. Dựa theo phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và
nguyên vật liệu làm tranh, có thể quy về một số dòng tranh gọi theo tên những địa danh
sản xuất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Trong giao lưu văn hoá, tranh dân gian Việt Nam vừa phát triển những vốn quý của các
thời trước tích tụ lại, vừa tiếp nhận những tinh hoa của các dòng tranh khác để rồi khẳng
định những gì thích hợp với dân tộc, làm phong phú hơn bản sắc của mình.


Ngày nay, tranh dân gian đã bị tranh hiện đại lấn át, hầu hết đã thất truyền. Tuy nhiên, có
một dịng tranh vẫn cịn tồn tại trước những thử thách của thời gian, như tranh Đồng Hồ.
Dịng tranh này khơng những có chỗ đứng ở trong nước mà nó đã và đang có mặt ở nhiều
nước trên thế giới như Nhật, Pháp, Mỹ...


Tranh Đơng Hồ


"Hỡi cơ thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch, có lề


Có sơng tắm mát, có nghề làm tranh"


Đó là câu ca xa xưa của một làng nhỏ nằm ven bờ nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh, thuộc
Kinh Bắc xưa.


tranh Đông HồNgười dân làng Hồ khi nhớ đến câu ca dao ấy, lòng thấy tự hào về nghề
tranh của mình đã một thời hưng thịnh, kéo dài từ cuối thế kỷ 17 đến nửa thế kỷ 19. Trải
qua bao thời loạn ly, tranh vẫn được duy trì, tồn tại đến ngày nay. Tranh Đông Hồ, từ


tranh vẽ đến tranh in thủ công, đều mang một phong cách riêng. Từ các khâu như vẽ mẫu,
khắc bản in, sản xuất và chế biến màu rồi đến in vẽ tranh, đều có những khác biệt hợp
thành cái độc đáo về kỹ thuật, mỹ thuật của một dòng tranh. Màu in tranh ở đây được chế
biến từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên: màu trắng từ sò, điệp; đen từ than rơm hay lá
tre; hồng từ gỗ vang; đỏ từ son; xanh từ gỉ đồng; lam từ lá chàm; vàng từ hoa hoè, quả
dành dành... Kỹ thuật pha màu và in của tranh làng Hồ tạo cho sắc tranh trong sáng, óng
xốp.


Về đề tài của tranh khá phong phú, nó phản ánh những sinh hoạt, quan hệ xã hội ở nơi
thôn dã và luôn được thay đổi hay bổ sung. Thời phong kiến có tranh cóc, chuột, hái dừa,
đánh ghen, khiêng trống, đánh vật... Thời Pháp thuộc có cóc Tây múa kỳ lân, văn minh
tiến bộ, phong tục cải lương, nhảy đầm... Đến thời kỳ kháng chiến có Việt Nam độc lập,
sản xuất tự túc, bình dân học vụ, rồng lửa Thăng Long, bắt sống giặc lái máy bay, được
mùa lúa xuân, lúa ngô khoai sắn, Bác Hồ về thăm làng...


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

sống khốn khó của người dân thơn q Việt Nam. Tranh Đông Hồ phản ánh đúng tâm tư
nguyện vọng và những ước mơ bình dị, gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân.
Những nghệ nhân vẽ tranh cùng cảnh nghèo khó như bao người dân lao động nghèo khó
khác. Do vậy tranh ở đây thật sự đã gây được ấn tượng sâu sắc và sự hâm mộ của họ. Có
lẽ vì thế mà tranh được sản xuất, bán ra khá nhiều và rộng khắp từ các chợ làng quê đến
thành thị ở mọi miền đất nước. Năm này qua năm khác, sau mỗi mùa gặt hái, người ta lại
nhắc nhở nhau:


* "Dù ai buôn bán trăm nghề


* Mồng sáu tháng chạp nhớ về buôn tranh"
Tranh Hàng Trống


Dòng tranh Hàng Trống phát triển ở các phố Hàng Trống, Hàng Nón (Hà Nội). Cách diễn
hình tinh vi, phong phú trong khuôn khổ bức tranh và trong nhiều loại tranh. Khuynh


hướng tranh trục cuốn phương Đông được sử dụng mạnh mẽ nhằm tạo khơng gian có
nhiều mảng trống, gợi cảm và thanh cảnh theo thị hiếu của dân thành thị.


Tranh Hàng Trống nét mảnh, tinh, yểu điệu. Do sử dụng được mầu phẩm nên hoà sắc của
tranh Hàng Trống rất phong phú, gợi được khối của khơng gian. Mầu thường là lam -
hồng, có thêm lục - đỏ, da cam - vàng. Mầu phẩm tô bằng tay sau khi đã in các nét đen,
pha ít hay nhiều nước mà có màu đậm nhạt. Tranh chỉ tạo khối ở nhân vật, khơng có khái
niệm về không gian xa, gần.


Các tác phẩm tranh dân gian nổi tiếng như: Lý ngư vọng nguyệt, Thất đồng, Ngũ hổ, Tố
nữ; bộ tranh truyện: Hoa Tiêu, Kiều... bộ tranh về cảnh dạy học, cảnh nhà nông hay các
kiểu khác: canh, tiều, ngư, mục (nhà nông, tiều phu, đánh cá, chăn trâu); các tranh thờ:
Tam toà Thánh Mẫu, Phật, Tứ phủ, Ngọc hồng... làm cho dịng tranh có thể sánh ngang
với bất cứ dịng tranh đồ hoạ danh tiếng nào.


Ước vọng hạnh phúc và dùng nhiều mơ típ tượng trưng, màu sắc tươi sáng, nội dung vui
vẻ, ngộ nghĩnh, đơn giản hoá các khái niệm triết học là tinh thần chính của dịng đồ hoạ
trên, tranh thường được bán vào các dịp tết âm lịch. Hành nghề có tính phường thợ, cha
truyền con nối.


Tranh Kim Hoàng (xã Vân canh, Hoài Đức - Hà Tây)


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

tổ mới phát cho các gia đình. Trong quá trình in họ trao đổi ván cho nhau. Hết mùa tranh
họ lại giao ván cho các chủ phường khác cất giữ.


Tranh Kim Hoàng cũng đủ loại tranh thờ cúng, chúc tụng như một số dòng tranh khác
cùng thời (Đơng Hồ, Hàng Trống). Nhưng tranh Kim Hồng lại kết hợp được nhiều ưu
điểm của hai dòng tranh đó. Tranh Kim Hồng có nét khắc thanh mảnh, tỷ mỉ hơn tranh
Đông Hồ; màu sắc tươi như tranh Hàng Trống. Về màu, tranh Kim Hoàng dùng mực tàu,
trắng là thạch cao, phấn; chàm, xanh chàm từ mực tàu hồ với nước chàm và các màu hố


học. Giấy in không quét điệp như tranh Đông Hồ, cũng không dùng giấy xuyến như tranh
Hàng Trống mà in trên giấy màu đỏ, giấy hồng điều, giấy tàu vàng. Tranh lợn bột in hình
con lợn mình đen, viền trắng cách điệu rất ngộ nghĩnh giống như những con lợn đất bán ở
chợ, trên nền giấy đỏ tạo một vẻ đẹp riêng gây ấn tượng mạnh mẽ của tranh Kim Hồng.
Tương truyền, dịng họ Nguyễn Sĩ là dịng họ làm tranh sơ khởi người Thanh Hoá theo
mẹ ra Thăng Long rồi lập nghiệp ở đây. Trận lụt năm 1915 làng mạc ngập trắng từ Phùng
đến Cầu Giấy, cuốn trôi nhiều ván in tranh của làng. Tranh Kim Hoàng dần bị thất
truyền, đến năm 1945 thì hồn tồn khơng còn sản xuất nữa. Ngày nay, một vài ván in
của dòng tranh này còn được lưu giữ ở bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam.


Tranh làng Sình


tranh làng SìnhLàng Sình có tên chữ là Lại Ân thuộc tổng Hồi Tài, huyện Tư Vang, phủ
Triệu Phong, xứ Thuận Hoá, Phú Vang. Làng nằm ở ven bờ Nam hạ lưu sông Hương,
cách Huế không xa (bên kia sông Bảo Vĩnh). Làng Sình nổi tiếng về hội vật mùng mười
tháng giêng. Nhưng làng Sình cịn nổi tiếng về một nghề làm tranh thờ in ván khắc.
Trước kia hầu hết tranh thờ in ván bày bán ở chợ vùng này là do dân làng Sình làm, nên
gọi là "tranh Sình".


Thời hưng thịnh của tranh Sình, những người trong các gia đình ở đây đều biết in và tơ
màu cho tranh. Tranh làm ra bán buôn ngay tại nhà hoặc bán cho hàng mã ở chợ, có khi
được đặt từ trước. Giấy in tranh là giấy mộc, màu trước kia lấy màu từ tự nhiên (thực vật,
kim loại, sị điệp), sau là phẩm hố học gồm các màu cơ bản đỏ, vàng, xanh và đen. Bản
khắc từ gỗ mít. Tranh ở đây in lối ngửa ván rồi dùng tay vuốt giấy cho phẳng, in lấy một
nét và mảng đen, sau dựa vào đấy mà tô màu. Một số tranh in đen xong là hồn chỉnh.
Tranh Sình chủ yếu là tranh thờ, tranh cúng lễ phục vụ tín ngưỡng dân gian. Tranh làng
Sình có khoảng 50 đề tài khác nhau, phản ánh tín ngưỡng cổ sơ, tư tưởng của người Việt
cổ trước một thiên nhiên hoang sơ, thần bí. Cuộc sống của con người bị chi phối bởi
nhiều tai hoạ nên họ cần đến sự che chở của thần linh. Người ta cúng tranh để cầu mong
người yên, vật thịnh, phụ nữ sinh nở được "mẹ trịn con vng", trẻ nhỏ mau lớn, người


ốm chóng khỏi...


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

nữ, mỗi bức vẽ một cô đứng biểu diễn một loại nhạc cụ. Trang phục của các cô đều giống
nhau là áo "mã tiên", áo trắng dài mặc trong, áo cánh màu bận ngoài, mầu áo có thể thay
đổi khi tơ màu sao cho vui.


Tranh làng Sình nặng về tính chất thờ cúng, chưa đáp ứng được yêu cầu thưởng ngoạn
của dân gian, chưa phản ánh được niềm lạc quan, yêu đời như tranh tết, tranh sinh hoạt
Đông Hồ. Tranh làng Sình đã bị thất truyền từ lâu, nhưng dẫu sao thì nó đã có một thời
gần gũi với bao gia đình ở miền Trung.


Rồng và Tiên trong lịch sử đồ tượng Việt Nam
Rồng rắn lên mây


» Xem mục lục


» Xem các sách cùng thể loại
Tử Vi Canh Dần 2010
Danh mục sách
* Địa Lý
* Khoa Học
* Kinh Doanh
* Lịch Sử
* Tâm Lý
* Tôn Giáo
* Thể loại khác
* Triết Học


* Truyện Kiếm Hiệp
* Truyện Trinh Thám


* Truyện Trung Hoa
* Tuổi Học Trò


* Văn Học Nước Ngoài
* Văn Học Trong Nước
* Việt Nam


* Vui Cười


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Caro-Online.info - Trò chơi caro trực tuyến


Reader's Heaven - Free ebooks to read on your PC, iPad, Kindle, Sony Reader, iPhone,
Android or other portable device


Sách, tài liệu trên website được sưu tầm trên mạng Internet và có bản quyền thuộc về các
tác giả.


Liên hệ với để biết thêm thông tin.
Lên đầu trang


Tranh dân gian gồm hai loại, tranh Tết và tranh thờ. Tranh dân gian có nguồn gốc từ rất
xa xưa được giữ gìn, bảo tồn và phát triển qua các giai đoạn lịch sử của đất nước. Tranh
dân gian không những là tài sản riêng của các làng tranh mà còn là tài sản chung của cả
dân tộc.


Việt Nam với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nhân hoá các hiện tượng thiên nhiên thành
các vị thần nên cùng với tranh Tết, tranh thờ cũng có rất sớm. Cả hai đã trở thành nhu cầu
của nếp sống văn hoá, là thành tố của mỹ thuật cổ truyền và hợp thành văn hoá truyền


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Do nhu cầu của tục chơi tranh Tết và thờ cúng, tranh dân gian phải có số lượng lớn nên


người Việt Nam từ lâu đã biết đến kỹ thuật khắc ván để in. Vào thời Lý (thế kỷ 12) đã có
những gia đình chuyên làm nghề khắc ván. Cuối thời Trần đã in được tiền giấy. Đến thời
Lê Sơ lại tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của Trung Quốc và cải tiến thêm một bước
nữa. Cũng từ đây, trong dòng chảy của mỹ thuật truyền thống - dân gian bắt đầu có sự


phân hóa để ngày càng phát triển đậm nét.


Trong bối cảnh đó, đến thời Mạc (thế kỷ 16) tranh dân gian phát triển khá mạnh, được cả
các tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long sử dụng vào dịp Tết mà bài thơ Tứ thời
khuê vịnh của nhà thơ đương thời Hoàng Sơ Khải đã xác nhận sự hiện diện của các loại


tranh thờ, tranh gà và tranh Tố nữ:


"Chung Quỳ khéo vẽ nên hình


Bùa đào cấm quỷ, phòng linh ngăn tà


Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm


Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương"


Đến thế kỷ 18 - 19 tranh dân gian Việt Nam đã ổn định và phát triển cao. Bảo tàng Lịch
Sử (Hà Nội) còn giữ được những ván khắc từ thời Minh Mạng thứ 4 (tức 1823). Địa bàn
làm tranh dàn trải trong cả nước. Dựa theo phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và
nguyên vật liệu làm tranh, có thể quy về một số dòng tranh gọi theo tên những địa danh


sản xuất.


Mỗi dịng tranh có một phong cách riêng, song tất cả đều được dựng hình theo kiểu "đơn
tuyến bình đồ" dùng nét khoanh lấy các mảng màu và bao lại tồn hình. Với lối dựng


hình "thuận tay hay mắt", tranh dân gian không phụ thuộc vào viễn cận một điểm nhìn
mà được diễn tả theo lối quan sát di động với
nhiều góc độ khác nhau. Thần thánh ln
được vẽ to ở giữa, phía trên, cịn người bình
thường thì sàn sàn nhau, con vật và cảnh sắc
thì tuỳ tương quan mà vẽ to hay nhỏ để bức
tranh gây ấn tượng sâu sắc.
Trong giao lưu văn hoá, tranh dân gian Việt
Nam vừa phát triển những vốn quý của các
thời trước tích tụ lại, vừa tiếp nhận những
tinh hoa của các dòng tranh khác để rồi
khẳng định những gì thích hợp với dân tộc,
làm phong phú hơn bản sắc của mình.
Ngày nay, tranh dân gian đã bị tranh hiện đại
lấn át, hầu hết đã thất truyền. Tuy nhiên, có
một dòng tranh vẫn còn tồn tại trước những thử thách của thời gian, như tranh Đồng Hồ.
Dịng tranh này khơng những có chỗ đứng ở trong nước mà nó đã và đang có mặt ở nhiều


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>Tranh</b> <b>Đơng</b> <b>Hồ</b>


"Hỡi cơ thắt lưng bao xanh


Có về làng Mái với anh thì về


Làng Mái có lịch, có lề


Có sơng tắm mát, có nghề làm tranh"


Đó là câu ca xa xưa của một làng nhỏ nằm ven bờ nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh, thuộc



Kinh Bắc xưa.


Người dân làng Hồ khi nhớ đến câu ca dao ấy, lòng thấy tự hào về nghề tranh của mình
đã một thời hưng thịnh, kéo dài từ cuối thế kỷ 17 đến nửa thế kỷ 19. Trải qua bao thời
loạn ly, tranh vẫn được duy trì, tồn tại đến ngày nay. Tranh Đơng Hồ, từ tranh vẽ đến
tranh in thủ công, đều mang một phong cách riêng. Từ các khâu như vẽ mẫu, khắc bản in,
sản xuất và chế biến màu rồi đến in vẽ tranh, đều có những khác biệt hợp thành cái độc
đáo về kỹ thuật, mỹ thuật của một dòng tranh. Màu in tranh ở đây được chế biến từ
nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên: màu trắng từ sò, điệp; đen từ than rơm hay lá tre; hồng
từ gỗ vang; đỏ từ son; xanh từ gỉ đồng; lam từ lá chàm; vàng từ hoa hoè, quả dành dành...
Kỹ thuật pha màu và in của tranh làng Hồ tạo cho sắc tranh trong sáng, óng xốp.
Về đề tài của tranh khá phong phú, nó phản ánh những sinh hoạt, quan hệ xã hội ở nơi
thôn dã và luôn được thay đổi hay bổ sung. Thời phong kiến có tranh cóc, chuột, hái dừa,
đánh ghen, khiêng trống, đánh vật... Thời Pháp thuộc có cóc Tây múa kỳ lân, văn minh
tiến bộ, phong tục cải lương, nhảy đầm... Đến thời kỳ kháng chiến có Việt Nam độc lập,
sản xuất tự túc, bình dân học vụ, rồng lửa Thăng Long, bắt sống giặc lái máy bay, được
mùa lúa xuân, lúa ngô khoai sắn, Bác Hồ về thăm làng...
Ngày trước, cứ đến Tết dường như nhà nào ở nông thôn vùng Bắc Bộ cũng có một vài tờ
tranh Đơng Hồ, nó làm bừng sáng những căn nhà đơn sơ, thấp bé nhưng là tổ ấm của gia
đình. Bức tranh ngày tết cùng góp vui và reo lên những tiếng cười trong trẻo trong cuộc
sống khốn khó của người dân thơn quê Việt Nam. Tranh Đông Hồ phản ánh đúng tâm tư
nguyện vọng và những ước mơ bình dị, gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân.
Những nghệ nhân vẽ tranh cùng cảnh nghèo khó như bao người dân lao động nghèo khó
khác. Do vậy tranh ở đây thật sự đã gây được ấn tượng sâu sắc và sự hâm mộ của họ. Có
lẽ vì thế mà tranh được sản xuất, bán ra khá nhiều và rộng khắp từ các chợ làng quê đến
thành thị ở mọi miền đất nước. Năm này qua năm khác, sau mỗi mùa gặt hái, người ta lại


nhắc nhở nhau:


"Dù ai buôn bán trăm nghề



Mồng sáu tháng chạp nhớ về buôn tranh"


<b>Tranh</b> <b>Hàng</b> <b>Trống</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

nhiều mảng trống, gợi cảm và thanh cảnh theo thị hiếu của dân thành thị.
Tranh Hàng Trống nét mảnh, tinh, yểu điệu. Do sử dụng được mầu phẩm nên hoà sắc của
tranh Hàng Trống rất phong phú, gợi được khối của khơng gian. Mầu thường là lam
-hồng, có thêm lục - đỏ, da cam - vàng.
Mầu phẩm tô bằng tay sau
khi đã in các nét đen, pha ít
hay nhiều nước mà có màu
đậm nhạt. Tranh chỉ tạo khối
ở nhân vật, khơng có khái
niệm về không gian xa, gần.
Các tác phẩm tranh dân gian
nổi tiếng như: Lý ngư vọng
nguyệt, Thất đồng, Ngũ hổ,
Tố nữ; bộ tranh truyện: Hoa
Tiêu, Kiều... bộ tranh về cảnh
dạy học, cảnh nhà nông hay
các kiểu khác: canh, tiều,
ngư, mục (nhà nông, tiều
phu, đánh cá, chăn trâu); các
tranh thờ: Tam toà Thánh
Mẫu, Phật, Tứ phủ, Ngọc
hồng... làm cho dịng tranh
có thể sánh ngang với bất cứ
dòng tranh đồ hoạ danh tiếng
nào.



Ước vọng hạnh phúc và dùng nhiều mơ típ tượng trưng, màu sắc tươi sáng, nội dung vui
vẻ, ngộ nghĩnh, đơn giản hoá các khái niệm triết học là tinh thần chính của dịng đồ hoạ
trên, tranh thường được bán vào các dịp tết âm lịch. Hành nghề có tính phường thợ, cha


truyền con nối.


<b>Tranh Kim Hoàng</b> (xã Vân canh, Hoài Đức - Hà Tây)


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Đông Hồ; màu sắc tươi như tranh Hàng Trống. Về màu, tranh Kim Hoàng dùng mực tàu,
trắng là thạch cao, phấn; chàm, xanh chàm từ mực tàu hồ với nước chàm và các màu hố
học. Giấy in không quét điệp như tranh Đông Hồ, cũng không dùng giấy xuyến như tranh
Hàng Trống mà in trên giấy màu đỏ, giấy hồng điều, giấy tàu vàng. Tranh lợn bột in hình
con lợn mình đen, viền trắng cách điệu rất ngộ nghĩnh giống như những con lợn đất bán ở
chợ, trên nền giấy đỏ tạo một vẻ đẹp riêng gây ấn tượng mạnh mẽ của tranh Kim Hoàng.
Tương truyền, dòng họ Nguyễn Sĩ là dòng họ làm tranh sơ khởi người Thanh Hoá theo
mẹ ra Thăng Long rồi lập nghiệp ở đây. Trận lụt năm 1915 làng mạc ngập trắng từ Phùng
đến Cầu Giấy, cuốn trôi nhiều ván in tranh của làng. Tranh Kim Hoàng dần bị thất
truyền, đến năm 1945 thì hồn tồn khơng cịn sản xuất nữa. Ngày nay, một vài ván in
của dòng tranh này còn được lưu giữ ở bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam.


<b>Tranh</b> <b>làng</b> <b>Sình</b>


Làng Sình có tên chữ là Lại Ân thuộc tổng Hồi Tài, huyện Tư Vang, phủ Triệu Phong,
xứ Thuận Hố, Phú Vang. Làng nằm ở ven bờ Nam hạ lưu sông Hương, cách Huế không
xa (bên kia sông Bảo Vĩnh). Làng Sình nổi tiếng về hội vật mùng mười tháng giêng.
Nhưng làng Sình cịn nổi tiếng về một nghề làm tranh thờ in ván khắc. Trước kia hầu hết
tranh thờ in ván bày bán ở chợ vùng này là do dân làng Sình làm, nên gọi là "tranh Sình".
Thời hưng thịnh của tranh Sình, những người trong các gia đình ở đây đều biết in và tô
màu cho tranh. Tranh làm ra bán buôn ngay tại nhà hoặc bán cho hàng mã ở chợ, có khi


được đặt từ trước. Giấy in tranh là giấy mộc, màu trước kia lấy màu từ tự nhiên (thực vật,
kim loại, sò điệp), sau là phẩm hoá học gồm các màu cơ bản đỏ, vàng, xanh và đen. Bản
khắc từ gỗ mít. Tranh ở đây in lối ngửa ván rồi dùng tay vuốt giấy cho phẳng, in lấy một
nét và mảng đen, sau dựa vào đấy mà tô màu. Một số tranh in đen xong là hồn chỉnh.
Tranh Sình chủ yếu là tranh thờ, tranh cúng lễ phục vụ tín ngưỡng dân gian. Tranh làng
Sình có khoảng 50 đề tài khác nhau, phản ánh tín ngưỡng cổ sơ, tư tưởng của người Việt
cổ trước một thiên nhiên hoang sơ, thần bí. Cuộc sống của con người bị chi phối bởi
nhiều tai hoạ nên họ cần đến sự che chở của thần linh. Người ta cúng tranh để cầu mong
người yên, vật thịnh, phụ nữ sinh nở được "mẹ trịn con vng", trẻ nhỏ mau lớn, người


ốm chóng khỏi...


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

cách bình dị, tự nhiên. Một trong những đề tài khá phổ biến và đẹp là bộ tranh tố nữ, mỗi
bức vẽ một cô đứng biểu diễn một loại nhạc cụ. Trang phục của các cô đều giống nhau là
áo "mã tiên", áo trắng dài mặc trong, áo cánh màu bận ngồi, mầu áo có thể thay đổi khi


tô màu sao cho vui.


</div>

<!--links-->
Quản lí dự án quy hoạch khu vui chơi thể thao và văn hóa dân gian
  • 36
  • 1
  • 11
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×