Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Đổi mới quản lý giáo dục đại học từ yêu cầu mô hình tự chủ trong xu thế cách mạng công nghiệp 4.0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.66 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

đỔi mới QuẢn lÝ giáo dụC đẠi họC tỪ u CẦu mƠ hÌnh


tỰ ChỦ trong xu thế CáCh mẠng CƠng nghiỆp 4.0



TS. Nguyễn Thị Hiền Oanh1


<b>Tóm tắt: </b>Tự chủ được coi là xu thế phát triển tất yếu, là điều kiện cần thiết đối
với các trường đại học. Tại Việt Nam, tự chủ đại học cũng đang trên lộ trình hồn
thiện mở ra những cơ hội phát triển lớn cho các trường đại học.Bài viết đã phân
tích một số quan điểm về quyền tự chủ đại học, nêu các mơ hình quản trị đại học
và các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tự chủ đại học
làm nền tảng để đưa ra những giải pháp cơ bản đảm bảo tự chủ đại học trong xu
thế cách mạng 4.0.


<b>Từ khóa:</b> Giáo dục đại học, Quản lý, Tự chủ, Cách mạng 4.0,…


Tự chủ đại học là một yêu cầu hàng đầu trong quá trình đổi mới giáo dục đại
học trên toàn thế giới. Hiện nay, tự chủ đại học đã được khẳng định là một công cụ
quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ các hoạt động cần thiết
của một trường đại học và làm trịn sứ mạng của nó đối với xã hội. Giao quyền tự
chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định nhằm đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục, đào tạo.


<b>1. Một số quan điểm về quyền tự chủ đại học</b>
<i><b>1.1. Trên thế giới</b></i>


<i>1.1.1. Khái niệm tự chủ đại học</i>


Khái niệm “tự chủ đại học” phản ánh sự biến đổi mối tương quan giữa nhà nước
và cơ sở đào tạo theo tinh thần phát huy truyền thống tự do học thuật của đại học
và giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan công quyền vào quản trị đại học về tổ


<i>chức, tài chính, nhân sự. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Tự chủ đại học là yếu tố cơ bản trong quản trị đại học. Các nghiên cứu về các
mơ hình quản trị đại học trên thế giới thường tập trung vào mối quan hệ giữa nhà
nước và cơ sở giáo dục đại học cho thấy mức độ tự chủ - thể hiện ở mức độ kiểm
soát của nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, cũng có nhiều cách hiểu
khác nhau về khái niệm tự chủ đại học tùy theo nhận thức về vai trị của nhà nước
đối với giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng.


Ở các nước châu Âu:


- Tự chủ đại học được nhìn nhận từ hai khía cạnh: Một là, thốt ra khỏi sự kiểm
soát, hạn chế của các cơ quan quản lý nhà nước, của thị trường lao động, nhà cung
cấp dịch vụ; Hai là, các ảnh hưởng chính trị, là quyền tự do đưa ra các quyết định về
cách thức tổ chức hoạt động cũng như mục tiêu sứ mạng của trường.


- Tự chủ được thể hiện ở hai cấp: cấp độ giữa trường đại học với nhà nước; và
cấp độ giữa trường với các bộ phận trong trường.


- Tự chủ cũng có thể chỉ có tính chất thủ tục, hình thức - quyền quyết định các
phương tiện, cách thức để đạt đến mục tiêu đã được xác định trước, hoặc tự chủ có
tính thực chất - quyền quyết định các mục tiêu cũng như chương trình hoạt động;
Và tự chủ cũng có thể được nhìn nhận như là các quyền lực có điều kiện: các trường
chỉ có thể có quyền tự chủ khi đã đạt được các chuẩn mực quốc gia hoặc các chuẩn
mực đã được định sẵn theo các chính sách cơng.


Tuy được nhìn nhận dưới nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau, nhưng tự chủ
của trường đại học vẫn là khả năng của trường được hoạt động theo cách thức mình
lựa chọn để đạt được sứ mạng và mục tiêu do trường đặt ra (Hoàng Thị Xuân Hoa,
2019).



Tại Việt Nam, vấn đề tự chủ đại học được nêu rõ trong Điều lệ trường đại học,
ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: “Trường
đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về
quy hoạch phát triển nhà trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học, cơng
nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế, tổ chức và nhân sự”.


<i>1.1.2. Các thành tố trong tự chủ đại học</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

59
- Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến tuyển sinh và quản lý sinh viên.
- Tự chủ trong các hoạt động học thuật và chương trình giáo dục như phương
pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên, nội dung chương
trình và giáo trình học liệu,...


- Tự chủ trong các chuẩn mực học thuật, như các tiêu chuẩn của văn bằng, các
vấn đề liên quan đến kiểm tra và kiểm định chất lượng.


- Tự chủ trong nghiên cứu và xuất bản, giảng dạy và hướng dẫn học viên cao
học, các ưu tiên trong nghiên cứu và quyền tự do xuất bản.


- Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến quản lý hành chính và tài chính, quản
lý và sử dụng ngân sách, các nguồn tài chính của trường (Hồng Thị Xn Hoa,
2017).


<i>1.1.3. Mơ hình quản trị đại học</i>


Báo cáo tổng quan về xu thế quản trị đại học trên thế giới của World Bank 2008
khái qt bốn mơ hình quản trị đại học với các mức độ tự chủ khác nhau:



- Mơ hình nhà nước kiểm sốt hồn tồn như ở Malaysia;
- Mơ hình bán tự chủ như ở Pháp và New Zealand;
- Mơ hình bán độc lập ở Singapore;


- Mơ hình độc lập ở Anh, Úc.


Mặc dù vậy, trong mơ hình nhà nước kiểm sốt thì cơ sở giáo dục đại học vẫn
được hưởng một mức độ tự chủ nhất định vì những lý do tài chính và thực tiễn, nhà
nước khơng thể kiểm sốt được tất cả các hoạt động của cơ sở giáo dục đại học; bên
cạnh đó, ngay trong mơ hình độc lập thì vẫn có những mặc định ngầm về quyền của
nhà nước nắm giữ một số kiểm soát về mặt chiến lược và có quyền u cầu tính giải
trình cao ở các cơ sở giáo dục đại học.


Một nguyên lý cơ bản đằng sau tự chủ đại học là các cơ sở giáo dục đại học sẽ
vận hành tốt hơn nếu họ được nắm vận mệnh của chính mình. Tự chủ sẽ tạo động
lực để họ đổi mới nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động của mình, đồng thời
cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục đại học, tạo điều kiện để đa
dạng hóa các hoạt động giáo dục. Vì vậy, xu hướng chung trên tồn cầu hiện nay là
chuyển dịch dần từ mơ hình nhà nước kiểm sốt sang các mơ hình có mức độ tự chủ
cao hơn, từ nhà nước kiểm soát sang nhà nước giám sát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

hơn cho Giám đốc/Hiệu trưởng và Ban quản trị trường. Năm 2005, Singapore cũng
thông qua một luật tương tự trao quyền tự chủ cho 3 trường đại học của nước này.
Gần đây, Bang Nord Rhein-Westfalia, Đức cũng trao quyền tự quyết định cho 33
trường đại học trong việc tuyển dụng các giáo sư và các khóa đào tạo của trường.
Bên cạnh việc các nước ở các khu vực khác nhau có mức độ tự chủ đại học khác
nhau, ở trong cùng một quốc gia, mức độ tự chủ giao cho các cơ sở giáo dục đại học
có thể cũng rất khác nhau tùy theo tính chất, chất lượng của các cơ sở giáo dục đại
học đó. Ở một số nước phát triển trên thế giới, vẫn tồn tại song song các trường đại
học được trao quyền tự chủ tuyệt đối và các trường vẫn phải chịu sự kiểm soát chặt


chẽ của nhà nước. Và ở nhiều nước, các cơ sở giáo dục đại học có thể có các tên gọi
khác nhau dựa vào quy mơ, loại hình đào tạo và mức độ tự chủ cho các cơ sở giáo
dục đại học khác nhau cũng rất khác nhau (Hoàng Thị Xuân Hoa, 2017).


<i><b>1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tự chủ đại học</b></i>
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách phát triển giáo dục đại học theo
hướng nâng cao chất lượng, trao quyền tự chủ, giảm áp lực cho ngân sách Nhà nước:


- Luật Giáo dục được Quốc hội khóa XI thơng qua ngày 14/6/2005 (Luật số
38/2005/QH11), ghi nhận cụ thể về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ
sở giáo dục đại học Việt Nam.


Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 về đổi
mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. Trong đó,
khẳng định đổi mới tồn diện cơng tác quản lý giáo dục, đào tạo theo hướng giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; đổi mới chính
sách, cơ chế tài chính nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo;
đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp.


Luật Giáo dục đại học năm 2012: Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt
động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo,
khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học (Luật
Giáo dục đại học, 2012).


<i>Điều lệ trường đại học, ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg của Thủ </i>
tướng Chính phủ ở Điều 10 đã nêu rõ: Trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm theo quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà
trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học, cơng nghệ, tài chính, quan hệ quốc
tế, tổ chức và nhân sự.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

61
Nghị định số 43/2006/NĐ - CP ngày 25/4/2006 về Quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối
với sự nghiệp cơng lập đã khởi đầu một thời kỳ mới - thời kỳ tự chủ của đại học
công lập.


Nghị định số 16/2015/NĐ - CP ban hành ngày 14/2/2015 thay thế cho Nghị định
số 43/2006/NĐ - CP đã xác định lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp cơng sử dụng
kinh phí nhà nước, tiến tới giao quyền tự chủ tài chính hồn tồn cho các đơn vị sự
nghiệp cơng lập, trong đó có các trường đại học cơng lập.


Thơng tư liên tịch của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ
(2009/07/TTLT-BGDĐT-BNV tháng 4 năm 2009) hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập
giáo dục và đào tạo đã nêu rõ quyền tự chủ của đơn vị trong việc xác định nhiệm vụ
xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện; trong việc tổ chức bộ máy và biên chế trong
đơn vị; trong việc tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức.


Nghị quyết về đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012 (số 05-NQ/BCSĐ)
của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp
công lập trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.


Chỉ thị 296 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục trong giai
đoạn 2010-2012 (296/CT-TTg, ngày 27 tháng 2 năm 2010) về thành lập trường, tuyển
sinh, tổ chức đào tạo, quản lý tài chính, quản lý chất lượng, tuyển dụng, trong đó
làm rõ trách nhiệm và chế độ của nhà giáo trong đào tạo và nghiên cứu khoa học,
quan hệ giữa Ban giám hiệu, Hội đồng trường, Đảng ủy, các đồn thể ở trường để
từ đó các trường đại học, cao đẳng thực hiện quyền tự chủ và nghĩa vụ tự chịu trách
nhiệm trước xã hội và nhà nước theo quy định của Luật Giáo dục;…



Trong gần một thập kỷ qua, vấn đề tự chủ trong giáo dục đại học Việt Nam đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Từ chỗ tồn thể hệ thống giáo dục đại học Việt Nam
như một trường đại học lớn, chịu sự quản lý Nhà nước chặt chẽ về mọi mặt thông
qua Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học đã dần được trao quyền tự chủ, thể
hiện qua các văn bản pháp quy của Nhà nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tuy Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hết sức chú trọng vấn đề tự chủ
và đã cố gắng tạo ra hành lang pháp lý cho quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại
học, nhưng các quyền tự chủ đó vẫn chưa thật sự phát huy hết tác dụng vì tính chất
chưa triệt để và sự thiếu nhất quán, đồng bộ trong các chủ trương chính sách của
Nhà nước. Các cơ sở giáo dục đại học dường như vẫn hết sức mong muốn được tăng
thêm quyền tự chủ, đặc biệt trong các lĩnh vực quản lý tài chính, bộ máy, nhân sự,
tuyển sinh, trang thiết bị, cơ sở vật chất,.…


<b>2. Đổi mới quản lý giáo dục đại học trước xu thế cách mạng công nghiệp 4.0</b>
<i><b>2.1. Vai trò của đổi mới quản lý giáo dục</b></i>


Để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền công nghiệp mới và đồng thời tận dụng
thế mạnh của công nghệ thông tin, nhiều trường đại học trên thế giới đã và đang
đổi mới toàn diện và theo đó Giáo dục 4.0 đang được đánh giá là mơ hình phù hợp.


Hiện nay, muốn hịa nhập vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vào nền kinh
tế số, yếu tố then chốt là nguồn nhân lực. Việt Nam cần cải cách hệ thống giáo dục,
đào tạo.


Về mặt quản lý, các cơ sở giáo dục cần chuyển hướng dần sang tự chủ trong tổ
chức và hoạt động, chủ động tìm kiếm các nguồn lực đầu tư bên ngồi, mở rộng các
hoạt động đầu tư liên doanh, liên kết trong và ngoài nước về đào tạo, nghiên cứu
khoa học. Gỡ bỏ các rào cản để hướng sự đầu tư của các thành phần kinh tế vào giáo


dục đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển đất nước (Báo Quốc
<i>tế, 2017).</i>


Với dân số gần 100 triệu người, đội ngũ cán bộ, giảng viên, giáo viên và nhân
viên hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo của Việt Nam là rất lớn, trên 1,2
triệu người. Do đó, vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục là đặc biệt quan
trọng. Họ là những đầu máy, quyết định hướng đi và tốc độ của cả hệ thống giáo
dục. Vì vậy, phát triển năng lực cán bộ quản lý giáo dục Việt Nam sao cho đủ sức,
đủ tầm, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một bài
toán lớn của Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

63
xây dựng cơ chế quản lý và cơ chế mở trường, lớp thích ứng với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thỏa mãn có hiệu quả nhu cầu đáp ứng dịch vụ
cơng của tồn xã hội, phát triển bền vững (Học viện Quản lý giáo dục, 2017).
<i><b>2.2. Một số giải pháp cơ bản đảm bảo cho tự chủ đại học trước xu thế cách </b></i>
<i><b>mạng công nghiệp 4.0 </b></i>


<i><b>Một là, xây dựng cơ chế quản lý nhà trường hiện đại</b></i>


Nhà trường với vai trò là một tổ chức xã hội, bất kể là trường công lập hay
trường tư thục cần phải là một hệ thống có sức sống, ln biết tự đổi mới mình. Chỉ
khi có một số quyền tự chủ nhất định, nhà trường mới có được sức sống, mới có sự
thích ứng, tính chủ động và khả năng sáng tạo tương đối lớn. Dưới cơ chế quản lý
tập trung quan liêu bao cấp trước đây, các nhà trường thường mất đi mục tiêu theo
đuổi cá tính hóa, năng lực thích nghi với nhu cầu của xã hội và năng lực sáng tạo,
nhà trường ngày một trở nên thiếu sức sống. Đương nhiên hành vi của nhà trường
tất yếu phải chịu sự kiểm soát. Vấn đề trung tâm trong xây dựng cơ chế quản lý nhà
trường hiện đại là phân định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của nhà trường trong mối liên
hệ tương hỗ lẫn nhau giữa chính quyền, nhà trường và xã hội.



Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia trên thế giới đã dần hình
thành cơ chế trường cơng. Cơ chế trường cơng này về cơ bản đều do chính phủ tổ
chức, quản lý và duy trì. Kể từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, trong trào cải
cách các trường học trên thế giới đã đưa ra tư tưởng trường học tự quản lý, đề nghị
chính quyền trao lại quyền cho trường học, xây dựng mối quan hệ kiểu mới giữa
trường học với bên ngoài (cơ quan chủ quản cấp trên, chính quyền nơi trường học
đóng) và mối quan hệ bên trong trường học (hiệu trưởng, giảng viên, sinh viên). Thực
hiện sự chuyển đổi trong quản lý nhà trường từ mơ hình “bên ngồi quản lý” sang
mơ hình “bên trong tự quản lý”, thúc đẩy quyền tự phát triển của nhà trường. Tại rất
nhiều các quốc gia như Australia, Anh, Mỹ, Canada, New Zealand,... đều đã xuất hiện
xu thế chuyển dịch quyền và trách nhiệm giáo dục xuống cho chính nhà trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

quan quản lý hành chính giáo dục sẽ dần từ bỏ quyền quản lý giáo dục, giao chúng
xuống cho các nhà trường, một bộ phận quyền lực này sẽ giao cho xã hội, cổ vũ xã
hội tham gia mở trường và giám sát việc dạy học. Một bộ phận quyền lực sẽ được
giao cho trường học, cho phép và cổ vũ các trường tự mở trường chiêu sinh. Đối với
nhà trường việc có được quyền lực khơng phải là kết quả hay mục đích chính của
của cải cách cơ chế quản lý trường học hiện đại mà chỉ là một xuất phát điểm cho
thực hiện quyền tự chủ của trường học. Quan trọng hơn là, cần có sự đảm bảo về
quyền lực và cơ chế để cân bằng lại với nó nhằm bảo đảm cho việc sử dụng có hiệu
quả quyền lực của nhà trường, thúc đẩy sự phát triển của nhà trường.


Xét một cách tổng thể, cần thơng qua tìm tịi cơ chế quản lý nhà trường hiện đại
để hình thành nên cơ chế vận hành, trong đó chính phủ điều tiết, kiểm sốt vĩ mơ,
nhà trường tự quản lý và có sự tham gia hiệu quả của xã hội. Vừa cần mở rộng mức
độ tham gia vào việc mở trường dạy học của xã hội, vừa cần tăng cường sự giám
sát, can dự của xã hội đối với nhà trường, các thông tin liên quan tới nhà trường như
tài sản, tài chính, các khoản phí thu,... đều cần được cơng khai cho toàn xã hội biết.



Xây dựng cơ chế quản lý nhà trường hiện đại chịu sự ràng buộc của xu hướng
chính sách giáo dục cơng. Sau khi một chính sách giáo dục cơng nào đó được định
hình một cách cơ bản, phương hướng vận hành và mô hình điều hành của nhà
trường về cơ bản cũng sẽ trở nên rõ ràng hơn, có thể khơng cần thiết phải tiếp tục
tìm kiếm các chi tiết nhỏ hơn nữa quy định về cơ chế vận hành.


Xây dựng cơ chế quản lý giáo dục hiện đại chính là để cho nhà trường trở thành
một thực thể pháp nhân tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm lãi lỗ, tự phát triển
và tự ràng buộc mình; thực hiện chế độ cổ phần hóa đi theo mơ hình vận hành của
cơng ty chính là phương hướng chiến lược quan trọng trong xây dựng cơ chế quản
lý giáo dục hiện đại. Quan điểm và cách làm này xét về thực chất chính là một cách
trực tiếp hay gián tiếp đem bê nguyên si mơ hình quản lý doanh nghiệp hiện đại
vào lĩnh vực giáo dục. Nếu làm như vậy, toàn xã hội sẽ khơng cịn tồn tại “cơ quan
thứ ba” hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận, toàn xã hội sẽ dần “thị trường hóa
tồn bộ”. Ngun Tổng thống Pháp Lionel Jospin có câu: “Cần thực hiện kinh tế thị
trường, nhưng khơng được thị trường hóa xã hội” (Vương Bân Thái, 2014).


<i><b>Hai là, cải cách cơ chế lãnh đạo trong các nhà trường </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

65
Cơ chế quản lý trong nhà trường là cơ chế cơ bản của trường học. Nó mang ý
nghĩa căn bản so với tác dụng cá nhân, trách nhiệm cá nhân, tư tưởng chủ quan và
tác phong cá nhân của lãnh đạo nhà trường. Có thể nói rằng, nó là “trung khu thần
kinh” trong quản lý nhà trường. Cơ chế lãnh đạo trực tiếp chi phối tới cơng tác quản
lý, ảnh hưởng tới tồn cục của nhà trường. Những quy định pháp luật hiện hành
mới chỉ tiến hành quy định về mặt nguyên tắc đối với một số mặt cơ bản nhất, chủ
yếu nhất trong cơ chế lãnh đạo trong nhà trường, vẫn còn rất nhiều mối quan hệ về
quyền lợi và nghĩa vụ cịn chờ được quy phạm, thậm chí điều chỉnh, cịn có rất nhiều
mâu thuẫn cịn chờ sự sáng tạo về mặt cơ chế để giải quyết. Tại rất nhiều trường đại
học, cao đẳng tồn tại phổ biến vấn đề mối quan hệ giữa quyền lực hành chính với

quyền lực học thuật. Tại các trường dân lập tồn tại phổ biến vấn đề phân chia quyền
hạn, chức trách giữa hội đồng quản trị với hiệu trưởng. Tại một số trường dân lập,
mối quan hệ này thậm chí cịn cịn trở thành mối quan hệ giữa “nhà doanh nghiệp”
với “người hoạt động sự nghiệp”, quan hệ giữa phụ huynh với hiệu trưởng. Cần
thông qua giải quyết dần từng vấn đề và mâu thuẫn này, đẩy mạnh, hoàn thiện thêm
một bước nữa cơ chế lãnh đạo trong các nhà trường.


Phương hướng cải cách cơ chế lãnh đạo trong các nhà trường là thúc đẩy dân
chủ hóa, pháp chế hóa trong vận hành, quản lý nhà trường, xây dựng cơ cấu bộ máy
quản lý “tinh giản, hiệu quả cao” dần hình thành nên cơ chế “tự quản lý, tự phát
triển, tự ràng buộc, do xã hội giám sát”. Cần hoàn thiện cơ chế pháp nhân cho nhà
trường, căn cứ theo pháp luật để quy phạm các mối quan hệ bên trong nội bộ nhà
trường, tăng cường xây dựng cơ chế, nội quy, xây dựng pháp chế hóa vận hành quản
lý trong nhà trường. Cần căn cứ phương hướng cải cách quản lý công hiện đại để
xây dựng và hoàn thiện cơ chế tổ chức quản lý và cơ chế giám sát dân chủ đối với
trường học.


<i><b>Ba là, cải cách chế độ nhân sự trong trường học</b></i>


Cốt lõi trong công tác quản lý nằm ở việc dùng người. Con người là chủ thể của
sự nghiệp, của sự phát triển. Cái sai lầm sâu xa của nền kinh tế kế hoạch hóa là nằm
ở chỗ nó đã dùng chủ nghĩa bình qn tuyệt đối để đè nén tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của mọi người. Xét một cách căn bản, cải cách hành chính là phát huy tính
tích cực, chủ động và khả năng sáng tạo của con người. Một khi tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của mọi người được phát huy, sự phát triển của nhà trường có được
nguồn động lực quan trọng nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Cải cách cơ chế nhân sự bên trong nhà trường cần tập trung vào xây dựng cơ
chế dùng người có sự điều chỉnh lên xuống linh hoạt, động viên khích lệ một cách
có hiệu quả, giám sát chặt chẽ, thơng qua cạnh tranh để lựa chọn người ưu tú, có đủ


năng lực và hình thành nên cơ chế phân phối coi trọng thành tích thực tế, coi trọng
cống hiến. Cần triển khai toàn diện cơ chế thuê, tuyển lãnh đạo. Đơn vị và công nhân
viên chức ngành giáo dục cần căn cứ theo các quy định, pháp luật có liên quan của
Nhà nước, xác định rõ chức trách, nghĩa vụ và quyền hạn của cả hai bên, có như vậy
mới có thể đảm bảo quyền trong công việc cho công nhân viên chức. Cần căn cứ các
nguyên tắc “ưu tiên hiệu quả hoạt động, chú ý công bằng”, dần thực hiện cơ chế
phân phối, xác định lương dựa vào vị trí cơng tác, xác định lương theo nhiệm vụ,
xác định mức lương theo thành tích cơng tác thực tế; dần hình thành nên cầu nối
trực tiếp giữa thu nhập của công nhân viên chức giáo dục với chức trách, thành tích
công tác, cống hiến thực tế cùng với hiệu quả kinh tế - xã hội do những thành quả
lao động của người giáo viên mang lại; dần dần hình thành cơ chế phân phối mang
tính khích lệ nghiêng về ưu tiên nhiều hơn cho những cá nhân ưu tú, vị trí cơng tác
quan trọng.


<b>3. Kết luận</b>


Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 hứa hẹn những bước đột phá mới trong hoạt
động đào tạo, thay đổi mục tiêu đào tạo, mơ hình đào tạo truyền thống bằng cách
chuyển tải và đào tạo kiến thức hoàn toàn mới về nội dung lẫn phương thức, đặc biệt
tác động lớn đến việc quản trị trường đại học. Những cơ hội và thách thức của cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0, các cơ sở giáo dục đại học muốn đáp ứng được nhu cầu
nhân lực có chất lượng cao và đa dạng ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế 4.0 cần
phải đổi mới mạnh mẽ từ hoạt động đào tạo đến quản trị nhà trường để tạo ra nguồn
lao động có năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh.


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. Báo quốc tế (2017), “Tương lai của Giáo dục đại học 4.0 tại Việt Nam”, http://
baoquocte.vn/tuong-lai-cua-giao-duc-dai-hoc-40-tai-viet-nam-53650.html,
ngày 25/7/2017.



2. Hoàng Thị Xuân Hoa (2017), “Tự chủ đại học: Xu thế của phát triển”, http://

khaothi-dbclgd.neu.edu.vn/vi/tin-tuc-1602/tu-chu-di-hoc-xu-the-cu-phat-trienngày 25/12/2017.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

67
4. Học viện Quản lý giáo dục (2018), “Chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ


quản lý giáo dục trong bối cảnh hiện nay: xu hướng Việt Nam và thế giới”,

ngày 8/12/2018.


5. Lê Ngọc Hùng (2019), “Tự chủ đại học: Khái niệm và chính sách giáo dục ở Việt
Nam”, Tạp chí Cộng sản online,
/>Traodoi/2019/54388/Tu-chu-dai-hoc-Khai-niem-va-chinh-sach-giao-duc-o-aspx, ngày 16/5/2019.


6. <i>Luật Giáo dục đại học (2012), Khoản 1, Điều 32: Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục </i>
đào tạo.


7. Đỗ Thị Tuyết Mai, Đoàn Thị Lâm (2018), “Đổi mới quản lý giáo dục từ u cầu
mơ hình tự chủ và cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0”, Tạp chí Tài chính online,


ngày 11/9/2018.


8. Vương Bân Thái (2014), Hiện đại hóa giáo dục, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr. 414 - 415.


<b>INNOVATION OF UNIVERSITY EDUCATION MANAGEMENT FROM </b>
<b>REQUIREMENTS FOR AUTONOMY MODEL IN THE INDUSTRIAL </b>


<b>REVOLUTIONARY TRENDS 4.0</b>


<b>Abstract: </b> Autonomy is considered an inevitable development trend, is a
necessary condition for universities. In Vietnam, university autonomy is also on the
way of completion, opening up great development opportunities for universities.
The article analyzed some views on university autonomy, outlined the model of
university administration and the policies of the Party, The State of Vietnam on
university autonomy serves as a foundation to come up with basic solutions to
ensure university autonomy in the revolutionary trend of 4.0.


</div>

<!--links-->

×