Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên các trường công an nhân dân ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----000-----

TRẦN THỊ HÀ

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO
SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----000-----

TRẦN THỊ HÀ

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO
SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 60.22.85

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


PGS. TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA

TP. HỒ CHÍ MINH - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu là trung thực và chƣa đƣợc ai công bố.

Ngƣời cam đoan

Trần Thị Hà


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC, ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM ................................ 9
1.1. LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG Ở VIỆT
NAM ................................................................................................................... 9
1.1.1. Lý luận về đạo đức .................................................................................... 9
1.1.2. Lý luận về đạo đức cách mạng ................................................................. 23
1.2. LÝ LUẬN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM .......... 31
1.2.1. Khái niệm giáo dục đạo đức cách mạng ................................................... 31
1.2.2. Nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cách mạng ................................ 35
Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................... 44
Chƣơng 2: VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH
VIÊN CÁC TRƢỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY .................................................................................................................... 46

2.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN .......................... 46
2.1.1. Đặc điểm sinh viên và môi trƣờng giáo dục đạo đức cách mạng trong
các trƣờng Công an nhân dân.............................................................................. 46
2.1.2. Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên các trƣờng Công
an nhân dân ......................................................................................................... 50
2.2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG CÔNG
TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN CÁC
TRƢỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN .................................................................. 80


2.2.1. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên các
trƣờng Công an nhân dân .................................................................................... 80
2.2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
sinh viên các trƣờng Công an nhân dân .............................................................. 93
2.3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG
CÔNG AN NHÂN DÂN .................................................................................... 99
2.3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng giáo dục đạo đức cách mạng cho
sinh viên các trƣờng Công an nhân dân .............................................................. 99
2.3.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lƣợng giáo dục đạo đức cách
mạng cho sinh viên các trƣờng Công an nhân dân ............................................. 106
Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................... 122
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 127
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 134


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là sản phẩm của điều kiện sống và hoạt động của con ngƣời,
phản ánh quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội, là tổng thể những quan
niệm về thiện - ác, tốt - xấu, lƣơng tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ… cùng những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội về các quan hệ ứng xử của con ngƣời
trong cuộc sống cộng đồng theo tinh thần vì cái thiện, lƣơng tâm và lợi ích
cộng đồng với mục đích nhằm định hƣớng, điều chỉnh, đánh giá hành vi ứng
xử của con ngƣời trong các mối quan hệ cá nhân và cá nhân, cá nhân với cộng
đồng xã hội. Đạo đức tồn tại khách quan trên cơ sở nhu cầu của xã hội trong
việc duy trì trật tự chung, trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, đƣợc mọi
ngƣời tự nguyện, tự giác tuân theo trên cơ sở sự nhận thức của bản thân. Khi
con ngƣời nhận thức đƣợc hành vi đạo đức của mình khơng trái với cái thiện,
khơng trái với lƣơng tri, phù hợp với lợi ích cộng đồng thì con ngƣời sẽ tìm
đƣợc sức mạnh, tìm đƣợc động lực hành động, thấy rõ ý nghĩa và giá trị cuộc
sống, từ đó có lối sống tích cực với u cầu của sự phát triển xã hội.
Đất nƣớc ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc: xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, cùng với Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam
là lực lƣợng đóng vai trị xung kích, nịng cốt. Muốn vậy, lực lƣợng này phải
đƣợc quan tâm, giáo dục, xây dựng thành lực lƣợng vũ trang cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ và từng bƣớc hiện đại. Sinh viên Công an nhân dân là
bộ phận quan trọng, là đội ngũ trí thức tƣơng lai, gánh vác những trọng trách
to lớn trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an tồn xã hội.
Đội ngũ này cần phải đƣợc thƣờng xuyên chăm lo, giáo dục, rèn luyện để
trở thành những ngƣời có đủ đức, đủ tài thực hiện nhiệm vụ chính trị của
Đảng, của ngành Cơng an giao phó. Trong “Di chúc”, Bác Hồ đã căn dặn:


2


“Bồi dƣỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và
rất cần thiết”. Thấm nhuần lời dạy đó, Đảng ta và ngành Cơng an đã thƣờng
xuyên quan tâm đến công tác giáo dục phẩm chất chính trị, chăm lo, bồi
dƣỡng, giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ sinh viên, coi đây là nhiệm
vụ then chốt, trọng yếu trong các trƣờng Công an nhân dân.
Đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của ngƣời cách mạng, vì thế, nó
có vai trị ngày càng lớn trong sự nghiệp xây dựng lực lƣợng Công an nhân
dân nói chung và mỗi ngƣời sinh viên Cơng an nhân dân nói riêng. Tuy
nhiên, hiện nay đời sống tinh thần, đạo đức của ngƣời Công an nhân dân
đang chịu nhiều tác động tự phát, tiêu cực của môi trƣờng xã hội, của tập
quán đạo đức lạc hậu và của quá trình hội nhập, phát triển kinh tế thị trƣờng.
Thực tiễn giáo dục, rèn luyện ngƣời sinh viên Công an nhân dân cho thấy
chất lƣợng, hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng vẫn còn nhiều vấn đề đặt
ra; một bộ phận sinh viên cịn có những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo
đức, lối sống…
Mặt khác, các thế lực thù địch vẫn ráo riết lợi dụng vấn đề dân chủ,
nhân quyền, tôn giáo, dân tộc… để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng
tăng cƣờng thực hiện “Diễn biến hồ bình”; làm băng hoại một số giá trị,
chuẩn mực đạo đức trong xã hội và làm suy thoái tƣ cách, phẩm chất đạo
đức một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lƣợng vũ
trang. Trong đó, Cơng an nhân dân là lực lƣợng mà các thế lực thù địch tập
trung tấn công, nhằm “phi chính trị hóa” làm suy giảm bản chất cách mạng
và tinh thần chiến đấu của lực lƣợng này.
Công cuộc đổi mới đất nƣớc đặt ra cho ngành Công an những nhiệm vụ
mới hết sức nặng nề nhƣng rất vẻ vang. Để lực lƣợng Công an thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình thì đội ngũ này cần phải đƣợc quan tâm đào tạo một
cách tồn diện cả về chun mơn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức để có



3

những cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân vừa “hồng”, vừa “chun”, vừa có
năng lực chun mơn giỏi, vừa có đạo đức cách mạng trong sáng. Do đó,
cơng tác giáo dục đạo đức cách mạng ln giữ vị trí quan trọng, góp phần to
lớn trong việc xây dựng lực lƣợng Công an nhân dân.
Trong những năm qua, các trƣờng Công an nhân dân đã đào tạo hàng
vạn cán bộ, chiến sĩ có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có năng lực chun
mơn nghiệp vụ, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc và
chính quyền nhân dân, giữ gìn sự bình yên của Tổ quốc. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt đƣợc, công tác giáo dục đạo đức cách mạng vẫn còn
tồn tại nhiều mặt hạn chế cả trong việc rèn luyện của học viên và cả trong
công tác giáo dục của nhà trƣờng. Tình hình đó địi hỏi cần phải nghiên cứu
nghiêm túc, đánh giá đúng thực trạng nhằm đề xuất các giải pháp góp phần
khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo ra những chuyển biến mới trong công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên các trƣờng Công an nhân dân,
qua đó góp phần xây dựng lực lƣợng Cơng an nhân dân trong sạch, vững
mạnh, từng bƣớc chính quy, hiện đại.
Xuất phát từ những yêu cầu nói trên, tác giả chọn đề tài “Giáo dục
đạo đức cách mạng cho sinh viên các trƣờng Công an nhân dân ở Việt
Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Đạo đức gắn liền với con ngƣời và xã hội lồi ngƣời. Vì vậy, những
tƣ tƣởng về đạo đức thƣờng gắn liền với tƣ tƣởng về con ngƣời trong lịch sử
triết học của nhân loại. Quan tâm vấn đề giáo dục đạo đức nói chung và đạo
đức cho thanh niên, sinh viên nói riêng, trong thời gian qua đã có nhiều tác
giả trong và ngồi nƣớc quan tâm nghiên cứu.
Trong các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài đáng chú
ý nhất là cơng trình "Đạo đức học" của G.Bandzeladze (Nxb. Giáo dục, 2



4

tập, Hà Nội, 1985), trong cơng trình này đã tập trung phân tích nhiều hiện
tƣợng đạo đức và làm sáng tỏ vai trò đạo đức trong xã hội; luận giải một
cách sâu sắc mối quan hệ giữa đạo đức với tính cách của con ngƣời. Đạo
đức đƣợc xem nhƣ là bộ mặt của tính cách. Con ngƣời sở dĩ là ngƣời bởi
nhờ có đạo đức.
Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả trong nƣớc nhƣ:
“Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới” của Tƣơng Lai (Nxb. Sự
thật, 1983), “Đạo đức mới” của Vũ Khiêu (Nxb. Khoa học xã hội, 1974).
Từ năm 1991 – 1997, Nxb. Chính trị quốc gia có ấn hành một số tài liệu
dƣới dạng giáo trình và tài liệu tham khảo do Trần Hậu Kiêm chủ biên nhƣ:
“Giáo trình đạo đức học” (1997), “Các dạng đạo đức xã hội” (1993)…
Những cơng trình trên đã đi sâu vào những nội dung và yêu cầu phát triển
đạo đức của những chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Các tác giả cũng quan tâm nghiên cứu về tác động của cơ chế thị
trƣờng đến sự biến đổi giá trị và thang giá trị đạo đức ở nƣớc ta, trong đó
phải kể đến các cơng trình tiêu biểu nhƣ: Sự biến đổi của thang giá trị đạo
đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ
quản lý ở nước ta hiện nay” của Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ Nguyễn Chí Mỳ chủ
biên, (Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội, năm 1999); Về định hướng XHCN trên
các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội” do Giáo sƣ Trần Xuân Trƣờng chủ
biên, (đề tài KX07.01, Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội, năm 1999). Các cơng
trình trên đã khẳng định sự biến đổi giá trị và thang giá trị đạo đức hiện nay
là tất yếu, vì vậy cần có định hƣớng đúng đắn cho sự phát triển đạo đức để
xây dựng nền đạo đức mới ở nƣớc ta trong điều kiện mới.
Bên cạnh đó, cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
đạo đức và giáo dục đạo đức trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế.
Trong số đó, trƣớc hết phải kể đến: Luận án Tiến sĩ Triết học “Giáo dục đạo



5

đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay” của Trần Sỹ Phán. Luận án đã phân tích và luận chứng
quá trình hình thành nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay và phƣơng
hƣớng, giải pháp chủ yếu của giáo dục đạo đức để hình thành và phát triển
nhân cách của sinh viên Việt Nam hiện nay.
Trong lĩnh vực xây dựng và giáo dục con ngƣời mới Công an nhân
dân, cũng có nhiều cơng trình đi sâu nghiên cứu về truyền thống xây dựng
lực lƣợng Công an, giáo dục cán bộ, chiến sỹ Cơng an nhân dân nói chung
và sinh viên Cơng an nhân dân nói riêng nhƣ:
Đại tƣớng Lê Hồng Anh: Sáu điều Bác dạy – Di sản tinh thần vô giá
để xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh; Trung
tƣớng, PGS.TS. Trần Đại Quang: Tiếp tục đẩy mạnh phong trào Công an
nhân dân học tập và thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy; Trung tƣớng, TS. Lê
Quý Vƣơng: 60 năm lực lượng Công an nhân dân học tập và thực hiện sáu
điều Bác Hồ dạy; Đại tá Trần Văn Nhuận: Một số vấn đề về phẩm chất đạo
đức cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân trong tình hình hiện nay; TS.
Nguyễn Văn Giang: Đạo đức cách mạng và yêu cầu giáo dục, rèn luyện đạo
đức của “người công an cách mệnh”.
Những bài viết trên đã phân tích sâu về tƣ cách, đạo đức của ngƣời
Công an cách mệnh. Đấy là chuẩn mực về đạo đức, phƣơng châm hành động
và thái độ ứng xử mà mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an dù ở bất cứ cƣơng vị,
hoàn cảnh nào, trong suốt cuộc đời hoạt động của mình cũng đều phải rèn
luyện, phấn đấu thực hiện. Đồng thời, làm rõ tầm quan trọng của cơng tác
giáo dục đạo đức nói chung, đạo đức cách mạng nói riêng đối với lực lƣợng
Cơng an nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Nhƣ vậy, vấn đề giáo dục đạo đức nói chung, trong đó có giáo dục

đạo đức cách mạng là vấn đề đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên


6

cứu. Tuy nhiên, vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên các
trƣờng Công an nhân dân cho đến nay chƣa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống và chuyên sâu. Vì vậy, “Giáo dục đạo đức cách mạng
cho sinh viên các trƣờng Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay” góp
phần làm sáng tỏ phƣơng diện giáo dục đạo đức cách mạng cho đối tƣợng
sinh viên Công an nhân dân trong bối cảnh kinh tế thị trƣờng và hội nhập
quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về giáo dục đạo đức cách
mạng, đánh giá đúng thực trạng công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
sinh viên các trƣờng Công an nhân dân trong những năm qua. Trên cơ sở đó,
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho sinh viên các trƣờng Công an nhân dân.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ một số vấn đề đề lý luận chung về giáo
dục đạo đức cách mạng cho sinh viên các trƣờng Công an nhân dân.
Thứ hai, phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh
viên trong các trƣờng Công an nhân dân và những vấn đề đặt ra.
Thứ ba, đề xuất một số phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên trong các trƣờng
Công an nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lƣợng Công an nhân dân
trong sạch, vững mạnh.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu


7

Sinh viên đang học tập tại các trƣờng Đại học Công an nhân dân - Bộ
Công an.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đƣợc tập trung nghiên cứu trong giới hạn giáo dục đạo đức
cách mạng cho sinh viên các trƣờng Công an nhân dân - Bộ Công an (Khảo
sát các trƣờng Đại học Cơng an nhân dân khu vực phía Nam từ Quảng Trị
trở vào).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phƣơng pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cách mạng, và giáo dục đạo đức cách
mạng cho ngƣời cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân; nhất là cho lực lƣợng
sinh viên các trƣờng Công an nhân dân.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu sau: Phân tích tổng hợp; lơgíc - lịch sử, quy nạp - diễn dịch, so sánh - đối chiếu, khảo sát
thực tế và xử lý số liệu, tổng kết thực tiễn, và xin ý kiến chuyên gia.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Về lý luận, luận văn góp phần vào việc nhận thức đầy đủ và sâu sắc
hơn về vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh
viên trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nƣớc theo định hƣớng xã
hội chủ nghĩa
Về thực tiễn, kết quả của luận văn cung cấp thêm những luận cứ khoa
học và thực tiễn góp phần làm tốt cơng tác giáo dục đạo đức ngƣời chiến sĩ

Công an nhân dân; làm cơ sở cho việc bổ sung vào chƣơng trình giảng dạy
nội dung giáo dục đạo đức cách mạng trong các trƣờng Công an nhân dân.


8

Ngồi ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và
học tập trong các Học viện, các trƣờng Đại học, Cao đẳng và Trung cấp
Công an nhân dân, Bộ Công an.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài
liệu tham khảo, phụ lục phần nội dung luận văn đƣợc kết cấu thành 02
chƣơng, 05 tiết.

Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC, ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM
1.1. LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM


9

1.1.1. Lý luận về đạo đức
Về khái niệm đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái cơ bản của ý thức xã hội, xuất
hiện tƣơng đối sớm trong lịch sử xã hội loài ngƣời. Sự ra đời và phát triển
của đạo đức do nhu cầu của đời sống xã hội, của hoạt động và giao tiếp.
Chúng ta sẽ không hình dung nổi một xã hội mà ở đó vắng bóng hay thiếu
sự hiện diện của đạo đức. Vì vậy, đạo đức từ lâu đã đƣợc nhân loại hết sức
quan tâm.

Với tƣ cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tƣ tƣởng đạo
đức học đã xuất hiện cách đây hơn 20 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn
Độ, Hy Lạp cổ đại.
Thuật ngữ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La Tinh là mos (moris) – lề thói
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Trong tiếng Hy Lạp,
đạo đức đƣợc xem nhƣ đồng nhất với “luân lý học” và đƣợc bắt nguồn từ
chữ Êthicos, nghĩa là lề thói, tập tục. Nhƣ vậy, khi ta nói đến đạo đức tức là
nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa ngƣời
và ngƣời trong hoạt động và giao tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phƣơng Đông, các học thuyết về đạo đức của ngƣời Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo đức của họ. Đạo đức là một phạm trù
quan trọng của triết học Trung Quốc cổ đại. “Đạo” có nghĩa là con đƣờng và
đƣờng đi, hƣớng đi, lối làm việc, ăn ở. “Đạo” đƣợc vận dụng trong triết học
để chỉ con đƣờng của tự nhiên. “Đạo” còn là con đƣờng sống của con ngƣời
trong xã hội, là năng lực phổ biến điều hành mọi sự vận động và biến hóa
khơng ngừng của vạn vật và sự việc quanh ta. “Đạo” trong Kinh Dịch đặt
trên nền tảng thiên kinh địa nghĩa: trật tự xã hội phản ánh trật tự vũ trụ.
Khơng có một đấng tối cao nào có thể tùy tiện ban phúc giáng họa mà chỉ
cịn các nguyên lý vô ngã Âm – Dƣơng, ngã = tơi, vơ ngã = khơng có cái tơi,


10

mà theo ngơn ngữ của chúng ta ngày nay thì “Đạo” là quy luật của vạn vật
không tùy thuộc vào ý nguyện cá nhân của bất cứ ai.
Khái niệm “Đức” lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh văn đời nhà Chu
và từ đó trở đi nó đƣợc ngƣời Trung Quốc cổ đại sử dụng thƣờng xuyên.
Theo Khổng Tử, sống đúng luân thƣờng là có Đức. Theo tƣ tƣởng của Lão
Tử thì tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hịa với mọi ngƣời là có
Đức. Đức là hiểu Đạo. Đức là mức độ tập trung của Đạo ở một con ngƣời.

Nói theo ngơn từ ngày nay, Đức là trình độ năng lực nắm vững và vận dụng
quy luật. Trình độ cao bao nhiêu thì Đức dày bấy nhiêu. Thánh nhân là
ngƣời có Đức. Theo cách hiểu ngày nay thánh nhân đơn giản chỉ là “ngƣời
có trình độ” nắm vững đƣợc sự vận động khách quan của quy luật, kể cả quy
luật tự nhiên lẫn quy luật xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và
là biểu hiện của đạo, đạo nghĩa là nguyên tắc luân lý. Nhƣ vậy có thể nói
đạo đức của ngƣời Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi ngƣời phải tuân theo.
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con ngƣời trong quan
hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng nhƣ
tƣơng lai, chúng đƣợc thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và
sức mạnh của dƣ luận xã hội. Hay nói cách khác, đạo đức là một dạng ý
thức xã hội gồm những nguyên tắc, chuẩn mực giá trị đƣợc xã hội thừa
nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con ngƣời trong quan hệ
xã hội, gia đình, tập thể. Ý thức đạo đức là quan niệm về cái thiện và ác, cái
xấu và tốt, lƣơng tâm và trách nhiệm; để có thể ứng xử đúng với mình, với
ngƣời khác, với tập thể và xã hội. Đạo đức là “cốt lõi” của nền tảng tinh thần
xã hội, góp phần quan trọng ổn định và phát triển xã hội. Xã hội càng phát
triển, vai trò của đạo đức càng quan trọng. Đạo đức đƣợc xem là luân


11

thƣờng đạo lý của con ngƣời, thể hiện vấn đề tốt – xấu, đúng – sai, thiện –
ác đƣợc sử dụng trong 3 phạm vi: lƣơng tâm con ngƣời, hệ thống phép tắc
đạo đức và trừng phạt, đơi lúc cịn đƣợc gọi là giá trị đạo đức; nó gắn với
nền văn hóa, tơn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của
một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này. Có nhiều dạng đạo đức: đạo đức
công dân, đạo đức tôn giáo, đạo đức gia đình, đạo đức xã hội… Trong sự

nghiệp cách mạng, đạo đức là nền tảng, là “cái gốc của ngƣời cách mạng”.
Đạo đức là một hiện tƣợng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của
các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thủy, đạo đức của chế độ
chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tƣ sản, đạo đức cộng sản.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức ln phản ánh lợi ích của giai cấp nhất
định. Lợi ích của giai cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã
hội đang có; trái lại, giai cấp bị bóc lột tùy theo nhận thức về tính bất cơng
của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra quan niệm
đạo đức riêng của mình. Vì vậy, trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai
cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế
- xã hội thay thế nhau nhƣng vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những
hình thức cộng đồng chung. Theo V.I. Lênin thì tính kế thừa của đạo đức
phản ánh những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kỳ cộng đồng ngƣời nào.
Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản
nhất giữa ngƣời với ngƣời. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham
lam, hèn nhát, phản bội… và biểu dƣơng cái thiện, sự dũng cảm, chính trực,
độ lƣợng, khiêm tốn… Ph. Ăngghen đánh giá rằng đã có một sự tiến bộ về
mặt đạo đức cũng nhƣ về tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại và điều
đó khơng ai có thể nghi ngờ đƣợc. Quan hệ giữa ngƣời với ngƣời ngày càng
mang tính nhân đạo cao hơn. Ngay trong xã hội ngun thủy đã có những
hình thức đơn giản của sự tƣơng trợ và khơng cịn tục ăn thịt ngƣời. Với sự


12

xuất hiện của liên minh bộ lạc và nhà nƣớc, tục bảo thủ của thị tộc dần dần
mất đi. Xã hội chủ nô coi việc giết nô lệ là việc riêng của chủ nô. Đến xã hội
phong kiến, việc giết nơng nơ bị lên án. Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá
nhân dƣới uy quyền của tôn giáo và quý tộc. Đạo đức tƣ sản giải phóng cá
nhân, coi trọng nhân cách. Nhƣng theo Ph. Ăngghen thì chúng ta vẫn chƣa

vƣợt đƣợc khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền đạo đức thực sự có tính
nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về sự đối lập ấy chỉ
có thể có đƣợc khi nào xã hội đã đạt tới một trình độ mà trong thực tiễn của
đời sống, ngƣời ta không những thắng đƣợc mà cịn qn đi sự đối lập giai
cấp. Đó là trình độ của xã hội tƣơng lai, xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Trƣớc C. Mác và Ph. Ăngghen, các nhà triết học (kể cả duy tâm và
duy vật) đều rơi vào quan điểm duy tâm khi xem xét đến vấn đề xã hội và
đạo đức. Họ không thấy đƣợc tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự
vận động của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Khác với quan điểm
trên, C. Mác và Ph. Ăngghen đã từng chứng minh rằng, trƣớc khi sáng lập
các quan điểm tƣ tƣởng, lý luận, con ngƣời đã hoạt động thực tiễn, tức là đã
sản xuất ra các tƣ liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Toàn bộ tƣ tƣởng thể
hiện trong các hình thái ý thức xã hội của một thời đại đều bắt nguồn từ điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội đó. Ý thức xã hội của con ngƣời là sự
phản ánh tồn tại xã hội của họ. Các hình thức xã hội khác nhau phản ánh
những mặt khác nhau của đời sống xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là một hình
thái ý thức xã hội phản ánh sự ồn tại xã hội dƣới dạng các nguyên tắc, quy
tắc và chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi của con ngƣời.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta có thể hiểu khái
quát khái niệm đạo đức nhƣ sau:
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá các ứng xử của con


13

ngƣời trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng đƣợc thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dƣ luận xã hội” [42, tr. 8].
Nhƣ vậy, đạo đức khơng phải có sẵn ở đâu đó, nó đƣợc hình thành từ
khi có xã hội loài ngƣời và tồn tại vĩnh viễn cùng loài ngƣời. Tuy nhiên, hệ

thống các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức lại có tính lịch sử vì với
tƣ cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội,
mà tồn tại xã hội lại khơng bất biến. Hình thái ý thức xã hội đạo đức giúp con
ngƣời điều chỉnh hành vi của mình, hƣớng con ngƣời tới cái tốt, cái thiện.
Đạo đức là một phạm trù của hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ rất
sớm trong lịch sử, nó đƣợc mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm.
Bàn về nguồn gốc đạo đức, cho đến nay, đã có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm tơn giáo cho đạo đức có nguồn gốc từ thần thánh, con ngƣời và
xã hội chẳng qua chỉ là những hình thái biểu hiện cụ thể khác của đấng thần
linh và những chuẩn mực đạo đức là do thần thánh tạo ra để giáo dục con
ngƣời. Các nhà triết hoc duy tâm khách quan cũng cho đạo đức là những
hiện tƣợng thần linh có trƣớc và bên ngồi con ngƣời. Các nhà triết học duy
tâm chủ quan thì nhìn nhận đạo đức nhƣ là năng lực bẩn sinh, năng lực “tiên
thiên” của lý trí con ngƣời, nó độc lập với những hoạt động mang tính xã hội
của con ngƣời.
Khác với quan điểm duy tâm, thần học, các nhà duy vật trƣớc Mác đã
nhìn thấy đạo đức trong quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời. Nhƣng hạn
chế của quan niệm này là ở chỗ, coi con ngƣời là một thực thể trừu tƣợng,
bất biến, có nghĩa là con ngƣời ở bên ngồi tiến trình lịch sử, đứng trên giai
cấp, dân tộc và thời đại. Những ngƣời theo quan điểm học thuyết Đácuyn xã
hội đã tầm thƣờng hóa quan điểm duy vật, khi họ đồng nhất những phẩm
chất đạo đức của con ngƣời với bản năng bầy đàn của động vật và những


14

phẩm chất đạo đức của con ngƣời chẳng qua chỉ là sự tiếp tục, sự tích lũy,
sự mở rộng những bản năng bầy đàn của con vật.
Đứng trên lập trƣờng duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa
Mác - Lênin khẳng định đạo đức là sản phẩm của điều kiện sinh hoạt vật

chất của xã hội. “Xét đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trƣớc
đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [15,
tr. 37]. Trong đó, nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ kinh tế mà lợi ích
là cái chi phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của đạo đức.
Bản chất của đạo đức khơng phải là một cái gì có sẵn hoặc tiên định.
Nếu khơng có con ngƣời và xã hội lồi ngƣời thì chẳng có đạo đức nào cả.
Đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa ngƣời và ngƣời về cái thiện và cái ác.
Tuy nhiên, quan niệm về thiện, ác cũng có tính lịch sử. Đạo đức là hiện
tƣợng xã hội có tính ngƣời sâu sắc nhất. Nó có tính phổ biến và đa dạng vì
nó có mặt trong tất cả các mối quan hệ xã hội và trong các lĩnh vực hoạt
động của con ngƣời. Đạo đức bị chi phối bởi điều kiện kinh tế, xã hội và lịch
sử. Mặt khác, đạo đức còn bao hàm cảm xúc, trách nhiệm của con ngƣời
trƣớc hoàn cảnh sống, trƣớc đồng loại. Do đó, đạo đức là sản phẩm tổng hợp
của những yếu tố khách quan và những nhân tố chủ quan. Mặt khách quan là
những hiện thực đƣợc phản ánh vào ý thức đạo đức. Mặt chủ quan là những
nỗ lực vƣơn tới của con ngƣời nhằm đạt tới những giá trị đạo đức đích thực.
Nói cách khác, bản chất đạo đức không phải bất biến, đạo đức luôn
biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Trong xã hội có giai cấp,
bản chất của đạo đức ln mang tính giai cấp.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một hình thái ý thức đạo đức
tƣơng ứng. Từ đạo đức của xã hội nguyên thủy đến đạo đức của xã hội
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tƣ bản và cộng sản chủ nghĩa, đó là những nấc
thang đánh dấu sự tiến bộ về mặt đạo đức của lịch sử lồi ngƣời. Q trình


15

phát triển đạo đức là một quá trình phủ định biện chứng, một mặt các hình
thái sau kế thừa các hình thái trƣớc, mặt khác bản thân nó tự biến đổi để phù
hợp với tồn tại xã hội tƣơng ứng. Quy luật của sự biến đổi bao giờ cũng theo

xu hƣớng tiến bộ và sáng tạo ra những giá trị mới. Nguyên nhân sâu xa là do
lực lƣợng sản xuất xã hội ngày càng phát triển và hoàn thiện. Nhƣng cũng
phải thấy rằng, nếu con ngƣời không tự cố gắng biến đổi mình cho phù hợp
với yêu cầu cuộc sống thì ý thức và quan niệm cũ về đạo đức sẽ trở thành
vật cản đối với sự phát triển xã hội.
Chức năng của đạo đức
Chức năng giáo dục
Con ngƣời muốn làm đƣợc điều thiện, tránh đƣợc điều ác, muốn cho
những hành vi của mình đƣợc xã hội chấp nhận, khơng bị dƣ luận xã hội lên
án thì họ phải nắm đƣợc những quan điểm, chuẩn mực đạo đức cơ bản.
Chẳng hạn, nguyên tắc sống của con ngƣời phải trung thực, thật thà. Nhìn
vào nguyên tắc này, mỗi ngƣời phải tự giác tuân theo, hoặc ai vi phạm, nhƣ
ăn cắp, nói dối sẽ bị dƣ luận phê phán. Vì vậy, chức năng giáo dục của đạo
đức đóng vai trị quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách con ngƣời.
Cùng với quá trình giáo dục thì quá trình tự giáo dục sẽ giúp con
ngƣời càng hiểu rõ vai trò to lớn của lƣơng tâm, nghĩa vụ, danh dự và những
phẩm chất đạo đức cần thiết của cá nhân mình đối với đời sống của cộng
đồng. Nhờ có chức năng giáo dục và tự giáo dục, con ngƣời học tập đƣợc
những tấm gƣơng đạo đức cao cả, xả thân làm việc nghĩa. Hy sinh quên
mình cho đất nƣớc, kiên cƣờng đấu tranh cho pháp lý… Chính vì vậy, làm
cho xã hội ngày càng công bằng, văn minh, tiến bộ.
Chức năng điều chỉnh hành vi
Sự đánh giá hành vi đạo đức của con ngƣời theo khuôn phép chuẩn
mực và quy tắc biểu hiện thành những khái niệm về thiện ác, vinh và


16

nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Những chuẩn mực và qui tắc đạo đức của
xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra nhằm điều tiết hành vi của cá

nhân đối với xã hội (đối với Tổ quốc, Nhà nƣớc, giai cấp mình và giai cấp
đối địch…) và đối với ngƣời khác. Quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ
của mình (khn phép hành vi) đối với xã hội, đối với ngƣời khác là tiền
đề của hành vi đạo đức của cá nhân.
Đạo đức là một phƣơng thức điều chỉnh hành vi. Điều chỉnh đạo đức
đƣợc thực hiện dƣới tác động của ý thức đạo đức, trong đó chuẩn mực đạo
đức, lý tƣởng đạo đức và tình cảm đạo đức có vai trị quan trọng. Sự điều
chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan
hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng. Loài ngƣời sáng tạo ra nhiều phƣơng thức
điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp quyền, đạo đức… Chính trị
điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng biện
pháp đặc trƣng nhƣ ngoại giao, kinh tế, hành chính,... Pháp quyền điều chỉnh
hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng các biện pháp
đặc trƣng là luật pháp, bạo lực cƣỡng bức.
Điều chỉnh hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi
hỏi và phƣơng thức điều chỉnh. Pháp quyền thể hiện trong pháp luật, là ý chí
của giai cấp thống trị buộc mọi ngƣời phải tuân theo. Những chuẩn mực của
pháp luật đƣợc thực hiện bằng ngăn cấm và cƣỡng bức (quyền lực công
cộng cùng với đội vũ trang đặc biệt, quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù…).
Pháp quyền là đạo đức tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng. Đạo
đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa với các hành vi cá nhân. Phƣơng thức điều
chỉnh là bằng dƣ luận xã hội và lƣơng tâm. Khác với các quy phạm pháp
luật, những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả
chuẩn mực khuyến khích.


17

Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dƣ luận xã hội và
lƣơng tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con ngƣời đã trở thành đặc

trƣng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các hiện
tƣợng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức.
Mục đích điều chỉnh của đạo đức nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển
xã hội bằng việc tạo nên quan hệ lợi ích và nghĩa vụ theo nguyên tắc hài hịa
lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân (và khi cần, phải ƣu tiên lợi ích cộng
đồng). Đối tƣợng điều chỉnh của đạo đức là hành vi cá nhân (trực tiếp) qua
đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp). Cách thức điều
chỉnh đƣợc biểu hiện là sự lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chƣơng trình
của hành vi theo lý tƣởng đạo đức; xác định phƣơng án cho hành vi theo
chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi là niềm tin, lý tƣởng, tình
cảm đạo đức và kiểm sốt uốn nắn hành vi bằng dƣ luận xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi đƣợc thực hiện bởi hai hình thức chủ
yếu: Xã hội và tập thể tạo dƣ luận khen ngợi khuyến khích cái thiện, phê
phán mạnh mẽ cái ác; Bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi
trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Là thành viên của xã hội, con ngƣời bao giờ cũng phải chịu sự giáo dục
nhất định về ý thức và trách nhiệm đạo đức, chịu sự đánh giá đối với hành vi
đạo đức của mình và sự phản tƣ của lƣơng tâm. Cá nhân phải chuyển hóa
những yêu cầu của xã hội thành nhu cầu, mục đích, hứng thú trong hành vi
tuân thủ những ngăn cấm, những chuẩn mực xã hội... Do vậy, sự điều chỉnh
đạo đức mang tính tự nguyện, và vì vậy, xét về bản chất, đạo đức là sự lựa
chọn của con ngƣời trên cơ sở tự giác, tự nguyện và ƣu tiên lợi ích cộng
đồng, xã hội.
Hiệu quả và phạm vi điều chỉnh đạo đức phụ thuộc vào cả nhân tố chủ
quan và nhân tố khách quan.


18

Nhân tố khách quan nâng cao hiệu quả và phạm vi điều chỉnh đạo đức

chính là các quan hệ kinh tế - xã hội, đến lƣợt nó lại quy định tính tích cực
xã hội của con ngƣời trong hoạt động sống của họ. Đó chính là sự thực hiện
chức năng điều chỉnh của đạo đức.
Nhân tố chủ quan quy định hiệu quả và phạm vi điều chỉnh của đạo đức
là trình độ phát triển của ý thức đạo đức. Sự phát triển ý thức đạo đức cá nhân
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận và nội tâm hóa những yêu cầu đạo
đức xã hội, biến những yêu cầu đó thành nhu cầu bên trong, kích thích tính
tích cực của con ngƣời đối với việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Sự phát triển
ý thức đạo đức cá nhân vừa là sự phát triển tình cảm, sự quan tâm của con
ngƣời đối với ngƣời khác, phát triển tri thức đạo đức, khả năng đánh giá, lựa
chọn những phƣơng án hoạt động đáp ứng yêu cầu đạo đức xã hội.
Sự phát triển của ý thức đạo đức cá nhân lại bị quy định bởi quá trình
giáo dục và phạm vi hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Vì vậy, tạo ra những
điều kiện để con ngƣời tham gia sâu rộng vào các quan hệ xã hội, các hoạt
động xã hội và tăng cƣờng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức chính là
giải pháp nâng cao ý thức đạo đức của con ngƣời, qua đó mở rộng khả năng
và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của đạo đức.
Chức năng nhận thức
Đạo đức có chức năng nhận thức bởi với tƣ cách là một hình thái ý
thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Các nguyên tắc, các chuẩn mực
đạo đức chính là sự phản ánh đặc thù các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội. Mục đích của nhận thức đạo đức khơng phải là phát hiện quy luật,
hƣớng tới chân lý mà là đánh giá giá trị thiện (hoặc ác), tốt (hoặc xấu) của
các sự kiện, các hành vi, tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời. Sự nhận thức
đạo đức có những đặc điểm:


19

Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số

trƣờng hợp có sự hịa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. (Khác
với khoa học và ứng dụng thành tựu khoa học có khoảng cách về khơng gian
và thời gian). Nhận thức đạo đức là quá trình vừa hƣớng ngoại vừa hƣớng
nội tự nhận thức - hƣớng vào chính mình, chính chủ thể. Nhận thức hƣớng
ngoại là lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội làm đối tƣợng.
Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh phúc và ý
nghĩa cuộc sống…, những “cách thức và phƣơng tiện” tạo ra các giá trị đạo
đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển hóa đạo đức của
xã hội nhƣ là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân nhƣ là cái riêng.
Nhận thức hƣớng nội là tự nhận thức bản thân, là quá trình tự đánh
giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình
với những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ đó chủ thể hình
thành, phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống hy sinh hay hƣởng
thụ, vị tha hay vị kỷ, hƣớng thiện hay ác…
Trong tự nhận thức, vai trò của dƣ luận xã hội và lƣơng tâm là to lớn.
Dƣ luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn
lƣơng tâm là sự phản tƣ. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức
của mình - giá trị mà xã hội mong muốn.
Nhận thức đạo đức ở hai trình độ: trình độ thơng thƣờng và trình độ lý
luận. Nhận thức đạo đức ở trình độ thơng thƣờng là ý thức thơng thƣờng,
những giá trị riêng lẻ đƣợc hình thành một cách tự phát từ chính cuộc sống
hàng ngày của con ngƣời để đáp ứng đòi hỏi khách quan của sinh hoạt cộng
đồng. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thơng thƣờng, đủ để chủ thể xử lý kịp
thời trong cuộc sống và sự phát triển bình thƣờng của xã hội. Mọi cá nhân
đều có thể và cần phải phản ánh đạo đức ở trình độ này. Nhận thức đạo đức
ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính ngun tắc đƣợc chỉ đạo bởi


20


những giá trị đạo đức có tính tổng qt, đƣợc hình thành và phát triển chủ
yếu bằng con đƣờng giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Trình
độ này đáp ứng đƣợc những đòi hỏi của sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã
hội. Đây là yếu tố không thể thiếu đƣợc trong hệ tƣ tƣởng và hành vi của
giai cấp cầm quyền.
Nhận thức đạo đức đƣa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức và kết quả
của nó trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi đạo đức.
Tác động của hệ thống đạo đức xã hội tới sự hình thành đạo đức cá
nhân chính là sự thể hiện và thực hiện chức năng giáo dục của đạo đức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, con ngƣời là sản phẩm
của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con ngƣời tạo ra hồn cảnh
đến mức nào thì hồn cảnh cũng tạo ra con ngƣời đến mức ấy. Hệ thống
đạo đức do con ngƣời tạo ra, nhƣng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại
nhƣ là cái khách quan hóa tác động, chi phối con ngƣời. Hệ thống ấy tác
động đến con ngƣời và con ngƣời tác động lại hệ thống. Trong xã hội có
giai cấp tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động.
Dƣới tác động của đạo đức xã hội, sự hình thành và phát triển đạo đức
cá nhân đƣợc thực hiện bằng hai con đƣờng, hai phƣơng thức là nhận thức
đạo đức của cá nhân và hoạt động thực tiễn đạo đức của họ. Nhận thức đạo
đức của cá nhân là q trình chuyển hóa đạo đức xã hội thành đạo đức cá
nhân. Con ngƣời nhận thức, tiếp nhận, lĩnh hội các kinh nghiệm, các giá trị,
các chuẩn mực, biến chúng thành sức mạnh đạo đức cá nhân, từ đó định
hƣớng, điều chỉnh hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu xã hội, chính là thực
tiễn đạo đức của cá nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hóa nội dung đạo
đức bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống
xã hội và cá nhân, làm cho đạo đức cá nhân và xã hội đƣợc củng cố, phát
triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.



×