Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của hoa kỳ ở khu vực đông nam á từ g w bush đến b obama (tè năm 2001 nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 172 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
--------------

LÊ THỊ BÍCH NGỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới

SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA HOA KỲ Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á TỪ
G.W.BUSH ĐẾN B.OBAMA (TỪ NĂM 2001-NAY)

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
--------------

LÊ THỊ BÍCH NGỌC
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60.22.56

SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA HOA KỲ Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á TỪ
G.W.BUSH ĐẾN B.OBAMA (TỪ NĂM 2001-NAY)
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Dung

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012




1

MỤC LỤC
MỤC LỤC ..................................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. KHÁI QT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở
ĐƠNG NAM Á THỜI KỲ SAU CHIẾN TRANH LẠNH (1989 – 2000) .................... 13
1.1 . Cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á sau chiến
tranh lạnh (1989 – 2000) ........................................................................................ 13
1.1.1. Sự biến đổi của trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh (1989 – 2000)............... 13
1.1.2. Tình hình Hoa Kỳ sau chiến tranh lạnh (1989 – 2000) ................................. 15
1.2 .Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau chiến tranh lạnh (1989 –
2000) ..................................................................................................................... 22
1.2.1 .. Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh (1989 – 2000) ....................................... 22
1.2.2 .. LLợi ích và mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ đối với Đông Nam Á (1989 –
2000) .......................................................................................................... 25
1.2.3 .. Biện pháp triển khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á sau
chiến tranh lạnh (1989 – 2000).................................................................... 28
CHƯƠNG 2. SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở
ĐÔNG NAM Á THỜI KỲ TỔNG THỐNG G.W.BUSH (2001 – 2008) ........................ 34
2.1 Cơ sở điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á thời kỳ Tổng
thống G.W.Bush (2001 – 2008) ............................................................................... 34
2.1.1. Trong tám tháng đầu cầm quyền của Tổng thống G.W.Bush (1/2001 –
8/2001) ......................................................................................................... 34
2.1.1.1 Nhân tố khách quan ........................................................................... 34
2.1.1.2 Nhân tố chủ quan .............................................................................. 36
2.1.1.3 Định hướng chính sách đối ngoại của chính quyền G.W.Bush
(1/2001-8/2001) ............................................................................................ 37

2.1.2 Sự kiện 11/9/2001 và sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ .......... 41
2.1.2.1 Tác động của sự kiện 11/9/2001 đối với Hoa Kỳ ............................... 41


2

2.1.2.2 Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau sự kiện 11/9/2001 . 45
2.2 Những nội dung điều chỉnh cơ bản trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông
Nam Á thời kỳ Tổng thống G.W.Bush (2001 – 2008).............................................. 51
2.2.1 Điều chỉnh nhận thức về vai trò của khu vực Đông Nam Á............................. 51
2.2.2 Điều chỉnh mục tiêu đối với khu vực Đông Nam Á ........................................ 55
2.2.3 Điều chỉnh biện pháp triển khai chính sách đối ngoại ở khu vực Đông Nam
Á ..................................................................................................................... 57
2.2.3.1 Trên lĩnh vực Chính trị - Ngoại giao .................................................... 57
2.2.3.2 Trên lĩnh vực An ninh – Quân sự......................................................... 60
2.2.3.3 Trên lĩnh vực Kinh tế - Thương mại .................................................... 68
2.3 Đánh giá sơ bộ về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đơng Nam Á thời kỳ Tổng
thống G.W.Bush (2001 – 2008) ............................................................................... 70
CHƯƠNG 3. SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở
ĐÔNG NAM Á THỜI KỲ TỔNG THỐNG B.OBAMA (2009 – NAY) ........................ 75
3.1 Cơ sở điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á thời kỳ Tổng
thống B.Obama (2009 – Nay) .................................................................................. 75
3.1.1 Nhân tố bên trong ........................................................................................... 75
3.1.2 Nhân tố bên ngoài ........................................................................................... 79
3.2 Định hướng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ Tổng thống B.Obama (2009
– Nay) ..................................................................................................................... 82
3.3 Những nội dung điều chỉnh cơ bản trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông
Nam Á thời kỳ Tổng thống B.Obama (2009 – Nay)................................................. 92
3.3.1 Điều chỉnh nhận thức về vai trị của khu vực Đơng Nam Á............................. 92
3.3.2 Điều chỉnh mục tiêu đối với khu vực Đông Nam Á ........................................ 97

3.3.3 Điều chỉnh biện pháp triển khai chính sách đối ngoại ở khu vực Đông Nam
Á ............................................................................................................................. 99
3.3.3.1 Trên lĩnh vực Chính trị - Ngoại giao .................................................... 99
3.3.3.2 Trên lĩnh vực An ninh – Quân sự.....................................................108
3.3.3.3 Trên lĩnh vực Kinh tế - Thương mại..................................................119
3.4 Đánh giá sơ bộ về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Đông Nam Á thời kỳ
Tổng thống B.Obama (2009 – Nay).....................................................................121


3

CHƯƠNG 4. TÁC ĐỘNG CỦA SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA HOA KỲ VÀ TRIỂN VỌNG THỰC THI CHÍNH SÁCH ĐĨ Ở KHU VỰC
ĐƠNG NAM Á...........................................................................................................125
4.1 Tác động của sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với Đông Nam Á
dưới thời Tổng thống tiền nhiệm G.W.Bush...............................................................125
4.2 Tác động của sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với Đông Nam Á
dưới thời Tổng thống B.Obama...................................................................................127
4.3 Triển vọng triển khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Nam
Á trong thập niên tới...................................................................................................128
4.3.1 Dự báo tình hình khu vực Đơng Nam Á đến năm 2020....................................128
4.3.2 Những thuận lợi và khó khăn trong việc triển khai chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ đối với khu vực Đông Nam Á trong thập niên tới.................................................130
4.3.3 Triển vọng triển khai chính sách ở khu vực trong thập niên tới.........................133
4.4 Một số kiến nghị về đối sách của Việt Nam trong những năm tới........................138
KẾT LUẬN.................................................................................................................144
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................148
PHỤ LỤC....................................................................................................................164



4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào tháng 12/1989, lãnh đạo hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô đã tuyên bố
chấm dứt Chiến tranh lạnh tại cuộc gặp thượng đỉnh Malta. Tiếp đó, sau lời tuyên bố
từ chức Tổng thống Liên Xô của M.Gioocbachop vào ngày 25/12/1991, lá cờ búa liềm
trên nóc điện Kremlin đã bị hạ xuống, chính thức đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô sau 74 năm tồn tại. Sự tan rã của Liên Xơ và sự thối trào của
chế độ Xã hội chủ nghĩa đã thực sự đưa Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất trên thế
giới, mở toang cánh cửa thực hiện tham vọng thiết lập trật tự thế giới đơn cực, vươn
lên lãnh đạo, phổ biến các giá trị và lối sống kiểu Mỹ trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, thế giới thời kỳ hậu chiến tranh lạnh xuất hiện những xu thế mới vận
động không ngừng, khó lường, tạo nguy cơ cản trở việc hiện thực hóa giấc mơ bá chủ
thế giới của Hoa Kỳ. Chính vì lẽ đó, từ sau chiến tranh lạnh đến nay Hoa Kỳ ln có
những sự điều chỉnh chính sách đối ngoại theo từng giai đoạn, để phù hợp với tình
hình và cục diện của thế giới nhằm mục đích bảo vệ mục tiêu chiến lược nhất quán của
mình.
Đối với Hoa Kỳ, chính sách đối ngoại đối với Châu Á – Thái Bình Dương ln
là một trong những trọng điểm chiến lược. Tuy nhiên, khu vực Đông Nam Á với tư
cách là một bộ phận trong chính sách Châu Á – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ khơng
phải lúc nào cũng chiếm một vị trí tương xứng trong con mắt của các nhà hoạch định
chính sách của Hoa Kỳ. Thực chất, từ sau chiến tranh lạnh, chính sách Châu Á – Thái
Bình Dương của Hoa Kỳ chỉ tập trung mũi nhọn vào khu vực Đông Bắc Á – Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên. Qua đó cho thấy mặc dù Hoa Kỳ với tư
cách là một quốc gia có tiềm năng sức mạnh cực kỳ to lớn trong khu vực, nhưng chính
sách của Hoa Kỳ đã khơng kết nối được các điểm và xây dựng nó thành một hệ thống
hồn chỉnh và tồn diện. Có thể nói, phần còn thiếu cho việc xây dựng chiến lược
Châu Á khơn ngoan chính là một chiến lược lâu dài, ổn định, nghiêm túc và hợp lý ở
khu vực Đông Nam Á.



5

Bước sang thế kỷ mới, Hoa Kỳ đã có sự điều chỉnh về chiến lược cũng như
chính sách đối ngoại trước những thay đổi của môi trường quốc tế và an ninh trong
nước, đặc biệt là sau sự kiện 11/9/2001. Sự kiện này đã trở thành một dấu ấn không
chỉ đối với Hoa Kỳ mà cả thế giới sẽ không bao giờ quên. Từ đây, Hoa Kỳ đã bắt đầu
chú ý hơn tới Đông Nam Á bởi theo Hoa Kỳ, Đông Nam Á là khu vực đang tồn tại
những mâu thuẫn xung đột tơn giáo, sắc tộc cũng như có dính líu, liên quan đến các tổ
chức khủng bố trên thế giới – đặc biệt là mạng lưới khủng bố Al Quaeda. Chính vì lẽ
đó, Hoa Kỳ ln coi Đơng Nam Á là chiến trường thứ hai của cuộc chiến chống khủng
bố, cùng với việc gia tăng sự hiện diện quân sự tại khu vực này.
Sau khi lên cầm quyền vào tháng 1/2009, chính quyền B.Obama tiếp tục có
những điều chỉnh phù hợp với thế và lực của Hoa Kỳ trong bối cảnh mới theo hướng
gia tăng coi trọng châu Á nói chung, Đơng Nam Á nói riêng. Hoa Kỳ xác định khu vực
này hiện đang tập trung những lợi ích sống cịn của mình. Bên cạnh đó, trong hơn một
thập niên qua, thế giới ngày càng quan tâm hơn đối với khu vực Đông Nam Á, đặc biệt
là với tổ chức khu vực ASEAN, luôn được đánh giá là một trong những tổ chức khu
vực thành công nhất nhờ những đóng góp đáng kể cho việc duy trì an ninh, ổn định,
hợp tác và phát triển giữa các nước trong khu vực cũng như trong khối Châu Á – Thái
Bình Dương. Hơn nữa, chính quyền tiền nhiệm trước đây trước đây chỉ chú ý đến
Đơng Nam Á vì mục tiêu chống khủng bố mà đã có phần “lơ là” những lĩnh vực khác,
đã tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc có cơ hội củng cố và nâng cao vị thế mạnh
mẽ trong khu vực Đông Nam Á. Sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc trong thập kỷ
đầu thế kỷ XXI đã tạo ra sự quan ngại lớn đối với Hoa Kỳ. Thêm vào đó, cuộc khủng
hoảng tài chính – kinh tế cũng đã ảnh hưởng tới vị thế và hình ảnh Hoa Kỳ trên trường
quốc tế.
Việc điều chỉnh chính sách Đơng Nam Á của Hoa Kỳ cho thấy rõ ý đồ muốn
ngăn chặn không cho bất kỳ một nước hay một khu vực nào có thể nổi lên thách thức

mục tiêu bá chủ toàn cầu của Hoa Kỳ. Sự điều chỉnh này có thể đem lại một số thời cơ
nhất định cho các nước trong khu vực, nhưng nó cũng đồng thời tạo ra những lo ngại
về khả năng sẽ diễn ra một cuộc chạy đua quyền lực gay gắt giữa các cường quốc, làm
cho tình hình trong khu vực thêm phần nóng hơn.


6

Trong nỗ lực triển khai điều chỉnh chính sách đối ngoại ở Đông Nam Á nhằm
tranh thủ và tăng cường quyền lực của mình ở khu vực, Hoa Kỳ cũng điều chỉnh chính
sách đối ngoại đối với Việt Nam, xem Việt Nam như một đối tác quan trọng ở khu
vực. Điều này đặt ra cho Việt Nam không chỉ những thời cơ mà cịn có cả nguy cơ
tiềm tàng. Trước sự điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ, Việt Nam cần có một đường
lối đối ngoại khéo léo và hết sức thận trọng nhằm tránh bị kéo vào vịng xốy của cuộc
tính tốn lợi ích, chạy đua quyền lực giữa các cường quốc.
Vậy Hoa Kỳ có những sự điều chỉnh chính sách như thế nào đối với khu vực
này? Và sự điều chỉnh này có tác động gì đối với khu vực Đông Nam Á cũng như đối
với Việt Nam. Các câu hỏi này đã thôi thúc tôi quyết định chọn đề tài “Sự điều chỉnh
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực Đông Nam Á từ G.W.Bush đến
B.Obama” (từ năm 2001- nay) làm đề tài nghiên cứu, bảo vệ luận văn thạc sỹ của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này thực hiện nhằm hướng tới các mục đích cụ thể sau:
Một là, tìm hiểu tiến tới phân tích những cơ sở, mục tiêu dẫn tới sự điều chỉnh
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với khu vực Đơng Nam Á từ thời kỳ chính quyền
tổng thống G.W.Bush đến chính quyền tổng thống đương nhiệm B.Obama.
Hai là, tìm hiểu nội dung triển khai điều chỉnh chính sách đối ngoại đối với
Đông Nam Á dưới thời G.W.Bush và B.Obama. Từ đó, thấy được vị trí, vai trị của
Đơng Nam Á với tư cách là một bộ phận cấu thành trong chiến lược của Hoa Kỳ ở
Châu Á – Thái Bình Dương.

Ba là, đưa ra một số nhận xét, đánh giá cũng như cái nhìn tổng quan về những
bước chuyển trong chính sách ở khu vực Đơng Nam Á trong suốt thập kỷ qua, chỉ ra
những thành công cũng như hạn chế mà Hoa Kỳ có được, đặc biệt là những gì Hoa Kỳ
đã, đang và sẽ ln nỗ lực để đạt được từ Đông Nam Á trong công cuộc duy trì thế chủ
đạo của Hoa Kỳ trong khu vực – một phần của chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ. Đồng
thời bước đầu đánh giá những tác động cũng như triển vọng của chính sách này khơng
chỉ đối với bản thân Hoa Kỳ mà còn đối với khu vực Đơng Nam Á nói chung và Việt
Nam nói riêng.


7

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Thơng qua việc phân tích những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ đối với Đông Nam Á từ G.W.Bush đến B.Obama và thực tế triển khai chính sách ở
khu vực để thấy được sự thay đổi mang tính chiến lược của Hoa Kỳ cũng như qua đó
thấy được vai trị, vị trí của Đơng Nam Á trong chiến lược toàn cầu mới của Hoa Kỳ.
Việc nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn đối với Việt Nam hiện nay. Nó
khơng chỉ góp phần làm rõ động cơ, mục đích của sự điều chỉnh này đối với Đơng
Nam Á mà cịn có thể chỉ ra những tác động đan xen, phức tạp trong quá trình thực
hiện điều chỉnh chính sách đối với các nước trong khu vực và đối với Việt Nam. Đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay, không chỉ nổi lên vấn đề khủng bố và chống khủng bố
trong quan hệ quốc tế mà cịn có những biến động diễn ra ở khu vực như vấn đề biển
đông , an ninh hàng hải; yếu tố Trung Quốc, vấn đề hợp tác sông Mekong…tất cả
những vấn đề này đều liên quan mật thiết đến lợi ích của Hoa Kỳ ở khu vực Đơng
Nam Á. Điều này được thể hiện rõ sau tuyên bố của Tổng thống Hoa Kỳ B.Obama
rằng “Hoa Kỳ là một quốc gia Châu Á”. Qua những vấn đề mà tác giả tập trung làm rõ
như trên, tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu đạt được của luận văn này có thể trở
thành tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu và nghiên cứu về chính
sách của Hoa Kỳ ở khu vực Đơng Nam Á nói riêng và ở Châu Á – Thái Bình Dương

nói chung.
4. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về chiến lược cũng như chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ nói chung và đối với Đơng Nam Á nói riêng được các Viện
khoa học hay các cá nhân trong và ngồi nước tiến hành. Có thể kể đến một số cơng
trình tiêu biểu như “Nước Mỹ nửa thế kỷ - chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và
sau chiến tranh lạnh”, của tác giả Thomas J. Mc Cormick do Nxb Chính trị Quốc gia
xuất hành năm 2004; “Chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN trong và sau chiến
tranh lạnh” của Lê Khương Thùy, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 2003; “Về chiến lược
an ninh của Mỹ hiện nay”, tác giả Lê Linh Lan, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004;


8

“Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ với Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh” của
PGS,TS Nguyễn Hoàng Giáp, TS Nguyễn Thị Quế, ThS Nguyễn Thị Lệ, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội 2007; “Vai trị của Mỹ ở Châu Á” của GS.Harry Harding, Quỹ Châu
Á xuất bản năm 2008; “Nhân tố địa chính trị trong chiến lược tồn cầu mới của Mỹ
đối với khu vực Đông Nam Á” của Nguyễn Văn Lan (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội 2007…
Bên cạnh đó, gần đây cũng có nhiều luận văn nghiên cứu liên quan đến chủ đề
này như “Quan hệ Mỹ - ASEAN từ 2000 đến nay” của tác giả Vũ Thị Lan Hương, luận
văn thạc sĩ, Học viện Ngoại giao Hà Nội 2010; “Hợp tác an ninh – quốc phịng giữa
Mỹ và Đơng Nam Á trong nhiệm kỳ tổng thống G.W.Bush” của tác giả Hoàng Lan
Anh, luận văn Thạc sĩ, Học viện Ngoại giao, Hà Nội 2010; “Cơ sở hoạch định chính
sách đối ngoại của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh” của tác giả Nguyễn Lan Chi năm
2010; “Chính sách đối ngoại của Tổng thống Barack Obama dưới ảnh hưởng của lý
thuyết “Sức mạnh thông minh” năm 2009.
Đặc biệt gần đây nhất, tác giả tìm hiểu được hai đề tài khóa luận tốt nghiệp của
sinh viên cũng liên quan mật thiết đến lĩnh vực mà tác giả đang nghiên cứu, đó là đề

tài: “Sự điều chỉnh trong chính sách Châu Á – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ từ năm
2009 đến nay”, của tác giả Nguyễn Thùy Vân, khóa luận tốt nghiệp khoa lịch sử,
chuyên ngành lịch sử thế giới, Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn TPHCM, tháng 6
năm 2012. Đề tài này đã cung cấp cái nhìn tổng quan về chính sách Châu Á – Thái
Bình Dương của Hoa Kỳ từ sau chiến tranh lạnh tới nay, đồng thời tập trung phân tích
những thay đổi trong chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương trên các lĩnh vực kinh tế - chính trị - an ninh quân sự từ năm 2009 đến nay.
Đề tài: “Những điều chỉnh chính sách chính trị - an ninh của Mỹ đối với khu
vực Đông Nam Á dươi thời Tổng thống Barack Obama từ năm 2009 đến nay (2009 –
nửa đầu năm 2012)” của tác giả Đào Thị Ngọc, khóa luận tốt nghiệp khoa lịch sử,
chuyên ngành lịch sử thế giới, Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn TPHCM, tháng 6
năm 2012. Tác giả đã bước đầu tập hợp được nhiều nguồn tài liệu bổ ích đồng thời
cung cấp được cái nhìn khái qt về chính sách an ninh – chính trị của Hoa Kỳ đối với
Đơng Nam Á thời kỳ cầm quyền của B.Obama. Tuy nhiên, tác giả chỉ mới đề cập


9

chung chung, chưa phân tích rõ sự điều chỉnh này chính sách của Hoa Kỳ ở Đơng Nam
Á được thể hiện như thế nào. Đồng thời đề tài này chỉ bó hẹp ở lĩnh vực an ninh –
chính trị.
Ngồi ra, tác giả tìm thấy những thơng tin, tư liệu bổ ích phục vụ cho việc
nghiên cứu được đăng trên các trang web Nghiên cứu Biển Đông, tài liệu tham khảo
Thông tấn xã, tạp chí Châu Mỹ ngày nay, tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, tạp chí Nghiên
cứu Đơng Nam Á…hay trong một số tài liệu tiếng Anh có giá trị tham khảo khác trên
các tạp chí nước ngồi như Pacific Affairs, The National Interest, Asian Affairs…
Riêng về đề tài luận văn thực hiện lần này tác giả nhận thấy chưa có một cơng
trình nào nghiên cứu cụ thể và phân tích chuyên sâu về sự điều chỉnh chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ từ thời chính quyền tổng thống G.W.Bush đến thời Tổng thống
đương nhiệm hiện nay B.Obama. Có chăng chỉ là những bài báo hay những bài phân

tích ngắn đăng trên các trang web hay các tạp chí khoa học của các học giả trong và
ngoài nước. Các bài viết này chỉ tập trung nêu lên một vài khía cạnh riêng lẻ của vấn
đề theo từng giai đoạn, chứ chưa cung cấp cái nhìn tồn diện và khái qt về sự điều
chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực Đơng Nam Á cũng như vai trị, vị trí
địa chính trị ngày càng được nâng cao của khu vực này trên trường quốc tế. Vì đề tài
lần này tác giả chọn có phần nghiên cứu liên quan đến sự điều chỉnh cũng như các
biện pháp thực hiện chính sách đang được triển khai của chính quyền B.Obama hiện
nay, do đó tác giả gặp đơi chút khó khăn về việc tổng hợp, phân tích tài liệu, tác giả
chủ yếu dựa vào những chính sách cơng bố của Hoa Kỳ cũng như những bài phát biểu
của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ được đăng trên trang website Nhà trắng và các website
khác của chính phủ Hoa Kỳ . Vì vậy, khi đưa ra những nhận định, nhận xét, đánh giá
và phân tích tác giả cũng phải cân nhắc rất nhiều để những nhận định này khơng mang
cái nhìn phiến diện của chính tác giả mà phải thể hiện được tính tổng quát và khách
quan.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1 Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu và phân tích những điều chỉnh chính sách của
Hoa Kỳ đối với khu vực Đơng Nam Á từ thời cựu Tổng thống G.W.Bush đến Tổng


10

thống đương nhiệm B.Obama. Luận văn tập trung vào những điều chỉnh chính sách về
kinh tế và an ninh – chính trị của Hoa Kỳ ở Đơng Nam Á – những lĩnh vực liên quan
trực tiếp tới lợi ích cũng như nhiệm vụ duy trì và củng cố vị thế lãnh đạo thế giới của
mình.
5.2 Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ lấy mốc từ sau khi chiến tranh lạnh kết
thúc, tức là từ tháng 12/1989 đến tháng 12/2012. Trong đó, nội dung chính của luận
văn sẽ tập trung phân tích kĩ những điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối

với Đông Nam Á giai đoạn từ thời kỳ Tổng thống tiền nhiệm G.W.Bush đến giai đoạn
Tổng thống đương nhiệm B.Obama, tức là từ năm 2000 đến đầu năm 2012.
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu dựa trên phương pháp nghiên cứu lịch
sử hệ thống – cụ thể, phương pháp tư duy logic. Ngồi ra tác giả cịn dựa vào nguồn tài
liệu sẵn có theo phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu các tư tưởng,
quan điểm của các tác giả khác trong những tài liệu liên quan, cũng như từ những bài
phát biểu trực tiếp của các nhà lãnh đạo Hoa Kỷ trên các cổng thơng tin chính thức của
Hoa Kỳ, từ đó nêu lên những qua điểm và phân tích của chính riêng tác giả để làm rõ
vấn đề đồng thời để cho người đọc có cái nhìn tổng quan, tồn diện hơn về chính sách
của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Nam Á. Tất cả các phương pháp trên đều thực hiện
trên nền tảng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nguồn tài liệu bao gồm một số tài liệu gốc như các bản công bố chiến lược an
ninh quốc gia của Hoa Kỳ qua các thời kì, Thơng điệp Liên Bang hàng năm của Tổng
thống Hoa Kỳ…Ngồi ra cịn có các sách chun khảo, cơng trình nghiên cứu, tạp chí
khoa học trong và ngoài nước, các luận văn thạc sĩ, các sách nước ngoài và tài liệu trên
các trang web…
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 4 chương:


11

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở
ĐÔNG NAM Á THỜI KỲ SAU CHIẾN TRANH LẠNH (1989-2000)
Chương này chủ yếu tập trung phân tích những nhân tố tác động đến sự hoạch
định chính sách của Hoa Kỳ cũng như cung cấp cái nhìn tổng quan về chính sách của
Hoa Kỳ đối với khu vực Đơng Nam Á sau chiến tranh lạnh đến trước nhiệm kỳ cầm

quyền của Tổng thống G.W.Bush.
CHƯƠNG 2: SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở
ĐÔNG NAM Á THỜI KỲ TỔNG THỐNG G.W.BUSH (2001-2008)
Chương này phân tích những nhân tố dẫn đến sự điều chỉnh chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ cầm quyền của Tổng thống G.W.Bush, đặc biệt là từ sau sự
kiện 11/9/2001. Đồng thời phân tích sự điều chỉnh về vai trị, mục tiêu cũng như chính
sách của chính quyền G.W.Bush đối với khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn này.
CHƯƠNG 3: SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở
ĐƠNG NAM Á DƯỚI THỜI CHÍNH QUYỀN TỔNG THỐNG B.OBAMA (2009 –
Nay)
Chương này đề cập đến sự tất thiết phải thay đổi chính sách của Hoa Kỳ nói
chung và chính sách đối với Đơng Nam Á nói riêng. Nhìn chung, sự thay đổi này xuất
phát từ những khó khăn trong nội bộ Hoa Kỳ, do sự thay đổi của thế giới, định hướng
của chính quyền B.Obama và sự thay đổi của Đơng Nam Á. Qua đó nhằm nêu bật lên
sự chuyển hướng trong chính sách của Hoa Kỳ giai đoạn này khác với chính quyền
tiền nhiệm G.W.Bush. Đồng thời đưa ra những nhận xét bước đầu về kết quả của sự
điều chỉnh này đối với Hoa Kỳ.
CHƯƠNG 4. TÁC ĐỘNG CỦA SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA HOA KỲ VÀ TRIỂN VỌNG THỰC THI CHÍNH SÁCH ĐĨ Ở KHU VỰC
ĐƠNG NAM Á
Chương cuối cùng đánh giá tổng hợp những tác động của sự điều chỉnh chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ dưới thời chính quyền G.W.Bush và chính quyền B.Obama
đối với Đông Nam Á. Đồng thời đưa ra những dự báo về tình hình khu vực từ nay đến
năm 2020. Qua đó phân tích những thuận lợi, khó khăn, triển vọng triển khai chính


12

sách của Hoa Kỳ cũng như một vài kiến nghị về các đối sách của Việt Nam trong thập
niên tới.



13

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở
ĐÔNG NAM Á THỜI KỲ SAU CHIẾN TRANH LẠNH (1989-2000)

1.1

CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở
ĐÔNG NAM Á SAU CHIẾN TRANH LẠNH (1989-2000)
1.1.1 Sự biến đổi của trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh (1989 – 2000)
Vào tháng 12/1989, tại cuộc gặp gỡ khơng chính thức tại đảo Malta, hai vị lãnh

đạo đứng đầu hai siêu cường đối lập nhau G.H.Bush và M.S. Gorbachëv cùng ký kết
Hiệp ước chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh kéo dài từ năm 1947 đến 1989. Hiệp ước này
có thể được coi là là một bước ngoặt lịch sử củng cố thêm xu thế hịa hỗn Đơng – Tây
vốn đã được nhen nhóm từ những năm đầu thập niên 70. Kể từ giai đoạn năm 1989 –
1990, Liên Xô đã trải qua những biến cố đen tối nhất trong lịch sử. Đỉnh điểm là vào
ngày 25/12/1991 M.S. Gorbachëv tuyên bố từ chức Tổng thống, lá cờ búa liềm trên
nóc điện Kremlin đã bị hạ xuống, chính thức đánh dấu sự tan rã của Liên bang Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết sau hơn 74 năm tồn tại. Liên Xô sụp đổ đồng nghĩa với
việc trật tự hai cực Yalta tồn tại suốt hơn bốn thập kỷ đã thực sự sụp đổ. Cục diện thế
giới sau chiến tranh lạnh vận động và biến đổi theo những xu thế mới – bất định và
khó lường.
Thế giới đang trong giai đoạn chuyển tiếp sang một trật tự thế giới mới, phát
triển nhanh chóng theo hướng “một siêu cường, nhiều cường quốc”. Trong đó, Hoa Kỳ
nổi lên là siêu cường mạnh nhất so với các cường quốc khác, với ưu thế vượt trội trên
tất cả các lĩnh vực, đồng thời cũng đang chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của các cường
quốc khác như Nhật Bản, Tây Âu, Nga, Trung Quốc.

Trong suốt hơn 40 năm bị cuốn vào vịng xốy của cuộc cạnh tranh, đối đầu
giữa hai cực đã kìm hãm sự phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chiến
tranh lạnh sụp đổ đã rút ra bài học chứng tỏ phương pháp quan hệ quốc tế lấy yếu tố
đối đầu chính trị - qn sự đã khơng còn phù hợp, phải chịu nhiều tổn thất hoặc thất
bại, điển hình như Hoa Kỳ và Liên Xơ – một bị thương và một bị mất. Trong khi đó,
phương thức lấy hợp tác và cạnh tranh về kinh tế - chính trị lại thu được nhiều kết quả
tích cực thúc đẩy sự phát triển của quốc gia, điển hình như Đức, Nhật và NICs. Sức


14

mạnh tổng hợp của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào yếu tố quân sự mà còn phụ
thuộc vào khả năng kinh tế của chính quốc gia đó. Từ thời điểm này, yếu tố kinh tế
đóng một vai trị quan trọng quyết định đến địa vị của một đất nước trên đấu trường
quốc tế. Những cân nhắc về địa – kinh tế ở mức độ nào đó đã vượt q tính tốn về
mặt địa – chính trị.
Vì vậy, sau chiến tranh lạnh các quốc gia trên thế giới điều chỉnh chiến lược,
tập trung sức lực ưu tiên phát triển kinh tế. Các nước ngày càng mở rộng hệ thống an
ninh quốc gia nhằm thúc đẩy hợp tác, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho việc xây
dựng kinh tế nước mình. Bên cạnh đó, cùng với cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ với nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng lương,
vật liệu mới phát triển với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời
sống xã hội. Q trình tồn cầu hóa này đã làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia, đẩy mạnh tiến trình liên kết kinh tế và dẫn tới việc thành lập nhiều tổ chức
hợp tác mang tính khu vực và quốc tế như WTO (Tổ chức thương mại thế giới), APEC
(Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương) , NAFTA (Hiệp định thương
mại tự do Bắc Mỹ), AFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN)… Các tổ chức này đã
góp phần thúc đẩy sản lượng thế giới, dòng chảy thương mại, đầu tư giữa các quốc gia
và các khu vực. Quả thật, trong suốt giai đoạn từ những năm 1960 đến năm 1990, sự

hội nhập kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới gia tăng một cách đáng kể, đóng góp
vào GDP tồn cầu tăng từ 26% ở thập niên năm 1960 lên 42% vào những năm 1990
[154].
Trong xu thế tồn cầu hóa, khái niệm an ninh quốc gia cũng được đặt trong bối
cảnh rộng lớn hơn, nó khơng bị giới hạn bởi những yếu tố truyền thống như trước mà
đã bao gồm cả an ninh kinh tế. Các cuộc chiến tranh do xung đột ý thức hệ đã dần
được thay thế bằng các cuộc chiến tranh thương mại. Theo đó, các đồng minh kinh tế
cũng dần thay thế đồng minh quân sự như trong thời kỳ chiến tranh lạnh, trở thành mối
quan hệ chủ đạo trong nền chính trị thế giới những năm 90.


15

1.1.2 Tình hình Hoa Kỳ sau chiến tranh lạnh (1989-2000)
Mặc dù cũng hứng chịu những tổn thất nặng nề nhưng Hoa Kỳ đã bước ra khỏi
cuộc chiến tranh lạnh với ưu thế là quốc gia siêu cường duy nhất trên thế giới. Chiến
thắng này đã một lần nữa đem lại cơ hội và động lực để Hoa Kỳ nuôi dưỡng và thực
hiện giấc mơ bá chủ tồn cầu của mình kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai kết
thúc. Như ngay trong Lời nói đầu của bản báo cáo chiến lược an ninh quốc gia tháng
8/1991, thời điểm Liên Xơ đang diễn ra cuộc đảo chính, tổng thống Hoa Kỳ G.H.Bush
đã nhận định “Chúng ta đang có những khả năng hết sức thuận lợi…Khơng có một
nước nào trên thế giới có thể sánh được sức mạnh quân sự của chúng ta…Chưa bao
giờ sự lãnh đạo của Hoa Kỳ lại cần thiết như hiện nay để khắc phục những hiểm họa
mới đối với thế giới và để sử dụng khả năng thuận lợi đang nảy sinh trên thế
giới…Chúng ta đang có trong tay một khả năng đặc biệt mà ít thế hệ có được để xây
dựng một hệ thống quốc tế mới phù hợp với các ý tưởng và giá trị của chúng ta, khi
các mẫu hình và niềm tin cũ sụp đổ chung quanh ta” [69, tr.2]. Thật vậy, Hoa Kỳ thời
kì hậu chiến tranh lạnh đang có trong tay những thời cơ thuận lợi to lớn.
Thứ nhất, sau chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất còn lại,
với ưu thế vượt trội trên tất cả các lĩnh vực. Tốc độ phát triển GDP vẫn duy trì ở mức

3-4% (1992-1994) [167]. Năm 1992 GDP của Hoa Kỳ đạt 5,951 tỷ USD, chiếm xấp xỉ
24% GDP của thế giới. Đây là tỷ lệ cao nhất thế giới so với 4,355 tỷ USD của Tây Âu
(chiếm 17.6%) và 2,318 tỷ USD của Nhật (chiếm 9.3%) [125]. Trên lĩnh vực quân sự,
sau chiến tranh lạnh mặc dù có giảm bớt nhưng chi phí quốc phịng của Hoa Kỳ vẫn
duy trì ở vị trí cao nhất thế giới, trung bình khoảng 350 tỷ USD trong suốt những năm
1990, chiếm hơn 40% tổng chi phí quốc phịng của thế giới [196]. Có thể nói về sức
mạnh quân sự, Hoa Kỳ là nước duy nhất có khả năng điều phối, triển khai sức mạnh
của mình tới khắp mọi nơi trên thế giới. Về khoa học – kỹ thuật, Hoa Kỳ dẫn đầu các
ngành khoa học kỹ thuật nhất là trong lãnh vực điện toán; đã xây dựng hệ tin học
Internet sau đó khuyếch trương nối mạng tồn cầu nhằm phục vụ cho thông tin và mậu
dịch. Đối với quốc tế, Hoa Kỳ nắm vai trò trụ cột trong hai trào lưu tồn cầu hố và tự
do mậu dịch, giữ các nhiệm vụ then chốt trong WTO, WB và IMF.


16

Thực tế, sau chiến tranh lạnh, ngay cả khi “sức mạnh cứng” bị hao mịn, thì
“sức mạnh mềm” của Hoa Kỳ vẫn phát huy khả năng. Thuyết “quyền lực mềm” của
Joseph Nye trở thành điểm tựa mới cho Hoa Kỳ. Khi đối thủ duy nhất có khả năng cản
trở việc thực hiện mục tiêu bá chủ thế giới khơng cịn, Hoa Kỳ đương nhiên trở thành
quốc gia duy nhất có khả năng giữ vai trò lãnh đạo thế giới. Dù theo thời gian, thế và
lực của Hoa Kỳ đã có những biểu hiện suy giảm tương đối cùng với sự phát triển
nhanh, mạnh mẽ của các quốc gia, khu vực có thể ảnh hưởng đến vai trị lãnh đạo của
Hoa Kỳ, nhưng trước mắt cũng phải mất một khoảng thời gian khá lâu để các quốc gia,
khu vực này có thể vươn lên thành đối thủ ngang bằng, đe dọa trực tiếp đến Hoa Kỳ
như Liên Xô trước đây. Vai trò và mối quan hệ của Hoa Kỳ và các nước trên thế giới
giai đoạn hậu chiến tranh lạnh thể hiện rõ nét qua mơ hình “trục bánh xe và nan hoa”.
Thứ hai, với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, về cơ bản
mục tiêu chiến lược quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong suốt hàng thập kỷ đã thành hiện
thực, đó là ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Sự tan

rã của Liên Xô – ngọn cờ đầu của hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới – có thể coi là
một sự thắng lợi trước hết về mặt ý thức hệ, đưa đến ưu thế tạm thời về sự thống trị
của chủ nghĩa tư bản trước chủ nghĩa xã hội. Theo cách nhìn của Hoa Kỳ thì việc Liên
Xơ tan rã đã chấm dứt mối đe dọa trực tiếp và rõ ràng nhất đối với nền an ninh – chính
trị của Hoa Kỳ đồng thời thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa
trên bản đồ thế giới. Điều này đã gây ra sự trăn trở và tâm lý e ngại trong bộ phận giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là ở các nước tư bản chủ nghĩa. Từ đây,
mơ hình kinh tế thị trường và các giá trị dân chủ phương Tây trở thành sự lựa chọn của
nhiều quốc gia trên thế giới. Hoa Kỳ đứng trước cơ hội vô cùng lớn để khuếch trương
và truyền bá ý thức hệ tư bản chủ nghĩa, thúc đẩy nền dân chủ, tự do và các giá trị kiểu
Mỹ trên toàn thế giới. Kinh tế thị trường và dân chủ nhân quyền cũng trở thành
phương châm tập hợp lực lượng mới của Hoa Kỳ khi mà mục tiêu chung “chống cộng
sản” trước đây khơng cịn. Đồng thời, đây là thời điểm vô cùng thuận lợi để Hoa Kỳ
ráo riết tiếp tục đẩy mạnh những biện pháp lôi kéo lực lượng, thực hiện “diễn biến hịa
bình” chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.


17

Thứ ba, thế giới hậu chiến tranh lạnh phát triển theo xu hướng vừa cạnh tranh,
vừa hợp tác; vừa thỏa hiệp, vừa xung đột ở quy mô khác nhau. Các quốc gia đều cố
gắng phát triển một cách độc lập, nâng cao tiếng nói và vị thế của mình, thốt khỏi sự
sắp xếp của Hoa Kỳ như trước. Nhưng nhìn chung, vì lợi ích của riêng mình, các nước
đều tránh đối đầu với Hoa Kỳ. Cục diện thế giới hậu chiến tranh lạnh đang bước vào
giai đoạn thiết lập trật tự thế giới mới thay thế cho trật tự Yalta trước đây, tương quan
lực lượng giữa các quốc gia, tổ chức phát triển khơng đều.
Tóm lại, mơi trường quốc tế đang phát triển theo xu hướng có lợi cho Hoa Kỳ.
Với những điều kiện vượt trội tạm thời của mình cả về “sức mạnh cứng” lẫn “quyền
lực mềm” trong giai đoạn này, Hoa Kỳ hồn tồn có khả năng và phải nhanh chóng
chớp thời cơ để thiết lập trật tự thế giới mới theo ý muốn của mình, đảm bảo vị trí bá

chủ của mình, đồng thời ngăn khơng cho một quốc gia, tổ chức nào có thể vươn lên đe
dọa vị trí lãnh đạo của Hoa Kỳ.
Bên cạnh những thời cơ vô cùng thuận lợi như trên, Hoa Kỳ cũng phải đối mặt
với khơng ít những thách thức to lớn. Những thách thức này tác động trực tiếp đến
việc hoạch định và triển khai chính sách của Hoa Kỳ sau chiến tranh lạnh.
Một là, trên bình diện quốc tế, trong thời kì chiến tranh lạnh, trong khi Hoa Kỳ
dốc hết sức lực và tiền của trong cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xơ đã vơ tình tạo
điều kiện và thời gian để các cường quốc khu vực khác như Nhật Bản, Tây Âu thực
hiện những bước phát triển kinh tế thần kỳ và ngoạn mục. Khi chiến tranh lạnh kết
thúc, đối thủ của Hoa Kỳ đã sụp đổ, trật tự hai cực vốn chi phối đời sống chính trị
quốc tế tan rã, những tưởng Hoa Kỳ sẽ nghiễm nhiên dễ dàng trở thành một cực duy
nhất làm bá chủ thế giới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử lại diễn ra không như mong đợi
của người Mỹ, bởi ngay lập tức các trung tâm quyền lực khác đã trỗi dậy mạnh mẽ, tạo
được những vị thế vững chắc đe dọa vị trí độc tơn của Hoa Kỳ. Có thể nói, trong giai
đoạn chuyển tiếp của trật tự thế giới mới thời hậu chiến tranh lạnh đã khiến cho Hoa
Kỳ có thêm nhiều đối thủ. Mặc dù, với tiềm lực của mình, Hoa Kỳ có thể khống chế
và vẫn là đầu tàu trong nhiều vấn đề chung của thế giới, nhưng mặt khác lại bị sức
mạnh tổng hợp của nhiều nước lớn chống trả lại sức ép của Hoa Kỳ trên các vấn đề
khác.


18

Chính vì lẽ đó, thách thức rõ ràng nhất đối với Hoa Kỳ là phải tìm và thực hiện
mọi biện pháp để ngăn không cho bất kỳ một cường quốc nào nổi lên hoặc ngăn không
để các cường quốc này liên kết với nhau chống đối và thách thức vai trò lãnh đạo của
Hoa Kỳ trong tương lai. Đây cũng chính là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu được thể hiện xuyên suốt trong các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
sau này.
Hai là, thách thức đến từ các nước vốn là đồng minh thân cận với Hoa Kỳ như

Nhật Bản và Tây Âu. Sau khi trật tự hai cực tan rã, xu hướng ly tâm trong mối quan hệ
giữa Hoa Kỳ và các đồng minh diễn ra mạnh mẽ. Khi chiêu bài tập hợp lực lượng cùng
chống lại “mối đe dọa từ cộng sản” không cịn, kẻ thù chung khơng cịn, các đồng
minh của Hoa Kỳ dần tách ra khỏi Hoa Kỳ, không muốn bị chi phối bởi Hoa Kỳ như
trước, nhất là trong thời điểm tiềm lực quốc gia của các nước này ngày càng phát triển.
Chính vì vậy, đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn về lợi ích giữa Hoa Kỳ và đồng minh. Mỗi
quốc gia đều có những tính tốn riêng, phục vụ cho lợi ích dân tộc mình. Vấn đề đặt ra
ở đây là Hoa Kỳ phải vừa tìm cách lơi kéo, củng cố mối quan hệ đồng minh, vừa phải
tìm kiếm những biện pháp hợp tác song phương và đa phương khác, bởi trong bối cảnh
cục diện mới, Hoa Kỳ hơn lúc nào hết vẫn phải dựa vào sự ủng hộ của đồng minh và
các mối quan hệ hợp tác song phương, đa phương này để tìm kiếm sự thuận lợi trong
việc thực hiện chiến lược tồn cầu của mình.
Ba là, thách thức đến từ chính bản thân hệ thống chính trị xã hội của Hoa Kỳ chế độ tư bản chủ nghĩa. Mặc dù, sự tan rã của chế độ xã hội của chủ nghĩa ở Liên Xô
và các nước Đơng Âu, trước tiên, theo quan điểm của chính quyền Hoa Kỳ, đó là sự
thắng lợi của chủ nghĩa tư bản trước chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, một thực tế mà Hoa
Kỳ cũng phải dần nhận thấy rằng, về cơ bản, đây chỉ là sự sụp đổ mang tính cá thể–
thể hiện ở một số quốc gia cụ thể - chứ không phải là sự sụp đổ chung của hệ thống xã
hội chủ nghĩa Mac – Lênin trên toàn thế giới. Bằng chứng là các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại đã rút kinh nghiệm từ bài học Liên Xơ, vẫn tồn tại và phát triển. Trong
khi đó, bản thân chế độ Tư bản chủ nghĩa cũng thể hiện đầy đủ những mâu thuẫn nội
tại vốn có của nó và vẫn diễn ra những khủng hoảng mang tính chu kỳ. Các phong trào
đấu tranh đòi nâng cao chất lượng cuộc sống, chống thất nghiệp, tệ nạn xã hội, chống


19

bóc lột của tư bản lũng đoạn diễn ra thường xuyên diễn ra. Do đó, để có thể tiếp tục
tồn tại và phát triển, bản thân chủ nghĩa tư bản, cụ thể là chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ, bắt
buộc phải có những nhượng bộ và điều chỉnh thích hợp để dung hịa các mâu thuẫn,
tránh xung đột lớn thích ứng với tình hình mới.

Mặt khác, trong giai đoạn đối đầu Đông – Tây, mọi cuộc xung đột, đấu tranh
chủ yếu xoay quanh vấn đề ý thức hệ, các mâu thuẫn khác bị kìm nén, thì nay khi mà
mâu thuẫn Đơng – Tây khơng cịn, những giới hạn kìm chế cũng mất đi, đã tạo điều
kiện cho những mâu thuẫn trước đây bùng phát. Các cuộc xung đột cục bộ, xung đột
tơn giáo, sắc tộc có chiều hướng ngày càng gia tăng, sự chênh lệch ngày càng lớn giữa
các nước phát triển và các nước kém phát triển, tình trạng nghèo đói, xã hội lạc hậu,
chính trị rối ren… Những vấn đề này ở một mức độ nào đó điều này đã đe dọa đến an
ninh của Hoa Kỳ, trước hết là sự an tồn của cơng dân Hoa Kỳ trên khắp thế giới. Việc
lãnh đạo một thế giới đầy biến động như vậy, quả thật sẽ gây rất nhiều khó khăn cho
Hoa Kỳ. Như trong diễn văn nhậm chức của mình, chính Tổng thống B.Clinton đã
phải thừa nhận “Ngày nay khi mà trật tự thế giới cũ khơng cịn, thế giới trở nên tự do
hơn nhưng lại kém ổn định hơn. Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ đã khơi gợi lại những sự
hận thù cũ và những nguy hiểm mới. Rõ ràng, chúng ta phải tiếp tục lãnh đạo thế giới
như trước đây chúng ta đã làm” [146].
Bốn là, thách thức đến từ nội bộ chính trị Hoa Kỳ. Trong bối cảnh chính trị mới
thời kì sau chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ trở nên mơ hồ trong việc xác định đối thủ cũng
như những mối hiểm họa mới cho mình. Điều này cùng với những khó khăn về kinh
tế, xã hội trong nước đã làm nảy sinh những thách thức trong nội bộ chính trị Hoa Kỳ,
chủ yếu là những tranh cãi của những nhà lãnh đạo xung quanh hai quan điểm theo
chủ nghĩa biệt lập hoặc chủ nghĩa quốc tế. Hoa Kỳ khơng cịn sự thống nhất rộng rãi
trong nội bộ chính trị về việc xây dựng chiến lược, chính sách trong thời kỳ mới. Cụ
thể những người theo chủ nghĩa biệt lập đã cho rằng chính vì việc Hoa Kỳ đã tham gia
quá nhiều vào công việc của thế giới đã làm cho sức mạnh tổng hợp của Hoa Kỳ bị
suy yếu. Trường phái này kêu gọi Hoa Kỳ cắt giảm lực lượng quân sự cũng như các
chương trình viện trợ nước ngồi để tập trung phát triển kinh tế. Còn những người theo
chủ nghĩa quốc tế thì lại phản bác luận điểm này, họ cho rằng chiến tranh lạnh kết thúc


20


sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho Hoa Kỳ thực hiện chính sách mới hướng về các giá trị
kinh tế thực dụng. Và Hoa Kỳ cần phải nhanh chóng tranh thủ thời cơ này, tiếp tục can
dự sâu hơn vào chính trị quốc tế, khẳng định vị trí và vai trị lãnh đạo của mình trên
trường quốc tế.
Hơn nữa, chiến lược quân sự “ngăn chặn” đã trở nên lỗi thời. Việc xây dựng
một chiến lược quân sự dựa trên một học thuyết quân sự mới phù hợp với sự thay đổi
cán cân lực lượng trên thế giới, nhằm đối phó với những thách thức mới phục vụ hiệu
quả cũng như bảo vệ được các lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ quả thật là một điều
không đơn giản. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, chính phủ Hoa Kỳ ln đứng trước
khó khăn để giải quyết bài tốn làm sao vừa đảm bảo có một quân đội mạnh đủ sức
làm cơ sở cho chiến lược toàn cầu mới mà vừa có thể cắt giảm qn số, giảm thiểu chi
phí quốc phòng để phục hồi và phát triển kinh tế.
Việc B.Clinton thắng cử, xét về một phương diện nào đó, là sự thắng thế của
quan điểm theo trường phái chủ nghĩa quốc tế. Nhấn mạnh việc Hoa Kỳ sẽ tiếp tục
tham gia vào những công việc quốc tế nhưng sẽ nhượng bộ ở một số khía cạnh như cắt
giảm bớt chi phí quốc phịng, bố trí lại lực lượng qn sự trên thế giới, chú trọng vào
mục tiêu phát triển kinh tế, khơi phục hình ảnh và vị thế quốc gia. Tuy nhiên, cần nhấn
mạnh rằng, Hoa Kỳ chỉ bớt ở một mức – độ – nhất – định. Bởi, lợi ích chiến lược của
Hoa Kỳ trong thời kì mới vẫn là giữ vững vị trí lãnh đạo thế giới, truyền bá dân chủ, tự
do và các giá trị Mỹ ra khắp thế giới, giúp đỡ các nước tìm kiếm “dân chủ”. Để thực
hiện được mục tiêu này, chỗ dựa vững chắc nhất vẫn là sức mạnh quân sự. Tổng thống
B.Clinton đã khẳng định “An ninh của chúng ta vẫn tiếp tục phụ thuộc vào việc chúng
ta tiếp tục lãnh đạo thế giới cho hịa bình, tự do và dân chủ. Chúng ta chỉ có thể vững
mạnh trong nước nếu chúng ta vững mạnh ở nước ngồi.” [159]
Có thể nói, việc đấu tranh và dung hòa giữa các quan điểm trên sẽ tác động
nhiều đến việc hoạch định chính sách của Hoa Kỳ nói chung và đối với khu vực Đơng
Nam Á nói riêng.
Năm là, đây cũng là thách thức quan trọng nhất tác động sâu sắc đến việc hoạch
định chính sách của Hoa Kỳ, chính là những khó khăn về kinh tế mà Hoa Kỳ phải
gánh chịu trong suốt những năm chạy đua với Liên Xô. Trong cuộc chạy đua vũ trang,



21

Hoa Kỳ đã đổ rất nhiều tiền của tập trung cho lĩnh vực quân sự, buông lỏng việc phát
triển các lĩnh vực khác như kinh tế hay khoa học kĩ thuật. Trong thập kỷ 80, cuộc chạy
đua vũ trang của chính quyền Reagan đã hơn 3 nghìn tỷ USD [16,tr.35] khiến nền tài
chính của Hoa Kỳ vấp phải nhưng khó khăn nghiêm trọng. Bên cạnh đó, các nền kinh
tế Nhật Bản, Tây Âu lại ngày càng hồi phục và phát triển mạnh mẽ. Sự lớn mạnh của
các nền kinh tế này đã dần thu hẹp lại thị phần của các công ty Hoa Kỳ trên thế giới.
Tuy vẫn là cường quốc kinh tế sau chiến tranh lạnh nhưng sức mạnh tổng hợp của Hoa
Kỳ đã giảm một cách rõ rệt. Nếu năm 1980, Hoa Kỳ chiếm 50% GDP của thế giới, thì
đến năm 1992, chỉ cịn xấp xỉ 24%. Tốc độ tăng trưởng giảm liên tục, năm 1940
(4,7%), năm 1950 (3,9%), năm 1960 (2,9%), năm 1980 (0.9%). Năm 1989 thâm hụt
thương mại của Hoa Kỳ lên tới 108 tỷ USD, thâm hụt ngân sách liên bang là 152 tỷ
USD; năm 1992 tổng các khoản nợ liên bang đã vượt quá 4 nghìn tỷ USD. Mức sống
của người dân khơng được cải thiện kể từ năm 1973 [41,tr.36]. Bên cạnh đó, nợ Nhà
nước cũng thực sự trở thành vấn đề nóng bỏng, đỉnh điểm là vào cuối năm 1995, do
khủng hoảng ngân sách, Hoa Kỳ phải cho nghỉ việc 280.000 nhân viên, nhiều cơ quan
chính phủ phải đóng cửa trong nhiều tuần, nhiều cuộc biểu tình phản đối cơ quan
chính quyền đã xuất hiện. Có thể nói, trong giai đoạn khi B.Clinton lên nắm chính
quyền thì những vấn đề như khủng hoảng cơ cấu kinh tế, thâm hụt ngân sách, nợ Nhà
nước, thất nghiệp…đã thật sự khiến cho chính quyền phải lo lắng. Nghiêm trọng hơn
cả, những khó khăn này trở thành những nhân tố gây nên sự khủng hoảng niềm tin vào
vị trí siêu cường kinh tế của Hoa Kỳ trong đại bộ phận dân chúng Hoa Kỳ cũng như
trên thế giới. Ngay trong Thông điệp Liên bang ngày 25/1/1994, Tổng thổng B.Clinton
đã thừa nhận “Trong 30 năm qua, đời sống của người dân đã suy sụp. Trong 20 năm
qua, tiền lương của người lao động đã bị trì trệ hoặc suy giảm. Trong 12 năm của nền
kinh tế chảy nhỏ giọt, chúng ta đã xây dựng một sự thịnh vượng giả tạo trên cơ sở rỗng
như nợ quốc gia của chúng ta đã tăng gấp 4 lần. Từ năm 1982 đến 1992, chúng ta đã

trải qua sự tăng trưởng chậm nhất trong nửa thế kỷ. Đối với nhiều gia đình, ngay cả
khi bố mẹ đều đang lao động thì giấc mơ Mỹ cũng đã biến mất.” [158]
Tóm lại, sau chiến tranh lạnh với sự thay đổi của cục diện thế giới mới, tương
quan sức mạnh của Hoa Kỳ, sự gia tăng ảnh hưởng của Đông Á (đặc biệt là Trung


22

Quốc, Nhật Bản) cũng như việc tồn tại những điểm nóng ở khu vực này đe dọa trực
tiếp tới lợi ích của Hoa Kỳ, đã tác động trực tiếp tới sự điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ. Theo đó, chính quyền Washington chú trọng nhiều đến yếu tố kinh tế hơn
là khía cạnh quân sự. Trong giai đoạn này, trọng tâm chiến lược của Hoa Kỳ đã có sự
chuyển dịch từ Châu Âu sang Châu Á, trong đó khu vực Đông Nam Á cũng ngày càng
được Hoa Kỳ quan tâm khơng chỉ bởi nó là một bộ phận quan trọng trong chính sách
Châu Á – Thái Bình Dương mà cịn vì những biểu hiện lợi ích của Hoa Kỳ ngày càng
gia tăng ở khu vực này.

1.2

ĐÔNG NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ SAU
CHIẾN TRANH LẠNH (1989-2000)
1.2.1 Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh (1989 – 2000)
Nhìn chung, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, cục diện chính trị ở Đơng Nam Á

đã có những thay đổi rõ rệt với những đặc thù riêng thu hút sự quan tâm đối với Hoa
Kỳ.
Về phương diện địa chiến lược, Đơng Nam Á có diện tích 4.500.000 km2 với
dân số khoảng 500 triệu người (vào thập niên 90) [103,tr.26]. Đông Nam Á là một bộ
phận của vành đai khống sản Thái Bình Dương, giàu tài ngun thiên nhiên có nguồn
nơng lâm sản phong phú, vốn được xem là vựa lúa của thế giới với các nước có truyền

thống xuất khẩu lúa gạo như Thái Lan, Việt Nam, Myamar, Campuchia, có nguồn lao
động rẻ và dồi dào. Hơn nữa, Đơng Nam Á cịn là cầu nối giữa hai lục địa Á – Âu với
lục địa Australia, giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Mặc dù khu vực này đều là
những quốc gia vừa hoặc nhỏ, nhưng đây là khu vực chiến lược có quan hệ về lợi ích
với tất cả các cường quốc trên thế giới. Chính vì lẽ đó, từ lâu Đơng Nam Á đã trở
thành địa bàn giành giật ảnh hưởng của nhiều cường quốc, lẽ dĩ nhiên Hoa Kỳ cũng
không là ngoại lệ. Tuy nhiên, không phải lúc nào Hoa Kỳ cũng coi trọng và có một
chính sách nhất qn với khu vực này.
Về phương diện chính trị – an ninh, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, chiến
lược ngăn chặn cộng sản về cơ bản khơng cịn là vấn đề thiết yếu với Hoa Kỳ nữa.


23

Việc Liên Xô sụp đổ và Hoa Kỳ rút khỏi các căn cứ quân sự cuối cùng của mình ở
Subic và Clark (Philippines) vào năm 1992 đã tạo ra “khoảng trống quyền lực” ở khu
vực Đông Nam Á. Đây là thời điểm vô cùng thuận lợi để Trung Quốc và Nhật Bản
nhảy vào cạnh tranh với nhau nhằm ý định “lấp khoảng trống quyền lực” tại khu vực
này. Bên cạnh đó, đây cũng là nơi chứa đựng nhiều tranh chấp phức tạp về mặt lịch sử
giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực. Có thể nói, tiềm năng để bùng phát thành
những xung đột ở Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh vẫn là rất lớn. Đứng trước những
thách thức an ninh phức tạp như vậy, các nước Đông Nam Á không tránh khỏi lo ngại.
Hơn nữa, khu vực này vẫn chưa có một cơ chế an ninh được thể chế hóa nhằm giải
quyết xung đột khi nó xảy ra. Vì vậy, để đối phó với những bất ổn an ninh thời kỳ sau
chiến tranh lạnh, đặc biệt là để không bị chi phối bởi sự cạnh tranh của các nước lớn
bên ngồi vào khu vực, các nước Đơng Nam Á đã tiến hành mua sắm vũ khí, đầu tư
lực lượng vũ trang…Động thái này đã khiến cho Đông Nam Á là một trong số ít khu
vực trên thế giới đi ngược lại xu hướng giải trừ quân bị, giảm chi tiêu quốc phòng sau
chiến tranh lạnh.
Song song với việc gia tăng sức mạnh quân sự, các nước Đông Nam Á cũng

hòa vào xu thế chung của thế giới giai đoạn hậu chiến tranh lạnh, đó là đẩy mạnh sự
hợp tác và đối thoại về an ninh. Đồng thời, các nước Đông Nam Á nhận thấy rằng, cần
phải liên kết với nhau, tìm thế đối trọng trên trường quốc tế, chống lại ảnh hưởng của
các nước lớn. Ở Đông Nam Á, tuy vẫn tồn tại nhiều yếu tố tiềm ẩn xung đột nhưng
tình hình an ninh, chính trị nhìn chung lại được cải thiện, đặc biệt khi “vấn đề
Campuchia” – vốn được xem như ngòi nổ chiến tranh ở khu vực – được tháo gỡ, Đông
Nam Á trở thành khu vực hịa bình, ổn định, mối quan hệ giữa các thành viên được
củng cố. Sự cải thiện quan hệ của các nước lớn trên thế giới khơng chỉ góp phần vào
việc phá bỏ rào cản vơ hình giữa các nước trong khu vực mà cịn thúc đẩy bình thường
hóa, cải thiện mối quan hệ của bản thân các nước trong khu vực với các nước bên
ngoài. Việt Nam, Indonesia, Brunay, Singapore bình thường hóa quan hệ ngoại giao
với Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ được cải thiện và bình thường hóa hồn
tồn.


×