Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

ren luyen ki nang lam bai van nghi luan xa hoi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.54 KB, 23 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>A.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI</b>


Nhà trường phổ thông của chúng ta từ nhiều năm nay đã chú ý dạy
cho học sinh cách sử dụng đúng các từ và viết đúng các câu. Việc làm này
đã thu được kết quả nhất định. Học sinh của chúng ta viết được nhiều
câu đúng và khơng ít câu hay.


Tuy viết được nhiều câu đúng về cấu trúc ngữ pháp và cả những câu
văn hay nhưng học sinh vẫn không viết được những đoạn văn hay hoặc bài
văn tốt. Thông qua kinh nghiệm giảng dạy hàng năm, tơi thấy rằng: Có
nhiều học sinh khi đặt câu theo mơ hình ngữ pháp, viết những câu rời, các
em đều đặt được và viết đúng, nhưng chính những em đó khi làm một bài
văn, mặc dù những câu trong bài viết khơng sai nhưng nhìn chung cả bài


hoặc từng đoạn văn thiếu sự gắn bó hữu cơ, bài văn chỉ là tập hợp của những
câu đúng.


Tập làm văn là một mơn học mang tính chất thực hành tổng hợp giữa
các phân môn tiếng việt với phân mơn văn học của chương trình ngữ
văn.


Khi làm một bài tập làm văn, học sinh phải huy động tổng hợp kiến
thức tiếng việt để viết đúng chính tả, dùng từ chính xác, đặt câu đúng ngữ
pháp phù hợp với phong cách văn bản và diễn đạt mạch lạc nhằm đạt được
yêu cầu của đề bài. Ngoài những kiến thức và kĩ năng ngữ văn, khi làm bài
tập làm văn, học sinh còn phải huy động năng lực quan sát, trí nhớ, vốn sống


và khả năng tư duy của mình để nội dung bài làm có được những nét tinh tế,
những vẻ sinh động và một phong cách riêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

có nhiều đổi mới so với chương trình chỉnh lí 1995. Với quan điểm chú
trọng tới việc rèn luyện, nâng cao kĩ năng thực hành tạo lập văn bản nói và
viết, phân môn tập làm văn đã xây dựng nội dung theo cấu trúc đồng tâm, có
lăp lại (nâng cao) ở các lớp khác nhau. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho
các em trong việc nâng cao khả năng nhận thức và kĩ năng, kĩ xảo thực hành
tạo lập các kiểu văn bản.


Mỗi bài tập làm văn có thể coi là một “tác phẩm nhỏ” của học sinh.
Tác phẩm ấy phản ánh khá rõ ràng nhận thức tình cảm của học sinh đối với


vấn đề văn học và cuộc sống. Nó cũng phản ánh khá rõ năng lực và tư duy,
trình độ ngơn ngữ và một phần cá tính của học sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

đường” để các em tự học. Cần có trách nhiệm rèn cho các em có thói quen
vận động trí óc khi gặp một vấn đề cần tư duy. Cần rèn cho học sinh có được
những kĩ năng kĩ xảo khi làm bài.


Qua nhiều năm thử nghiệm tôi nhận thấy rằng: Để làm tốt một bài văn
việc đầu tiên các em cần hiểu rõ đặc trưng của từng phương thức biểu đạt,
trên cơ sở đó các em phải thiết lập được dàn ý của bài viết. Nếu chúng ta
định hướng cho học sinh làm những yêu cầu trên thì có lẽ các em sẽ tự tin
trong khi viết bài. Tôi đã thực hiện và thu được một số kết quả đáng kể, sau


đây là một vài kinh nghiệm nhỏ, tôi muốn cùng trao đổi với tất cả các anh
chị đồng nghiệp, với những người đã từng trăn trở trước những bài viết của
học sinh. Rất mong sự đồng cảm, sẻ chia và trao đổi .


<b>B. PHẠM VI ĐỀ TÀI</b>


- Trong chương trình ngữ văn THCS các em được làm quen với 6
phương thức biểu đạt ( Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận
, hành chính – cơng vụ). Đối với kiểu bài: tự sự, miêu tả, biểu cảm phần nào
các em vẫn thể hiện được cảm xúc của mình qua bài viết, nhưng để đánh
giá, nhận định một vấn đề trong xã hội, trong cuộc sống thì khá nhiều em
cịn lúng túng. Bởi nghị luận xã hội là một lĩnh vực rất rộng: Từ bàn bạc


những sự việc, hiện tượng trong đời sống đến luận bàn những vấn đề chính
trị, chính sách, từ những vấn đề đạo đức, lối sống đến những vấn đề có tầm
chiến lược, những vấn đề tư tưởng triết lí…Trong phạm vi tập làm văn ở
nhà trường bậc THCS, học sinh được làm quen kiểu bài văn nghị luận xã hội
ở mức độ thấp:


Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống và nghị luận về một vấn đề tư
tưởng đạo lí.


Trong cấu trúc chương trình sách giáo khoa Ngữ văn có các tiết:
+ Tiết 99: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

+ Tiết 108: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí.


+ Tiết 112: Cách làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
- Trong khn khổ bài viết có hạn tơi chỉ dừng lại giới thiệu và minh họa
cách tổ chức rèn cho học sinh kĩ năng viết một bài nghị luận xã hội. Đề tài
này có thể vận dụng trong những tiết học thuộc cấu trúc chương trình của Bộ
hoặc dạy vào tiết chủ đề tự chọn môn tập làm văn.


<b>C. VẤN ĐỀ ĐỀ CẬP TRONG ĐỀ TÀI</b>
- Giới thiệu khái quát về thể văn nghị luận


- Cách làm bài văn nghị luận



- Minh họa bằng những đề văn cụ thể


<b>D. NỘI DUNG ĐỀ TÀI</b>
<b> I/ Khái quát về văn nghị luận</b>


1.Văn nghị luận được ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa văn nghị luận có từ
thời Khổng Tử. Ở nước ta văn nghị luận cũng là một thể loại có truyền
thống lâu đời, nó có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong trường kì lịch sử
của cơng cuộc dựng nước và giữ nước. Tác phẩm “Chiếu dời đô” (1010) của
Lí Cơng Uẩn, “Cáo bình Ngơ” (1428) của Nguyễn Trãi, “Chiếu cầu hiền”
(1788) của Nguyễn Trường Tộ,“Hịch tướng sĩ” (1825) của Trần Quốc Tuấn


...và đặc biệt thế kỉ XX, văn nghị luận phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Hàng loạt tên tuổi các nhà chính luận xuất sắc với những áng văn nghị luận
bất hủ mà tiêu biểu nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh với “Tun ngơn độc lập”
(1945) và với biết bao nhà văn viết nghị luận nổi tiếng sau này: Hoài Thanh,
Xuân Diệu, Đặng Thai Mai...


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nêu khái niệm về văn nghị luận: Văn nghị luận là loại văn trong đó người
viết (người nói) đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thơng
qua cách thức bàn luận thuyết phục được người nghe.


Ví dụ: Hãy thử so sánh hai đoạn văn sau đây:



Đoạn 1: “Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao
du thú vị ấy, khơng kể sức khoẻ được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ.
Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ
màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại ln ln
<i>vui vẻ, khoan khối và hài lịng với tất cả...” ( trích Đi bộ ngao du - Ru-xô)</i>
Đoạn 2: “... Nắng bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây. Những cây
thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái
nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà
lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn
trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe...”
<i>(trích Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long). </i>



Ở đoạn văn 1 là đoạn văn nghị luận, tác giả dùng lí lẽ và dẫn chứng để
nêu bật vai trò và tác dụng của việc đi bộ ngao du. Ở đoạn văn 2 là đoạn văn
miêu tả, tác giả đã dùng những từ ngữ gợi cảm, phép nghệ thuật tu từ để
miêu tả vẻ đẹp hết sức lãng mạn ở Sa Pa - xứ sở của những rặng đào.
<b> 2. Đặc tr ư ng của văn nghị luận :</b>


2.1/ Văn nghị luận được xây dựng trên cơ sở của tư duy lơgíc. Nhiệm
vụ của bài văn nghị luận là phát biểu dưới hình thức các luận điểm. Luận
điểm là linh hồn của bài viết. Luận điểm đúng đắn, chân thực, đáp ứng nhu
cầu thực tế thì mới có sức thuyết phục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

luận thì tính logíc bị phá vỡ.



2.3/ Sức thuyết phục của một bài văn nghị luận trước hết toát ra từ
một nội dung tư tưởng sâu sắc, từ hệ thống lí lẽ và luận chứng phong phú,
xác đáng. Nhưng nếu nội dung sâu sắc, phong phú mà kết cấu không chặt
chẽ, trình bày khơng rạch rịi gãy gọn, giữa các ý khơng có mối quan hệ
lơgíc thì sức thuyết phục cũng bị giảm. Sự chính xác mạch lạc trong suy luận
phải được thể hiện qua sự khúc chiết, chặt chẽ nhất quán, liên tục trong trình
bày.


<b> 3. Một số dạng thức nghị luận trong ch ươ ng trình làm văn THCS :</b>
- Căn cứ vào nơi dung nghị luận thì văn nghị luận được chia làm 2 loại:
3.1/ Nghị luận xã hội:



+ Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống: Trình bày quan
điểm, suy nghĩ, thái độ (khẳng định hay phủ định, biểu dương hay phê phán)
về một sự việc nào đó xảy ra trong đời sống (gia đình, học đường, xã hội...)
* Ví dụ:


- Suy nghĩ của em về tình trạng thanh thiếu niên ham mê trò chơi điện
tử.


- Một tấm gương vượt khó trong học tập.
- Vấn đề bảo vệ môi trường.



- Cảm nhận của em về cách ăn mặc của một số bạn ở tuổi mới lớn.
+ Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí: Trình bày suy nghĩ,
thái độ về một quan niệm tư tưởng, đạo lí, lối sống, văn hố... định hình
trong cuộc sống con người. Những quan niệm đó thường thể hiện dưới hình
thức một ý kiếnn một nhận định, một đánh giá... có tính chất khun răn (tục
ngữ, ca dao, danh ngơn, nhận định...mang tính chân lí)


* Ví dụ:


- Nghị luận về đạo lí “Tơn sư trọng đạo”, “Uống nước nhớ nguồn”,
“u nước thương nòi”



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

- Ý nghĩa của tình yêu thương.
- Đức tính khiêm nhường.


<i> - Suy nghĩ của em từ câu ca dao: Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa</i>
<i>mẹ nư nước trong nguồn chảy ra.</i>


<i> 3.2/ Nghị luận văn học: Trình bày những nhận xét, đánh giá thông </i>
qua việc cảm nhận, phân tích nhân vật văn học. Những ý kiến nhận xét xuất
phát từ cách xây dựng hình tượng nhân vật của tác giả ( ngoại hình, tính
cách, hành động...) hoặc những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm.



* Ví dụ:


- Vẻ đẹp và bi kịch của người phụ nữ trong văn học trung đại.
- Vẻ đẹp của người lính bộ đội cụ Hồ qua ba thời kì (chống Pháp,
<i> chống Mĩ, thời hồ binh) qua ba bài thơ: Đồng chí - Chính Hữu, Bài thơ về </i>
<i>tiểu đội xe khơng kính - Phạm Tiến Duật, Ánh trăng - Nguyễn Duy.</i>


<i> - Chiếc lược ngà - Bi kịch về chiến tranh hay bài ca về tình phụ tử.</i>
<i> - Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải.</i>


<b>II/ Cách làm một bài văn nghị luận xã hội: </b>



- Dường như khi giáo viên hỏi học sinh về lí thuyết các bước khi làm
một bài văn nói chung và một bài nghị luận xã hội nói riêng các em đều
định hình được: 4 bước (1/Tìm hiểu đề và tìm ý ; 2/ Lập dàn ý; 3/ Viết bài ;
4/ Đọc lại bài viết và sửa chữa) nhưng thực chất khi tiếp cận một đề tập làm
văn đa phần là các em khơng tn thủ các bước nói trên mà cố lắm thì tìm
một vài ý cơ bản sau đó nháp phần mở bài rồi cắm cúi viết đến khi trống
đánh hết giờ nộp bài. Chính vì vậy cho nên có những bài viết sa đà, lạc đề,
diễn đạt lủng củng theo kiểu nghĩ gì viết nấy, khơng trau chuốt khơng gọt
dũa…Trước thực trạng đó, tơi thường dành nhiều thời gian kiểm tra và rèn
cho các em với những nội dung sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

nhận xét, trình bày trước lớp. Phần đa các em trình bày khơng đầy đủ hoặc


phân tích đề rất sơ sài. Thậm chí có em khơng lập được dàn ý chi tiết. Có em
trao đổi với tơi rằng : Em viết một bài viết thấy dễ hơn nhiều khi phải lập
một dàn ý, mặc dù chỉ gạch đầu dòng để xác định ý. Điều đó hồn tồn
khơng sai, bởi các em chưa có thói quen lập dàn ý. Qua việc kiểm tra hs tôi
vận dụng tiết chủ đề tự chọn để hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề và lập dàn ý
và tôi đã thực hiện như sau:


<b> 1/ Phân tích đề và tìm ý</b>


1.1 Phân tích cho học sinh thấy tầm quan trọng của khâu phân tích đề:
+ Mỗi đề văn nghị luận thường có những đặc điểm riêng về hình
thức và nội dung, khơng đề nào hồn tồn giống đề nào cho nên không thể


sao chép bài làm thuộc đề này sang bài làm thuộc đề khác. Vì vậy trong quá
trình làm bài văn nghị luận việc xác định yêu cầu của đề là cơng việc cần
thiết. Tìm hiểu kĩ đề sẽ tránh được tình trạng lạc đề, thừa ý, thiếu ý…trong
bài làm. Đề văn có nhiều dạng thức khác nhau tuy nhiên căn cứ vào nội
dung và hình thức cấu tạo ta nhận thấy có những dạng đề sau:


<b>- Đề trực tiếp : Có kết cấu rạch ròi, đầy đủ gồm 2 bộ phận. Bộ </b>
phận A chứa đựng dữ kiện (tiền đề). Bộ phận B chứa đựng điều đề bài yêu
cầu, bộ phận này thường được diễn đạt dưới dạng một câu cầu khiến (hãy
phân tích; hãy chứng minh; Em hiểu thế nào? Cảm nhận của em)


- Đề tự do (đề mở): Là những đề bài khơng có quy định một cách


cụ thể, chặt chẽ các yêu cầu về nội dung và hình thức cũng như phương
hướng cách thức, mức độ phạm vi giải quyết. Do đó về mặt kết cấu, những
đề này có đặc điểm là trong bộ phận A thường khơng có trích văn, bộ phận
B các u cầu nêu lên không đầy đủ . Tất cả tùy thuộc vào vốn hiểu biết và
trình độ nhận thức của người làm bài.


<b> * CÁC BƯỚC TÌM HIỂU ĐỀ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

phương hướng giải quyết vấn đề do đề bài nêu lên.


<b> b/ Bước 2: Phân tích, xác định yêu cầu về nội dung và hình thức </b>
nghị luận.



- Nhận diện xem đề thuộc loại hình nào? ( Đề ttrực tiếp hay đề tự
do). Phân tích đâu là dự kiện cho trước (những tiền đề của tình huống có vấn
đề - bộ phận A). Sau đó tìm hiểu những u cầu về nội dung và hình thức,
phương hướng, cách thức, giới hạn giải quyết vấn đề (bộ phận B)


- Phải tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa của những từ ngữ quan trọng, vai trò
của các vế, các câu, phân tích quan hệ ngữ pháp và quan hệ lơgíc – ngữ
nghĩa của chúng. Bắt đầu từ sự phân tích ý nghĩa trực tiếp của câu, chú trọng
lời văn trích (nếu có), tập trung chú ý vào những từ ngữ đầu mối then chốt
và ngăn tách các vế trong câu văn để dễ phân biệt. Phải nghiền ngẫm, cố
phát hiện cho hết ý nghĩa của các từ, (nghĩa đen và nghĩa bóng)



<b> Ví dụ minh hoạ:</b>


<i> Đề 1/ Tục ngữ có câu: Đi một ngày đàng, học một sàng khơn. Nhưng có</i>
<i> bạn nói: Nếu khơng có ý thức học tập thì chắc gì đã có sàng khôn nào. Hãy</i>
chứng minh rằng câu tục ngữ và ý kiến của bạn em đều có khía cạnh đúng.
- Nhận diện đề: Đề trực tiếp.


- Kiểu bài: Nghị luận xã hội


<i> - Gạch chân các dữ kiện. Đi một ngày đàng, học một sàng khơn </i>
<i> khơng có ý thức học tập thì chắc gì đã có sàng khơn nào. Đề đặt ra những </i>


vấn đề gì cần giải quyết? (đi – học) nghĩa đen, nghĩa bóng


- Thao tác nghị luận : Chứng minh (Câu tục ngữ và ý kiến của bạn em
đều có khía cạnh đúng), và sử dụng lập luận giải thích để làm sáng tỏ vấn
đề.


- Nguồn tư liệu để dẫn chứng: Thực tế cuộc sống, tấm gươngsáng
qua sách vở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

- Nhận diện đề: Đề trực tiếp.
- Kiểu bài: Nghị luận xã hội



<i> - Gạch chân các dữ kiện. Tri thức sức mạnh . Đề đặt ra những vấn đề</i>
gì cần giải quyết? (có tri thức, có sức mạnh)


- Thao tác nghị luận : Giải thích, chứng minh
- Dẫn chứng: Thực tế cuộc sống.


<i><b> Đề 3: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới” (M. Gorki)</b></i>
- Nhận diện đề: Đề tự do


- Gạch chân các dữ kiện.


- Thao tác nghị luận : Giải thích, Chứng minh



- Nguồn tư liệu để dẫn chứng: Thực tế cuộc sống, việc thực, người
thực được lưu lại qua sách vở


<b> 1.2/ Tìm ý</b>


- Để lập ý cho bài văn nghị luận ta có thể dựa vào các căn cứ sau:
a/ Về nội dung, đề bài bao giờ cũng chỉ rõ vấn đề cần nghị luận là
gì, từ đó giúp ta xác định được phương hướng lập ý. Chú ý giải thích nghĩa
đen và nghĩa bóng.


b/ Xác định luận điểm. Luận điểm chính là linh hồn của bài văn


nghị luận. Luận điểm thể hiện rõ quan điểm, chủ trương đánh giá của người
viết. Luận điểm của bài văn được thể hiện dưới hình thức những câu văn
ngắn gọn, là những phán đốn có tính chất khẳng định hoặc phủ định.
c/ Mở rộng vấn đề. (Bàn luận dựa trên cơ sở lập trường đạo đức
cách mạng)


* Ví dụ minh họa:


Đề 1: Lập ý cho đề bài văn nghị luận sau: Nhà triết học người Anh
<i>Phơrăngxit Bêcơn có nói: Tri thức là sức mạnh. Em hiểu câu nói đó như thế </i>
nào?



* Tìm ý:


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

- Luận điểm 1: Tìm hiểu tri thức là gì, tại sao tại sao tri thức là sức
mạnh.


- Luận điểm 2: Con người ta khi chưa có tri thức và khơng có tri
thức thì tình trạng như thế nào? Khi có tri thức rồi thì trở thành con người
như thế nào?


- Luận điểm 3: Câu nói đặt ra nhiệm vụ gì?


+ Đối với bài văn nghị luận, khi tìm ý chúng ta phải biết cách đặt câu


hỏi và biết cách trả lời câu hỏi. Mỗi kiểu bài địi hỏi cách đặt câu hỏi thích
hợp để tìm ý đúng với yêu cầu của thể loại. Việc vận dụng câu hỏi phải hết
sức linh hoạt và đúng với từng kiểu bài.


<b> 2/ Lập dàn ý</b>


<b> 2.1/ Mục đích của việc lập dàn ý</b>


Gơt-tơ, nhà văn nổi tiếng của Đức quả quyết: Tất cả đều lệ thuộc vào bố
cục. Cịn Đơt-tơi-ep-xki, nhà văn Nga của thế kỉ XX ước ao: Nếu tìm được
một bản bố cục đạt thì cơng việc sẽ nhanh như trượt trên băng. Ix-pen, một
nhà văn của Thuỵ Điển đã để hẳn một năm lao động xây dựng bố cục cho


bản trường ca và ơng đã hồn thành bản trường ca đó trong ba tháng. Thật
vậy, để làm một dàn ý tốt khơng phải dễ. Muốn có một dàn ý tốt thì ngồi
việc nghiên cứu kĩ đề để lĩnh hội u cầu của đề cịn phải có thói quen bố trí
cho khoa học. Có nhiều học sinh cho rằng: Thời gian làm bài rất hạn chế, chỉ
90 phút nếu cịn phải lập dàn ý thì lãng phí mất khoảng thời gian q báu!
Sự thật khơng phải như vậy. Dàn ý là nội dung sơ lược của bài văn. Nói cách
khác, đó là những hệ thống suy nghĩ, tìm tịi, nhận xét, đánh giá của học sinh
dựa trên yêu cầu cụ thể của đề bài. Lập dàn ý trước khi viết bài có những cái
lợi sau:


- Nhìn được một cách bao quát toàn cục nội dung chủ yếu mà bài làm cần
đạt được, đồng thời thấy được mức độ giải quyết vấn đề sẽ nghị luận và đáp


ứng những yêu cầu đề bài đặt ra, tránh bài làm xa lệch trọng tâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

những ý quan trọng hoặc tránh những ý thừa.


- Khi có dàn ý cụ thể người viết chủ động phân chia thời gian cho hợp lí.
Tránh tình trạng bài làm mất cân đối “đầu voi đuôi chuột”.


<b> 2.2/ Cấu trúc của một dàn ý bài nghị luận xã hội</b>
<b> a/ Mở bài: </b>


- Dẫn dắt vấn đề: Có nhiều cách, có thể nêu trực tiếp vấn đề, hoặc
nêu hoàn cảnh (xã hội, lịch sử...) của vấn đề xuất hiện. Cũng có lúc sử dụng


cách so sánh, nghi vấn hoặc tương phản.


- Nêu vấn đề: Trích dẫn câu văn, câu thơ, câu tục ngữ, câu danh
ngôn...được trích dẫn trong đề bài.


<b> b/ Thân bài : </b>


* Đối với kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
thơng thường có 4 ý cơ bản


- Thực trạng của vấn đề cần nghị luận.



- Nguyên nhân dẫn đến thực trạng xã hội ấy.
- Hậu quả hoặc kết quả của vấn đề xã hội đó.


- Biện pháp khắc phục hoặc giải pháp cho sự phát triển xã hội.
* Đối với kiểu bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí:
- Giải thích ngắn gọn luận đề


- Chứng minh (giải thích, bình luận) từng luận điểm theo mơ hình
sau:


(I) Luận điểm 1.



(1) Luận cứ 1: Lập luận, dẫn dắt đưa ra các dẫn chứng
+Dẫn chứng 1, dẫn chứng 2..


+ Phân tích dẫn chứng, tóm tắt và chuyển ý.


(2) Luận cứ 2: Lập luận, dẫn dắt đưa ra các dẫn chứng
+Dẫn chứng 1, dẫn chứng 2..


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

(1) Luận cứ 1: Lập luận, dẫn dắt đưa ra các dẫn chứng
+Dẫn chứng 1, dẫn chứng 2..


+ Phân tích dẫn chứng, tóm tắt và chuyển ý.



(2) Luận cứ 2: Lập luận, dẫn dắt đưa ra các dẫn chứng
+Dẫn chứng 1, dẫn chứng 2…


(…) + Phân tích dẫn chứng, tóm tắt và chuyển ý...


(III) Mở rộng vấn đề: Tổng hợp vấn đề đã chứng minh (giải thích,
bình luận), nhấn mạnh tính chặt chẽ khơng thể bác bỏ được.


<b> c/ Kết bài: Nêu lên suy nghĩ, quan điểm khái quát của mình về vấn đề </b>
cần nghị luận, rút ra bài học cho bản thân.



Ví dụ minh họa:


<i><b> * Đề 3: Lập dàn ý cho đề bài sau: “Sách mở ra trước mắt tôi những </b></i>
<i><b>chân trời mới” (M. Gorki)</b></i>


a/ Mở bài:


- Giới thiệu khái quát vai trò và tác dụng của sách trong đời sống.
- Trích dẫn câu nói của M. Gorki


b/ Thân bài:
+ Luận điểm 1



- Giải thích ý nghĩa của câu nói;


Về kinh nghiệm sản xuất
* Sách là gì? - Là kho tàng trí thức Về đời sống con người
Về thế giới tự nhiên


Sản phẩm của văn minh nhân loại
- Là sản phẩm tinh thần Kết quả của lao động trí tuệ
Giúp ta hiểu biết lẽ phải
- Là người bạn tâm tình gần gũi Làm cho cuộc sống tinh
thần phong phú.



+ Luận điểm 2: Sách mở rộng những chân trời mới


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Về khoa học tự nhiên
+ Luận điểm 3: Vì sao ta cần phải đọc sách?


- Đọc sách có nội dung tốt: Góp phần nâng cao hiểu biết, khám phá
chính bản thân, chắp cánh cánh ước mơ khát vọng và sáng tạo. Sách chia sẻ
với chúng ta mọi kiến thức. Sách dạy ta cảm nhận cuộc đời.


- Đọc sách có nội dung khơng lành mạnh: Hiểu sai sự thật, nhìn nhận
vấn đề lệch lạc, tự hạ thấp nhân cách.



<i> + Luận điểm 4: Phải làm gì để thơng qua sách có thể mở được chân </i>
<i>trời mới? </i>


- Tạo thói quen và duy trì hứng thú đọc sách.


- Cần chọn sách tốt có giá trị khoa học và nhân văn.


- Phê phán và lên án những sách có nôi dung không lành mạnh.
c/ Kết bài: Khẳng định ý nghĩa của việc đọc sách.


<b> 3/Viết bài:</b>



+ Sau khi lập dàn ý xong các em đựa vào dàn ý để viết bài. Khi viết bài
văn nghị luận cần lưu ý:


- Sử dụng hệ thống luận cứ và luận chứng sát hợp và thực tế.
- Sử dụng các phương tiện liên kết lập luận.


- Kĩ năng trình bày luận chứng, nêu luận chứng phải kèm dẫn giải, bình
luận, phân tích.


a/ Viết phần mở bài:



+ Vị trí và vai trị của phần mở bài: M. Gorki đã từng nói: Khó hơn
cả là phần mở bài, cụ thể là câu đầu. Cũng như âm nhạc, nó chi phối giọng
điệu của cả tác phẩm, và người ta thường tìm nó rất lâu. Phần mở bài có vị
trí quan trọng vì:


- Nó là phần đầu tiên, phần trước nhất đến với người đọc, gây cho
người đọc cảm giác, ấn tượng ban đầu về bài viết, tạo ra âm hưởng chung
cho toàn văn bản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

thường báo hiệu một nội dung tốt.


+ Chức năng của phần mở bài: Nó phản ánh được yêu cầu cơ bản của


đề bài. Nó giới thiệu nêu vấn đề trung tâm mà bài nghị luận đề cập và giải
quyết, nó xác định phương hướng, phạm vi, mức độ giải quyết vấn đề.
+ Yêu cầu về nội dung của phần mở bài:


- Đưa ra được tiền đề, dữ kiện địi hỏi phải có lời giải đáp (trong
phần thân bài). Đối với đề bài có yêu cầu phê phán, không nên để lộ thiên
hướng của người viết (tức là không để lộ điều khẳng định) bài viết sẽ kém
sức thuyết phục.


- Cấu tạo của phần mở bài ở dạng đầy đủ


Dẫn vào đề: Nêu xuất xứ của đề, của một ý kiến, một nhận


định… có thể bắt đầu bằng một sự kiện đặc sắc, một hình tượng hấp dẫn,
một thơn báo thú vị để kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Có thể vào
thẳng vấn đề mà không cần lời dẫn.


 Đề xuất vấn đề: Đây là bộ phận có nhiệm vụ tạo nên tình
huống có vấn đề mà mình sẽ giaỉ quyết trong phần sau (có thể nêu một câu
hỏi bất ngờ, một mẫu chuyện để gây cấn hấp dẫn…)


 Giới hạn vấn đề: Xác định phương hướng, phương pháp, phạm
vi mức độ, giới hạn của vấn đề


- Về hình thức: Phần mở bài phải cân xứng với khuôn khổ bài viết,


những câu dẫn đề nên viết ngắn gọn, khéo léo, tránh viết dài dịng, cầu kì,
tránh viết lan man khơng ăn khớp với những phần sau.


* Một số cách thức mở bài:


<b> - Mở bài trực tiếp: Giới thiệu ngay vấn đề cần trình bày. Đó là </b>
<i>phép mở bài mà người xưa nói: mở cửa sổ thấy núi. Cách mở bài này tiết </i>
kiệm thời gian, nhanh,gọn, tự nhiên, dễ tiếp nhận, thích hợp với những bài
viết ngắn gọn, nhưng nếu không khéo sẽ bị khơ khan, ít hấp dẫn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

+ Mở bài : Bàn về mối quan hệ giữa bản chất và hình thức bề ngồi của
sự vật, hiện tượng, tục ngữ Việt Nam có câu: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Nhận


định của câu tục ngữ có đúng hồn tồn?


- Mở bài gián tiếp : Không đi ngay vào vấn đề mà thông qua một
loạt sự dẫn dắt, sau đó mới nêu vấn đề trình bày. Cách này thường dài, tốn
thời gian nhưng lại lôi cuốn, hấp dẫn người đọc


+ Mở bài 1: Trong đời sống hiện nay, không mấy ai khơng bị hấp dẫn
bởi vẻ đẹp bên ngồi, bởi danh vọng, địa vị. Vì thế nhiều người thường bị
những hình thức bên ngồi ấy che lấp khiến mất khả năng đánh giá chính
xác sự vật, hiện tượng, thậm chí cịn đem cả cuộc sống theo đuổi những vinh
quang vô bổ. Để răn đời, đồng thời nêu lên một nhận xét chung về vai trò
quan trọng của nội dung so với hình thức, tục ngữ có câu: Tốt gỗ hơn tốt


nước sơn.


<i> + Mở bài 2: L. Tôn-xtôi từng nói: Người ta đáng u khơng phải vì đẹp</i>
<i> mà đẹp vì đáng yêu. Ý của nhà văn muốn đề cao phẩm chất của con người. </i>
Cùng quan điểm như vậy, nhưng cách diễn đạt giàu hình ảnh, và có thể hiểu
một cách rộng hơn phạm vi đánh giá con người, tục ngữ có câu: Tốt gỗ hơn
tốt nước sơn.


b/ Viết phần thân bài: Phần thân bài là phần giải quyết vấn đề. Phần
này thường gồm một số đoạn văn được liên kết với nhau thành một hệ thống
nhằm giải đáp một số yêu cầu của đề bài. Nếu đề bài cho sẵn trình tự yêu
cầu thì ta giải quyết từng yêu cầu theo một trình tự ấy. Nếu đề bài khơng cho


sẵn thì ta phải định ra một trình tự để giải quyết sao cho hợp lơgíc. Khi viết
phần thân bài cần chú ý các điểm sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

qua việc khái quát ý của tất cả các câu. Sau mỗi đoạn văn phải giải quyết
trọn vẹn một đề mục. Những chỗ xuống dịng thích hợp rrất cần cho một bài
làm. Giúp cho bài văn sáng sủa, mạch lạc.


 Trong quá trình làm bài cần lưu ý vận dụng phép liên kết câu, liên
kết đoạn.


 Các ý chính (ý trọng tâm) được viết thành các đoạn chiếm tỉ lệ
thích đáng so với tồn bài. Các ý phụ chỉ nên viết thành những đoạn văn


ngắn.


<b> c/ Viết phần kết bài: </b>


- Phần kết bài không chỉ là tổng kết, tóm lược những luận điểm cơ
bản


đã trình bày trong phần thân bài mà cịn nhấn mạnh, khẳng định ở tầm nhìn
cao hơn. Thơng thường thì người ta nêu mối tương quan biện chứng giữa các
luận điểm hoặc cũng có thể nêu ý nghĩa, tác dụng chủ yếu về mặt giáo dục
và nhận thức vấn đề đối với bản thân người viết. Trong phần kết bài nếu có
những ý sắc sảo độc đáo sẽ gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự hoàn tất trọn


vẹn, gợi cho những ý nghĩ, cảm xúc sâu sắc, tạo được dư âm cuối cùng ở
người đọc.


- Phần kết bài có quan hệ hữu cơ với phần mở bài và phần thân bài.
Đặc biệt là phần mở bài và phần kết bài thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ
và thống nhất về mặt nội dung cũng như phong cách diễn đạt.


<b> * Yêu cầu và ph ươ ng pháp viết kết bài :</b>


 Phần kết bài kết tụ được những tinh tuý, cơ bản nhất của vấn đề
nghị luận bằng những nét ngắn gọn khái qt nhất có tính nâng cao giúp
người đọc nhứ cái cốt lõi và cái nhìn tổng qt lại tồn bộ vấn đề.



 Nếu rút ra bài học thì những bài học liên hệ phải chân thành xuất
phát từ nhận thức, từ kinh nghiệm sống của bản thân. Tránh lối liên hệ gò
ép, cứng nhắc, giả tạo, lên gân ồn ào hoặc sáo mịn cơng thức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b> * Một số kết bài th ư ờng gặp :</b>
* Một số dạng kết bài:


 Dạng tổng hợp, tóm lược những ý chính đã trình bày ở phần
thân bài. Đây là cách kết bài dễ làm nhất thường gặp trong bài tập làm văn.
Viết phần kết bài của đề bài sau: Em hiểu thế nào về câu tục ngữ:
<i>Trăm hay không bằng tay quen</i>



<b> Kết bài: Tóm lại, quan điểm đề cao kinh nghiệm, đề cao thực hành,</b>
chống lí thuyết sng trong câu tục ngữ là rất đúng đắn. Nhưng nếu hiểu
lệch câu tục ngữ mà coi nhẹ lí thuyết thì thật cực đoan, phiến diện. Trình độ
lao động của mỗi người nói riêng và của tồn xã hội nói chung chỉ có thể
phát triển vững chắc và nhanh chóng nếu biết kết hợp lí thuyết với thực
hành.


 Dạng mở rộng và nâng cao. Là cách kết mở rộng vấn đề đặt ra
trong đề bài.


<b> Kết bài: Qua tìm hiểu câu tục ngữ Trăm hay khơng bằng tay quen, </b>


chúng ta thấy kinh nghiệm của ông cha ta để lại thật quý báu, nhưng không
hẳn kinh nghiệm nào cũng xác đáng hoàn toàn. Bởi vậy, trong khi tiếp thu
kinh nghiệm xưa một cách trân trọng , chúng ta cần vận dụng hiểu biết khoa
học, thực tiễn đời sống hiện nay bổ khuyết cho những thiếu sót, những điểm
chưa hồn chỉnh của kinh nghiệm ấy, góp phần làm giàu vốn tri thức của dân
tộc.


 Dạng vận dụng: Là cách kết bài nêu ra phương hướng áp dụng cái
tốt, cái hay hoặc khắc phục cái xấu, cái dở của hiện tượng hay ý kiến đề cập
trong bài văn vào cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

luận khoa học và làm việc theo phương pháp khoa học để nâng cao năng


xuất lao động, phát triển kĩ năng thực hành có ý thức, có kế hoạch.


<i><b> Kết bài: Tóm lại câu tục ngữ Trăm hay khơng bằng tay quen có mặt </b></i>
đúng nhưng cũng có mặt hạn chế trong quan niệm, trong nhận định, đánh giá
lại một vấn đề. Câu tục ngữ này đã gợi cho người đọc, người nghe những
suy nghĩ về mối quan hệ gắn bó giữa lí thuyết và thực hành. Qua câu tục ngữ
chúng ta càng thấm thia lời dạy của Bác Học phải đi đơi với hành, lí thuyết
phải gắn liền thực tiễn. Từ đó chúng ta có quyết tâm học tập tốt, thực hành
tốt những kiến thức khoa học kĩ thuật để góp phần vào công cuộc xây dựng
đất nước.


 Dạng liên tưởng: Là cách kết bài mượn ý kiến tương tự của dân


gian, của danh nhân… để thay lời tóm tắt của người viết.


<b> Kết bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn chúng ta : Học phải đi</b>
đơi với hành, lí thuyết phải gắn liền thực tiễn. Đó cũng chính là bài học
chúng ta cần rút ra từ câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen.
<b> E/ KẾT QUẢ THỰC HIỆN</b>


Thực tế cho thấy: Thời gian đầu các em không biết lập dàn ý,
dường như không biết xác lập luận điểm. Khi viết bài, có khi cả phần thân
bài các em chỉ viết một đoạn văn, ý nọ chồng ý kia, mắc rất nhiều lỗi diễn
đạt.



</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

(mỗi nhóm thơng thường đều có ít nhất một em học khá văn) trình bày yêu
cầu trên giấy A3. Kết quả thật khả quan, bài viết của các em có bố cục 3
phần đầy đủ (có thể chưa hay) song các em đã tự lập ý được và phần nào
làm chủ bài viết của mình.


Thống kê điểm trên 5,0


Lớp Bài số


1
Bài số
2


Bài số
3
Bài số
4
Bài số
5
Bài số
6
8a1 (40 HS)


(2008 -2009)



7 10 12 20 25 27


9a1 (39 HS)
(2009 -2010)


20 23 25 27


Thống kê điểm Khá – Giỏi


Lớp Bài số


1


Bài số
2
Bài số
3
Bài số
4
Bài số
5
Bài số
6
8a1 (40 HS)



(2008 -2009)


1 1 3 5 9 15


9a1 (39 HS)
(2009 -2010)


12 12 15 17


<b> </b>


<b> G/ LỜI KẾT</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Nghị quyết TW 4 khóa VII, nghị quyết TW 2 khóa VIII và được pháp chế
hóa trong điều 24.2 của Luật Giáo dục: Định hướng chung của đổi mới
phương pháp dạy học là “Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh”. Ta
có thể hiểu tích cực ở đây là tích cực hoạt động nhận thức, tích cực trong tư
duy, tích cực một cách chủ động. Điều đó có nghĩa là học sinh chủ động
trong tồn bộ q trình phát hiện, tìm hiểu và giải quyết nhiệm vụ nhận thức
dưới sự tổ chức , hướng dẫn của giáo viên. Do đó dạy tập làm văn là hình
thành cho học sinh năng lực tư duy, năng lực hành động. Muốn thế, chức
năng của giáo viên không chỉ là truyền thụ giảng giảikiến thức cho học sinh
mà chính là tạo điều kiện , tổ chức và khuyến khích học sinh tự mình tìm ra
kiến thức mới, phát triển kĩ năng và hình thành thái độ.Điều tơi muốn nói


nhắn nhủ với các em học sinh: Muốn có một bài văn hay địi hỏi phải có cảm
xúc chân thật khi viết, cảm xúc hồn nhiên tươi trẻ xuất phát từ suy ngẫm trải
nghiệm của chính mình, phải lao tâm khổ luyện. Tránh lối viết theo kiểu
khuôn sáo. Hãy viết bằng chính tâm sức của mình, bằng sự nung nấu từ con
tim, có như thế bài văn mới là sản phẩm sáng tạo của chính các em./.


KrôngBũk, ngày 05/ 3/ 2010
Người viết


Lê Thị Tuyết Mai


Đánh giá của Hội đồng xét duyệt



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

………
………
………
………
………
………
………
………
………
………....



TÀI LIỆU THAM KHẢO


1/ Sách ngữ văn lớp 7, 8, 9 - Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên).
2/ Sách Giáo viên ngữ văn 7, 8, 9 – Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên)
3/ Tài liệu bồi dưỡng dạy sách giáo khoa lớp 7, 8, 9 (BGD – ĐT)
4/ Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV THCS (2004 - 2007)
5/ Một số bài viết vể sự vận dụng Tiếng việt(Lê Anh Hiền tuyển chọn)
6/ Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS –
Bộ GD – ĐT năm 2004.


7/ Làm văn – Đình Cao, Lê A Nhà xuất bản GD (1989).



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23></div>

<!--links-->

×