Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục những sai lầm thường mắc trong học kỹ thuật nhảy xa kiểu ưỡn thân cho học sinh nam khối 11 trường PTTH phan châu trinh thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.41 KB, 93 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

NGUYỄN NGỌC TRUNG

Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục những
sai lầm thường mắc trong học kỹ thuật nhảy xa
kiểu ưỡn thân cho học sinh nam khối 11 trường
PTTH Phan Châu Trinh - Thành phố Đà Nẵng

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


2

I. LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta lãnh đạo toàn dân tiến
hành cuộc Cách mạng tháng Tám thành công lập nên nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Đất nước giành được độc lập dân tộc đã gặp rất nhiều khó khăn, trở
lực bởi thù trong giặc ngoài, cộng thêm với nền kinh tế do chế độ cũ để lại rất
nghèo nàn lạc hậu, nhân dân nhiều nơi đói rét, dịch bệnh hồnh hành, sức
khỏe giảm sút nghiêm trọng, thất học và mù chữ nặng nề. Trong hồn cảnh đó
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đề ra nhiều chủ trương hết sức đúng
đắn và kịp thời nhằm đẩy lùi những khó khăn, trở ngại. Người đứng lên kêu
gọi đồng bào cả nước chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Bên cạnh


đó Người cịn nhận thức sâu sắc vai trị, tầm quan trọng về sức khỏe của nhân
dân đối với cơng cuộc giữ gìn và xây dựng đất nước. Chính vì thế Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã sớm ký sắc lệnh thành lập ngành Y tế và ngành TDTT của
nước Việt Nam dân chủ cộng hồ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ hướng cho sự hình thành và phát triển nền
TDTT mới. Để nền TDTT mới hình thành và phát triển mang bản chất cách
mạng, vì lợi ích của tồn dân và sự lớn mạnh của đất nước thì điều cơ bản là
có định hướng đúng đắn, chỉ ra được mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng. Để
thực hiện được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lời kêu gọi tồn dân
tập thể dục”. Bác nói: “Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu
ớt một phần, mỗi một người dân mạnh khỏe là góp phần làm cho cả nước
mạnh khỏe” [5]. Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục như kim chỉ nam định
hướng hình thành và phát triển nền TDTT mới của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà.
Kể từ ngày thành lập tới nay, ngành TDTT Việt Nam đã giành được
nhiều sự quan tâm của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước như: Chủ tịch hội
đồng Nhà nước Võ Chí Cơng, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần


3

Đức Lương, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải… tới cán bộ,
viên chức, huấn luyện viên, vận động viên, trọng tài ngành TDTT. Đó chính
là động lực thúc đẩy ngành TDTT Việt Nam ngày càng phát triển lên một tầm
cao mới, từng bước tiến kịp nền TDTT tiên tiến của các nước trên thế giới.
TDTT là một bộ phận của nền giáo dục XHCN, với mục đích là đào tạo
con người toàn diện, phát triển về thể chất và trí tuệ, năng động sáng tạo và
cường tráng.
Trong đó GDTC là một bộ phận vơ cùng quan trọng trong sự nghiệp đào
tạo con người toàn diện. Khi mà đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập

quốc tế với vai trò ngày càng quan trọng, đất nước ta đã gia nhập các tổ chức
lớn như WTO, ASEAN,… thì TDTT đã góp một phần rất lớn trong việc thúc
đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hố, ngoại giao. Trong thời đại CNH –
HĐH đất nước thì sự phát triển của TDTT có một ý nghĩa hết sức quan trọng,
nó đã đem lại cho người dân sức khỏe, tinh thần, trí tuệ, sự năng động sáng
tạo… để thực hiện thành công sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Chính vì thế
mà từ nhiều năm qua TDTT ln nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước. Đã có nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước về đầu tư
phát triển TDTT… nâng cao sức khỏe của người dân đặc biệt là tầng lớp
thanh thiếu niên, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Sinh thời Bác Hồ đã từng dạy: “ Muốn lao động sản xuất tốt, học tập
cơng tác tốt thì cần phải có sức khỏe. Muốn giử gìn sức khỏe phải thường
xuyên tập TDTT ” [38] và bản thân người đã tự nêu gương: “ tự tôi ngày nào
cũng tập”[5]. Trong lời Bác dạy TDTT trở thành một nội dung, một mục tiêu
giáo dục quan trọng bên cạnh các mặt giáo dục khác. Chính vì vậy các nhà
giáo dục không chỉ dạy kiến thức văn hoá đơn thuần mà là người biết vận
dụng kiến thức khoa học TDTT trong q trình dạy học.
GDTC góp phần thực hiện mục tiêu “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài và phát triển thể trạng cho học sinh”. Để phong trào
TDTT ngày càng lớn mạnh thì khơng thể xem nhẹ vai trị GDTC trong trường


4

học bởi vì GDTC trong trường học là một nhân tố quan trọng trong việc phát
hiện, bồi dưỡng, đào tạo các tài năng thể thao nước nhà.
Trường THPT Phan Châu Trinh thành lập năm 1952, là ngôi trường giàu
truyền thống, là nơi đào tạo nhiều thế hệ học sinh xuất sắc, giữ nhiều chức vụ
cao trong thành phố cũng như trong nước. Đây là trường đông nhất nước ta về
tống số học sinh. Về mặt cơ sở vật chất được xây dựng hòan chỉnh, vẫn thiếu

một số phòng học bộ môn phục vụ cho việc học tập và giảng dạy. Trường
dạy 3 ngoại ngữ: Anh, Nhật, Pháp. Hầu hết học sinh rất ngoan, chăm chỉ,
năng động. Năm 2003 trường đạt huân chương lao động hạng 3. Nhiều năm
liền là trường tiên tiến xuất sắc. Phong trào văn nghệ, TDTT rất tốt. Cả 3 năm
liền dẫn đầu về phong trào TDTT trong thành phố Đà Nẵng.
Trong các nội dung của điền kinh, nhảy xa là một trong số các nội dung
có lịch sử phát triển lâu đời. Từ phương pháp để người xưa vượt qua các hào
rãnh trong săn bắn, hái lượm... nhảy xa dần trở thành một phương tiện rèn
luyện để phát triển các tố chất thể lực, đặc biệt là tốc độ, sức mạnh tốc độ, sự
phát triển linh hoạt, khéo léo.
Nhảy xa là nội dung phức tạp, hoạt động khơng mang tính chu kỳ, địi
hỏi người tập phải nắm vững những tư duy động tác đồng thời thực hiện động
tác một cách nhịp nhàng, thuần thục. Tập luyện nhảy xa giúp người tập nâng
cao thành tích của bản thân và giúp ta vượt qua những khoảng cách mà ta
không bước hoặc đứng tại chỗ mà nhảy qua được. Do nhảy xa phải chạy đà và
bật nhảy tích cực nên tập luyện nhảy xa tốt tức là ta đã phát triển được khả
năng tốc độ (sức nhanh) và sức bật (sức mạnh) thơng qua tập luyện để giậm
nhảy chính xác khi chạy với tốc độ cao và hoàn thành đúng các động tác. Khi
ở trên không, người tập không những nâng cao được khả năng phối hợp giữa
các bộ phận của cơ thể mà nâng cao được cả sự chính xác cảm giác khơng
gian và cảm giác thời gian - những năng lực cần có trong tập luyện và thi đấu
thể thao và cả trong sinh hoạt của mỗi người .


5

Ở nhà trường môn nhảy xa được đưa vào giảng dạy trong các cho học
sinh ở bậc THCS và THPT. Hai yếu tố kỹ thuật và thể lực quyết định đến
thành tích. Hai yếu tố này có mối quan hệ khăng khít, có tác dụng thúc đẩy để
đạt thành tích cao. Đặc biệt là yếu tố kỹ thuật, qua thực tế đã chứng minh rằng

động tác kỹ thuật càng thuần thục, chính xác thì càng tiết kiệm được sức, vận
dụng và phát huy được khả năng dùng sức của cơ thể giúp nâng cao thành tích
của mình. Ở bậc trung học phổ thông đối tượng giảng dạy ở đây là các em học
sinh có độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi, phần lớn thời gian các em tập trung vào
môn văn hóa, học và tập lun các mơn thể dục chỉ mang tính đối phó và
khơng gây được hứng thú cho các em. Việc học tập một kỹ thuật mới đối với
các em là khó khăn, để tập luyện và hoàn thiện kỹ thuật ấy một cách thuần
thục trong thời gian ngắn quả không phải là vấn đề đơn giản. Bên cạnh đó
việc giảng dạy trên lớp của giáo viên cũng như luyện tập trong thời gian rất
ngắn, khoảng 6 – 8 tiết trong quá trình học tập của học sinh hiện nay, do đó
học sinh thường mắc những sai lầm rất cơ bản trong học kỹ thuật, một mặt
khả năng vận động của cá em chưa cao, mặt khác giáo viên vẫn chưa chú
trọng đến các bài tập bổ trợ làm nền tảng cho kỹ thuật đang giảng dạy. Chính
yếu tố này đã ảnh hưởng rất nhiều đến thời gian học, tập luyện và thành tích
kiểm tra của các em. Để góp phần nhỏ cơng sức của mình trong việc giúp đỡ
các em HS có thể học tập tốt hơn và nâng cao thành tích. Xuất phát từ lý do
trên và dựa vào định hướng nghiên cứu chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài :
“Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục những sai lầm thường mắc
trong học kỹ thuật nhảy xa kiểu ưỡn thân cho học sinh nam khối 11 trường
PTTH Phan Châu Trinh - Thành phố Đà Nẵng”.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu một số sai lầm thường mắc của học sinh nam khối 11 trường
THPT Phan Châu Trinh - Tp Đà Nẵng trong quá trình học tập và tập luyện kỹ
thuật nhảy xa ưỡn thân. Từ đó đưa ra một số bài tập nhằm khắc phục những


6

sai lầm đó nhằm giúp cho q trình học tập, tập luyện cũng như kiểm tra của
các em được được tốt hơn .

NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
Để giải quyết mục đích nghiên cứu chúng tơi thực hiện 2 nhiệm vụ sau:
- Nhiệm vụ 1:
Nghiên cứu một số sai lầm thường mắc trong học kỹ thuật nhảy xa ưỡn
thân của học sinh nam khối 11 trường THPT Phan Châu Trinh - Tp Đà Nẵng.
- Nhiệm vụ 2:
Ứng dụng và đánh giá hiệu quả một số bài tập nhằm khắc phục những sai
lầm thường mắc trong học kỹ thuật nhảy xa ưỡn thân cho học sinh nam khối
11 trường THPT Phan Châu Trinh - Tp Đà Nẵng


7

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về GDTC trong trường
học:
GDTC là một bộ phận của nền giáo dục XHCN nhằm đào tạo thế hệ trẻ
phát triển tồn diện, có trí thức, đạo đức, nhân cách và thể chất. Sự quan tâm
đến TDTT thực chất là quan tâm đến con người vì con người là vốn quý của
xã hội, là tài sản vô giá của quốc gia. TDTT là biện pháp màu nhiệm để đem
lại sức khỏe cho mọi người, do vậy mà nhiều năm nay Đảng và Nhà nước ta
rất coi trọng công tác GDTC trong các cấp nhà trường, nhằm đào tạo lớp
người mới phát triển toàn diện để kế tiếp sự nghiệp cách mạng, xây dựng kinh
tế xã hội theo định hướng XHCN và bảo vệ tổ quốc.
Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục và đào tạo nói
chung và GDTC nói riêng được xuất phát từ những cơ sở lý tưởng, lý luận
của học thuyết Mác – Lênin về con người và phát triển con người tồn diện,
những ngun lý thể chất của Macxít, tư tưởng quan điểm Hồ Chí Minh về
TDTT nói chung và GDTC cho thế hệ trẻ nói riêng. Những cơ sở lý tưởng lý
luận đó đều được Đảng quán triệt trong đường lối phát triển TDTT trong suốt

thời kỳ lảnh đạo của mình. Nó được cụ thể hóa qua các lần Đại hội của Đảng,
các Nghị quyết qua từng giai đoạn như:
Chỉ thị số 106/CT/TW ngày 02/10/1958 của ban Bí tư TW Đảng về công
tác TDTT, đã đề cập đến những vấn đề quan trọng như: Vai trị của cơng tác
GDTC về thể thao quốc phòng và phát triển phong trào TDTT quần chúng
nhất là ở trường học.
Chỉ thị số 131/CT/TW ngày 13/01/1960 của ban Bí tư TW Đảng về về
cơng tác TDTT và Chỉ thị 158/CT/TW của ban Bí tư TW Đảng về tăng cường
xác định vị trí và tầm quan trọng của TDTT trong những năm tới, xác định
được vị trí tầm quan trọng của TDTT, coi TDTT thành yêu cầu của quần


8

chúng và là một mặt của sự nghiệp xây dựng XHCN và chủ trương trên cụ thể
hóa tới sự phát triển phong trào TDTT trong trường học.
Đại hội Đảng Lao động lần thứ III tháng 09/1960 đã định hướng công tác
giáo dục và rèn luyện thể chất đối với tuổi trẻ học đường và chủ trương này
được hội nghị TW lần thứ VIII tháng 04/1963 phát triển lên một bước mới.
Đến nghị quyết VII BCH TW Đảng (khóa VIII) đã khẳng định bắt đầu đưa
việc giảng dạy thể dục và một số mơn thể thao cần thiết vào chương trình học
tập của trường phổ thông.
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản lần thứ VII tháng 06/1991 khẳng định
về công tác TDTT cần coi trọng nâng cao chất lượng GDTC trong trường học.
Chương III điều 35, 36, 41 hiến pháp Nước cộng hịa XHCN Việt Nam
đã ghi: “GDTC là mơn bắt buộc trong các trường học”.
Đảng cộng sản Việt Nam kiên định đường lối giáo dục toàn diện, Văn
kiện Đại hội VIII đã ghi rõ: “Giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ
phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu… chuẩn bị tốt hành trang cho thế
hệ trẻ…”. Đồng thời khẳng định rõ: “... sự cường tráng về thể chất là nhu

cầu của bản thân con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của
các cấp, các ngành đoàn thể”.
Chỉ thị 112/CT ngày 09/051989 của Hội đồng Bộ trưởng về công tác
TDTT trong những năm trước có ghi: “ Đối với học sinh trước hết là nhà
trường phải thực hiện nghiêm túc việc dạy và học mơn thể dục theo chương
trình quy định, có biện pháp hướng dẫn các hình thức tập luyện ngồi giờ…”.
Chỉ thị 36/CT/TW của Ban bí thư TW Đảng ngày 24/03/1994 về công
tác TDTT trong giai đoạn mới đã ghi rõ: “… cải tiến chương trình giảng dạy,
tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên thể dục cho trường học các
cấp tạo những điều kiện cân thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ GDTC
bắt buộc ở tất cả các trường học…”. Các nước XHCN Đông Âu trước đây đã
đề ra hệ thống tiêu chuẩn rèn luyện thân thể gọi là: “sẵn sàng lao động và bảo
về tổ quốc” áp dụng cho mọi lứa tuổi lao động.


9

Tại hội nghị GDTC trong nhà trường được tổ chức vào tháng 08/1996 tại
Hải Phịng, Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh đã nói: “ ước vọng của chúng ta là
mỗi thanh niên Việt Nam, cả nam lẫn nữ đều có cơ thể cường tráng, cùng với
tâm hồn trong sáng và trí tuệ phát triển”.
Để TDTT có vai trị phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, ở bất
kỳ quốc gia nào cũng có hệ thống đánh giá thể chất nhân dân. Lực lượng vũ
trang Trung quốc có chế độ “ lao vệ chế”. Ở nước ta từ những năm 1962 Nhà
nước đã ban hành: “ Chế độ rèn luyện thân thể theo tiêu chuẩn” và trong
những năm 90 của thế kỷ XX đã được điều tra xây dựng hệ thống tiêu chuẩn
mới. Trong hai năm 2001 và 2002 Viện khoa học TDTT - Ủy ban TDTT đã
tiến hành điều tra thể chất con người Việt Nam lứa tuổi 6-12. Trên cơ sở đó
thiết lập tiêu chuẩn mới nhằm nâng cao tầm vóc và thể trạng người Việt Nam
cho giai đoạn 2005-2025. Như vậy, vấn đề phát triển các tố chất thể lực chung

cho nguồn lực con người đang là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước, của
toàn xã hội.
Luật giáo dục 2005 quy định mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hình thành bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Luật TDTT năm 2006 xác định GDTC là mơn học chính khóa thuộc
chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản
chon người học thông qua các bài tập và trị chơi vận động, góp phần thực
hiện mục tiêu toàn diện. Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tự
nguyện của người học được tổ chức theo phương thức ngoại khóa phù hợp
với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe nhằm tạo điều kện cho người học
thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao.
Bước vào thời kỳ CNH - HĐH đất nước cần có yêu cầu ngày càng mới,
càng cao đối với công việc nâng cao thể chất học sinh, yêu cầu con người


10

phát triển khỏe mạnh, hài hịa để có thể cộng tác trong những điều kiện lao
động với tốc độ cao, cường độ lớn và thần kinh căng thẳng. Do đó việc cải
cách phương pháp, công tác giảng dạy TDTT trường học là một vân đề tất
yếu, có vị trí tác dụng vô cùng to lớn đối với sự phát triển của đất nước.
1.2 GDTC một bộ phận quan trọng của nền giáo dục toàn diện cho học
sinh
Để đạt được mục tiêu GDTC cho thế hệ trẻ, đặc biệt là đối tượng học
sinh THPT cần giải quyết nhiệm vụ cơ bản sau:
a. Giáo dục thể chất cho học sinh:
Thể chất là một đặc trưng tương đối ổn định về hình thức và chức năng

cơ thể của con người,được hình thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và
điều kiện sống.
Năng lực thể chất thể hiện khả năng, chức năng của hệ thống cơ quan
trong cơ thể thông qua hoạt động cơ bắp là chính. Nó bao gồm các tố chất vận
động, sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ dẻo và khéo léo…cùng với các năng
lực vận động cơ bản (đi, chạy, nhảy, ném…). Một hoạt động vận động cụ thể,
bao giờ cũng đòi hỏi một năng lực thể chất tương ứng.
Năng lực thích ứng thể hiện khả năng thích ứng của cơ thể với hồn cảnh
bên ngồi. Khơng chỉ là thích ứng đơn giản mà cịn là sự đề kháng với bệnh
tật phát sinh.Theo tác giả Lương Hạo Tài (bộ môn y học xã hội – viện y học
vũ hán Trung Quốc) có tới 44,7% trường hợp tử vong ở người Trung Quốc là
do phương thức sinh hoạt của người dân. Do vậy con người muốn khắc phục
các loại bệnh tật do xã hội, do phương thức sinh hoạt dẫn đến cần tích cực rèn
luyện sức khỏe, vì sức khỏe là cơ sở vật chất của sự tồn tại và phát triển con
người, là nguồn hạnh phúc của mỗi cá nhân trong cuộc sống.
Sức khỏe con người liên quan trực tiếp đến thể chất và phát triển thể
chất, thể chất chỉ chất lượng con người, bao gồm các đặc trưng tương đối ổn
định về hình thái và chức năng của cơ thể được hình thành và phát triển do
bẩm sinh di truyền và điều kiện sống (bao gồm cả giáo dục và rèn luyện).


11

Năng lực thể chất bao gồm thể hình, khả năng chức năng, các tố chất thể lực
và khả năng thích ứng của cơ thể với môi trường.
Mỗi người ai cũng cần sức khỏe, đó là nhu cầu cách mạng trong kỷ
nguyên mới, là yêu cầu của sự tồn tại và phát triển xã hội, đồng thời cũng là
mong ước chính đángcủa đời sống hạnh phúc cá nhân. Muốn sức khỏe, thể
chất con người được phát triển hài hoà, liệu pháp tích cực, hiệu quả tích cực
nhất là thơng qua GDTC.

Như vậy, có thể nói: Thể chất bao gồm hình thể, chức năng, năng lực thể
chất và khả năng thích ứng của cơ thể. Muốn giải quyết các mặt trên thì
nhiệm vụ GDTC giải quyết một số vấn đề sau:
Góp phần đẩy mạnh toàn diện, cân đối cơ thể, nâng cao toàn diện các tố
chất phù hợp với đời sống, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT .
Truyền thụ kiến thức, một số kỹ năng cơ bản và tương đối hồn chỉnh về
một số mơn thể thao, đặc biệt chú ý đến một số tư thế cơ bản, thói quen rèn
luyện cơ thể và giữ gìn vệ sinh thúc đẩy phát triển thể hình lành mạnh, sự phát
triển thể hình chủ yếu dựa vào sự phát triển lớn mạnh của tế bào và các chất
gian bào. Còn sự phát dục lại chỉ biến đổi về chức năng và hình thái của hệ
thống cơ cơ quan trong cơ thể. Sự hồn thiện về thể hình, một cơ thể cường
tráng cịn thể hiện một phần bộ mặt tinh thần, văn minh của dân tộc và là cơ
sở vật chất của các năng lực chức năng.
Công tác GDTC trong nhà trường giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp
phất triển đất nước và TDTT nói riêng, thể hiện Đảng và Nhà nước đã sớm
đưa GDTC vào các trường học tạo mọi điều kiện thuận lợi đễ xây dựng và
phát triển phong trào thể thao ngoại khoá sâu rộng.
Thực hiện GDTC trong trường học, tập luyện TDTT trở thành nếp sống
hàng ngày của hầu hết học sinh. Hơn nữa GDTC cho thế hệ trẻ, phục vụ học
tập, lao động, nâng cao đời sống văn hố tinh thần thực hiện theo chương
trình bắt buộc và tổ chức các hoạt động TDTT ngoài giờ học, là một trong
những bộ phận quan trọng của giáo dục toàn diện.


12

Vụ GDTC (Bộ GD&ĐT) luôn yêu cầu các trường áp dụng đầy đủ và chất
lượng chương trình giảng dạy chính khố, đồng thời có kế hoạch phát triển
phong trào ngoại khố, tăng cường hơn nữa các loại hình hoạt động, câu lạc
bộ thể thao, tổ chức có hệ thơng các giải thể thao trong các trường học với

phương châm hưởng ứng tích cực rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ
đại, phấn đấu mỗi giáo viên học sinh tham gia tập luyện một môn thể thao
nâng cao sức khỏe.
b. TDTT góp phần phong phú vào đời sống văn hố và giáo dục con
người mới.
TDTT không chỉ ảnh hưởng đến cơ thể, mà cịn có tác dụng nhiều mặt.
Trong hoạt động này mối quan hệ hành vi giữa cá nhân và tập thể rất đa dạng,
phong phú và biến hoá sinh động, đặc biệt trong thi đấu thành tích cao. Nếu tổ
chức tốt hoạt động TDTT có thể giáo dục đạo đức, ý chí, lịng u nước, tinh
thần tập thể, tính kỷ luật, trung thực, dũng cảm…một cách có hiệu quả.
TDTT đầy đủ nghĩa hơn là “văn hoá thể chất”, “văn hố” khơng có nghĩa
ở mức độ kiến thức đạt được trong các lĩnh vực khoa học hay đời sống hằng
ngày. Cuộc sống con người trong thời đại mới, thời đại khoa học cơng nghệ
phát triển mạnh địi hỏi mỗi con người phải năng động, trao đổi để đạt đỉnh
cao về tri thức khoa học, kỹ thuật khoa học ở phạm vi trí óc, trái lại thiếu
phạm vi trầm trọng phạm vi hoàn thiện thể chất. Một con người phát triển
toàn diện khi phát triển cân đối cả hai mặt tri thức và thể chất. Nhiều nhà giáo
dục đã khẳng định rằng, ở lứa tuổi học sinh THPT là thời kỳ thay đổi nhiều về
tâm sinh lý, do vậy việc giáo dục vơ cùng quan trọng, trong đó có GDTC
nhằm nâng cao chất lượng phát triển về hình thái ln đi đơi với sự phát triển
và hồn thiện chức năng cơ của thể như hệ tuần hồn, hệ hơ hấp và nhất là đối
với hệ thần kinh trung ương.
Về mặt đời sống xã hội nếu làm tốt công tác TDTT nó có thể góp phần
đáng kể vào việc xây dựng đời sống văn hoá vui chơi lành mạnh, văn minh


13

trong xã hội đó cũng là cơng cụ để chuyển tải giá trị tư tưởng, đạo đức, tinh
thần dân tộc đến quần chúng nhân dân và học sinh.

1.3 Đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi THPT.
1.3.1 Đặc điểm tâm lý lứa tuổi THPT:
Ở lứa tuổi THPT, hoạt động học tập là hoạt động cơ bản thu hút nhiều
thời gian và cơng sức. Do đó các mơn học có nội dung kiến thức ngày càng
cao, phương thức giảng dạy của thầy cơ giáo cũng có sự thay đổi. Vì vậy mà
các em luôn phải nỗ lực phấn đấu. Trong thời kì này tính hệ thống trong việc
thu lượm trí thức cần được nâng cao nhờ sự thiết lập của mối liên tưởng ngày
càng phức tạp và sâu sắc .
Sự phát triển tâm lý của các em ở lứa tuổi này rất phức tạp. Do sự thay
đổi về sinh lý, một số cơ quan nội tạng và do hoạt động thần kinh khơng cân
bằng, các q trình hưng phấn mạnh nên khiến các em không kiềm chế được.
Các em rất nhạy cảm với đánh giá của người xung quanh. Đôi khi một thành
công ngẫu nhiên khiến các em tự mản, nhưng cũng khiến các em tự ti, nhút
nhát.
- Tri giác: Lúc này tri giác của các em đã có tính tuần tự, có kế hoạch và
hồn thiện hơn so với lứa tuổi trung học cơ sở. Các em đã có khả năng phân
tích và tổng hợp phức tạp hơn.
- Trí nhớ: Dần dần mang tính chất của các q trình có điều khiển, điều
chỉnh và tổ chức.
- Sự phát triển chú ý: Trong giai đoạn này các em có những mâu thuẫn
nhất định. Một mặt, chú ý có chủ định của các em phát triển rõ nét. Mặt khác,
những ấn tượng rung động mạnh mẽ, phong phú của các em khiến cho sự chú
ý khơng bền vững.
Trong q trình sống và phát triển, cơ thể con người có những biến đổi
đa dạng và phức tạp về cấu tạo, chức năng, sinh lý dưới tác động của những
yếu tố di truyền và dưới tác động của môi trường.


14


Vì vậy tập luyện thể dục thể thao sẽ ảnh hưởng tốt đến q trình hồn
thiện của cơ thể nếu được tiến hành quán triệt tất cả các đặc điểm của lứa tuổi
đó.[2]
1.3.2 Đặc điểm sinh lý lứa tuổi THPT
Ở lứa tuổi này các em hoàn thiện đặc trưng về cấu trúc hình thái cơ thể.
Các hoạt động giáo dục của mơn học TDTT đã góp phần nâng cao năng lực
hoạt động của các hệ cơ quan, giúp các em từ đó nâng cao sức khỏe đạt kết
quả tốt hơn trong các hoạt động xã hội khác.
- Hệ thần kinh:
Ở lứa tuổi cấp 2 quá trình hưng phấn vẫn chiếm ưu thế so với quá trình
ức chế. Sự phối hợp động tác ở lứa tuổi này còn kém, động tác còn cứng và
vụng về. Đến lứa tuổi THPT sự phát triển thể hình đã hồn thiện xong. Kích
thước não và hành tuỷ đã đạt tới mức của người trưởng thành. Hoạt động
phân tích, tổng hợp của vỏ nảo tăng lên, tư duy trừu tượng đã hình thành tốt.
- Hệ vận động:
+ Xương: Ở lứa tuổi THPT xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển, sụn ở
hai đầu xương vẫn còn dài, nhưng sụn chuyển thành xương ít. Các xương nhỏ
như cổ tay, bàn tay đã kết thành xương nên các em có thể tập các động tác
trèo chống, mang vật nặng. Cột sống tuy đã ổn định nhưng vẫn còn cong vẹo.
+ Cơ: Đặc điểm của lứa tuổi này là cơ co vẫn còn yếu các bắp cơ phát
triển tương đối (nhanh như cơ đùi, cơ cánh tay).
Chính như vậy mà trong quá trình huấn luyện Thể dục Thể thao cần lưu
ý đặc biệt đến lượng vận động và mức độ phát triển tâm - sinh lý của các em.
Đối với các em trong giai đoạn này không nên tập luyện quá sức, nóng vội.
Nên có những bài tập phát triển toàn diện, với số lượng vận động tối ưu phải
được ưu tiên trong các chương trình huấn luyện thể thao.[12]


15


1.4 Các tố chất thể lực đặc trưng cho môn nhảy xa
Thể lực là cơ sở huấn luyện thể thao, tạo sự thích nghi về sinh học chức
năng và hình thái của cơ thể VĐV khi tác động của tập luyện, các biên đổi
thích nghi sinh học thể hiện ở hai hướng:
- Tăng cường khả năng chức phận và tiềm năng của các cơ quan hệ thống
cơ thể do biến đổi cấu trúc rất quan trọng bên trong cơ thể các q trình tích
luỹ chuyển hố năng lượng.
- Hồn thiện khả năng tự điều hoà hoạt động của các cơ quan hệ thống.
Phát triển các tố chất thể lực theo kế hoạch huấn luyện nhiều năm phải tính
đến tố chất thể lực chung và thể lực chuyên môn, phát triển đúng thời kỳ.
Đứng trên quan điểm GDTC, thể lực đặc trưng cho môn nhảy xa được
chia làm các tố chất sau:
1.4.1 Sức mạnh
Các nhà khoa học Nguyễn Hiệp, Dương Nghiệp Chí, Lê Biểu (1983),
Nguyễn Thế Truyền (1986), Nguyễn Sĩ Hà, Trung Hiếu (1994), Bompa
(0996), Phan Hồng Minh (2000)… đều thống nhất rằng: Sức mạnh là khả
năng đối kháng lực bên ngoài hoặc đề kháng lại bằng sự nỗ lực cơ bắp và hệ
thống vần động. Cơ bắp có thể sinh thể lực trong các trường hợp như: Không
thay đổi độ dài cơ (chế độ tĩnh), giảm độ dài cơ (chế độ khắc phục), tăng độ
dài cơ (chế độ nhượng bộ). Trong chế độ hoạt động như vậy cơ bắp nảy sinh
ra các lực cơ học, các trị số khác nhau cho nên có thể coi chế độ hoạt động
của cơ là cơ sở phân biệt các loại sức mạnh. Bằng thực nghiệm phân tích khoa
học người ta đã đi đến một số kết luận có ý nghũa cơ bản phân loại sức mạnh.
Yếu tố sức mạnh bao gồm:
Sức mạnh tối đa: là sức mạnh lớn nhất có thể sinh ra khi co cơ.
Sức mạnh nhanh (hay còn gọi là sức mạnh tốc độ): là năng lực phát huy
sức mạnh trong một khoảng thời gian ngắn nhất bằng sự co cơ nhanh.
Sức mạnh bền: là năng lực chống lại mệt mỏi của cơ thể trong hoạt động
sức mạnh kéo dài.



16

Đặc điểm sức mạnh được biểu hiện trong nhảy xa là các bài tập như:
nhảy bật, chạy ngắn… các bài tập tư thế treo, trồng chuối trên các dụng cụ
hay manh vật phụ (bao cát, chì) hoặc tập các bài tập với dây chun, bóng đặc,
tạ, co tay xà đơn, chống đẩy xà kép, nằm sấp chống đẩy…
1.4.2 Sức nhanh
Sức nhanh là khả năng thực hiện động tác trong một khoảng thời gian
ngắn nhất. Nó là tổng hợp thuộc tính chức năng của con người. Nó quy định
chủ yếu và trực tiếp đặc tính tốc độ động tác cũng như thời gian phản ứng vận
động.
Người ta phân biệt 3 hình thức đơn giản biếu hiện sức nhanh như:
- Thời gian tiềm phục của phản ứng vận động.
- Tốc độ động tác đơn với phản ứng vận động.
- Tần số động tác.
Sức nahnh trong GDTC được biểu hiện qua các bài tập phát triển chung
tay không, với dây chun cho các bộ phận cơ thể: tay, chân, thân, mình và tồn
thân, các trò chơi vận động, các động tác nhảy, chạm, ném, bắt, các mơn
bóng…
1.4.3 Năng lực mềm dẻo
Trong nhiều mơn thể thao năng lực mềm dẻo là tiền đề để người tập có
thể đạt thành tích cao trong tập luyện. Mềm dẻo là năng lực thực hiện động
tác với biên độ lớn. Biên độ tối đa của động tác là thước đo của năng lực mềm
dẻo.
Năng lực mềm dẻo được phân thành hai loại:
- Mềm dẻo thụ động có dược nhờ sự tác động của ngoại lực và trọng lực
của cơ thể.
- Mềm dẻo tích cực, độ dẻo được tạo nên với sự gắng sức, nỗ lực của
chính cơ bắp người tập.

Việc đánh giá trình độ mềm dẻo chủ yếu thơng qua xác định góc độ mở
của các khớp. Đo độ dẻo bằng độ dài (cm) hoặc bằng cách đo điểm.


17

Việc lựa chọn bài tập phát triển năng lực mềm dẻo, cần xuất phát từ yêu
cầu của môn tập thể thao cụ thể và cần căn cứ vào đối tượng, lứa tuổi và trình
độ tập luyện của người tập.
1.4.4 Năng lực khéo léo
Nếu như các năng lực sức nhanh, sức mạnh, sức bền dựa trên cơ sở sự
thích ứng về năng lượng thì, thì khéo léo trong thể dục lại phụ thược chủ yếu
vào quá trình điều khiển hành vi vận động.
Năng lực phối hợp vận động là một phức hợp các tiền đề của người tập
(cần thiết ít hoặc nhiều) để thực hiện thắng lợi một hoạt động thể thao nhất
định. Năng lực này được xác đinh trước hết ở khả năng điều khiển động tác
(xử lý thông tin), mà người tập hình thành và phát triển trong tập luyện, năng
lực phối hợp vận động có mối quan hệ mật thiết với các phẩm chất tâm lý và
các năng lực khác như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền.
Năng lực phối hợp vận động của người tập còn được thể hiện ở mức độ
tiếp thu nhanh chóng và có chất lượng, cũng như hoàn thiện cũng cố và vận
dụng các kỹ xảo vầ kỷ thuật thể thao. Tuy nhiên giữa năng lực phối hợp vận
động và kỹ xảo về thể thao có điểm khác nhau cơ bản. Trong khi kỹ xảo về kỹ
thuật thể thao chỉ nhằm giải quyết một nhiệm vụ cụ thể thì năng lực phối hợp
vận động là tiền đề cho rất nhiều hoạt động vận động khác nhau.
1.5. Kỹ thuật nhảy xa ưỡn thân
Kỹ thuật nhảy xa nói chung và nhảy xa kiểu ưỡn thân nói riêng là một
quá trình liên tục từ khi chạy đà đến khi thu chân rơi xuống cát. Để tiện cho
việc phân tích kỹ thuật và giảng dạy người ta chia thành 4 giai đoạn sau:
1.5.1 Chạy đà

Mục đích của chạy đà là tạo ra tốc độ tối ưu theo phương nằm ngang
trước khi giậm nhảy và chuẩn bị tốt cho giậm nhảy.
Độ dài của đà được xác định bằng lượng bước (đi và chạy) bằng việc
thay đổi độ dài và nhịp điệu các bước, bằng tốc độ chạy và độ dài nói chung.
Hiện nay những vận động viên Nam nhảy xa mạnh nhất sử dụng đà dài từ 39


18

– 52m (20 – 40m đối với Nữ) bao gồm từ 19 -24 bước chạy (từ 18 – 21 đối
với nữ). Độ dài của đà phụ thuộc vào chiều cao của người nhảy, trình độ huấn
luyện chun mơn của người đó trong các lần nhảy và nhất là khả năng tăng
tốc độ chạy. Khả năng tăng tốc độ, phát huy và giữa nhịp điệu chạy của vận
động viên có thể được đánh giá qua thành tích chạy 30m – 100m xuất phát.
Bảng 1.1. Sự phụ thuộc giữa độ dài (số bước) và tốc độ chạy đà vào
trình độ huấn luyện chạy của vận động viên nhảy xa.
Chạy có xuất phát (s)

Độ dài đà (số bước)

Tốc độ chạy
đà tối đa

40m

100m

Nam

Nữ


5,7 ± 0,1

13,0 ± 0,1

12 ± 2

14 ± 2

7,5 ± 0,3

5,5 ± 0,1

12,5 ± 0,1

14 ± 2

16 ± 2

8,1 ± 0,3

5,3 ± 0,1

12,0 ± 0,1

16 ± 2

18 ± 2

8,6 ± 0,3


5,1 ± 0,1

11,5 ± 0,1

18 ± 2

20 ± 2

9,2 ± 0,3

4,9 ± 0,1

10,9 ± 0,1

20 ± 2

22 ± 2

9,9 ± 0,2

(m/giây)

Các yếu tố chủ yếu của việc hoàn thiện kỹ thuật chạy đà trong nhảy xa là
độ chuẩn xác, ổn định tốc độ và sự tin tưởng.
Độ chính xác của đà phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trước hết vào sự đánh
giá kịp thời những điều kiện thay đổi bên ngoài của người nhảy, vào tình
trạng cảm xúc và sự tin tưởng vào việc bắt đầu chính xác, vào nhịp điệu ổn
định của toàn đà nhất là những bước cuối cùng.
Những vận động viên nhảy xa xuất sắc nhất thế giới L. Ddevít, Ro.

Bơstxtơn, I. Terrơvannhexian, B.Bimơn tham gia thi đấu trong các đại hội
Olympic vào những năm khác nhau, trước những lần nhảy kỷ lục của mình họ
đều có thái độ hết sức thận trọng nhằm động viên sức lực đầy đủ.
+ Tư thế ban đầu:
Tư thế ban đầu và việc bắt đầu chạy đà cần phải đảm bảo tiêu chuẩn về
độ dài của các bước và việc tạo thuận lợi cho việc tập trung chú ý. Biện pháp


19

tốt nhất có đặc điểm là độ ngã thân trên không đổi, độ dài của bước đầu tiên
được hạn chế, bắt đầu động tác từ việc đổ thân trên về trước có nghĩa là lực và
gia tốc như nhau.
+ Tốc độ chạy đà (độ dài và tần số bước)
Việc phát triển tộc độ chạy đà tuỳ thuộc vào việc tăng độ dài và tần số
bước. Người nhảy cần phải phân phối sức của mình như thế nào để chạy 2
đến 4 bước cuối cùng với tốc độ lớn nhất và sẵn sàng giậm nhảy.
Những người nhảy có chiều cao bình thường, thường có tố chất của
những vận động viên chạy ngắn, và thường bắt đầu chạy đà nhanh bằng
những bước ngắn. Ngay khi đến bước chạy thứ 6 – 8 tốc độ của họ đã tăng lên
cực đại. Những vận động viên chân dài, động tác khơng gị bó bắt đầu chạy đà
tương đối chậm hơn so với việc tăng nhanh độ dài và nâng dần tần số bước
chạy.
Mặc dầu có một vài sự khác biệt trong đặc điểm phát triển tốc độ đà,
trong 2 bước cuối cùng trước khi giậm nhảy, những vận động viên xuất sắc
luôn đạt được tốc độ cao nhất.
Cùng với việc phát triển tốc độ, những vận động viên nhảy bắt đầu chạy
đà nhanh hơn để đến thời điểm giậm nhảy có tốc độ lớn. Việc bắt đầu chạy đà
của nhiều vận động viên ưu tú tương tự như chạy xuất phát với 3/4 sức nữa
đầu của đà, nhất là trong những bước đầu tiên, có đặc điểm là: Thân trên gấp

về trước (300 – 350) đánh tay mạnh, đưa đùi cao và đặt nữa trước bàn chân.
Trong phần giữa của đà, thân trên dần dần được thẳng lên đến 80 0, biên độ
động tác của tay và chân lăng tăng lên. Thân hơi ngữa tạo điều kiện cho đạp
sau mạnh hơn để chuyển về trước và tạo dễ dàng cho việc nâng cao đùi lên.
Sự phối hợp hoạt động của tay và chân có ảnh hưởng lớn đến nhịp điệu
chung và việc tăng nhanh tần số động tác.
+ Những bước cuối cùng của đà:
Ở 6- 8 bước cuối cùng là những bước dài nhất. Nhưng việc biết phát
triển và duy trì tốc độ cao nhất trước lúc giậm nhảy phụ thuộc không chỉ vào


20

độ dài các bước mà cả vào nhịp điệu (tần số) chạy. Việc rối loạn nhịp điệu
chạy đà là do vận động viên quá chú ý đến chuẩn bị giậm nhảy, làm giảm tốc
độ chạy và thường ảnh hưởng xấu đến thành tích.
Như vậy chạy đà là giai đoạn chủ yếu của nhảy xa và là quyết định kết
quả lần nhảy. Hiệu quả các động tác của người nhảy trọng chạy đà gồm việc
tăng tốc độ chạy cao nhất trên 3 - 4 bước cuối cùng và duy trì đến khi giậm
nhảy.
1.5.2 Giậm nhảy
Giai đoạn này được tính từ khi chân giậm nhảy đặt vào ván giậm và cho
đến khi rời mặt đất. đặt chân giậm nhảy phải nhanh, mạnh đùi và cẳng chân
gần như thẳng.
+ Cơ chế của giậm nhảy: Khi giậm nhảy, người nhảy dùng lực quán tính
chuyển động của toàn thân đè lên ván giậm nhảy. Dưới ảnh hưởng của sức đè
này, chân giậm và cột sống bị gập một cách cục bộ, gây ra sự kéo giãn và làm
căng những cơ hoạt động (tính chất hoạt động nhượng bộ).
Việc gấp lại của chân giậm nhảy, việc hoãn xung của cột sống làm giảm
đáng kể áp lực (tác dụng của lực quán tính) của cơ thể. Áp lực này làm giảm

sức chống lại của những cơ bị kéo căng và sự co lại mạnh của chúng bắt đầu
(tính chất hoạt động khắc phục) chận giậm nhảy bắt đầu duỗi ra ở các khớp,
thân trên thẳng ra cơ thể được đẩy vào hướng mới lên trên ra trước. Việc hoãn
xung càng ngắn và việc bắt đầu duỗi ra càng sớm (khi trọng tâm cơ thể chưa
đi qua điểm chống) thì khả năng chuyển cơ thể vào hướng mới với góc độ lớn
hơn càng nhiều và ngược lại việc duỗi càng chậm, thì thời gian cịn lại đẩy cơ
thể lên trên – ra trước càng ít.
+ Kỹ thuật giậm nhảy: Khi cùng một tốc độ chạy đà thì góc đặt chân
giậm nhảy và mức hỗn của nó ở các khớp sẽ xác định thời gian và hướng của
những lực được phát huy khi giậm nhảy.
Động tác lăng tay và chân làm giảm ảnh hưởng của lực có hướng ngược
lại với chuyển động của cơ thể. Việc tích cực chuyển chân và tay ra trước


21

trong lúc giậm nhảy làm tăng áp lực lên đường chạy theo hướng về sau và vì
vậy làm tăng cả chuyển động của cơ thể về trước.
Tính hiệu quả của kỹ thuật giậm nhảy ở các vận động viên ưu tú là ở chỗ
họ biết tạo nên áp lực lớn hơn trên ván giậm nhảy khi đưa chân về trước ít
hơn để đảm bảo cho độ cao cần thiết của lần nhảy và giữ được chuyển động
ngang của cơ thể. Hiệu quả của kỹ thuật giậm nhảy được nâng cao theo mức
độ tăng trình độ huấn luyện của người nhảy. Ví dụ những vận động viên (nữ)
cấp I – II lực theo phương thẳng đứng tăng đến 300 – 350kg (200 - 275kg)
cịn đối với kiện tướng thì cao hơn 400kg (300kg).
Trong nhảy xa khi giậm nhảy, chân giậm nhảy được đặt hầu như thẳng ở
khớp chậu đùi (dưới góc 1650 – 1700) và khớp gối (1750 – 1780). Cùng với
việc tăng thành tích trong các lần nhảy, tính tích cực của việc đặt chân giậm
nhảt lên ván cũng tăng lên. Điều này được chứng minh qua việc tăng góc đặt
chân đến 650 – 720 và giảm góc giữa hai đùi xuống còn 380 – 320.

Chân lăng gập nhiều, được đưa nhanh về trước tạo điều kiện cho việc
chuyển vùng khớp chậu đùi (ra trước). Việc chuyển vùng chậu đùi lên trên
chân luôn kèm theo sự đàn hồi và kịp thời giậm nhảy là một thời điểm quan
trọng của kỹ thuật. Trong những lần nhảy tốt, biên độ gập ở khớp gối là 32 0 –
400, có thể đánh giá tính chất duỗi của chân giậm qua góc giậm nhảy và biên
độ đưa đùi trong lúc rời khỏi ván.
Ở nhảy xa góc giậm nhảy khoảng 730 – 760, cịn góc giữa hai đùi từ 1060
– 1140 . Góc đưa đùi lớn chứng tỏ tính tích cực và sự kéo dài động tác lăng
chân của người nhảy. Khi người nhảy chậm duỗi chân, việc giậm nhảy diễn ra
dưới góc độ nhỏ hơn 700. Vì vậy điều quan trọng trong nhảy xa là việc đặt
chân giậm nhảy phải trước điểm dọi của trọng tâm cơ thể từ 30 – 40cm, nên
sau khi có điểm tựa cứng và vững chãi phía trước, thân thể bắt đầu dường như
được lăn qua chân đang duỗi thẳng ra, thay đổi hướng chuyển động lên một
góc 20 -220 rời khỏi ván.


22

- Những yếu tố quan trọng của kỹ thuật giậm nhảy là:
Việc vươn thẳng lên của vận động viên ở khu vực lồng ngực, nâng trục
vai trên cơ sở hoạt động tích cực của việc đánh xốc hai tay. Tay cùng với
chân giậm đưa ra trước lên trên, đến tư thế khi khớp khuỷu dường như ở dưới
khớp vai một chút. Tay kia được đưa ra sau – sang ngang để khớp khuỷu tay
hơi thấp hơn khớp vai. Những động tác này cùng với việc nâng cao chân lăng
sẽ tạo điều kiện giữ thăng bằng trong lúc giậm nhảy. Lúc này hoạt động của
trục vai, tay, chân lăng dường như được duỗi thẳng từ giữa phần cơ thể lên
trên – ra trước, cịn hoạt động của chân giậm thì xuống dưới ra sau.
Khi giậm nhảy, thân trên được chuyển động về trước mạnh nhất từ lúc
thẳng đứng đến khi kết thúc giậm nhảy.
1.5.3 Bay trên không.

Giai doạn bay trên không được tính từ khi chân giậm nhảy rời khỏi ván
giậm nhảy, toàn bộ cử động trong giai đoạn bay của nhảy lên phụ thuộc vào
nhiệm vụ chung của việc duy trì hoặc giữ thăng bằng và chiếm tư thế bắt đầu
co gối để sau đó đưa chân với xa về trước. Trọng tâm cơ thể bay theo đường
vòng cung, tốc độ bay ban đầu của các vận động viên có đẳng cấp cao từ 9,2 –
9,6m/s và được thực hiện với góc bay từ 200 -230.
Cố gắng chạy nhanh, giậm nhảy tích cực, bay ra trong tư thế “bước bộ”
với biên độ rộng và đưa chân với xa về trước lúc rơi là nền tảng của một lần
nhảy, cịn tồn bộ sự đa dạng của các cử động giữa lúc bay ra trong tư thế
bước bộ và co gối trước khi rơi xuống chỉ là thứ yếu. Vì vậy, đúng hơn là
phải đánh giá động tác này như là một phương pháp giữ thăng bằng trong lúc
bay, chứ không phải là một phương pháp hay kiểu nhảy.
Những cử động trong lúc bay có ưu điểm và nhược điểm của nó. Chúng
có thể đơn giản và phức tạp, có biên độ rộng hẹp, có tác dụng nâng cao hoặc
làm giảm tính ổn định của cơ thể (momen quán tính của cơ thể hoặc các
khâu). Chúng có thể tạo điều kiện cho việc sử dụng bản tính đàn hồi của cơ


23

bắp hoặc gây trở ngại cho điều này. Chúng có thể tiếp tục các cử động trước
đó một cách tự nhiên hoặc rối loạn các cử động ấy.
Phương pháp ưỡn thân: Bao hàm việc tiếp tục thực hiện khâu tiếp theo
của động tác bước bộ. Đây là phương pháp tối ưu và thường được sử dụng
rộng rãi trong việc giảng day và thi đấu. Từ tư thế bước bộ, chân lăng ở phía
trước hạ xuống dưới, về sau cùng với chân giậm. Hơng tiếp tục di chuyển về
phía trước. Khi chân lăng ra phía sau thì khớp gối hơi gập lại, lúc này chân
giậm ở phía sau, cẳng chân hơi co lại. Cùng với chuyển động của chân, hai
tay đánh sang ngang hoặc sang ngang – ra sau – lên trên. Nhờ sự phối hợp
hoạt động của tay chân và phần hơng của cơ thể được đẩy lên phía trước tạo

nên tư thế ưỡn thân (ưỡn căng như cánh cung). Do tư thế ưỡn thân mà các cơ
ở mặt trước thân (vùng ngực) được kéo căng tạo điều kiện cho vận động viên
gập thân lên trên mạnh và dễ dàng đưa hông về trước ra xa hơn khi chuẩn bị
rơi xuống cát. Khi gần rơi xuống đất thì nhanh chóng gập thân đưa hai chân
về trước đưa đùi lên cao, hai tay đánh về trước, xuống dưới ra sau và người
nhảy chuẩn bị rơi xuống đất.
1.5.4. Rơi xuống đất
Sau khi hoàn thành các động tác nhằm giữ ổn định trong lúc bay, người
nhảy bắt đầu trực tiếp thu chân để rơi xuống cát. Rơi xuống cát được thực
hiện tốt nhất khi đùi được đưa về trước cùng với việc nâng cao gối và thân
trên hơi gập về trước và xuống dưới.
Cần coi việc nâng chân ra trước – lên trên khi thân trên nghiêng đổ ra
trước chưa nhiều là chủ yếu trong động tác này. Đây là điều rất quan trọng,
lúc này cẳng chân được hạ xuống một cách tự do.
Việc thu chân trước khi rơi xuống tạo điều kiện giữ chân dễ dàng hơn, có
nghĩa là được lâu hơn, việc thu chân đúng lúc cũng đóng vai trị chủ yếu. Sau
khi thu chân vận động viên đưa hai bàn chân về trước đồng thời thẳng thân và
đưa vùng hông về trước. Động tác này tương tự như khi vượt qua rào của vận
động viên chạy vượt rào. Việc duỗi thẳng hai chân một cách hoàn toàn ở khớp


24

gối chỉ có lợi ngay trước khi chạm cát, sự nỗ lực và sự chú ý của người nhảy
cần được tập trung vào việc giữ hai chân khỏi tụt xuống, hai bàn chân ở mức
ngang nhau (việc đồng thời đưa hai tay ra sau tạo điều kiện cho việc này).
Trong bất kể trường hợp nào cũng không được vội vàng rơi xuống cát, tốt
nhất là nên thực hiện các cử động này càng lâu càng tốt. Nâng bàn chân lên
cao 10cm sẽ giúp người nhảy bay xa thêm 16cm.
Sau khi chạm cát, hai bàn chân bị gập vào cát và người nhảy nhanh

chóng gấp khớp gối chuyển vùng chậu – đùi qua mặt trên cát theo hướng ra
trước - xuống dưới, khi tận dụng hoàn toàn quỹ đạo bay, vận động viên hoặc
là ngồi xuống mơng ở phía sau vết rơi hoặc là chuyển về trước hay sang một
cách khó khăn.
1.6 Đặc điểm, tính chất hoạt động, cơ sở để nâng cao thành tích
Đặc điểm của mơn nhảy xa là cần phải kéo dài khoảng cách bay trên
không do nỗ lực của người nhảy (sự phối hợp chặt chẽ giữa thần kinh và cơ)
trong lấy đà và giậm nhảy tạo nên. Quỹ đạo của trọng tâm cơ thể trong lúc
bay phụ thuộc vào tốc độ chạy đà, lực giậm nhảy và góc độ giậm nhảy.
Tính chất hoạt động là dùng sức mạnh bột phát trong khoảng thời gian
ngắn.
Cơ sở để nâng cao thành tích và hồn thiện kỹ thuật, thể lực của người
nhảy đều dựa trên cơ sở tập luyện chạy và các môn thể thao khác.
1.7 Yếu tố quyết định thành tích mơn nhảy xa
Để đạt thành tích cao trong nhảy xa, VĐV cần có tầm vóc tốt, có trình độ
cao về sức mạnh - tốc độ và nắm vững kỹ thuật nhảy, trong hai giai đoạn
chạy đà và giậm nhảy có ý nghĩa quyết định nhất đến thành tích mơn nhảy. Vì
thành tích nhảy xa (S) về cơ bản phụ thuộc vào góc bay của thân thể khi rời
đất và tốc độ bay ban đầu (Vo). Tốc độ bay phụ thuộc nhiều vào tốc độ đà tối
đa có được trước lúc giậm nhảy và lực giậm nhảy.


25

Về lý thuyết: Độ bay xa của lần nhảy được tính theo cơng thức
S

V0 Sin2
G


Trong đó:
S : là độ xa
Vo: là tốc độ bay ban đầu
α : Là góc bay
G : Là gia tốc rơi tự do
1.8 Bài tập bổ trợ chuyên môn
1.81. Khái niệm bài tập bổ trợ chuyên mơn
Hiện nay có rất nhiều các khái niệm về bài tập bổ trợ chuyên môn của
các các giả khác nhau. Bài tập bổ trợ chuyên môn là bài tập hỗ trợ cho việc
nhanh chóng tiếp thu và thực hiện ở hiệu quả bài tập chun mơn có hiệu quả,
trong đó bài tập chuyên môn là những bài tập bổ trợ cho việc tiếp thu động
tác. Theo quan điểm của PGS Nguyễn Tốn và TS Phạm Danh Tốn thì “Bài
tập bổ trợ chuyên môn là các phức hợp các yếu tố của động tác thi đấu cùng
biến dạng của chúng, cũng như các bài tập dẫn dắt tác động có chủ đích và
có hiệu quả đến sự phát triển các tố chất và các kỹ xảo của vận động ở chính
ngay mơn thể thao đó”. Nhưng cịn một số tác giả nước ngồi thì cho rằng:
Bài tập bổ trợ là những biện pháp giảng dạy bao gồm các bài tập mang tính
chuẩn bị cho vận động, bài tập mang tính dẫn dắt và bài tập mang tính chuyển
đổi và bài tập tăng cường các tố chất thể lực. Quan điểm của các học giả
Trung Quốc về các bài tập bổ trợ chun mơn là những bài tập mang tính
chun biệt cho từng môn thể thao từng kỹ thuật riêng biệt.
Các quan niệm trên tuy có khác nhau về cách trình bày nhưng ln có sự
thống nhất về ý nghĩa, như vậy bài tập bổ trợ chuyên môn là các bài tập mang
tính chất chuẩn bị, dẫn dắt, tính chuyển đổi và tính thể lực chuyên biệt cho
từng kỹ thuật và từng mơn thể thao khác nhau.
Ví dụ trong nhảy xa người ta phân tích kỹ thuật thành 04 giai đoạn động
tác bao gồm là: Chạy đà, giậm nhảy, bay trên không và tiếp đất. Trên cơ sở đó



×