Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Phương pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua dạy học địa lý 10 ở trường trung học phổ thông (ban cơ bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 74 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA ĐỊA LÍ
----------

NGUYỄN THỊ AN

Phương pháp rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh qua dạy học địa lý 10 ở trường
Trung học phổ thơng (Ban cơ bản)

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại ngày nay, con người dường như có nhiều cơ hội để
phát triển hơn, cũng như chất lượng cuộc sống của con người cũng ngày càng được
đảm bảo và nâng cao hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà xã hội hiện đại
mang lại thì con người chúng ta cũng đang đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn
chưa từng có như: sự khủng hoảng của nền kinh tế thế giới, chủ nghĩa khủng bố, bất
ổn chính trị xã hội,….và ngay cả tự nhiên, yếu tố khó bị biến đổi nhất cũng đang có
những thay đổi phức tạp khơn lường, mà con người khó có thể nắm bắt, lường trước
được. Vậy con người chúng ta, nhất là thế hệ trẻ hiện nay phải làm gì để có thể
đương đầu với những thách thức đó, làm sao để giải quyết được những khó khăn
mà ngay chính xã hội hiện đại, cũng như thiên nhiên mang lại, đó chính là vấn đề
đang được cả thế giới quan tâm.
Để giải quyết được mối lo ngại đó, thì khơng những các tổ chức quốc tế mà
ngay cả trong Hội nghị Giáo dục về giáo dục cho mọi người họp tại Senegal (2000),


đã đề ra chương trình hành động Dakar - giáo dục kỹ năng sống (KNS). Giáo dục,
rèn luyện KNS cho mọi người, đặc biệt là cho thế hệ trẻ có một ý nghĩa vơ cùng
quan trọng, nó là hợp phần trong nhân cách sống của con người, giúp con người có
khả năng để vượt qua những khó khăn, thử thách, rủi ro trong cuộc sống. Trang bị
KNS cũng là trang bị cho thế hệ trẻ những hành trang cần thiết bước vào đời, vững
vàng trước những rủi ro, tai nạn trong cuộc sống mà các em phải đối mặt.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở nước ta chương trình giáo dục KNS đã
được nhà nước cũng như các cơ quan, đoàn thể quan tâm, đặc biệt là Bộ giáo dục –
đào tạo (GD - ĐT). Hiện nay, giáo dục KNS đã dần dần được đưa vào chương trình
giảng dạy ở các cấp học, thơng qua các hình thức giáo dục lồng ghép, tích hợp qua
từng mơn học, phù hợp với chương trình giảng dạy.
Đối với mơn Địa lí, đây là môn học cung cấp cho học sinh những hiểu biết cả
về tự nhiên và xã hội. Vì vậy, việc giáo dục rèn luyện KNS trong môn học này là rất
cần thiết, nó giúp cho học sinh có được kỹ năng ứng xử phù hợp, khả năng ứng phó

2


và giải quyết được một số vấn đề thường gặp trong cuộc sống mà các điều kiện tự
nhiên cũng như xã hội mang lại.
Đặc biệt, trong chương trình và nội dung SGK Địa lí 10, các em được học và
mở rộng thêm các kiến thức đại cương ban đầu về Trái Đất, các thành phần của tự
nhiên, cũng như các kiến thức đại cương về kinh tế - xã hội. Với những nội dung
này, khi lồng ghép KNS có thể giáo dục cho các em ý thức bảo vệ tự nhiên, môi
trường, quan tâm tới các vấn đề kinh tế - xã hội, cũng như thể hiện được trách
nhiệm của bản thân đối với gia đình, địa phương, đất nước. Ngồi ra, với học sinh
lớp 10, thì đây là lứa tuổi mà các em đã có những nhận thức nhất định về cuộc sống
hàng ngày. Chính vì vậy, việc trang bị những KNS cho các em là điều cần thiết và
cấp bách.
Qua thực tế, tôi nhận thấy việc giáo dục, rèn luyện KNS cho học sinh trong

dạy học Địa lí 10 là vấn đề có tính khả thi cao, hồn tồn có thể thực hiện được và
có khả năng áp dụng được ở nhiều trường phổ thông. Việc áp dụng rèn luyện KNS
khơng những khơng làm nặng chương trình kiến thức mà còn tạo hung thú hơn
trong việc học tập của học sinh.
Với những lí do trên, tơi chon nghiên cứu và thực hiện đề tài: “ Phương pháp
rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua dạy học địa lý 10 ở trường Trung học phổ
thông (Ban cơ bản) ”.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích của đề tài
Xác định một số phương pháp rèn luyện KNS cho học sinh qua dạy học địa
lí 10 nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và hiệu quả dạy học.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu tài liệu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề
rèn luyện KNS cho học sinh qua dạy học địa lý 10.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa địa lí 10 để được khả năng rèn
luyện KNS cho học sinh qua dạy học của chương trình.
- Xác định một số KNS cơ bản cần giáo dục cho học sinh.
- Xác định một số phương pháp rèn luyện KNS qua dạy học địa lí 10.
3


- Thực nghiệm để đánh giá tính khả thi của đề tài.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Rèn luyện những KNS cơ bản, cần thiết cho học sinh: Kỹ năng
tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy và kỹ
năng làm chủ bản thân.
- Phạm vi nghiên cứu: điều tra thực trạng rèn luyện KNS cho học sinh qua
dạy học địa lí 10 ở một số trường THPT tại Quảng Nam: trường THPT Nguyễn Duy
Hiệu, trường THPT Trần Quý Cáp.
- Tiến hành thực nghiệm trong phạm vi một số lớp học ở các trường THPT

tại Quảng Nam: trường THPT Nguyễn Duy Hiệu, trường THPT Trần Quý Cáp.
4. Lịch sử nghiên cứu đề tài
4.1. Trên thế giới
Các vấn đề về KNS và giáo dục, rèn luyện KNS cho mọi người ngày càng
được quan tâm nhiều hơn, cho đến nay vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học trên
thế giới nghiên cứu và đưa ra nhiều tài liệu về cơ sở lí luận, những chủ đề thực tiễn
để hướng tới sự phát triển KNS cho con người.
Cụ thể, các hội nghị và các tài liệu về giáo dục, rèn luyện KNS:
- Hội nghị giáo dục thế giới họp tại Senegan tháng 4 năm 2000 đã thông qua
kế hoạch hành động giáo dục cho mọi người đã vạch ra mục tiêu: Phải đảm bảo
chương trình học tập và rèn luyện KNS cho người học và xác định những lĩnh vực
cần được quan tâm đặc biệt đến giáo dục KNS.
- Tài liệu hội thảo về giáo dục KNS của các nước trong khu vực, họp tại
Băng Cốc, Thái Lan tháng 9 năm 2003.
- Tài liệu hội thảo về giáo dục KNS trong lĩnh vực phi chính quy của các
nước trong khu vực, họp tại Bali, Indonexia tháng 12 năm 2003.
Tất cả các tài liệu trên đều đưa ra những lí luận về KNS trên cơ sở đó nhấn
mạnh tới các vấn đề giáo dục rèn luyện KNS cho con người ở các lứa tuổi và các
lĩnh vực khác nhau. Trên thế giới ở hầu hết các quốc gia phát triển đã đặt ra và thực
hiện các chương trình giáo dục rèn luyện KNS cho người học từ rất sớm và nó trở
thành hệ thống chính quy trong giáo dục.
4


4.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta hiện nay, các vấn đề về KNS và rèn luyện KNS vẫn còn khá mới
mẻ, tuy nhiên cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và viết khá nhiều tài liệu
nghiên cứu vấn đề KNS và rèn luyện KNS cụ thể cho một số đối tượng như: cho
học sinh phổ thông, cho phụ nữ, cho thanh thiếu niên,…
Các nhà nghiên cứu, các tài liệu đã được nghiên cứu và biên soạn trong nước

hiện có:
- Các cơng trình nghiên cứu của PGS. TS Nguyễn Thanh Bình như: “Giáo
trình Giáo dục kĩ năng sống” (Giáo trình cao đẳng sư phạm); các bài báo đăng trên
tạp chí khoa học: “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT”, tạp chí khoa học
giáo dục, số 3 tháng 12/ 2005; “Giáo dục kĩ năng sống hướng vào người học”, tạp
chí khoa học ĐHSP Hà Nội số 3, năm 2006; “Thử nghiệm giáo dục KNS cho học
sinh THPT”, tạp chí khoa học ĐHSP Hà Nội, số 6/2006. Mới đây, ông tham gia
nghiên cứu viết đề tài mang tên: “Giáo dục một số KNS cho học sinh THPT”.
- Các tài liệu nghiên cứu của thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh với: “Kĩ năng sống
cho tuổi vị thành niên”, NXB trẻ, thành phố HCM (2008); “10 cách rèn luyện kĩ
năng sống cho tuổi vị thành niên”, NXB Trẻ, thành phố HCM (2008). Các tài liệu
này đều giải quyết được vấn đề lí luận và thực tiễn trong giáo dục KNS cho thanh
niên và nêu ra các phương pháp giáo dục KNS để có hiệu quả.
- Đặc biệt, trong năm học 2011 – 2012, Bộ GD – ĐT đã hồn thiện và chính
thức cho ra bộ tài về giáo dục kĩ năng sống, tích hợp vào một số mơn học từ lớp 1
đến lớp 12. Ở bậc THPT, Bộ cũng đã phát hành 5 cuốn tài liệu KNS dạng lồng ghép
qua các môn học đặc thù: Giáo dục công dân, Ngữ văn, Sinh học, Địa lí và hoạt
động ngồi giờ lên lớp. Với việc đưa ra bộ tài liệu này vào chương trình đã góp
phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy của GV cũng như nâng cao được
hiệu quả giáo dục KNS cho HS ở các cấp học nói chung và bậc học THPT nói riêng
của nước ta.
- Đối với mơn học Địa lí cũng đã có nhiều đề tài được nghiên cứu và thực
hiện với nội dung chính là tích hợp các KNS thơng qua các bài học Địa lí như:
“Giáo dục mơi trường qua mơn Địa lí ở trường phổ thông” của Nguyễn Phi Hạnh –
5


Nguyễn Thị Kim Chương, 1999; các đề tài khóa luận tốt nghiệp: “Giáo dục mơi
trường qua mơn Địa lí 12 - THPT” của Liễu Thị Thiệp, ĐHSP Hà Nội (2003), “Phát
triển KNS cho HS trong dạy học địa lí 12” của Bùi Thị Hậu, ĐHSP Hà Nội (2010)

và các tài liệu về tích hợp Giáo dục dân số vào bài giảng Địa lí ở nhà trường phổ
thơng.
- Tuy nhiên, trong các tài liệu và các nội dung nghiên cứu trên chưa có tài
liệu nào nghiên cứu và thực hiện giải quyết vấn đề Rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh qua dạy học Địa lí 10. Đây là một vấn đề mới mà các tài liệu trên chưa giải
quyết được cụ thể. Nhưng trong lịch sử nghiên cứu phong phú và đa dạng các vấn
đề về KNS mà trực tiếp nhất là các tài liệu nghiên cứu về việc rèn luyện KNS cho
học sinh THPT đã đặt nền móng cho việc đặt vấn đề và nghiên cứu đề tài: “Phương
pháp rèn luyện KNS cho học sinh qua dạy học Địa lý 10 ở trường Trung học phổ
thông (Ban cơ bản) ”
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phân tích, so sánh, tổng hợp các quan điểm về KNS và các cách phân loại
KNS để hiểu rõ hơn về KNS.
- Phân tích, so sánh, tổng hợp các nguồn tài liệu khác nhau để đưa ra các cơ
sở về đặc điểm tâm sinh lí và xã hội của lứa tuổi học sinh, phân tích nội dung SGK
địa lí 10 và tìm hiểu tổng hợp những phương pháp là cơng cụ góp phần tích cực để
rèn luyện KNS cho học sinh. Đưa ra những đánh giá, nhận định để thấy được khả
năng tích hợp của mơn học trong giảng dạy.
5.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
- Thực tế đến các trường THPT trên địa bàn Quảng Nam: trường THPT
Nguyễn Duy Hiệu, trường THPT Trần Quý Cáp để thấy được tình hình rèn luyện
KNS cho học sinh qua dạy học Địa lý 10.
- Tiến hành điều tra học sinh bằng cách lập và phát phiếu điều tra.
5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Đây là phương pháp bắt buộc phải tiến hành làm đề tài để thấy tính thực
tiễn và ứng dụng của đề tài.
6



-Trực tiếp đến các trường THPT tại Quảng Nam: trường THPT Nguyễn Duy
Hiệu, trường THPT Trần Quý Cáp để tiến hành soạn giáo án, giảng dạy và phát
phiếu điều tra học sinh lớp 10.
5.4. Phương pháp thống kê toán học để xử lí kết quả điều tra và thực nghiệm
Sau khi đã có kết quả điều tra và thực nghiệm cần phải tiến hành việc xử lí số
liệu bằng những phương pháp tốn học để từ đó đưa ra những nhận định và kết luận
có cơ sở đúng đắn.
6. Cấu trúc của khóa luận
Đề tài khóa luận gồm 3 phần
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2. Phương pháp rèn luyện KNS cho học sinh qua dạy học địa lý 10 ở
một số trường THPT tại Quảng Nam
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
- Phần kết luận và kiến nghị

7


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Kỹ năng sống
1.1.1. Khái niệm về kỹ năng sống
Thuật ngữ KNS bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông Việt Nam
từ những năm 1995 – 1996, thông qua Dự án “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khỏe và
phòng chống HIV/ADIS cho thanh niên trong và ngoài nhà trường ” do Quỹ Nhi
đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ GD - ĐT tạo phối hợp với Hội
chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện. Giáo dục phổ thông nước ta trong những năm vừa
qua đã được đổi mới cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học (PPDH) gắn

với bốn trụ cột giáo dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khả
định, học để chung sống, mà thực chất là một cách tiếp cận KNS. Đặc biệt, rèn
luyện KNS cho học sinh (HS) đã được Bộ GD - ĐT xác định là một trong những
nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực”
trong các trường phổ thơng giai đoạn 2008 – 2013.
Vậy KNS sống là gì?
Có nhiều quan niệm khác nhau về KNS:
- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng có hành vi thích ứng
(adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các
nhu cầu thách thức của cuộc sống hàng ngày.
- Theo Tổ chức Văn

hóa, khoa học và giáo dục của Liên hiệp Quốc

(UNICEF), KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách
tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ
năng.
- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO),
KNS gắn với bốn trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết gồm các kĩ năng tư duy
như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức
được hậu quả ,… ; Học để làm người gồm các kĩ năng cá nhân như: ứng phó với
căng thẳng, kiếm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,…; Học để sống với người khác
gồm các kĩ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm
8


việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thơng,…; Học để làm gồm các kĩ năng thực hiện
công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm,….
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy KNS bao gồm một loạt các kĩ
năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của KNS là

kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc
sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, KNS là khả năng tự làm chủ bản
thân của mỗi người, khả năng thích ứng phù hợp với những người khác với xã hội,
khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống.
1.1.2. Phân loại kỹ năng sống
Do có nhiều quan điểm khác nhau về KNS nên cũng có nhiều cách phân loại
khác nhau:
Theo quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra dựa trên lí thuyết
học tập xã hội của Bandural (1977) nhấn mạnh sự học tập qua quá trình trải nghiệm
của con người, qua sự tích lũy KNS, cấu trúc kinh nghiệm và chủ động nắm lấy
kinh nghiệm và chủ động nắm lấy kinh nghiệm thì KNS được chia làm 3 nhóm:
- Nhóm các kĩ năng nhận thức: Kĩ năng tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định
giá trị, tư duy sáng tạo, tư duy phê phán, ra quyết định, giải quyết vấn đề,….
- Nhóm các kĩ năng xã hội: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng cảm thông, kĩ năng
hợp tác,….
- Nhóm các kĩ năng cảm xúc: Kĩ năng ứng phó với cảm xúc, kĩ năng ứng phó
với căng thẳng, tự giám sát và tự điều chỉnh cảm xúc,…
Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp Quốc (UNICEF) “KNS là những kĩ năng tâm lí
xã hội có liên quan đến tri thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng thể hiện ra bằng
hành vi làm cho cá nhân có thể thích nghi và giải quyết hiệu quả các yêu cầu và
thách thức của cuộc sống”. Với quan điểm này KNS được phân loại thành 3 nhóm:
- Kĩ năng nhận biết và sống với chính mình gồm có:
+ Kĩ năng nhận thức: Khả năng hiểu biết về bản thân để thấy được tiềm
năng, tình cảm, những mặt mạnh, những mặt yếu của mình việc nhận thức đó giúp
sử dụng tối đa và hiệu quả các kĩ năng khác, lựa chọn cách sống phù hợp với bản
thân và xã hội.
9


+ Lòng tự trọng: Là KNS giúp cảm nhận được giá trị của chính mình, làm

chủ tình huống hướng tới giá trị đích thực. Nếu con người có lịng tự trọng cao,
người đó sẽ cảm nhận tốt về bản thân, tự tin quý trọng bản thân cảm nhận được giá
trị của mình với người khác, cư xử tốt và mạnh mẽ. Nếu con người có lịng tự trọng
thấp hoặc tiêu cực sẽ không hành động lành mạnh, cảm thấy vô dụng và yếu đuối.
+ Sự kiên định: Là sự nhận biết được những gì mình muốn, tại sao lại muốn,
khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì mình muốn trong hồn
cảnh cụ thể một cách linh hoạt, mền dẻo dung hòa giữa quyền và nhu cầu của mình
với quyền và nhu cầu của người khác. Biết kiên định trong mọi hoàn cảnh là quan
trọng, mỗi đối tượng cần thể hiện khác nhau.
+ Đương đầu với cảm xúc: Khả năng xác định, nhận biết cảm xúc của mình,
có những quyết định khơng để cho cảm xúc chi phối.
+ Đương đầu với căng thẳng: Trong cuộc sống con người phải đối mặt với
rất nhiều vấn đề căng thẳng, có thể làm cho con người có thêm sức mạnh để học
tập, làm việc nhưng cũng hủy diệt cuộc sống nếu mức độ quá sức chịu đựng vì thế
con người cần có những kĩ năng nhận biết sự căng thẳng và chủ động đương đầu
với nó để khắc phục.
- Kĩ năng nhận biết và sống với người khác:
+ Khả năng quan hệ liên nhân cách: Biết cách đối xử phù hợp trong từng
mối quan hệ.
+ Sự cảm thông: Đặt mình vào vị trí của người khác để cảm thơng chia sẻ.
+ Đứng vững trước áp lực tiêu cực của bạn bè, người khác: Bảo vệ giá trị và
niềm tin của mình nếu nó là đúng đắn khi phải đương đầu với ý nghĩ việc làm trái
ngược với bạn bè.
+ Thương lượng: Là kĩ năng quan trọng trong mối quan hệ cá nhân với nhau.
+ Giao tiếp hiệu quả: Gồm các kĩ năng lắng nghe và hiểu người khác.
- Kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả:
+ Tư duy phê phán: Trước những nguồn gốc thông tin đa dạng, phức tạp con
người cần có những kĩ năng phân tích một cách phê phán.

10



+ Tư duy sáng tạo: Khi tiếp cận sự việc mới, phương thức mới, ý tưởng mới
thì yêu cầu phải có cách sắp xếp, tổ chức mới đó chính là tư duy sáng tạo. Khi gặp
hoàn cảnh mới bất ngờ yêu cầu ta phải có tư duy sáng tạo.
+ Ra quyết định: Con người trong cuộc đời của mình phải đưa ra nhiều quyết
định cả đơn giản và phức tạp vì thế để có quyết định đúng đắn thì con người cần
phải lường trước được kết quả và lên kế hoạch cho những quyết định đó.
+ Giải quyết vấn đề: Giải quyết vấn đề có khả năng ra quyết định và cần
những khả năng tương tự. Qua thực hành, việc ra quyết định và giải quyết vấn đề
đúng lúc con người có thể xây dựng được những kĩ năng cần thiết đưa ra được sự
lựa chọn tốt nhất trong bất kì hồn cảnh nào mà họ gặp phải trong cuộc sống.
Theo quan điểm của Tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hiệp
Quốc (UNICESCO) dựa trên cơ sở là bốn mục tiêu cơ bản của việc học: Học để biết
– Học để làm người – Học để sống với người khác – Học để làm. Theo quan niệm
này thì KNS được chia thành:
- Các kĩ năng cơ bản: Kĩ năng đọc, viết, tính tốn cho các chức năng hàng
ngày. Những kĩ năng này khơng mang tính đặc trưng nhưng là nền tảng cho những
năng lực thực hiện các chức năng của cuộc sống.
- Các kĩ năng chung (kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng cảm xúc, kĩ năng xã hội)
như các kĩ năng quyết định, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng làm việc theo nhóm,
kĩ năng giao tiếp,….
- Các kĩ năng trong tình huống ngữ cảnh, vấn đề cụ thể trong đời sống hàng
ngày như:
+ Các vấn đề về giới, giới tính: là các vấn đề quan hệ giới tính, về sự hiểu
biết về giới tính.
+ Các vấn đề phịng chống HIV/ADIS, chống ma túy, rượu bia, thuốc lá,….
+ Các vấn đề về môi trường, phịng chống bạo lực,…
+ Các vấn đề gia đình, trường học,….
+ Các vấn đề sức khỏe, dinh dưỡng.

Ngồi ra, cịn có nhiều cách phân loại khác của nhiều tổ chức và các nhà
nghiên cứu khác trên thế giới và Việt Nam như: Tổ chức ESCAP (Hội đồng kinh tế
11


- xã hội Châu Á – Thái Bình Dương của Liên hợp Quốc) phân loại KNS thành 3
dạng:
+ KNS để phát triển cá nhân.
+ KNS để tạo mối quan hệ với người khác.
+ KNS cơng nghệ thơng tin.
Có thể nói, với mỗi quan điểm khác nhau lại có những cách phân loại khác
nhau, tuy nhiên các cách phân loại chỉ mang tính chất tương đối và có sự bao hàm
và liên quan chặt chẽ với nhau. Sự phân loại này, tựu chung lại có thể hiểu một
KNS có thể ở quan niệm này được phân loại phụ thuộc nhóm này nhưng theo quan
niệm khác nó lại phụ thuộc vào nhóm khác….Tuy nhiên, dù phân loại theo hình
thức nào thì những KNS sau đây được coi là KNS cốt lõi cần thiết nhất cho tất cả
mọi người, được 3 tổ chức UNESCO, WHO, UNICEF đã thống nhất quan trọng.
1. Kĩ năng ra quyết định
2. Kĩ năng giải quyết vấn đề
3. Kĩ năng tư duy sáng tạo
4. Kĩ năng tư duy phê phán/ suy nghĩ có phán đốn
5. Kĩ năng truyền thống có hiệu quả
6. Kĩ năng giao tiếp giữa người với người
7. Kĩ năng nhận thức bản thân
8. Khả năng thấu cảm
9. Kĩ năng ứng phó với cảm xúc, stress
Trong mỗi kĩ năng lại bao hàm nhiều kĩ năng nhỏ khác và hơn nữa ở mỗi
lĩnh vực khác nhau, nghề nghiệp khác nhau, hồn cảnh sống khác nhau thì vị trí và
tầm quan trọng của từng loại KNS lại khác nhau.
Việc trình bày các quan niệm về KNS theo nghĩa rộng hẹp khác nhau và các

dạng tồn tại đa dạng qua các cách phân loại KNS giúp hiểu rõ hơn về KNS.

12


1.1.3. Mối quan hệ giữa các kỹ năng sống
Trên thực tế các KNS hết sức đa dạng và tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, tuy
nhiên lại không độc lập tách rời nhau, các KNS ln có sự liên hệ mật thiết với
nhau, đan xen nhau, hàm chứa nhau và bổ sung cho nhau. Chính vì thế, khi làm một
việc có hiệu quả thì cũng đồng nghĩa với việc họ đã biết cách kết hợp nhịp nhàng và
nhuần nhuyễn các kĩ năng sẽ dễ dàng ứng phó linh hoạt và hiệu quả đối phó với
những nguy cơ rủi ro và những khó khăn trong cuộc sống, trong học tập hàng ngày.
Ví dụ: Khi cần giải quyết một vấn đề có hiệu quả thì những KNS sau đây
thường được vận dụng: Kĩ năng nhận thức, ra quyết định; Kĩ năng tư duy phê phán;
Kĩ năng tư duy sáng tạo; Kĩ năng quyết định
1.1.4. Ý nghĩa của việc rèn luyện kỹ năng sống
Việc rèn luyện KNS học sinh nói chung và việc rèn luyện KNS cho học sinh
THPT nói riêng có một ý nghĩa quan trọng. Tầm quan trọng của việc rèn luyện KNS
cho học sinh THPT được thể hiện cụ thể ở 4 vấn đề sau đây:
1.1.4.1. Kĩ năng thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội
Thực tế cho thấy, có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con người,
có nhận thức đúng chưa chắc đã có hành vi đúng.
Có thể nói, KNS chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức
thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có KNS phù hợp sẽ
ln vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề
một cách tích cực, phù hợp; họ trưởng thành hơn trong cuộc sống, ln u đời và
làm chủ cuộc sống của chính mình. Ngược lại, người thiếu KNS thường bị vấp váp,
dễ bị thất bại trong cuộc sống.
Không những thúc đẩy phát triển cá nhân, KNS còn thúc đẩy sự phát triển xã
hội, giúp ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con người. Việc giáo dục

KNS sẽ thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp nâng cao chất
lượng cuộc sống xã hội và giảm các vấn đề con người, quyền công dân được ghi
nhận trong luật pháp Việt Nam và quốc tế.
1.1.4.2. Rèn luyện kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ
Giáo dục KNS càng trở nên cấp thiết với thế hệ trẻ, bởi vì:
13


- Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ
quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có KNS, các
em sẽ khơng thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và
đất nước.
- Lứa tuổi HS là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu mơ
ước, ham hiểu biết, thích tìm tịi, khám phá song cịn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã
hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lơi kéo, kích động,…Đặc biệt trong bối cảnh
hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác
động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, ln được đặt vào hoàn cảnh
phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, áp lực
tiêu cực. Nếu không được giáo dục KNS, nếu thiếu KNS, các em dễ bị lôi kéo vào
các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ phát triển
lệch lạc về nhân cách.
Vì vậy, việc giáo dục KNS cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em rèn
luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc;
giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước những tình huống của cuộc sống,
xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ
động, an tồn, hài hịa và lành mạnh.
1.1.4.3. Rèn luyện kĩ năng sống nhằm thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông
Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển xã hội. Để thực hiện thành công sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, cần phải có những người lao động mới phát triển tồn diện, do vậy cần phải

đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới phổ thơng nói riêng. Nhiệm vụ đổi mới giáo
dục đã được thể hiện rõ ràng trong các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, trong
Luật Giáo dục năm 2005.
Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã
khẳng định mục tiêu là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục,
sách giáo khoa (SGK) phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

14


phù hợp với truyền thống và thực tiễn Việt Nam, tiếp cận với trình độ giáo dục phổ
thơng ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX (4 - 2001) đã đề ra nhiệm vụ: tiếp
tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung và PPDH.
Luật Giáo dục năm 2005, Điều 2 đã xác định: Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, mục tiêu của giáo dục phổ thông đã được chuyển từ chủ yếu trang
bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc
biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. Phương pháp giáo dục phổ thông
cũng đã được đổi mới theo hướng “Phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy sáng
tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành,
lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Rèn luyện KNS cho HS, với bản chất là hình thành và phát triển cho các em
khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với
xã hội, khả năng ứng phó với các tình huống của cuộc sống rõ ràng là phù hợp với
mục tiêu giáo dục phổ thông, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông.

Phương pháp rèn luyện KNS, với các phương pháp và kĩ thuật tích cực như:
hoạt động nhóm, giải quyết vấn đề, nghiên cứu các trường hợp điển hình, đóng vai,
trò chơi, dự án, tranh luận, động não, hỏi chuyên gia, viết tích cực,….cũng là phù
hợp với định hướng về đổi mới PPDH ở trường phổ thông.
1.1.4.4. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông là xu
thế chung của nhiều nước trên thế giới
Hiện nay, có hơn 155 nước trên thế giới quan tâm tới việc đưa KNS vào nhà
trường, trong đó có hơn 143 nước đã đưa vào chương trình chính khóa ở Tiểu học
và Trung học. Việc rèn luyện KNS cho HS ở các nước được thực hiện theo ba hình
thức: KNS là một mơn học riêng biệt; KNS được tích hợp vào một vài mơn học
chính; KNS được tích hợp vào nhiều hoặc tất cả các mơn học trong chương trình.
15


Tuy nhiên, chỉ có một số khơng đáng kể các nước đưa KNS thành một mơn
học riêng biệt, ví dụ như: Ma-la-wi, Cam-pu-chia,…Còn đa số các nước, để tránh
sự quá tải trong nhà trường, thường tích hợp KNS vào một phần nội dung môn học,
chủ yếu là các môn khoa học xã hội như: giáo dục sức khỏe, giáo dục giới tính,
quyền con người, giáo dục mơi trường,…Một số nước đã sử dụng tiếp cận “Whole
School Approach” trong đó có hình thức xây dựng “Trường học thân thiện” nhằm
thúc đẩy việc giáo dục KNS cho HS trong nhà trường.
Từ những lí do đã trình bày ở trên có thể khẳng định, việc rèn luyện KNS
cho HS trong các trường phổ thơng là rất cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt
1.2. Đặc điểm chương trình địa lí 10 trung học phổ thơng
1.2.1. Cấu trúc và nội dung chương trình địa lí 10 trung học phổ thơng
* Về nội dung cấu trúc chương trình gồm 2 phần, 10 chương, 42 bài:
Phần I. Địa lí tự nhiên gồm 4 chương, 21 bài
Phần II. Địa lí kinh tế - xã hội gồm 6 chương, 21 bài
Bảng 1.1. Cấu trúc và nội dung chương trình Địa lí 10
Số lượng bài

Tên chương

Phần



Thực

Nội dung chương

thuyết hành
ĐLTN Chương I. Bản đồ

3

1

- Đề cập đến phép chiếu bản đồ
Địa lí, một số phương pháp
thành lập và biểu hiện bản đồ.

Chương II. Vũ trụ và 2

0

- Trái Đất trong vũ trụ, các vận

các hệ quả chuyển

động chính của Trái Đất và các


động của Trái Đất

hệ quả của vận động đó.

Chương III. Cấu trúc 11

2

- Cấu trúc Trái Đất, các tác động

của Trái Đất và các

của nội và ngoại lực đến địa

quyển của lớp vỏ địa

hình bề mặt Trái Đất. Các quyển



của Trái Đất.

Chương IV. Một số 2

0

- Nêu lên một số quy luật của
lớp vỏ địa lí chi phối trực tiếp


quy luật của lớp vỏ
16


địa lí

đến sự phân hóa của tự nhiên
trên bề mặt Trái Đất.

ĐL

Chương V. Địa lí dân 3

KT-



1

- Đề cập đến các vấn đề dân cư
như: dân số, gia tăng dân số, cơ
cấu dân số, các loại quần cư và

XH

đô thị hóa.
Chương VI. Cơ cấu 1

0


- Các nguồn lực phát triển kinh
tế và cơ cấu nền kinh tế nói

nền kinh tế

chung.
Chương VII. Địa lí 3

1

- Vai trị, đặc điểm, các nhân tố
ảnh hưởng đến sự phát triển các

nông nghiệp

ngành nông nghiệp, các hình
thức sản xuất chủ yếu trong
nơng nghiệp.
Chương VIII. Địa lí 3

1

- Vai trị, đặc điểm, các nhân tố
ảnh hưởng đến sự phát triển và

công nghiệp

phân bố công nghiệp, các ngành
cơng nghiệp và một số hình thức
chủ yếu của tổ chức lãnh thổ

cơng nghiệp.
Chương IX. Địa lí 5

1

- Vai trị, đặc điểm, các nhân tố
ảnh hưởng đến một số ngành

dịch vụ

dịch vụ như giao thông vận tải,
thông tin liên lạc, thương mại.
Chương

X.

Môi 2

0

- Đề cập đến môi trường, tài

trường và sự phát

nguyên thiên nhiên và mối quan

triển bền vững

hệ giữa môi trường, con người
và sự phát triển bền vững.


17


* Về thời lượng chương trình:
Chương trình Địa lí lớp 10 – Ban cơ bản gồm 42 bài được phân bố 1,5 tiết/
tuần, trong đó học kì I 2 tiết/ tuần, học kì II 1 tiết/ tuần.
1.2.2 Mục tiêu chương trình địa lý 10 trung học phổ thơng
Sau khi học xong chương trình Địa lí 10 (chương trình chuẩn) học sinh cần
đạt được:
1.2.2.1 Về kiến thức
Học sinh hiểu và trình bày được những kiến thức phổ thông, cơ bản nhất về:
- Trái Đất với ý nghĩa là môi trường sống của con người bao gồm các thành
phần cấu tạo và tác động qua lại của chúng, một số quy luật chủ yếu của lớp vỏ địa
lí.
- Địa lí dân cư và một số khía cạnh văn hóa, xã hội của dân cư.
- Các hoạt động kinh tế chủ yếu của con người trên Trái Đất.
- Mối quan hệ giữa dân cư, các hoạt động sản xuất với môi trường và sự phát
triển bền vững.
1.2.2.2. Về kĩ năng
Củng cố và tiếp tục phát triển các kĩ năng:
- Quan sát, nhận xét, phân tích, tổng hợp, so sánh các sự vật, hiện tượng địa
lí cũng như kĩ năng đọc và sử dụng bản đồ, biểu đồ, số liệu thống kê.
- Thu thập, trình bày các thơng tin địa lí.
- Vận dụng kiến thức trong chừng mực nhất định để giải thích các sự vật,
hiện tượng địa lí và giải quyết một số vấn đề của cuộc sống, sản xuất gần gũi với
học sinh trên cơ sở tư duy kinh tế, tư duy sinh thái, tư duy phê phán.
1.2.2.3. Về thái độ, hành vi
- Có tình u thương thiên nhiên, con người, có ý thức và hành động thiết
thực bảo vệ môi trường xung quanh.

- Có ý thức quan tâm đến một số vấn đề liên quan đến Địa lí học ở trong và
ngoài nước.
- Thấy rõ trách nhiệm của bản thân trong công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội
của địa phương và của đất nước.
18


1.3. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh lớp 10 ở Trường
trung học phổ thông.
1.3.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 10 ở trường Trung học phổ thông
Lứa tuổi học sinh lớp 10 bao gồm giai đoạn từ 14 – 15 tuổi đến 17 – 18 tuổi.
Ở lứa tuổi này, các em có những đặc điểm:
- Về mặt thể chất đã có sự phát triển nhanh về mặt cơ thể và đang đi vào sự
phát triển hoàn thiện, ổn định về trọng lượng, chiều cao, cơ bắp, các bộ phận, chức
năng sinh lí đã phát triển và gần như hoàn hảo so với người lớn. Sự phát triển của
hệ thần kinh cũng có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức
tạp và các chức năng của não phát triển. Số lượng dây thần kinh liên hợp, kết hợp
các phần khác nhau của võ não tăng lên….
- Về mặt tính cách, các em có cá tính rất rõ rệt, cá tính được thể hiện ngay
trong các mối quan hệ xã hội, trong môi trường hoạt động nhận thức. Một trong
những tính cách rõ nét nhất là muốn khẳng định bản thân trước mọi người.
Tuổi thanh niên mới lớn là giai đoạn hình thành thế giới quan, hệ thống quan
điểm về xã hội, tự nhiên, về nguyên tắc và các quy tắc ứng xử trong xã hội. Từ
trong quan hệ xã hội, đặc biệt thông qua nội dung các môn học ở cấp trung học phổ
thơng như lịch sử, địa lí, vật lí, hóa học, tốn…giúp các em hình thành thế giới quan
khoa học biện chứng và phát triển tư duy trong quá trình phát triển.
1.3.2. Đặc điểm về nhận thức lứa tuổi học sinh lớp 10 ở trường Trung học phổ
thơng
Khơng chỉ thay đổi về đặc điểm sinh lí, tính cách mà ở lứa tuổi này, các em
cịn có nhưng thay đổi lớn về mặt nhận thức, sự thay đổi đó được thể hiện rõ:

a. Sự phát triển tri giác: Ở lứa tuổi này, khối lượng các đối tượng tri giác
được tăng lên rõ. Tri giác của các em có trình tự, có kế hoạch và hồn thiên hơn.
Tuy nhiên, ở tuổi này các em thường thiếu kiên trì, vội vàng, hấp tấp trong tri giác,
tính tổ chức và hệ thống tri giác cịn yếu. Chính vì vậy, người giáo viên cần rèn
luyện thêm cho các em trong các giờ học lí thuyết, cũng như thực hành.
b. Trí nhớ phát triển: Các em có khả năng sử dụng các loại trí nhớ một cách
hợp lí, biết tìm ra các phương pháp ghi nhớ, nhớ lại thích hợp, có hiệu quả, biết phát
19


huy vai trò của tư duy trong các trường hợp ghi nhớ. Mặc dù vậy, ghi nhớ của thiếu
niên ở độ tuổi này cịn nhiều thiếu sót, chính vì vậy giáo viên cần giúp các em phát
triển các loại ghi nhớ cần thiết.
c. Phát triển tư duy tượng tượng: Phát triển tư duy lí luận, tư duy trừu tượng,
cùng với các thao tác trí tuệ, tưởng tượng phong phú có cơ sở khoa học. Dựa vào
đặc điểm này cần hình thành, phát triển tư duy sáng tạo, tư duy phê phán với tư
cách là những KNS cho các em.
d. Phát triển nhận thức cảm tính: Cảm giác, tri giác tinh nhạy; óc quan sát
nhạy bén nhưng cịn mang tính vội vàng, trí nhớ có chủ định phát triển; chú ý chủ
định phát triển. Dựa vào đặc điểm này để hình thành và phát triển kĩ năng nhận
dạng vấn đề cho các em về các tình huống cụ thể của cuộc sống.
e. Tự ý thức phát triển mạnh: Tự nhận thức phát triển mạnh mẽ, sơi nổi và
mang tính đặc thù riêng: Các em vẫn tri giác đến những đặc điểm của cơ thể, hình
dáng của mình; Các em có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lí của
bản thân mình theo mục đích sống và hồi bão của mình; Tự ý thức của học sinh
xuất phát từ yêu cầu cuộc sống và hoạt động. Nhìn chung, các em nhận thức được
những đặc điểm và những phẩm chất của bản thân về mặt hình thể, nhân cách và
đặc biệt là về mặt giới tính.
f. Tự đánh giá: Phát triển rõ nét nhất so với các lớp trước nhưng chưa hồn
tồn ổn định. Cịn có sự đan xem giữa cái tơi đang có, cái tơi đang biến động và cái

tơi lí tưởng. Tự ý thức và đánh giá ở lứa tuổi học sinh lớp 10 phát triển khá mạnh
mẽ cho phép phát triển kĩ năng tự nhận thức và tự xác định giá trị ở các em.
g. Tính tự trọng cao, nhưng tính phê phán và sự phân tích chưa cao: cùng
với đặc điểm thế giới quan ở lứa tuổi này đã hình thành nhưng chưa sâu sắc, bền
vững đòi hỏi cần tăng cường phát triển kĩ năng tư duy phê phán cho các em.
Ngoài các yếu tố trên, thì ở lứa tuổi này nhận thức của các em cịn có sự thay
đổi về: Tính tích cực xã hội được phát triển khá mạnh (thích tham gia các hoạt động
xã hội); Đời sống tình cảm phong phú, đa dạng, giao tiếp ở lứa tuổi này phát triển
rộng về phạm vi và chất lượng; Tình bạn ở lứa tuổi học sinh lớp 10 cũng trở nên sâu

20


sắc, bền vững hơn; Đồng thời ở lứa tuổi này cịn phát triển mạnh tình bạn cùng giới
và xuất hiện tình bạn khác giới.
Những đặc điểm này cho phép hình thành và phát triển kĩ năng đồng cảm,
chia sẻ, thiên chí, hợp tác và các KNS cốt lõi để vận dụng vào giải quyết các vấn đề
nảy sinh trong tình bạn, tình cảm khác giới,….
1.4. Thực trạng của việc rèn luyện kĩ năng sống qua dạy học địa lí 10 ở một số
trường THPT tại tỉnh Quảng Nam
1.4.1. Thời gian, địa điểm và phương pháp khảo sát điều tra thực trạng
1.4.1.1. Mục tiêu điều tra
- Đánh giá được thực trạng về việc rèn luyện KNS cho HS của GV ở các
trường THPT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
- Quan niệm của GV về việc rèn luyện KNS của GV cho HS. Vấn đề sử dụng
phương pháp của GV để rèn luyện KNS của GV cho HS.
- Những hiểu biết của HS về KNS. Nguyên nhân của những mặt đạt được và
chưa đạt được về mức độ rèn luyện để hình thành các KNS cho HS ở trường THPT.
1.4.1.2. Thời gian và địa điểm điều tra
- Thời gian: Từ học kì II năm học 2011 - 2012

- Địa điểm điều tra: Một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
1.4.1.3. Nội dung điều tra
Để làm cơ sở thực tiễn cho đề tài, tiến hành thu thập thông tin, dữ liệu xung
quanh vấn đề về phương pháp rèn luyện KNS cho HS qua dạy học Địa lí 10 ở một
số trường THPT tại Quảng Nam
- Nhận thức của GV và HS về vai trò của phương pháp rèn luyện KNS cho học
sinh. Những ưu điểm, nhược điểm về phương rèn luyện KNS của giáo viên các
trường THPT.
- Những ưu điểm và nhược điểm về vấn đề rèn luyện KNS của HS qua việc
học Địa lí của HS ở một số trường THPT tại Quảng Nam.
1.4.1.4. Phương pháp điều tra
Xác định thông tin thu thập được là rất quan trọng. Vì thế, để có cái nhìn vừa
khái qt, vừa cụ thể, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
21


- Quan sát giờ dạy của bản thân và dự giờ các tiết dạy của HS khi rèn luyện
các KNS cho HS.
- Phỏng vấn GV và HS.
- Tiến hành điều tra bằng phiếu đối với GV và HS. Sử dụng hình thức xây
dựng bộ phiếu điều tra phát cho GV và HS, thu thập ý kiến và rút ra nhận xét.
1.4.2. Thực trạng rèn luyện kĩ năng sống ở một số trường THPT tại Quảng
Nam
1.4.2.1. Thực trạng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua dạy học
Địa lí của giáo viên ở trường THPT
a. Thực trạng quan niệm của giáo viên về việc rèn luyện KNS cho học sinh
Để đảm bảo kết quả điều tra, chúng tôi đã tiến hành điều tra khảo sát trên 15
giáo viên dạy địa lí ở trường THPT trên địa bàn Quảng Nam và chúng tôi đã thu
được rất nhiều kết quả khác nhau về vấn đề rèn luyện KNS cho học sinh.
Về tầm quan trọng của việc rèn luyện KNS, thì đa số các thầy cô đều cho rằng

rèn luyện KNS rất cần thiết. Không thầy cô nào cho rằng việc rèn luyện KNS cho
học sinh là không cần thiết.
Qua điều tra thực tế thì chúng tơi cũng đánh giá được về mức độ thường xuyên
của việc rèn luyện KNS cho học sinh của giáo viên ở các trường THPT tại Quảng
Nam, hầu hết các thầy cô được điều tra đều thường xuyên lồng ghép giáo dục KNS
cho học sinh.
Tuy nhiên, khi được hỏi về mức độ khó hay dễ trong việc lồng ghép rèn luyện
KNS qua dạy học Địa lí thì các thầy cơ đã có những ý kiến khác nhau, cụ thể:
Bảng 1.2. Ý kiến của giáo viên về việc rèn luyện KNS cho học sinh
Ý kiến

Số lượng giáo viên

Tỉ lệ (%)

Rất khó

0

0,0

Khó

2

13,3

Bình thường

12


80,0

Dễ

1

6,6

22


Với kết quả điều tra như trên, ta thấy mức độ khó hay dễ trong việc rèn luyện
KNS cho HS của thầy cơ là phụ thuộc vào trình độ chun mơn, cũng như những kĩ
năng về KNS mà GV có được để rèn luyện cho HS.
Như vậy, qua điều tra chúng ta có được những cái nhìn khách quan về những
quan niệm của giáo viên trong việc rèn luyện KNS cho học sinh. Hầu như tất cả
giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng, vai trò của việc rèn luyện KNS cho
học sinh. Điều này, tạo thuận lợi lớn cho quá trình lồng ghép giáo dục, rèn luyện
KNS cho học sinh qua việc dạy học bộ môn này.
b. Thực trạng sử dụng các phương pháp rèn luyện KNS cho học sinh của giáo viên
Bên cạnh điều tra thực trạng về quan điểm, qua điều tra chúng tôi cũng biết
được thực trạng sử dụng các phương pháp rèn luyện KNS cho học sinh của giáo
viên ở một số trường THPT tại Quảng Nam.
Về phương pháp rèn luyện, có nhiều ý kiến khác nhau, cụ thể: Hầu hết các
thầy cô sử dụng phương pháp đàm thoại và phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học Địa lí, cũng như trong việc rèn luyện KNS cho HS, số lượng các thầy cô chọn
hai phương pháp này là 9, chiếm 60,0%. Có 4 GV được hỏi đã sử dụng thêm
phương pháp động não, tỉ lệ này chiếm 26,6%. Và chỉ có 2 GV, chiếm 13,3% số
GV sử dụng tất cả các phương pháp để rèn luyện KNS cho học sinh thông qua dạy

học Địa lí.
Cũng qua điều tra, chúng tơi biết được thực trạng việc rèn luyện các KNS cụ
thể mà giáo viên rèn luyện cho học sinh. Đa số giáo viên được hỏi đều cho rằng,
loại kĩ năng họ thường rèn luyện cho học sinh là kĩ năng giao tiếp, làm chủ bản
thân, rất ít giáo viên rèn luyện tất cả các kĩ năng sống cho học sinh thơng qua dạy
học Địa lí.
Tuy nhiên, khi đánh giá về điều kiện rèn luyện KNS cho học sinh, thì đa số
thầy cơ cho rằng cịn gặp nhiều khó khăn trong q trình thực hiện như về phương
tiện dạy học, tư duy của học sinh, về nội dung cũng như phân phối chương trình và
khơng có thời gian thực hiện. Bởi thực tế, thời gian cho việc lồng ghép giáo dục
KNS cho học sinh trong chương trình Địa lí 10 là khơng nhiều.

23


1.4.2.2. Thực trạng việc rèn luyện kĩ năng sống của học sinh lớp 10 ở một số
trường THPT tại Quảng Nam
Cùng với việc tiến hành khảo sát lấy ý kiến giáo viên, chúng tôi đã tiến hành
điều tra khảo sát trên 182 học sinh lớp 10 ở hai trường THPT Nguyễn Duy Hiệu và
THPT Trần Quý Cáp, tỉnh Quảng Nam để tạo cơ sở cho việc đánh giá và kết luận về
tình hình rèn luyện KNS của học sinh lớp 10 ở trường THPT.
Qua điều tra thực tế thì trong tổng số 182 học sinh của 4 lớp 10 được hỏi về
sự hiểu biết, phân biệt các KNS với những hành động mang tính bản năng thơng
thường thì có 72,2 % học sinh hiểu và phân biệt được. Tuy nhiên, có vẫn có tới
27,8% học sinh khơng biết nhận biết, phân biệt được các KNS với các hoạt động
thông thường của con người.
Về tầm quan trọng của việc rèn luyện KNS, hầu hết ý kiến của các em đều
cho là cần thiết, kết quả điều tra cụ thể như sau:
Bảng 1.3. Ý kiến của học sinh về tầm quan trọng của việc rèn luyện KNS
Ý kiến


Số lượng học sinh

Tỉ lệ (%)

Rất cần thiết

68

37,4

Cần thiết

107

58,8

Bình thường

7

3,8

Khơng cần thiết

0

0

Theo kết quả điều tra trên, thì có tới 96,2 % số học sinh được hỏi đều nhận

thức được việc rèn luyện KNS cho học sinh là rất cần thiết và cần thiết, chỉ có 3,8 %
cho rằng việc rèn luyện KNS là khơng cần thiết.
Khi được hỏi về mức độ khó hay dễ khi rèn luyện KNS, chúng tôi thu được
kết quả như sau:
Bảng 1.4. Ý kiến của học sinh về mức độ khó, dễ khi rèn luyện KNS
Ý kiến

Số lượng học sinh

Tỉ lệ (%)

Rất khó

17

9,3

Khó

58

31,9

Bình thường

89

48,9

Dễ


18

9,9

24


Ta có thể thấy, đa số học sinh (48,9 %) cho rằng việc rèn luyện KNS là bình
thường, 41,1% số học sinh cho rằng việc rèn luyện KNS là rất khó và khó, và vẫn
có một số nhỏ học sinh cho rằng dễ khi rèn luyện các KNS.
Cũng qua điều tra, chúng tôi nhận được những câu trả lời khác nhau của các
em học sinh về mức độ rèn luyện KNS của các em qua việc học mơn Địa lí, đa số
các em được hỏi đều cho rằng thường xuyên rèn luyện KNS, tỉ lệ này chiếm 51,6 %.
Tuy nhiên, cũng có tới 48,3 % số học sinh được hỏi khơng rèn luyện hoặc ít rèn
luyện các KNS trong q trình học mơn Địa lí.
Tuy chỉ chiếm một tỉ lệ khơng lớn, nhưng chính những em học sinh khơng
phân biệt được KNS với các hành động bản năng, ít rèn luyện KNS cũng như những
em không nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện KNS lại thường gặp
lung túng trong việc tìm cách giải thốt khỏi tình trạng khủng hoảng, vượt qua
stress, những khúc mắc về tình cảm,…..Đó chính là những biểu hiện của sự thiếu và
yếu KNS.
Nhưng khi được hỏi về những KNS các em có thể rèn luyện được trong q
trình dạy học Địa lí thì có tới hơn 50% cho rằng, khi học Địa lí giúp các em rèn
luyện được các kĩ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, tư duy, làm chủ bản thân. Và
hầu hết các em cũng cho rằng việc lồng ghép giáo dục KNS qua dạy học Địa lí tạo
hứng thú học tập cho các em.
Như vậy, qua điều tra thực tế chúng ta thấy được tầm quan trọng cũng như
thực trạng của việc rèn luyện KNS cho học sinh lớp 10 ở một số trường THPT tại
Quảng Nam. Môn Địa lí được coi là mơn có nhiều nội dung kiến thức thực tiễn và

ứng dụng, khả năng tích hợp hiệu quả rèn luyện KNS cho học sinh. Tuy nhiên, thực
tế thì vấn đề rèn luyện KNS qua mơn học vẫn chưa được đánh giá một cách toàn
diện.

25


×