Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Vận dụng sách hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn ngữ văn vào thiết kế bài giảng phân môn văn học trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.9 KB, 97 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------

PHẠM THỊ HỒNG

Vận dụng sách Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến
thức kĩ năng môn Ngữ văn vào thiết kế bài giảng
phân mơn Văn học trung học phổ thơng

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP


2

LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của thầy giáo, GVC.Th.S. Nguyễn Đăng Châu.
Tôi xin cam đoan: Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tịi
của riêng tơi. Những gì được triển khai trong khóa luận
khơng trùng khớp với bất cứ một cơng trình nghiên cứu của
tác giả nào đã được công bố trước đó. Nếu sai tơi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Đà Nẵng, ngày 08 tháng 05 năm 2010
Sinh viên

Phạm Thị Hồng



3

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian cố gắng, tôi đã hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp với đề tài: Vận dụng sách Hướng dẫn thực hiện chuẩn
kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn vào thiết kế bài giảng phân
môn Văn học trung học phổ thông. Để hoàn thành đề tài này,
tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Sư phạm, Khoa Ngữ
Văn, Tổ Phương pháp giảng dạy cùng các quý thầy cơ giáo.
Qua đây, tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới gia
đình và bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cả về mặt vật chất
và tinh thần để tơi có động lực hoàn thành khóa luận trong thời
gian qua.
Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất
đến thầy giáo, GVC.Th.S. Nguyễn Đăng Châu, người đã trực
tiếp hướng dẫn, định hướng và chỉ bảo tận tình cho chúng tơi từ
khi nhận đề tài đến khi hoàn thành công việc.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, ngày 08 tháng 05 năm 2010


4

Sinh viên

Phạm Thị Hồng

Danh mục các chữ viết tắt:


STT
1

Kí hiệu viết tắt
CKT, KN

Nội dung viết tắt
Chuẩn kiến thức, kĩ năng
Chương trình giáo dục phổ thơng

2

CTGDPT

3

GV

Giáo viên

4

HS

Học sinh

5

KT, KN


Kiến thức, kĩ năng

6

PPDH

Phương pháp dạy học

7

QTDH

Quá trình dạy học

8

SGK

Sách giáo khoa Ngữ văn

9

SGV

Sách giáo viên Ngữ văn

10

SHD


11

THPT

Trung học Phổ thông

12

TKBG

Thiết kế bài giảng

13

VHDG

Văn học dân gian

Sách Hướng dẫn thực hiện chuẩn
kiến thức, kĩ năng môn Ngữ Văn


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc GV xây dựng kế hoạch bài giảng là một trong những yếu tố tạo nên sự
thành công của tiết dạy trên lớp. Những bài giảng có khi là một thiết kế chu đáo,
cẩn thận theo kinh nghiệm chun mơn, cũng có khi là những ý tưởng độc đáo, sáng

tạo xuất phát từ mục tiêu của từng bài học.
Vì vậy, TKBG là kế hoạch của GV cho từng tiết, từng bài lên lớp, chú trọng
đến các định hướng tích hợp và tích cực hóa hoạt động học tập của HS. Ở đó thể
hiện một cách khoa học nhưng vẫn có sự phong phú, hấp dẫn trong nhiều hình thức
tổ chức giảng dạy của GV. Cũng như vậy, GV cần thiết kế nội dung bài học sao cho
phù hợp với mục tiêu, đối tượng, nội dung, phương pháp và những điều kiện dạy
học trong mỗi bài giảng. Nhưng điều quan trọng nhất là việc đảm bảo những yêu
cầu tối thiếu về kiến thức cũng như kĩ năng trong mỗi bài học.
Đặc biệt, kết quả học tập mơn Ngữ văn ln có mặt trong hành trang vào đời
của mỗi HS. Ở đó, các em được trau dồi, hoàn thiện nhân cách, nuôi dưỡng tâm
hồn, ý thức dân tộc cũng như cách hành xử đạo đức đối với mọi người xung quanh.
Nhưng một thực tế đáng báo động hiện nay là phần lớn HS đang dần quay lưng lại,
đang khơng tích cực trong việc học tập các bộ môn xã hội, đặc biệt là phân môn
Văn học. Thực tiễn cho thấy, đội ngũ các nhà giáo đã và đang cố gắng nỗ lực trên
con đường tìm kiếm sự hứng thú mới mẻ, sáng tạo trong TKBG cũng như trong
phương pháp lên lớp phân môn Văn học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Trên
thực tế, việc GV sử dụng SGK, SGV, SHD và các tài liệu tham khảo chuyên ngành
áp dụng với từng đối tượng học, từng lớp học theo CTGDPT là không dễ dàng.


6

Để kĩ năng TKBG đạt được hiệu quả thì việc GV vận dụng SHD thực hiện
CKT, KN vào TKBG trở thành điều kiện tiên quyết. Đây được coi là điểm mới của
CTGDPT trong những năm gần đây. Qua TKBG, các nhà quản lý giáo dục, các nhà
giáo có cơng cụ thể hiện một cách hiểu đúng và làm đúng theo CKT, KN của nội
dung dạy học như qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Bên cạnh những thuận lợi trong việc đổi mới PPDH thì hiện nay việc vận
dụng SHD còn nhiều bất cập trong việc TKBG của GV. Khơng những vậy, ngay
trong nội dung biên soạn SHD cịn tồn tại những hạn chế về mặt trình bày hình

thức, đánh giá kiến thức trọng tâm có nhiều sai lệch. Điều này dẫn tới sự hoang
mang trong việc tiếp nhận kiến thức từ phía HS, gây tình trạng khơng đồng bộ giữa
kiến thức SGK, SGV, SHD và các tài liệu tham khảo khác.
Một thực tế nữa là tại các trường THPT hiện nay đã bước đầu vận dụng được
SHD trong giảng dạy, học tập, kiểm tra và đánh giá; song vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ thơng.
Thiết nghĩ, để khắc phục những khó khăn trên thì cần phải quan tâm, chú
trọng sửa đổi hơn nữa từ ban quản lý giáo dục, các nhà chuyên mơn và khơng thể
thiếu là sự góp ý tích cực từ đội ngũ các nhà giáo giảng dạy tại các cơ sở . Điều này
có ý nghĩa góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục dạy học phân mơn Văn
học trong mơn Ngữ văn trong chương trình THPT và hoàn thiện bộ máy Giáo dục
nước nhà.
Từ những lý do và mục đích trên, với hy vọng có những định hướng hữu ích
giúp GV và HS đạt các CKT, KN đã được xây dựng trong chương trình chuẩn Ngữ
Văn THPT, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Vận dụng sách Hướng dẫn thực
hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ Văn vào thiết kế bài giảng phân môn
Văn học trung học phổ thông”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong thời gian hạn hẹp cũng như những điều kiện khó khăn khác, chúng tơi
chưa tìm được cơng trình nghiên cứu cụ thể nào liên quan trực tiếp đến đề tài. Đó
chỉ là những cuộc hội thảo, những ý kiến về vấn đề phương pháp dạy học Văn và
Văn học hoặc là vấn đề hướng dẫn dạy và học Ngữ văn theo CKT, KN trong
CTGDPT. Cụ thể là:


7

Việc chúng tôi chọn đề tài này xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương PPDH
đã được quy định tại Luật giáo dục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày 14 tháng 6 năm 2005 ở Khoản 2 Điều 5: “Phương pháp giáo dục phải phát

huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho
người học năng lực tự học, lịng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Cũng theo đó,
ngày 05/ 05/ 2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kí Quyết định số 16/ 2006/
QĐ- BGD&ĐT về việc ban hành CTGDPT.
Ngay trong Lời giới thiệu của SHD, nhóm biên soạn cũng đã nhấn mạnh:
“Trong chương trình giáo dục phổ thơng, Chuẩn kiến thức, kĩ năng được thể hiện, cụ
thể hóa ở các chủ đề của chương trình mơn học, theo từng lớp học; đồng thời cũng
được thể hiện ở phần cuối của chương trình mỗi cấp học” [8, tr.3] .
Tác giả Phan Trọng Luận trong cuốn Dạy học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng
môn Ngữ Văn lớp 12 đã khẳng định: “Điểm mới của CTGDPT lần này là đưa CKT,
KN vào thành phần của CTGDPT, đảm bảo việc chỉ đạo dạy học, kiểm tra, đánh giá
theo CKT, KN tạo nên sự thống nhất trong cả nước. CKT, KN thể hiện, cụ thể hó a ở
các chủ đề của chương trình mơn học, theo từng lớp học; đồng thời cũng được thể
hiện ở phần cuối của chương trình cấp học” [26, tr.5]. Song, cùng trang sách, tác giả
cũng đã nêu: “Ở các trường phổ thông hiện nay, bước đầu đã vận dụng được CKT,
KN trong giảng dạy, học tập, kiểm tra, đánh giá; song vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của đổi mới giáo dục phổ thông, cần phải được tiếp tục quan tâm, chú trọng hơn
nữa” [Lo.cit ].
Nối tiếp quan điểm đó, khi hướng về việc học tập của HS theo Chuẩn thì Lê
Anh Xuân trong cuốn Hướng dẫn học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng Ngữ Văn lớp
11 đã có lời nói đầu: “Trong thực tế, khi không nắm vững CKT, KN, HS sẽ hoặc là
không đáp ứng được yêu cầu của các kì kiểm tra, đánh giá; hoặc ln xác định là KT,
KN mà mình có chưa đủ để đáp ứng các yêu cầu KT, ĐG, dẫn đến việc tăng áp lực
học hành” [33, tr.3]. Việc sử dụng SHD sẽ “góp phần khắc phục tình trạng quá tải
của chương trình ở tất cả các bậc học, lớp học”.
Với đề tài này, chúng tơi xin có hướng đi mới cho việc hình thành kĩ năng
TKBG phân môn Văn học trong môn Ngữ Văn THPT. Những mong sẽ tìm hiểu
được thực trạng vận dụng SHD vào TKBG của GV hiện nay. Từ đó, xin đưa ra



8

những kiến nghị cụ thể giúp cho công việc TKBG của GV được đảm bảo theo CKT,
KN cũng như góp phần rèn luyện kỹ năng hình thành tư duy, thái độ tích cực của
HS trong việc học tập.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng sách Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến
thức, kĩ năng môn Ngữ Văn vào thiết kế bài giảng phân môn Văn học trong
CTGDPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Phân môn Văn học trong sách Ngữ Văn chương
trình lớp 10, lớp 11, lớp 12 (chương trình mỗi lớp gồm tập I và tập II)
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp so sánh: Với phương pháp nghiên cứu này, chúng tôi tiến
hành so sánh CKT, KN giữa nguồn ngữ liệu SGK với việc TKBG qua các tài liệu
tham khảo của GV như: SGV, sách TKBG, SHD ( lớp 10, lớp 11 và lớp 12).
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trong q trình so sánh nội dung
KT, KN, hình thức trình bày khoa học giữa các tài liệu nêu trên, chúng tôi tiến hành
phân tích, tổng hợp theo những tiêu chí đạt chuẩn, vượt chuẩn, nâng cao chuẩn và
có sự đồng bộ hay có sai lệch giữa các chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng đào tạo theo
CTGDPT.
4.3. Phương pháp tiếp cận thực tiễn: Từ thực tiễn học tập, kiến tập, thực
tập trong môi trường giáo dục phổ thông, thời gian qua, chúng tôi tiến hành khảo sát
thực tế, tham khảo ý kiến chuyên gia để thấy được thực trạng vận dụng SHD vào
phân mơn Văn học trong CTGDPT. Từ đây, có cơ sở xây dựng một vài kiến nghị
đối với yêu cầu thực hiện TKBG theo chuẩn, đồng thời có những đề xuất, những ý
kiến trong việc điều chỉnh, chỉnh lý SHD ngày một hiệu quả, đạt chuẩn giáo dục.
5. Bố cục của khóa luận
Luận văn của chúng tơi với đề tài: “Vận dụng sách Hướng dẫn thực hiện
chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn vào thiết kế bài giảng phân môn Văn học
trung học phổ thông”, ngoài phần Mở đầu, Kết luận và phần Tài liệu tham khảo

thì bố cục bài luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề luận chung


9

Chương II: Vận dụng SHD để TKBG phân môn Văn học theo yêu cầu CKT,
KN
Chương III: Một vài kiến nghị trên thực tế vận dụng SHD nhằm TKBG
phân môn Văn học

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1.Giới thiệu chung về Chuẩn kiến thức kĩ năng
1.1.1.Quan niệm về Chuẩn
Chuẩn là những yêu cầu, tiêu chí (gọi chung là yêu cầu) tuân thủ những
nguyên tắc nhất định, được dùng để làm thước đo đánh giá hoạt động, công việc,
sản phẩm của lĩnh vực nào đó. Đạt được những yêu cầu của chuẩn là đạt được mục
tiêu của chủ thể quản lý hoạt động, cơng việc, sản phẩm đó.
Chuẩn phải có tính khách quan, khơng lệ thuộc vào quan điểm hay thái độ
chủ quan của người sử dụng Chuẩn. Chuẩn phải có hiệu lực ổn định về cả phạm vi
và thời gian áp dụng. Chuẩn phải đảm bảo tính khả thi, điều này có nghĩa Chuẩn có
thể đạt được, có sự dung hoà, hợp lý giữa yêu cầu phát triển ở mức cao hơn so với
những thực tiễn đang diễn ra. Chuẩn phải đảm bảo tính cụ thể, tường minh và có
chức năng định lượng, khơng mâu thuẫn với các chuẩn khác trong cùng lĩnh vực và
các lĩnh vực khác liên quan.
Chuẩn có tác động ở nhiều mức độ, từ cấp trường tới các cấp cao hơn, với
nhiều thành phần như HS, GV, các cấp quản lý, phụ huynh HS. Điều này có thể
được diễn đạt như sau:
Đối với người học: Chuẩn đặt các mong đợi cụ thể cho người học, giúp

người học hiểu những gì cần làm để đạt được chuẩn.
Đối với người giảng dạy: Chuẩn giúp cho giáo viên TKBG, tổ chức việc học
tập, kiểm tra và đánh giá tập trung vào các chuẩn cần đạt. Khi giáo viên làm được
điều này, việc học tập và giảng dạy sẽ có định hướng hơn so với trước.


10

Đối với các cấp quản lý: Chuẩn cung cấp cho các cấp quản lý công cụ để
giám sát, quản lý, chỉ đạo việc dạy và học có hiệu quả hơn, tập trung được nguồn
lực vào những yêu cầu trọng tâm. Đảm bảo được việc dạy và học thống nhất trên
toàn quốc.
Theo PGS.TS Vũ Nho, Viện khoa học giáo dục Viêt Nam đã thống kê CKT,
KN có ba loại, hay có thể coi là ba mức độ có liên quan từ thấp đến cao. Cụ thể như
sau:
“Chuẩn tối thiểu: Thể hiện điều cần thiết và cơ bản mà mọi HS tại một trình
độ nhất định phải biết và nắm vững được.
Chuẩn thông dụng: Thể hiện mức chuẩn mà một độ tuổi và trường học nhất
định có thể nắm được. Chuẩn này thể hiện mức trung bình mà HS có thể thực hiện
nhiều hơn hoặc ít hơn.
Chuẩn tối đa: Thể hiện trong những khả năng có thể đạt được về lý thuyết.
Chuẩn này ít được định hướng trong kết quả của HS và được định hướng nhiều hơn
ở ý nghĩa học thuật. Chuẩn này thích hợp cho việc phân loại kết quả của HS nhưng
khơng thích hợp cho việc giảng dạy cụ thể” [37].
1.1.2.Những yêu cầu cơ bản của chuẩn
Yêu cầu là sự cụ thể hóa, chi tiết, tường minh Chuẩn, chỉ ra những căn cứ để
đánh giá chất lượng. Yêu cầu có thể được đo thơng qua chỉ số thực hiện. Yêu cầu
được xem như những “chốt kiểm soát” để đánh giá chất lượng đầu vào, đầu ra cũng
như quá trình thực hiện.
Chuẩn bao gồm những yêu cầu cơ bản như:

- Chuẩn phải có tính khách quan, nhìn chung khơng lệ thuộc vào quan điểm
hay thái độ chủ quan của người sử dụng Chuẩn.
- Chuẩn phải có hiệu lực ổn định cả về phạm vi lẫn thời gian áp dụng.
- Đảm bảo tính khả thi, có nghĩa là Chuẩn đó có thể đạt được
- Đảm bảo tính cụ thể, tường minh và có chức năng định lượng.
- Đảm bảo khơng mâu thuẫn với các chuẩn khác trong cùng lĩnh vực hoặc
những lĩnh vực có liên quan.
1.1.3.Những vấn đề về Chuẩn kiến thức, kĩ năng


11

CKT, KN là quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về yêu cầu KT, KN tối
thiểu cho từng môn học của CTGDPT. CKT, KN là những yêu cầu cơ bản, tối thiểu
về KT, KN của môn học hay hoạt động giáo dục mà HS cần phải có và có thể đạt
được sau từng giai đoạn học tập. Chuẩn được xác định với các chủ đề và mức độ
cần đạt làm căn cứ để xác định mục tiêu, đối tượng, nội dung, phương pháp và các
hình thức tổ chức dạy học phối hợp với đặc trưng môn học.
Các mức độ về KT, KN được thể hiện cụ thể trong CKT, KN của CTGDPT:
Về kiến thức: Yêu cầu HS phải nhớ, nắm vững, hiểu rõ các kiến thức cơ bản
trong chương trình, SGK, đó là nền tảng để có thể phát triển năng lực nhận thức ở
cấp cao hơn.
Về kĩ năng: Biết vận dụng các kiến thức đã học để trả lời câu hỏi, giải bài
tập, làm thực hành, thực hiện các hoạt động giao tiếp.
CKT, KN chỉ là yêu cầu tối thiểu đối với mỗi HS. Còn muốn đạt kết quả tối
đa, HS phải ôn tập để đạt được những yêu cầu cao hơn.
1.1.3.1. Đặc điểm của Chuẩn kiến thức, kĩ năng
- CKT, KN được chi tiết hoá, tường minh hoá bằng các yêu cầu cụ thể, rõ
ràng về KT, KN, có thể được minh chứng bằng các ví dụ thể hiện được cả nội dung
KT, KN và mức độ cần đạt về KT, KN tương ứng.

- CKT, KN có tính tối thiểu, nhằm đảm bảo mọi HS cần phải và có thể đạt
được những yêu cầu cụ thể này.
- CKT, KN là thành phần của CTGDPT.
Trong CTGDPT, CKT, KN và yêu cầu về thái độ đối với người học được thể
hiện, cụ thể hoá ở các chủ đề của chương trình mơn học theo từng lớp và ở các lĩnh
vực học tập. Đồng thời, CKT, KN và yêu cầu về thái độ cũng được thể hiện ở phần
cuối của chương trình mỗi cấp học.
CKT, KN là thành phần của CTGDPT nên việc chỉ đạo dạy học, kiểm tra,
đánh giá theo CKT, KN sẽ tạo nên sự thống nhất; hạn chế tình trạng dạy học quá
tải, đưa thêm nhiều nội dung nặng nề, quá cao so với CKT, KN; góp phần làm giảm
tiêu cực của dạy thêm, học thêm; tạo điều kiện cơ bản, quan trọng để có thể tổ chức
giảng dạy, học tập, kiểm tra, đánh giá và thi theo CKT, KN.
1.1.3.2. Các mức độ nhận thức trong Chuẩn kiến thức, kĩ năng


12

a. Nhận biết: HS nhận ra, nhớ lại các sự kiện, hiện tượng, khái niệm, định lý,
tính chất, hệ quả đã học. Đây là cấp độ nhận thức thấp nhất, chỉ yêu cầu HS nhận ra,
nhớ lại kiến thức đã biết. Cấp độ này thường được thể hiện thông qua những hành
động, thao tác HS phải thực hiện trong những tình huống cụ thể: nhận dạng, liệt
kê, kí hiệu, nhớ lại,...
b. Thơng hiểu: HS mơ tả, giải thích được khái niệm, tính chất đã học; nhận ra
khái niệm, tính chất đó ở các dạng thể hiện khác với dạng đã học; sử dụng khái
niệm, tính chất đã học trong tình huống quen thuộc. Đây là cấp độ cao hơn và bao
hàm cấp độ Nhận biết. Cấp độ này thường được thể hiện thông qua những hành
động, thao tác HS phải thực hiện trong những tình huống cụ thể: chuyển đổi; minh
hoạ, phân biệt, so sánh, sắp xếp, giải thích; tóm tắt, thực hiện….
c. Vận dụng: HS sử dụng các khái niệm, tính chất đã học để giải quyết được
vấn đề trong tình huống mới, địi hỏi sáng tạo. Đây là cấp độ cao hơn và bao hàm

cấp độ Thông hiểu. Cấp độ này thường được thể hiện thông qua những hành động,
thao tác HS phải thực hiện trong những tình huống cụ thể: Vận dụng các quy tắc;
biện luận; chứng minh; giải thích….
d. Phân tích: Là khả năng phân chia một thông tin ra thành các phần thông
tin nhỏ sao cho có thể hiểu được cấu trúc, tổ chức của nó và thiết lập mối liên hệ
phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng: Luận điểm, luận cứ, dẫn chứng....
e. Đánh giá: Là khả năng xác định giá trị của thông tin: bình xét, nhận định,
xác định được giá trị của một tư tưởng, một nội dung kiến thức, một phương pháp.
f. Sáng tạo: Là khả năng tổng hợp, sắp xếp, thiết kế lại thông tin; khai thác,
bổ sung thông tin từ các nguồn tư liệu khác để sáng lập một hình mẫu mới.
Tuy nhiên, trong CTGDPT, chủ yếu đề cập đến 3 mức độ đầu. Các mức độ
còn lại chú trọng phát huy năng khiếu, sở trường, năng lực sáng tạo của HS.
1.1.3.3. Các mức độ về kĩ năng
Về kĩ năng: Biết vận dụng các kiến thức đã học để trả lời các câu hỏi, giải bài
tập, áp dụng phân tích, cảm nhận, đáng giá trên cơ sở kiến thức đã có...
Thơng thường kĩ năng được xác định theo 3 mức độ:
- Thực hiện được
- Thực hiện thành thạo


13

- Thực hiện sáng tạo
Tuy nhiên, trong CTGDPT, chủ yếu đề cập đến 2 mức độ đầu; mức độ còn
lại chú trọng phát huy năng khiếu, sở trường, năng lực sáng tạo của HS.
1.1.3.4. Vai trò của Chuẩn kiến thức, kĩ năng
CKT, KN là căn cứ để :
a. Biên soạn SGK và các tài liệu hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá, đổi mới các
PPDH, đổi mới việc kiểm tra, đánh giá.
b. Chỉ đạo, quản lý, thanh tra, kiểm tra thực hiện việc dạy học, kiểm tra, đánh

gía, sinh hoạt chuyên môn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và GV.
c. Xác định mục tiêu mỗi giờ học, mục tiêu của quá trình dạy học.
d. Xác định mục tiêu kiểm tra, đánh giá đối với từng bài kiểm tra, bài thi;
đánh giá kết quả giáo dục từng môn học, cấp học.
1.1.4.Đánh giá chất lượng giáo dục dựa trên Chuẩn kiến thức, kĩ năng
Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu giáo dục được
quy định tại Luật Giáo dục. Mục tiêu giáo dục thể hiện ở những đòi hỏi của xã hội
với con người mà mơi trường có nhiệm vụ phải đào tạo. Chất lượng giáo dục khơng
chỉ gắn bó chặt chẽ với mục tiêu mà cịn có một hệ thống yếu tố trực tiếp hoặc gián
tiếp tạo nên nó.
“Cần xem xét chất lượng giáo dục trong mối quan hệ của 3 thành tố :
- Đặc điểm của người học (động cơ, thái độ, trình độ, mức độ nhận thức, các
khó khăn...).
- Các đầu vào cần thiết và quá trình vận hành (thời gian, nguồn lực, điều
hành quản lý...)
- Các kết quả đạt được (KT, KN, thái độ).
Điều này có ý nghĩa về mặt phương pháp luận đối với hoạt động đánh giá,
đặc biệt liên quan tới nội sung và cách thức đánh giá’’ [13, tr.162].
Đánh giá là một thành tố quan trọng không thể thiếu được trong quá trình
giáo dục. Đánh giá thường ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ
trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất
lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục.


14

Đánh giá chất lượng là hoạt động đánh giá các đối tượng của giáo dục (gọi tắt là
đối tượng) về mức độ đáp ứng các Quy định về chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục đối
với từng đối tượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Đánh giá chất lượng giáo dục nhằm xác định mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục

trong từng giai đoạn của đối tượng được đánh giá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục;
thông báo công khai với các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội về thực trạng chất
lượng giáo dục; để cơ quan chức năng đánh giá và công nhận đối tượng đạt chuẩn chất
lượng giáo dục.
Đánh giá phải luôn đặt trong mối quan hệ các thành phần cấu trúc của
QTDH. Có thể minh họa mối quan hệ giữa các yếu tố ấy qua mơ hình sau:
Xác định
mục tiêu
Đặc điểm,
nhu cầu của
đối tượng

- Xác
định nội
dung
- Tổ chức
QTDH và
tạo động


Lựa
chọn và
sử dụng
phương
pháp

Đánh
giá
việc
dạy


Kết
thúc
QTDH

Chất
lượng
giáo dục
Mơ hình đánh giá chất lượng giáo dục
Căn cứ vào CKT, KN, các cơ quan quản lý giáo dục và các trường xác định
mục tiêu kiểm tra, đánh giá đối với từng bài kiểm tra, bài thi, đánh giá kết quả giáo
dục từng môn học, lớp học, cấp học, chỉ đạo, quản lý, thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện dạy học. Đặc biệt GV trên lớp là người trực tiếp đánh giá chất lượng giáo dục
và coi như đó là một phần của QTDH.
Có thể dùng hình thức đánh giá đồng đẳng để nâng cao chất lượng học tập
của HS trong việc phát huy tính tích cực, sáng tạo và tự giác của HS. Hình thức này
được hiểu như là việc bạn bè trong một lớp, một nhóm, một độ tuổi sẽ đánh giá kết
quả công việc của nhau. Đây được coi là phương pháp dùng để hỗ trợ HS trong
QTDH. HS sẽ tự đánh giá bằng những tiêu chí được GV hướng dẫn định sẵn.


15

Điều này được tóm tắt như sau:
Loại hình đánh giá

Mục đích

Kiến thức


Đánh giá kết quả

Kĩ năng

Đánh giá q trình

Thái độ

Hình thức đánh giá
Kiểm tra
Phản hồi cho HS, uốn nắn sai sót,
nhằm duy trì sự tiến bộ

Tự đánh giá hoặc

Tự đánh giá để nghiên cứu chất

đánh giá đồng đẳng

lượng học tập

Tùy từng mục tiêu bài học, GV biết cách vận dụng giữa nội dung và các
PPDH tích cực:
Với HS trung bình thì GV cần bám sát chuẩn tối thiểu để các em nắm được
kiến thức cơ bản. Đây gọi là mức đạt Chuẩn.
Với HS giỏi thì ngoài kiến thức chuẩn, GV cần phải mở rộng thêm để phát
huy tính sánh tạo của các em HS. Đây gọi là mức vượt Chuẩn.
Đặc biệt, đối với HS ở các trường THPT, ngoài việc dạy cho các em nắm
vững kiến thức cơ bản, GV cần phải mở rộng và nâng cao thêm. Lý do là các em
HS còn tham gia kỳ thi tốt nghiệp THPT và các kỳ thi tuyển sinh tại các trường đại

học, cao đẳng trên cả nước. Đây gọi là mức nâng cao chất lượng Chuẩn.
Vì vậy, GV cần nâng cao hơn nữa chất lượng các câu hỏi trong tiết học và đề
kiểm tra, giảm số câu hỏi tái hiện, tăng tỷ lệ các câu hỏi yêu cầu tư duy, tích cực
sáng tạo, chú trọng nhận xét sửa chữa các câu trả lời từ phía HS. Có thể coi, GV là
lực lượng quyết định đến sự thành bại của quá trình đạt Chuẩn, vượt Chuẩn và nâng
cao Chuẩn.
Tuy nhiên, thực tế những năm qua cho thấy: mặc dù CTGDPT đã có những
đổi mới theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học, hướng đến việc phát
triển và hoàn thiện năng lực của mỗi cá nhân nhưng vấn đề đánh giá chất lượng cịn
nhiều điểm bất cập (từ mục đích, phương pháp, quy trình, một số kĩ thuật cụ thể).
Cách đánh giá vẫn chưa đảm bảo được tính cảm xúc, khách quan. Cán bộ quản lý và
GV chưa được trang bị một cách đầy đủ các phương pháp và kĩ thuật đánh giá.
1.2.Chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình trung học phổ thông


16

Ngày 05/05/2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT về việc ban hành Chương trình Giáo dục phổ thơng.
Điểm mới của CTGDPT lần này là đưa CKT, KN vào thành phần của
CTGDPT, đảm bảo việc chỉ đạo dạy học, kiểm tra, đánh giá theo CKT, KN tạo nên
sự thống nhất trong cả nước; góp phần khắc phục tình trạng quá tải trong giảng dạy,
học tập; hạn chế dạy thêm, học thêm.


17

1.2.1.Chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình mơn Văn học
CKT, KN trong chương trình mơn học là các u cầu cơ bản, tối thiểu về
KT, KN của môn học mà học sinh cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị kiến

thức (mỗi bài, chủ đề, chủ điểm).
Trong quá trình học tập, HS cần linh hoạt vận dụng giữa kiến thức và kĩ năng
của bài học. Tùy vào nội dung bài học, HS có những tri thức mới, phục vụ đắc lực
trong việc kiểm tra, đánh giá của ban quản lý chất lượng giáo dục. Ngay trong bản
thân người HS đã hình thành thị hiểu thẩm mỹ, khả năng cảm thụ văn chương qua
từng loại hình văn học.
Ở bài văn học sử cung cấp tri thức khoa học về lịch sử văn học cho HS để
HS có kĩ năng khái quát, tổng hợp kiến thức cơ bản của cả một nền văn học, về từng
bộ phận văn học, từng thời kỳ và từng giai đoạn văn học. HS có kĩ năng nắm vững
bối cảnh lịch sử đã tạo dựng nên các đặc trưng riêng cho từng thể loại (ca dao, dân
ca, thơ, kí, kịch, truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết… ). Có cái nhìn bao qt của
cả một nền văn học, từng bộ phận, từng thời kỳ văn học và từng tác gia văn học với
những tác phẩm văn chương điển hình.
Ở mỗi thể loại văn học cụ thể, dưới sự hướng dẫn giảng dạy của GV, cùng
các PPDH cụ thể, HS dần hình thành kĩ năng tiếp nhận những nội dung, những mục
tiêu cần đạt cho từng tiết học. GV có thể xây dựng các dạng câu hỏi, các dạng bài
tập dưới nhiều hình thức như gợi mở, vấn đáp, đàm thoại, thảo luận.. để cùng giải
quyết vấn đề. Việc dạy học tích hợp với những hoạt động dạy học hiệu quả sẽ tạo
dựng niềm say mê, hứng thú học tập văn chương từ phía HS.
Khi đã nắm rõ mức CKT, KN cần đạt cho nội dung bài học thì HS có khả
năng viết bài cảm thụ, phân tích, bình giá trên tinh thần sáng tạo tích cực. Xây dựng
cơ sở thực tiễn trong việc kiểm tra, đánh giá hiệu quả, hạn chế việc HS phụ thuộc
vào những bài văn mẫu đang tràn làn trên thị trường hiện này.
Cũng cần nói thêm, TKBG mơn Văn học theo CKT, KN, GV phải dựa trên
cơ sở phát triển năng lực, trí tuệ, thái độ của HS ở các mức độ từ đơn giản đến phức
tạp; bao hàm các mức độ khác nhau của nhận thức để HS có những sáng tạo, những
thị hiểu thẩm mỹ lành mạnh cho bạn đọc- HS. Việc tiếp xúc với các tác phẩm văn
chương dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV sẽ giúp các em HS khơng những có



18

rung cảm với cái đẹp, cái hay trong tác phẩm mà của có khả năng đánh giá đúng
đắn giá trị văn chương của nó. Hệ thống hình tượng nhân vật được tích lũy qua q
trình học tập cùng với sự hiểu biết về nghệ thuật ngày càng nhiều sẽ nâng cao KT,
KN và thái độ trân trọng cái Thiện, cái Mỹ, cái Chân trong nghệ thuật văn chương
và trong cuộc sống.
1.2.2.Vai trò của sách Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng mơn Ngữ
văn trong chương trình THPT
Dạy và học theo CKT, KN tạo ra sự thống nhất về mục tiêu và kết quả giữa
quá trình dạy của GV, quá trình học của HS và quá trình quản lý, thi cử và đánh giá
kết quả học tập của HS. GV biết được cái đích tối thiểu về KT, KN mà mình cần
trang bị cho HS, HS biết được cái đích cuối cùng mình cần học tập và rèn lụn để
đạt tới, cơ quan quản lý có căn cứ để ra đề thi, kiểm tra, đánh giá sao cho phù hợp
với việc dạy và học.
Vì vậy, SHD do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành được coi là kim chỉ nam,
định hướng cho các cán bộ quản lý cũng như các nhà giáo dục và GV hướng đến đạt
chuẩn chất lượng giáo dục. Dù GV có nhiều nguồn tham khảo để TKBG như SGK,
SGV, sách TKBG và các sách tài liệu tham khảo chuyên ngành nhưng người giáo
dục luôn cần căn cứ vào những định hướng về CKT, KN, thái độ để thiết kế dạy học
nhằm đạt được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu của giờ học, tránh lệ thuộc hoàn toàn
vào SGK hay cố dạy hết toàn bộ nội dung mà SGV nêu ra dẫn đến thiếu thời gian,
q tải, nặng về thuyết trình. Do đó, ngoài việc nghiên cứu kĩ chương trình, SGK,
SGV và các điều kiện dạy học khác (đặc điểm đối tượng HS, trang thiết bị dạy
học…), trước giờ dạy GV còn phải nghiên cứu tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn
kiến thức- kĩ năng môn Ngữ văn để xác định những phạm vi KT, KN mà HS cần
phải đạt được sau tiết học.
Cũng từ mức đạt chuẩn, có thể căn cứ vào khả năng tiếp thu của HS, vào
mục tiêu bồi dưỡng HS năng khiếu... mà GV có thể điều chỉnh, bổ sung để dạy,
kiểm tra vượt chuẩn, nâng cao chuẩn, đáp ứng chương trình đào tạo trong và ngoài

nước.


19

1.2.3. Quan hệ giữa sách giáo khoa, sách hướng dẫn và sách giáo viên
CKT, KN và yêu cầu về thái độ của CTGDPT bảo đảm tính thống nhất, tính
khả thi, tính phù hợp của Chương trình đồng thời bảo đảm chất lượng và hiệu quả
của quá trình giáo dục.
Trước hết SHD, SGK và SGV đều là nguồn tài liệu pháp định của BGD&ĐT
ban hành, có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc. Sách được biên soạn đảm bảo chất
lượng về nội dung cũng như khoa học trong hình thức trình bày trang sách. Là
nguồn tài liệu không thay đổi trong từng giai đoạn. Tùy vào từng điều kiện thực tế,
mà nhóm tác giả biên soạn sách có những điều chỉnh thay đổi cả hình thức lẫn nội
dung của sách sao cho phù hợp với thực trạng chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu
phát triển tư duy, trí tuệ trong nhịp độ đất nước hịa nhập toàn cầu.
CTGDPT có tính chất pháp lệnh, là khung chương trình quy định sau khi học
chủ đề, nội dung trong chương trình, HS phải đạt mức độ cần đạt được về KT,KN tối
thiểu mang tính chất định hướng cả nền giáo dục THPT.
* SGK được viết trên cơ sở CTGDPT hiện nay. Đây là tài liệu cơ bản, cốt
lõi đặc biệt dành cho cả GV và HS. Vì vậy, SGK gồm 2 yêu cầu cơ bản sau:
- CKT,KN tối thiểu, là những nội dung cơ bản theo CTGDPT.
- Viết thêm những nội dung minh họa, bổ sung nguồn kiến thức làm phong
phú thêm những nội dung cơ bản.
SGK cụ thể hóa yêu cầu về nội dung KT, KN của CTGDPT, nhưng do
SGK là tài liệu cơ bản dùng cho HS học tập cho nên mặc dù đã bám sát chương
trình cịn cung cấp thêm những nguồn kiến thức khác để cho SGK sinh động, hấp
dẫn phù hợp với loại tài liệu học tập và nhận thức của HS.
Từ lớp 1 đến lớp 12, hầu hết mỗi lớp chỉ có một bộ sách với một tên sách là
SGK. Riêng cấp THPT với 8 môn học phân hóa là: Tốn, Vật lý, Hóa học, Sinh

học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Tiếng Anh, thì có 2 loại SGK là: loại biên soạn theo
chương trình Chuẩn và loại biên soạn theo chương trình nâng cao.
Trên SGK theo chương trình cơ bản được trình bày theo tên là: Bộ Giáo dục
và Đào tạo, tác giả (Tổng chủ biên, chủ biên, tác giả). SGK theo chương trình nâng
cao có ghi là loại nâng cao, kèm theo tên sách như trên, có tài liệu chủ đề tự chọn
nâng cao được BGD&ĐT ban hành để dùng cho GV giảng dạy và HS học tập.


20

* SHD được biên soạn theo hướng cụ thể hóa CTGDPT, được chi tiết các
yêu cầu cơ bản, tối thiểu về KT, KN của CKT, KN bằng các nội dung chọn lọc
trong SGK.
SHD là tài liệu bắt buộc, cần phải có để mỗi GV cần bám sát Chuẩn để thực
hiện công việc thiết kế giảng dạy cho từng nội dung, cho từng bài, từng đối tượng
với những mức độ cần đạt khác nhau.
* SGV là do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thẩm định và ban hành, là tài
liệu tham khảo tham khảo chính của GV trong giảng dạy.
Trên SGV có ghi Bộ Giáo dục và Đào tạo, tác giả (Tổng chủ biên, chủ biên,
tác giả). SGV theo chương trình nâng cao có ghi là loại nâng cao kèm theo tên sách.
Trong những tình huống khác nhau về một chủ đề, một nội dung nào đó giữa
SGK và SGV thì người GV phải căn cứ vào SGK để TKBG. Điều này có nghĩa,
người GV có trách nhiệm cập nhật các nội dung chính theo thơng báo của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (nếu có).
Như vậy, SGK là khung chương trình giáo dục pháp định, bắt buộc và thống
nhất kiến thức cơ bản trong cả nước. SHD là sự cụ thể hóa các mục tiêu, yêu cầu đã
được nêu trong CTGDPT, là sự khái quát hóa nội dung của các bài học trong SGK,
là chuẩn những yêu cầu tối thiểu về KT, KN mà mỗi GV cần truyền đạt cho HS.
Nhưng ở đó chỉ là chuẩn về mặt kiến thức và nội dung, riêng phương pháp giảng
dạy lại không được chú trọng. SGV là sự cụ thể hóa về nội dung, được mở rộng về

mặt kiến thức, phong phú ở phương pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong mỗi
giờ dạy học trên lớp.
Trên cơ sở đó, người sử dụng SGV phải căn cứ vào tài liệu SHD để dạy và
học các bài trong SGK một cách đúng đắn, đạt yêu cầu tối thiểu đã đề ra. Đặc biệt,
tùy vào điều kiện giảng dạy ở mỗi vùng, miền, tùy vào đối tượng HS mà GV có
hướng TKBG đạt chuẩn, nâng cao chuẩn và vượt chuẩn.
Vì bộ mơn Ngữ văn là một trong những môn quan trọng thiết yếu để HS các
trường THPT ôn thi tốt nghiệp và cao hơn nữa là các em HS có những định hướng
trong việc dự thi ở các trường Đại học và Cao đẳng. Cho nên, việc vận dụng, sáng
tạo có hiệu quả giữa SHD, SGV và SGK là sự tổng hợp nguồn kiến thức đầy đủ
trong việc dạy và học Văn học trong nhà trường. Để đạt chất lượng trong giáo dục


21

đào tạo thì địi hỏi người GV cần có sự kết hợp, song hành cả ba tập tài liệu trên sao
cho khoa học và linh hoạt.
1.3.Lý thuyết về thiết kế bài giảng theo chuẩn kiến thức, kĩ năng
1.3.1.Những nguyên tắc định hướng TKBG theo CKT, KN chương trình THPT
CKT, KN là thành phần của CTGDPT. Trong CTGDPT, CKT, KN và yêu
cầu về thái độ của người học được thể hiện cụ thể hố ở các chủ đề của chương
trình mơn học theo từng lớp; đồng thời, CKT, KN và yêu cầu về thái độ cũng được
thể hiện ở phần cuối của chương trình mỗi cấp học.
CKT, KN được sử dụng để đáp ứng việc thống nhất công tác chỉ đạo dạy
học, kiểm tra, đánh giá; hạn chế tình trạng dạy học quá tải, góp phần hạn chế dạy
thêm, học thêm; tạo điều kiện cơ bản, quan trọng để có thể tổ chức giảng dạy, học
tập, thống nhất theo CKT, KN. Nên khi TKBG theo CKT, KN, GV cần chú ý một
số nguyên tắc chung như sau:
Một là, GV cần chú trọng đến đối tượng HS, tâm lý của mỗi HS ở từng vùng
miền, từng cơ sở. Đây cũng là lý do để GV khi TKBG cần bám sát CKT, KN để có

sự phân hóa trình độ theo từng đối tượng HS. Theo đó, QTDH sẽ đạt các yêu cầu về
KT, KN, GV có thể định hướng được thái độ, tâm lý của HS để TKBG hiệu quả.
Khi TKBG, cần căn cứ vào SHD và so sánh, đối chiếu với SGK để xác định
các kiến thức cơ bản, trọng tâm; các kĩ năng và thái độ cần hình thành ở HS. Việc
TKBG địi hịi sự đầu tư tìm tịi, sáng tạo linh hoạt trong việc vận dụng hợp lý các
PPDH, nhu cầu, trang thiết bị dạy học ở từng vùng miền để thiết kế các hoạt động
dạy học cụ thể. Bên cạnh đó cũng cần tránh các khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng ơm đồm kiến thức, cịn nhiều lệ thuộc vào SGK.
- Khuynh hướng đưa thêm nội dung KT, KN vào bài soạn giảng hoặc chú
trọng khai thác quá sâu nội dung bài học, gây ra hiện tượng “quá tải” đối với HS.
Và trường hợp ngược lại, sẽ gây tình trạng “nhẹ tải”, làm giảm nhẹ những yêu cầu
về KT, KN, thái độ trong q trình giáo dục.
Hai là, tích cực sưu tầm, chế tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các phương
tiện, đồ dùng, thiết bị dạy học. Đồ dùng dạy học có thể do nhà trường cung cấp
nhưng trên thực tế thiết bị dạy học từ phía nhà trường thì gặp nhiều khó khăn. Điều
này có nghĩa, GV dạy phân mơn Văn học cần có sự linh hoạt khi tổ chức các hoạt


22

động dạy học sao cho giờ học Văn không rập khn, nhàm chán và tẻ nhạt, dẫn đến
tình trạng HS khơng cịn hứng thú với bộ mơn quan trọng này. Khó khăn về thiết bị
dạy học có thể có trong việc tích cực vận dụng sáng tạo các ứng dụng cơng nghệ
thơng tin vào việc TKBG với nhiều hình ảnh, đường nét sinh động, cụ thể hơn theo
từng mục tiêu bài học. Hoặc theo việc hướng dẫn từ phía GV mà buổi học Văn học
tiếp theo có sự sưu tầm, tự làm từ phía GV và sự chuẩn bị sáng tạo từ phía HS. Đây
là điều kiện thuận lợi để mỗi GV và HS có những hoạt động dạy và học tích cực,
hấp dẫn, lơi cuốn, tạo đà nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
1.3.2.Vận dụng chuẩn kiến thức, kĩ năng vào thiết kế bài giảng theo phân môn
Văn học

Việc vận dụng CKT, KN vào TKBG được đặt trên tinh thần đáp ứng theo
Chuẩn. Vậy việc vận dung CKT, KN như thế nào để khơng có tình trạng rập khn
mà có sáng tạo, ổn định và nâng cao chất lượng đào tạo chuyên môn?
Một là, khi thiết kế và thực hiện bài giảng, GV cần chú trọng việc hình thành
và rèn luyện các kĩ năng cho HS là điều có ý nghĩa bậc nhất. Vì đặc trưng của phân
mơn Văn học là mơn học nghiêng về giáo dục lịng yêu nước, tình yêu dân tộc và
đồng bào, giáo dục nhân cách, giáo dục cái hay, cái đẹp thì GV cần yêu cầu nhiều
hơn ở việc HS cần phải biết vận dụng những đạo lý, những chuẩn mực đã được học
tập, đã được rút kinh nghiệm từ mỗi nội dung bài học trong sách vở vào cuộc sống
thực tiễn hàng ngày.
Theo đó, việc ra đề thi kiểm tra, đánh giá theo CKT, KN cần theo khuynh
hướng “ra đề mở”. Đề thi theo định hướng yêu cầu HS nắm vững bản chất KT, KN
tư duy độc lập, biết vận dụng kiến thức đã học một cách sáng tạo để giải quyết vấn
đề, hạn chế đến mức thấp nhất yêu cầu HS học thuộc máy móc theo SGK hoặc theo
nội dung GV làm sẵn.
Hai là, việc TKBG nên thực hiện theo các bước như:
- Sử dụng CKT, KN để xác định mục tiêu tiết dạy.
- Nghiên cứu SGK và các tài liệu tham khảo khác để phục vụ cho việc thực
hiện CKT, KN.
- Vận dụng CKT, KN và phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để xây dựng
các hoạt động lên lớp.


23

- Như trên mục 1.1.3 thì các mục tiêu được biểu hiện bằng :
• Mục tiêu kiến thức gồm 6 mức độ: nhận biết, thơng hiểu, vận dụng, phân
tích, đánh giá, sáng tạo.
• Mục tiêu về kĩ năng gồm 3 mức độ: làm được, làm thơng thạo và làm sáng
tạo.

• Mục tiêu thái độ: Hình thành thói quen, tính cách, nhân cách nhằm phát
triển con người toàn diện theo mục tiêu.
Ba là, vận dụng CKT, KN và kỹ thuật dạy học tích cực để xây dựng các kế
hoạch bài giảng lên lớp sao cho hiệu quả trên tinh thần đáp ứng Chuẩn.
Việc TKBG tích cực, sáng tạo, đạt CKT, KN sẽ tạo cho HS tâm lý hăng say
học tập. Niềm say mê đối với việc học tập khoa học nói chung và tình u đối với
văn chương nói riêng sẽ đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo. Qua đây, giáo dục cho HS một phong thái học tập vững vàng, đạt chuẩn
về kiến thức và kĩ năng, xây dựng môi trường sư phạm dạy và học hiệu quả, giáo
dục hoàn thiện nhân cách HS.
1.3.3.Một vài vấn đề có tính ngun tắc khi vận dụng SHD
Khi sử dụng SGK để chuẩn bị kế hoạch bài giảng, GV cần căn cứ CKT, KN
theo quy định chương trình mơn học, xác định trọng tâm KT, KN để TKBG phù
hợp với khả năng tiếp thu của HS. Nếu gặp tình huống có các cách hiểu khác nhau
về một chủ đề, một nội dung nào đó giữa SGK và SHD thì cần căn cứ vào CTGDPT
để GV TKBG hợp lý, thống nhất. Các GV bộ mơn có trách nhiệm cập nhật, đính
chính những sai sót theo thơng báo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (nếu có) và hướng
dẫn HS đính chính SGK theo đúng nội dung CTGDPT.
Khi vận dụng SHD, người soạn giảng cần chú ý đến Chuẩn. SHD đảm bảo cả
chất lượng và dung lượng chương trình giáo dục theo trình tự KT, KN ba khối lớp:
lớp 10, lớp 11 và lớp 12 để:
- Không lệch chuẩn, khơng sai chuẩn, bao gồm:
+ Hiểu chính xác đầy đủ nội dung bài học.
+ Xác định mức độ KT, KN, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở
HS.
+ Xác định trật tự lôgic bài học.


24


- Xác định được khả năng đáp ứng và các nhiệm vụ nhận thức của HS:
+ Xác định được khả năng kiến thức HS đã có và cần có.
+ Dự kiến những khó khăn có thể xảy ra và các phương án giải quyết trong
những tình huống nhất định.
- Lựa chọn phương pháp, phương tiện, thiết bị dạy học, hình thức tổ chức
dạy học và cách thức đánh giá sao cho phù hợp giúp HS chủ động sáng tạo, phát
triển năng lực tự học.
- Nêu rõ yêu cầu HS cần đạt về KT, KN và tư duy thái độ sau mỗi nội dung
bài học.
1.4.Phân môn Văn học trong quan hệ tích hợp với phân mơn Tiếng Việt, Làm
văn và các môn học khác
1.4.1.Phân môn Văn học trong môn học Ngữ văn
Mơn Văn học có vị trí quan trọng trong CTGDPT. Vị trí ấy được thể hiện
trực tiếp qua tỉ lệ thời gian dành cho phân môn. Đặc biệt với khả năng tạo dựng các
hình tượng nghệ thuật được nghệ sĩ sáng tạo, văn học có tác dụng sâu sắc và lâu bền
đến đời sống tâm hồn và trí tuệ của HS. Để làm được điều đó thì phân mơn Văn học
cũng đảm bảo các yêu cầu tối thiểu về tri thức, KT, KN trong CTGDPT.
Tích hợp là quan điểm dạy học hiện đại, tiên tiến đang được vận dụng rộng
rãi trên thế giới. Giáo dục nước ta đã vận dụng quan điểm này vào việc xây dựng
chương trình, biên soạn SGK và đào tạo, bồi dưỡng GV, đổi mới thiết bị dạy học.
Và đây được xem là nguyên tắc tổng quát để xây dựng cả hệ thống chương trình.
Trong giáo dục, tích hợp là một phương hướng nhằm phối hợp một cách tối ưu các
quá trình học tập riêng rẽ của các bộ môn khác để đáp ứng chất lượng giáo dục.
Bắt đầu từ lần thay đổi chương trình và SGK thì các phân mơn Văn học,
Tiếng Việt và Làm văn được gọi một tên chung là Ngữ Văn. Dù ba phân môn Văn
học, Tiếng Việt và Làm văn mang ba tên gọi khác nhau nhưng tựu trung lại là nhằm
mục đích hình thành cho HS năng lực phân tích, bình giá, cảm thụ văn học nghệ
thuật một cách chủ động. Đồng thời nâng cao kĩ năng nghe, đọc, nói, viết. Ngay bản
thân tên gọi Ngữ văn đã thể hiện rõ một trong những điểm cải tiến căn bản của việc
xây dựng chương trình mới theo quan điểm tích hợp, đã thể hiện rõ định hướng đi

theo con đường dạy học tích hợp ba phân mơn. Vì vậy, GV dạy bộ môn Ngữ Văn


25

cần phải hiểu rõ quan điểm tích hợp, cần có cái nhìn tổng thể về mục tiêu, chương
trình, SGK, PPDH bộ mơn trên tinh thần tích hợp với tư duy tích hợp.
Trên thực tế thì mơn Ngữ văn với ba phân mơn nhưng chỉ có một GV đứng
lớp nên chúng ta cần biết khắc phục những khuyết điểm để chất lượng đào tạo được
nâng cao: “Không phủ định việc dạy các tri thức, kĩ năng riêng của từng phân môn.
Vần đề là làm thế nào phối hợp các tri thức, kĩ năng thuộc từn g phân môn thật
nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung của môn Ngữ văn” [29, tr.20 - 21]. Cần
khắc phục tình trạng xử lý bài học theo trạng thái tách rời nhau giữa ba phân mơn
như chương trình giáo dục SGK cũ trước đây.
Thực tiễn cũng cho thấy, GV cần nhận thức rõ Văn học là phân môn quan
trọng nhất, chiếm nhiều dung lượng cũng như tâm huyết giáo dục trong cả chương
trình Ngữ Văn. Cũng cần nhận thấy ý đồ của nhóm biên soạn SGK để có thể TKBG
mơn Văn học hiệu quả, sao cho hướng dẫn được HS đọc- hiểu văn bản theo phương
pháp tích hợp.
Cũng cần chú ý, việc tích hợp KT, KN khơng chỉ vận dụng trong QTDH mà
cịn phải thực hiện ngày trong khâu kiểm tra, đánh giá. Chẳng hạn, với một đề bài
phân môn Văn học. Chúng ta không những phải vận dụng tri thức về kĩ năng có tính
chun ngành mà cịn phải đánh giá chặt chẽ hơn thao tác làm các kiểu bài Làm
văn, về cách vận dụng những lý thuyết và quy tắc của Tiếng Việt trong việc đặt câu,
dùng từ. Đặc biệt là trình độ tiếp nhận và vận dụng các vấn đề của Tiếng Việt và
Làm Văn trong cùng thời điểm.
Mặt khác GV vần lựa chọn những nội dung, những khía cạnh thích hợp để
tích hợp, vì mỗi phân mơn có những đặc trưng riêng. Tránh tình trạng ơm đồm kiến
thức, dẫn tới việc quá tải ở việc học tập cho HS. Công việc này sẽ tạo cho GV thói
quen TKBG mơn Văn học phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức sao cho HS nhận

thức được kiến thức, hình thành kĩ năng và thái độ học tập. Tạo bước đà cho việc
hoàn thiện nhân cách của HS, trau dồi tư tưởng nhân văn, lòng yêu nước văn
chương cùng những giá trị Chân- Thiện- Mĩ sâu sắc. Ngược lại, chúng ta gị ép để
tích hợp, chăm chú quá vào tích hợp, lặp lại tích hợp thì sẽ dẫn đến tình trạng phá
vỡ đặc trưng phân môn và giờ học Ngữ Văn trên lớp chỉ là sự khái qt, nếu khơng
nói là nhiễu KT, KN.


×