Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo vệ quyền con người trong xét xử hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.76 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
DƯƠNG ĐỨC HẢI

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỒ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
ĐỒNG HỚI TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2018


Cơng trình được hồn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lương Thanh Cường

Phản biện 1:………………………………………………….
Phản biện 2:………………………………………………….

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm:……………………………………………….
………………………………………………………….


Thời gian: vào hồi……..giờ……….tháng…….năm 201….
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc
gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính
Quốc gia.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Con người là vốn quý của tự nhiên và của xã hội. Bảo vệ
quyền con người (QCN) là mục tiêu của các thiết chế Nhà nước dân
chủ và tiến bộ. Ngày nay, đất nước ta đang trên đà phát triển về mọi
mặt. Song song, với việc phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cũng
chăm lo xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân, xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm cho việc phát triển
các quyền tự do dân chủ của công dân là những quan điểm cơ bản
được thể hiện trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta. Trong
việc thực hiện và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh - quốc phòng những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta
đã đặt “Con người” là trung tâm - chủ thể của chiến lược, quá trình
phát triển.
Việc nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người trong xét
xử hình sự từ thực tiễn tại đơn vị Tòa án nhân dân TP Đồng Hới
nhằm đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân và đề xuất những giải
pháp hồn thiện bộ luật tố tụng hình sự, là hết sức cần thiết, góp phần
nâng cao nhận thức của cán bộ, Thẩm phán về vai trò, trách nhiệm,
quyền hạn của mình trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
phân công, nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm
các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
2. Tình hình nghiên cứu

Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về quyền
con người và bảo đảm quyền con người như: “Bảo vệ quyền con
người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Sách tham
khảo), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, của TS. Trần
Quang Tiệp; “Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Việt Nam” (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2005 của PGS. TS. Nguyễn Văn Động; “Quyền con người,
quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” (Sách chuyên khảo), nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008 của PGS. TS. Trần Ngọc Đường; …
Trong Luận văn, bản thân tôi tiếp tục nghiên cứu về vấn đề
bảo đảm quyền con người tập trung vào giai đoạn xét xử vụ án hình
sự nhằm đưa ra những đánh giá về thực trạng bảo đảm quyền con
người của Tòa án nhân dân từ đó đề ra những giải pháp hồn thiện

1


nhằm phát huy vai trò của Tòa án, như là một cơ quan có trách
nhiệm đảm bảo tối ưu quyền con người trong giai đoạn xét xử các vụ
án hình sự được thực hiện trên thực tế và hạn chế đến mức thấp nhất
việc xâm phạm quyền con người trong giai đoạn xét xử, tránh oan,
sai, bỏ lọt tội phạm. Để thực hiện luận văn, tác giả đã lựa chọn, kế
thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa
học nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, Luận văn hướng tới mục đích đề xuất
các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người trong xét xử các
vụ án hình sự.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
như khái niệm quyền con người, quyền con người và bảo đảm quyền
con người trong tố tụng hình sự; những quy định của pháp luật tố
tụng hình sự bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án hình
sự; cơ sở xác định vai trị của Tòa án và các điều kiện bảo đảm vai
trò của Tòa án trong việc đảm bảo quyền con người trong giai đoạn
xét xử các vụ án hình sự.
- Từ thực tiễn xét xử các vụ án hình sự tại Tịa án nhân dân
TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn 2012 - 2017 để đánh
giá, phân tích thực tiễn bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét
xử hình sự, đánh giá vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền
con người trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của Tòa
án trong việc bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án hình
sự, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực
tiễn có liên quan đến vai trị, trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo
đảm quyền con người trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 từ thực tiễn xét xử các vụ
án hình sự tại Tịa án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của Chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người, các quan

2



điểm của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp nghiên cứu điển hình,
phương pháp thống kê, lơgic, phân tích, so sánh, tổng hợp ...Ngồi
ra, luận văn cịn khai thác những thơng tin tư liệu của các cơng trình
nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho các luận điểm.
6. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của luận văn
Luận văn đề cập một số vấn đề lý luận về quyền con người,
bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Phân tích và đánh
giá thực trạng, vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo đảm quyền
con người trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự. Đưa ra một số
giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS và một số các giải
pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Tòa án
trong việc bảo đảm quyền con người.
Kết quả nghiên cứu đề tài có giá trị tham khảo cho cơng tác
nghiên cứu, giảng dạy ở các trường chuyên ngành luật, Học viên và
những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận bảo vệ quyền con người trong xét
xử hình sự
Chương 2: Bảo vệ quyền con người trong xét xử hình sự ở
Tịa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp tăng cường bảo vệ
quyền con người trong xét xử hình sự từ thực tiễn Tịa án nhân dân
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình


3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ
1.1 Quyền con người trong hoạt động xét xử hình sự
1.1.1 Quan niệm về quyền con người
Quyền con người (Human rights) là một phạm trù đa diện, do
đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Ở nước ta, vấn đề quyền con
người đã được nghiên cứu và phản ánh một cách phong phú và đa
dạng thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các văn bản
pháp luật. Theo từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng:
“Quyền con người là các quyền tất yếu mà con người phải được
hưởng và các quốc gia phải tơn trọng”. Vì vậy, theo quan niệm
chung hiện nay, “Quyền con người là những giá trị, năng lực, nhu
cầu vốn có và chỉ có ở con người với tư cách là thành viên của cộng
đồng nhân loại được thể chế hoá bằng pháp luật quốc gia và các thoả
thuận pháp lý quốc tế”. Quyền con người là giá trị thắng lợi chung
của nhân loại, nhưng do điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội ở các
châu lục, các khu vực, các quốc gia phát triển không giống nhau nên
ở các quốc gia khác nhau thì năng lực và nhu cầu của mỗi thành viên
xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh tế chính trị - xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Cho nên, ở
các quốc gia, quyền con người được thể hiện thành quyền công dân
và được đảm bảo thực hiện bởi hệ thống pháp luật quốc gia đó. Có
nhiều quan điểm chia quyền con người thành những nhóm quyền cơ
bản, phổ biến là các nhóm:
- Nhóm các quyền tự do dân chủ về chính trị
- Nhóm quyền về dân sự (quyền tự do cá nhân).

- Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội.
Trong giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con
người, quyền con người được định nghĩa là “những nhu cầu, lợi ích
tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp
luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”. [Giáo trình Lý luận
và pháp luật về quyền con người, NXB Đại học quốc gia Hà nội,
2009, tr38]. Tác giả có quan điểm đồng nhất với quan niệm về quyền
con người nói trên.
1.1.2 Các quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án
hình sự

4


Quyền con người trong xét xử các vụ án hình sự là sự cụ thể
quyền được sống, quyền được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong tố tụng hình sự.
Theo đó, quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự
bao gồm những quyền tại “Điều 10, 11 Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người: UHDR và Điều 14, 15 Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị: ICCPR ”: Quyền được xét xử cơng bẳng
bởi một thủ tục tố tụng hình sự; Quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân khác. Mọi
trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự
phải trên cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền được
bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ;
Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc
biệt; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được
nhanh chóng minh oan, quyền khơng bị kết tội hai lần về cùng một
hành vi…

1.2 Bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử án hình
sự
1.2.1 Khái niệm, nguyên tắc bảo vệ quyền con người trong
hoạt động xét xử án hình sự
1.2.1.1 Khái niệm
Nghiên cứu quyền con người trong tố tụng hình sự khơng thể
khơng đưa ra định nghĩa về nó. Hiện nay, có một số khái niệm về
quyền con người trong tố tụng hình sự đã được đưa ra nhưng chủ yếu
là nhấn mạnh đến quyền con người bị buộc tội mà chưa chú ý đến
quyền của những người khác tham gia tố tụng hình sự: “Quyền con
người trong tố tụng hình sự là những quyền thiêng liêng chỉ dành cho
con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà
nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo
đảm thực hiện trên thực tế” [54].
Bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự là những
giải pháp mang tính phịng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm
quyền con người trong xét xử hình sự đồng thời phát hiện, xử lý các
vi phạm đó. Như vậy, bản chất của hoạt động bảo về quyền con
người trong xét xử các vụ án hình sự bao gồm 04 hoạt động chính:
- Hoạt động phịng ngừa
- Hoạt động ngăn chặn
- Hoạt động phát hiện

5


- Hoạt động xử lý
Hoạt động bảo vệ quyền con người trong xét xử hình sự có
hiệu lực, hiệu quả cao nhất chỉ khi thực hiện đồng bộ và hiệu quả các
hoạt động nói trên. Hoạt động xét xử hình sự là hoạt động do Toà án

tiến hành, người được nhân danh Nhà nước phán quyết một người có
phạm tội hay khơng, đó chính là Thẩm phán. Trình tự tiến hành được
thơng qua theo trình tự của Tố tụng hình sự. Trong quá trình tiến
hành các hoạt động này, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ
quan được Nhà nước giao thẩm quyền chủ yếu giải quyết hai nhóm
quan hệ tố tụng cơ bản, là nhóm quan hệ được phát sinh do việc thực
hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và các nhóm quan
hệ khác được phát sinh do việc tranh chấp về quyền và nghĩa vụ về
tài sản, nhân thân hoặc do yêu cầu xác lập một quan hệ pháp lý liên
quan đến hai lĩnh vực này. Đối với nhóm quan hệ phát sinh do việc
thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, là nhóm
quan hệ tố tụng được xác lập do yêu cầu của xã hội, thuộc trách
nhiệm của Nhà nước. Trong đó, người phạm tội phải gánh chịu nghĩa
vụ bằng việc chấp hành các hình phạt mà Toà án đã tuyên.
1.2.1.2 Các đặc trưng cơ bản của bảo vệ quyền con người
trong xét xử hình sự
Trong hoạt động xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, những
người tiến hành tố tụng, trực tiếp là HĐXX, Kiểm sát viên ... trong
phiên tịa hình sự cần bảo vệ toàn bộ các quyền đã được quy định rõ
ở trên bằng các phương thức của tố tụng hình sự. Đó là việc tiến
hành xét xử minh bạch, tơn trọng và bảo đảm các quyền của bị cáo
được thực hiện đúng và đẩy đủ, bảo vệ các quyền đó khơng bị xâm
phạm bởi các yếu tố khác.
Theo quy định tại Bộ luật TTHS năm 2015 bị cáo có những
quyền mới sau: Một là, quyền được “trình bày ý kiến về chứng cứ,
tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng kiểm tra, đánh giá;”
Hai là, quyền “đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi
người tham gia phiên tịa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại
phiên tòa;”. Việc đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi hoặc tự mình hỏi

người tham gia phiên tịa sẽ làm tăng tính chủ động cho bị cáo, giúp
bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình được tốt hơn, việc hỏi
cũng như đối chất trực tiếp tại phiên tòa sẽ là căn cứ quan trọng làm
cho việc xét xử khách quan hơn cũng như tăng tính thuyết phục hơn.

6


Ba là, quyền được “xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi
những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tịa”. Để tránh việc sai,
cũng như thiếu sót trong q trình ghi chép lại q trình diễn ra phiên
tịa thì bị cáo có quyền xem biên bản phiên tịa và yêu cầu ghi những
sửa đổi bổ sung vào biên bản đó, điều này đồng nghĩa với việc bị cáo
đồng ý với q trình xét xử nếu khơng có những u cầu bổ sung
hoặc thay đổi khác.
Đặc biệt, để cụ thể hóa quy định của BLTTHS 2015 ngày 287-2017, chánh án TAND Tối cao đã ký ban hành Thông tư số 01 quy
định về phòng xử án với nội dung đáng chú ý là tại phiên tịa hình sự,
luật sư, người bào chữa được bố trí chỗ ngồi ngang bằng với đại diện
VKS. Thơng tư có hiệu lực kể từ ngày 01-01-2018.
Việc thay đổi bố trí chỗ ngồi cho đại diện VKS và Luật sư khi
tham gia phiên tịa hình sự chỉ là một sự thay đổi về hình thức nhưng
mang ý nghĩa lớn, bởi đó là biểu hiện của sự thay đổi trong chiến
lược cải cách tư pháp. Cụ thể, đó là việc coi trọng sự bình đẳng giữa
bên buộc tội và bên gỡ tội. Lấy việc tranh tụng tại phiên tòa là trọng
tâm trong hoạt động xét xử.
1.2.2 Trong hoạt động xét xử hình sự, chủ thể được bảo vệ
quyền con người được xác định cụ thể
Quyền con người trong tố tụng hình sự là sự cụ thể quyền
được sống, quyền được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Trong
hoạt động xét xử hình sự, chủ thể được bảo vệ con người được quy

định cụ thể, đó là những người bị buộc tội (bao gồm cả người bị tạm
giữ, tạm giam), nạn nhân của tội phạm (người bị hại), người làm
chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa,
người giám hộ, người đại diện hợp pháp và cả những người tiến hành
tố tụng. Tại Điều 55 BLTTHS năm 2015 quy định người tham gia tố
tụng bao gồm: Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
người bị tố giác, kiến nghị khởi tố; người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp; Người bị bắt; Người bị tạm giữ; Bị can; Bị cáo; Bị hại;
Nguyên đơn dân sự, Bị đơn dân sự; Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án; Người làm chứng; Người chứng kiến; Người
giám định; Người định giá tài sản; Người phiên dịch, người dịch
thuật; Người bào chữa; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; Người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân phạm tội, người đại diện khác. Đối với cơ quan có thẩm

7


quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiền hành tố tụng được
quy định rõ tại Điều 34 BLTTHS năm 2015, về nội dung cơ bản vẫn
không thay đổi so với quy định tại BLTTHS năm 2003.
1.2.3 Trong xét xử hình sự, quyền của các chủ thể được
quy định đầy đủ, cụ thể và được bảo vệ
Hoạt động TTHS là một lĩnh vực khó khăn, phức tạp và nhạy
cảm vì nó liên quan đến các quyền thiết thực nhất của con người
trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội như quyền sống, quyền tự do
thân thể, quyền tự do tài sản, quyền tự do cư trú…Vì vậy, trong quá
trình chứng minh sự thật khách quan của vụ án, các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng do sự tác động trực tiếp hay

gián tiếp của các yếu tố khách quan, chủ quan nên dễ bị ảnh hưởng
đến tính trung thực khách quan trong các quyết định của mình, trong
đó có các yếu tố cơ bản như: Do thiếu sự hợp tác của người tham gia
tố tụng với người tiến hành tố tụng trong việc xác định sự thật khách
quan của các chứng cứ, nhất là đối với các trường hợp người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, tìm cách tiêu huỷ, che giấu các chứng cứ liên
quan đến vụ án, nên các quyết định của người tiến hành tố tụng
khơng phản ánh được chính xác, tồn diện nội dung sự việc.
Tóm lại, trong lĩnh vực xét xử hình sự, sự vi phạm QCN được
thể hiện dưới nhiều hình thức nội dung, mức độ khác nhau, nhưng
chủ yếu và nghiêm trọng nhất là do các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng gây ra. Hầu hết các vi phạm QCN trong lĩnh
vực này đều có nguyên nhân từ việc vi phạm pháp luật của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gây ra. Cụ thể, cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã không tạo mọi điều kiện
để người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền của họ theo
pháp luật quy định, từ đó đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng, tước đi các quyền cơ bản mà họ được hưởng.
1.2.4 Nội dung quy định pháp luật về bảo vệ quyền con
người trong xét xử hình sự
Bảo vệ quyền con người trong xét xử hình sự là hoạt động tố
tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tịa án) và
người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều
tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên; Chánh
án, Phó Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm).
Thông qua việc áp dụng các quy định của pháp luật, hoạt động
tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng trước hết sẽ bảo vệ quyền lợi

8



cho người bị hại trước sự xâm phạm của tội phạm. Tuy nhiên xét ở
một góc độ khác, tố tụng hình sự với tư cách là quá trình Nhà nước
đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ thực hiện tội phạm
ln thể hiện tính quyền lực với sức mạnh cưỡng chế Nhà nước, với
sự thiếu bình đẳng về thế và lực của các bên tham gia quan hệ tố
tụng hình sự, trong đó người bị buộc tội luôn bị yếu thế hơn. Hoạt
động này liên quan đến việc phát hiện, xử lý hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định là tội phạm và xử phạt người phạm tội. Vì vậy,
để đạt được mục đích của tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng hình sự
của bất kỳ quốc gia nào cũng có quy định về những biện pháp cưỡng
chế tố tụng, các hành vi, quyết định tố tụng đụng chạm đến quyền,
lợi ích của cơng dân.
Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 ra đời đánh dấu một bước tiến mới trong kỹ thuật lập pháp, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập, phù hợp với tình hình thực
tiễn về phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đồng thời nâng cao bảo
vệ quyền con người theo định hướng nhà nước pháp quyền XHCN.
Việc ban hành các quy định đúng đắn, hợp lý, khả thi phải đi đôi với
việc đảm bảo thực hiện các quy định đó trong thực tế. Việc thực hiện
các quy phạm pháp luật TTHS phụ thuộc vào các chủ thể tiến hành
tố tụng trong đó Tịa án đóng vai trị trọng tâm. Với hoạt động xét xử
và bản án được thơng qua tại phiên tịa, mọi nghi ngờ, mọi vấn đề sẽ
được làm sáng rõ từ nội dung vụ án cho đến hình phạt đối với bị cáo.
Nếu có một phiên tịa cơng bằng, mọi vi phạm quyền con người
trong các giai đoạn trước đó (nếu có) sẽ được phán xử và có những
chế tài phù hợp và ngược lại. Do đó, Tịa án là cánh cửa cuối cùng,
là cơ hội cuối cùng để quyền con người được đảm bảo.
1.3 Các yếu tố tác động đến bảo vệ quyền con người trong
xét xử hình sự

1.3.1 Năng lực thực thi pháp luật của cơ quan, người tiến
hành tố tụng hình sự
Năng lực thực thi pháp luật của cơ quan, người tiến hành tố
tụng là yếu tố vô cùng quan trọng tác động trực tiếp đến bảo vệ
quyền con người trong xét xử hình sự. Có nghĩa là, khi cơ quan,
người tiến hành tố tụng có năng lực, việc áp dụng và thực thi pháp
luật đúng đắn thì quyền con người được bảo đảm và ngược lại, nếu
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khơng có năng
lực hoặc năng lực kém dễ dẫn đến những hành vi sai phạm trong việc

9


áp dụng và thực thi pháp luật, từ đó ảnh hưởng việc bảo vệ quyền
con người.
Thực tế chứng minh, hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật
về bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự của Toà án
phụ thuộc vào nhiều điều kiện, yếu tố, những nguyên nhân chủ quan,
khách quan khác nhau, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Một trong
những yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến bảo vệ
quyền con người trong xét xử hình sự đó là: Chất lượng đội ngũ cán
bộ, cơng chức Ngành Tồ án mà trước hết là trình độ chun mơn,
phẩm chất đạo đức, năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội
ngũ Thẩm phán.
1.3.2 Ý thức pháp luật của các chủ thể trong xét xử hình sự
Hoạt động xét xử vụ án hình sự bao gồm nhiều chủ thể tham
gia, trong đó Thẩm phán đóng vai trị trung tâm, là nhân tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến việc thực thi bảo vệ quyền con người. Họ
trở thành hạt nhân đảm bảo về quyền con người trong tố tụng hình
sự, nhận thức của họ tác động đến hoạt động bảo vệ quyền con người

theo 2 xu hướng cơ bản:
- Nhận thức đúng + Động cơ tốt ---> thực thi đầy đủ quyền,
nghĩa vụ của mình + tôn trọng và đảm bảo quyền con người.
- Nhận thức sai + Động cơ xấu ---> Không tôn trọng nhân
quyền người khác + có những hành vi sai trái, vi phạm quyền con
người.
1.3.3 Điều kiện, cơ sở vật chất phục vụ xét xử hình sự
Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ xét xử hình sự
cũng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến việc bảo vệ
quyền con người trong xét xử vụ án hình sự. Cơ sở vật chất phục vụ
xét xử bao gồm: Trụ sở làm việc, các phương tiện kỹ thuật phục vụ
công tác xét xử, các tài liệu tham khảo, tài liệu tra cứu…có những
ảnh hưởng nhất định đến việc nâng cao chất lượng xét xử của Toà án
nhân dân. Điều kiện vật chất, cụ thể là máy móc; phương
tiện làm việc, đi lại; trụ sở làm việc, phòng xét xử, phòng nghị án…
được trang bị đầy đủ, hiện đại thì sẽ góp phần trực tiếp vào việc thể
hiện sự trang nghiêm của cơ quan công quyền; đội ngũ cán bộ Tồ
án có đủ phương tiện làm việc thì việc xét xử sẽ đảm bảo chất lượng
hơn, họ sẽ tập trung vào công việc mà không bị chi phối bởi sự khó
khăn về điều kiện, phương tiện làm việc.
1.3.4 Các yếu tố khác

10


Yếu tố chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức làm việc
trong hệ thống các cơ quan áp dụng, thực thi pháp luật mà cụ thể
trong hoạt động xét xử là Tòa án cũng là một trong những yếu tố có
thể tác động đến việc bảo vệ quyền con người. Chế độ đãi ngộ tốt sẽ
khuyến khích cán bộ hăng hái làm việc, chống lại sự tha hoá, biến

chất, mua chuộc; ngược lại, chế độ đãi ngộ không hợp lý sẽ là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng lơ là cơng việc, khơng hăng say
phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, tu dưỡng đạo đức nghề
nghiệp của đội ngũ cán bộ tham gia xét xử.Chế độ chính sách đãi
ngộ giữ vai trò hết sức quan trọng, từ chế độ đề bạt, bổ nhiệm, bố trí
cơng tác đến chế độ khen thưởng, chế độ tiền lương và kỷ luật… đây
là động lực thúc đẩy cán bộ ngành Toà án khơng ngừng vươn lên
hồn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần thực thi có hiệu quả
các quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của những người
tham gia tố tụng.
Kết luận chương 1
Quyền con người là thành tựu của nhân loại nên được các
quốc gia tiến bộ trên thế giới đặc biệt coi trọng. Đó là những năng
lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người với tư cách là thành viên
của cộng đồng nhân loại, được thể chế hoá bằng pháp luật quốc gia
và các thoả thuận pháp lý quốc tế. Ở Việt Nam, QCN là thành tựu
gắn liền với cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, đó
là thành quả mà nhân dân ta đã đạt được trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về QCN nói chung và bảo vệ
QCN trong hoạt động xét xử án hình sự nói riêng có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Từ sự nghiên cứu này không chỉ
giúp những người làm công tác nghiên cứu lý luận khoa học pháp lý
nhận thức đúng đắn về quyền con người nói chung, nhất là QCN
trong hoạt động tố tụng hình sự, mà cụ thể là hoạt động xét xử của
Tòa án để từ đó có những điều chỉnh, soạn thảo, đóng góp nhằm
hồn thiện hơn hệ thống pháp luật nước ta với vai trò là nhà nước
pháp quyền “của dân, do dân và vì dân”.

11



Chương 2

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ Ở TÒA
ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Khái qt về Tịa án nhân dân thành phố Đồng Hới
và xét xử hình sự ở Tịa án nhân dân thành phố Đồng Hới
2.1.1 Khái quát về Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới

Thành phố Đồng Hới là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa
của tỉnh Quảng Bình với diện tích tự nhiên 15.554 ha và 130.636
nhân khẩu, có 16 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các phường:
Nam Lý, Bắc Lý, Đồng Phú, Phú Hải, Đồng Sơn, Đồng Mỹ, Hải
Đình, Hải Thành, Bắc Nghĩa, Đức Ninh Đông và các xã: Nghĩa
Ninh, Đức Ninh, Bảo Ninh, Lộc Ninh, Thuận Đức và Quang Phú.
Với địa giới hành chính, phía Đơng giáp biển; phía Tây giáp huyện
Bố Trạch và huyện Quảng Ninh; phía Nam giáp huyện Quảng Ninh;
phía Bắc giáp huyện Bố Trạch.

Từ những đặc điểm về điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã
hội đã có những ảnh hưởng tới nhất định đến công tác xét xử và hoạt
động bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử, giải quyết các
vụ án nói chung và trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự nói
riêng. Những điều kiện về vị trí địa lý, kinh tế xã hội đã ảnh
hưởng đến quá trình giải quyết vụ án giai đoạn xét xử vụ án hình
sự khi chuẩn bị xét xử đối với các bị cáo tại ngoại, Tòa án báo gọi
nếu bị cáo khơng đến thì Tịa án có quyền ra lệnh bắt giam để chờ
xét xử, đối với bị hại, người liên quan thì pháp luật khơng cho

phép làm như vậy, đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến một số vụ án bị kéo dài.
Ngoài ra điều kiện cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân thành
phố Đồng Hới cũng như kinh phí hoạt động của ngành tịa án nói chung
cịn hạn chế cũng ảnh hưởng đến hoạt động của Tòa án nhân dân thành
phố Đồng Hới.
2.1.2 Tổ chức bộ máy và nhân sự của Tòa án nhân dân
thành phố Đồng Hới
Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình thực
hiện chức năng nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và giáo

12


dục cơng dân hiểu theo nghĩa chung nhất. Tịa án nhân dân Thành
phố Đồng Hới là Tòa án thuộc đơn vị hành chính cấp huyện trực
thuộc Tịa án nhân dân tỉnh Quảng Bình gồm có Chánh án, hai phó
chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký Tòa án, về cơ cấu
tổ chức khơng chia thành các Tịa chuyên trách như Tòa án nhân dân
cấp tỉnh mà chỉ có các bộ phận chuyên trách như: bộ phận giải quyết
án hình sự; bộ phận giải quyết án dân sự và hơn nhân và gia đình; bộ
phận văn phịng. Hiện nay Tịa án nhân dân thành phố Đồng Hới có
tổng số 19 cán bộ, bao gồm 01 Chánh án, 02 Phó Chánh án, 04 Thẩm
phán, 07 Thư ký, 02 chức danh khác và 01 bảo vệ, 01 tạp vụ, 01 Lái
xe. Trong đó có 11 cán bộ nữ chiếm tỷ lệ 57,8%.
Trong những năm qua, tuy điều kiện còn nhiều khó khăn về
đội ngũ cán bộ, kinh phí đào tạo, cũng như cơ sở vật chất còn nhiều
thiếu thốn chưa đáp ứng cho họat động của ngành Tòa án, nhưng Tòa
án nhân dân Thành phố Đồng Hới đã khắc phục mọi khó khăn, dần
dần từng bước xây dựng được một đội ngũ thẩm phán làm cơng tác

giải quyết án hồn thành nhiệm vụ được giao.
2.1.3 Xét xử hình sự ở Tòa án nhân dân TP Đồng Hới
Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới là Tòa án cấp huyện
nên hoạt động theo nguyên tắc không phân công chuyên nghiệp
trong giải quyết tất cả các loại án. Số lượng án cần giải quyết hàng
năm rất lớn, năm sau thường cao hơn năm trước. Với số lượng 7
thẩm phán từ năm 01/10/2013 đến ngày 30/9/2017, về án hình sự,
Tịa án nhân dân TP Đồng Hới đã thụ lý 458 vụ/709 bị cáo. Đã đưa
ra xét xử 458 vụ/709 bị cáo, đạt tỷ lệ 100%. Trong đó, tổ chức xét xử
lưu động tại các địa bàn bị cáo gây án 41 vụ án. Các vụ án đều được
xét xử kịp thời, đúng thời hạn luật định, khơng có án bị hủy hoặc cải
sửa nghiêm trọng.
Có 68 vụ án có bị cáo kháng cáo, đã được xét xử theo thủ tục
phúc thẩm. Trong đó, kết quả xét xử phúc thẩm y án 40 vụ, sửa án 22
vụ do nguyên nhân khách quan, đình chỉ xét xử 01 vụ (bị cáo rút đơn
kháng cáo), 05 vụ án chưa có kết quả xét xử phúc thẩm.
Qua kết quả xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình đã cho thấy các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân
dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đã xét xử nghiêm minh, đúng
người, đúng tội với tỷ lệ y án 40/68 vụ án có kháng cáo, đạt tỷ lệ
58,8% so với các vụ án bị sửa do nguyên nhân khách quan là 22/68
vụ, đạt tỷ lệ 32,3%.

13


Theo thống kê của Văn phòng Tòa án nhân dân TP Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình, từ năm 2013 đến 2017 đối với án hình sự, Tịa
án nhân dân TP Đồng Hới đã thụ lý, xét xử 458 vụ/709 bị cáo. Nhìn
chung, số lượng tội phạm có xu hướng tăng dần qua các năm cả về

tội danh và số lượng vụ án, trong đó chủ yếu tập trung vào nhóm các
tội xâm phạm sở hữu tài sản và nhóm các tội xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, sức khỏe và tính mạng của con người.
2.2 Phân tích thực trạng bảo vệ quyền con người trong xét
xử hình sự ở Tịa án nhân dân thành phố Đồng Hới
2.2.1 Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử vụ án
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn Tòa án thụ lý, nghiên
cứu hồ sơ để tiến hành giải quyết vụ án bằng việc ra bản án hoặc các
quyết định. Bảo đảm quyền con người trong cơng tác xét xử vụ án
hình sự là bảo đảm các quyền của bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
trong vụ án hình sự ... Tịa án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình có bộ phận văn phịng là các cán bộ thư ký được cử làm việc tại
bộ phận “1 cửa”, trực tiếp tiếp nhận, hướng dẫn và thụ lý các loại án.
Đối với án hình sự, ngay từ khi thụ lý vụ án, sau khi bộ phận văn
phòng kiểm tra và tiếp nhận hồ sơ thì chuyển ngay hồ sơ cho Chánh
án trực tiếp nghiên cứu và phân cơng cho Thẩm phán giải quyết. Tịa
án nhân dân TP Đồng Hới đã bảo đảm các quy định của pháp luật
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, cụ thể là sau q trình nghiên cứu,
các Thẩm phán Tịa án nhân dân TP Đồng Hới đã kịp thời đưa ra các
quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ án trong thời hạn mà
pháp luật quy định như quyết định đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để
yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án.
Ngay sau khi tiếp nhận hồ sơ,Thẩm phán được phân cơng giải
quyết vụ án xét thấy có các điều kiện thỏa mãn quy định tại Điều 168
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và tại Điều 280 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 thì trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Số liệu
thống kê các vụ án hình sự mà Tịa án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung trong 05 năm

(2013-2017) cho thấy trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán Tòa án
nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình trong việc nghiên cứu kỹ
hồ sơ. Từ năm 2013 đến năm 2017, Tòa án nhân dân TP Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình đã trực tiếp trả 20 hồ sơ vụ án hình sự để Viện kiểm

14


sát TP Đồng Hới, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP Đồng Hới
điều tra bổ sung. Đặc biệt là có sự đột biến trong 02 năm 2014, 2015
với số lượng hồ sơ hình sự cần trả để điều tra bổ sung là gần 10
vụ/năm, chiếm tỷ lệ 7,6% - 8,5% trong tổng số các vụ án hình sự đã
được Tòa án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình thụ lý.
Trong trường hợp xét thấy hồ sơ hình sự đã đầy đủ, các Thẩm
phán Tịa án nhân dân TP Đồng Hới đã ban hành và tống đạt các văn
bản tố tụng cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Việc
tống đạt các văn bản tố tụng thường áp dụng trong các trường hợp
đối với bị cáo tại ngoại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan trong vụ án nhưng ở xa, việc tống đạt qua đường bưu điện
không đảm bảo, điều kiện đi lại khó khăn ... để đảm bảo sự có mặt,
vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án.
Điều này góp phần đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo và
những người tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
2.2.2 Bảo đảm quyền con người trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Trong 5 năm (2013-2017) với tổng số 458 vụ/709 bị cáo Tòa
án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đã đưa ra xét xử khơng
có vụ án nào vi phạm các nguyên tắc theo quy định của Hiến pháp
năm 2013. Tòa án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đã tổ
chức niêm yết nội quy phiên tòa ngay tại hội trường xét xử. Ngay

trước khi mở phiên tịa xét xử vụ án hình sự, thư ký phiên tịa ln
phổ biến lại nội quy của phiên tòa cho những người tham gia tố tụng
và tất cả mọi người có mặt trong hội trường xét xử được biết và thực
hiện.
Phiên tịa xét xử các vụ án nói chung và vụ án hình sự nói
riêng tại Tịa án nhân dân TP Đồng Hới đã có sự tham gia của đầy đủ
Hội thẩm nhân dân, đảm bảo thực hiện ngun tắc việc xét xử của
Tịa án có Hội thẩm nhân dân và khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền
với thẩm phán. Điều này góp phần đảm bảo điều kiện cho nhân dân
tham gia một cách trực tiếp vào hoạt động xét xử để phát huy vai trò
của nhân dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Đối
với các vụ án mà bị can, bị cáo, người bị hại, người tham gia tố tụng
khác là người chưa thành niên, Tòa án nhân dân TP Đồng Hới đã lên
kế hoạch mời Hội thẩm nhân dân là những người hoạt động trong
ngành giáo dục, những người đứng đầu các đoàn thể làm hội thẩm,
đảm bảo sự thấu hiểu, sự quan tâm và sự gần gũi của Hội thẩm trong

15


nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của bị cáo, bị hại, những người tham
gia tố tụng khác đồng thời đảm bảo các quyền lợi của họ tại phiên
tịa. Q trình xét xử các vụ án hình sự tại Tịa án nhân dân TP Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tịa ln ln
thực hiện đầy đủ và đúng trình tự các thủ tục tố tụng từ thủ tục bắt
bắt đầu phiên tòa, thủ tục xét hỏi, các nội dung tranh tụng đảm bảo
đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử...
2.3 Đánh giá bảo vệ quyền con người trong xét xử hình sự
ở Tịa án nhân dân thành phố Đồng Hới
2.3.1 Kết quả đạt được

Trong 5 năm, từ 01/10/2013 đến năm 2017 Tòa án nhân dân
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đã xét xử án hình sự 458vụ/
709 bị cáo nhưng không để xảy ra trường hợp nào bị oan, sai. Trong
công tác xét xử vụ án hình sự, Tịa án nhân dân thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình đã thực hiện tốt các thủ tục, quyền hạn mà
BLTTHS quy định đối với quyền của bị can, bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác.
Việc bảo đảm quyền bào chữa được thực hiện tốt; đảm bảo tốt
thời hạn chuẩn bị xét xử, khơng có tình trạng Tịa án gây khó khăn
cho luật sư trong việc thực hiện các quyền được pháp luật tố tụng
quy định. Đặc biệt, theo kết quả số liệu thống kê giải quyết, hàng
năm có khoảng 1,3% - 2,3%, thậm chí vào năm 2015 có sự tăng đột
biến với 8,5% số vụ án được Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
trong đó phần lớn là thiếu các chứng cứ buộc tội, gây bất lợi cho bị
can theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Số liệu thống kê
những vụ án sau khi Tòa án nhân dân TP Đồng Hới trả hồ sơ điều tra
bổ sung đã được đình chỉ điều tra; hoặc Tòa án nhân dân TP Đồng
Hới xét xử tuyên bị cáo không phạm tội cũng đã khẳng định được
nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trong xét xử, giải quyết các vụ án
hình sự của Tịa án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Các phiên tịa hình sự theo nội dung cải cách tư pháp của
Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị
là những phiên tòa mẫu được tổ chức tại Tòa án nhân dân TP Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình đã nâng cao trách nhiệm của người tiến hành
tố tụng, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, đặc biệt là Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa đã điều khiển phiên tòa theo hướng mở rộng tranh
tụng, tạo điều kiện cho bị cáo, Luật sư, Kiểm sát viên tham gia tranh
luận, đối đáp một cách dân chủ, bản án, quyết định của Tòa án phán

16



quyết chính xác, dân chủ hơn.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
Thực tế cho thấy, nếu muốn chứng minh tội phạm, xử lý tội
phạm bằng bất cứ giá nào thì dễ dẫn đến vi phạm quyền con người;
ngược lại nếu quá chú ý đến việc bảo đảm quyền con người thái quá
mà không mạnh dạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng để
phát hiện, chứng minh tội phạm thì sẽ làm cho hoạt động tố tụng
thiếu hiệu quả, không thể phát hiện, xử lý kịp thời người phạm tội,
thậm chí bỏ lọt tội phạm. Một số Thẩm phán trong quá trình xét xử
vụ án hình sự đã thiếu mạnh dạn khi quyết định áp dụng các biện
pháp cưỡng chế hoặc quá chú trọng đến việc chứng minh tội phạm
nên dễ tác động đến các yếu tố về quyền con người.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung và đội ngũ
Thẩm phán nói riêng tại Tịa án nhân dân TP Đồng Hới cịn bất cập
về số lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác.
Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là sự chậm đổi mới,
cải tiến về phương pháp, lề lối làm việc, triển khai chậm trong thực
hiện cơng tác chun mơn. Ngồi ra, cơ sở vật chất, trang thiết bị
làm việc thiếu thốn, chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng và yêu cầu
cải cách tư pháp. Tóm lại, điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ công tác xét xử và điều kiện làm việc của cán bộ ngành Tòa
án hiện vẫn còn nhiều thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu theo
tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW về cải cách tư pháp ....
Kết luận chương 2
Bằng việc nghiên cứu, phân tích số liệu thống kê xét xử các vụ
án hình sự trên địa bàn Tịa án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình trong 5 năm (2013-2017), tác giả đã đưa ra bức tranh tồn cảnh
về tình hình, thực trạng vấn đề bảo vệ quyền con người trong hoạt
động tố tụng hình sự giai đoạn hiện nay.

Mặt khác, để có cơ sở thực tiễn đưa ra những phương hướng
và giải pháp đẻ tăng cường bảo vệ quyền con người trong xét xử
hình sự khơng thể khơng nghiên cứu những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc đảm bảo quyền
con người khi xét xử vụ án hình sự. Có như vậy, những giải pháp
đưa ra mới có thể phù hợp với thực tế và mang tính khả thi.
Chương 3

17


PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ- TỪ THỰC TIỄN TỒ ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1 Phương hướng tăng cường bảo vệ quyền con người
trong xét xử hình sự
3.1.1 Chú trọng bảo vệ những quyền cơ bản, quan trọng
trong xét xử hình sự
Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2014 đã
thể chế hóa các nguyên tắc chủ đạo về tổ chức quyền lực nhà nước.
Một trong những ngun tắc đó là: tơn trọng, bảo đảm và bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Sự khẳng định tôn trọng Hiến
pháp đã trở thành một nguyên tắc xuyên suốt của tư tưởng Nhà nước
pháp quyền về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, và sự minh bạch của nhà nước, khẳng định quyền lực của
nhân dân như là lá chắn cho việc bảo vệ quyền con người.
3.1.2 Xác định trách nhiệm của các chủ thể trong tố tụng
hình sự khi bảo vệ quyền con người trong xét xử hình sự
Bảo vệ quyền con người trong xét xử hình sự khơng thể không

xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng
hình sự. Đó là trách nhiệm của cả chủ thể tiến hành tố tụng (Cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng) cũng như người tham
gia tố tụng. Qua đó, cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể trong tố tụng hình sự, buộc họ phải nắm rõ quyền và nghĩa vụ của
mình và phải có trách nhiệm thực thi đúng quyền và nghĩa vụ đã
được pháp luật quy định khi tham gia hoạt động xét xử vụ án hình
sự, từ đó làm cơ sở để bảo vệ quyền con người của chính mình đồng
thời góp phần bảo vệ quyền con người của các chủ thể khác.
3.1.3 Nâng cao năng lực tự bảo vệ của các chủ thể trong tố
tụng hình sự
Cần nâng cao nhận thức về quyền con người cho những người
tiến hành tố tụng là các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, bởi
một điều mà người ta lo ngại nhất khi nói đến vấn đề bảo vệ quyền
con người trong tố tụng hình sự đó chính là sự xâm phạm quyền con
người từ phía cơng quyền, sự xâm phạm này không chỉ thể hiện ở
việc pháp luật cịn khoảng trống mà phần nhiều nằm ở chính hoạt
động cụ thể của người tiến hành tố tụng.

18


Cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật nói chung và các quy định về quyền con người nói riêng
đến tồn thể mọi người nhằm nâng cao kiến thức pháp luật cho tất cả
mọi công dân. Bởi thực tế cho thấy, cho đến khi bị buộc tội, nhiều
người vẫn cịn mơ hồ và khơng thể biết chính xác các quyền cơ bản
của mình, do đó đã có nhiều trường hợp xảy ra việc vi phạm quy
định các quyền của bị can, bị cáo mà chính bản thân các bị can, bị
cáo không biết. Việc không biết, khơng nắm bắt rõ về các quyền và

lợi ích của mình được pháp luật bảo vệ của bị can, bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác dẫn đến hậu quả là họ khơng thể tự bảo
vệ mình ngay cả khi quyền và lợi ích của mình đã bị xâm phạm.
Đối với người bị buộc tội cần nâng cao khả năng tự bảo vệ
quyền con người của họ bằng việc tạo điều kiện tốt nhất để họ có thể
tiếp cận các dịch vụ pháp lý thực hiện quyền bào chữa của mình
trong quá trình tố tụng như thuê người bào chữa, chi phí thu thập
chứng cứ, đơn giản hóa các thủ tục tố tụng… Chỉ khi nào thế và lực
của hai bên buộc tội và gỡ tội đạt được thế quân bình ở mức tương
đối thì quyền con người trong tố tụng hình sự mới được đảm bảo trên
thực tiễn.
3.2 Giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người trong
xét xử hình sự
3.2.1 Những giải pháp chung
Trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa
quyền con người cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các nhóm
giải pháp. Đặc biệt là việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền
con người, quyền cơng dân. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân địi hỏi tăng
cường hoạt động lập pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết
để bảo đảm quyền con người. Trước mắt, cần tập trung xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân
sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của
nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như quyền trẻ em,
quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để làm được điều đó,
cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp
luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các quy định
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.


19


Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân đặt ra trong thời gian tới, các quy phạm pháp luật về các
quyền dân sự, chính trị cần được chế định thêm, cụ thể và rõ ràng
hơn trong Hiến pháp; tiến tới mỗi quyền trong Hiến pháp cần được
quy định trong một đạo luật cụ thể. Các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và tổng kết thực tiễn; trên cơ
sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải được quy định cụ thể
hơn. Chỉ khi quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công dân mới an
tâm đưa vốn vào sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho
bản thân và xã hội.
3.2.2 Tiếp tục hồn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình
sự
Yêu cầu đối với nghiên cứu lý luận về quyền con người trong
tố tụng hình sự là phải đảm bảo được chiều sâu, tính đa dạng, khách
quan của lý luận về quyền con người, phản ánh được thực tiễn sinh
động của quá trình tố tụng hình sự và đảm bảo tính khả thi của các
giải pháp. Quyền con người trong tố tụng hình sự chỉ được đặt ra khi
nhà nước tiến hành hoạt động tố tụng hình sự (điều tra, truy tố, xét
xử). Chính vì vậy, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
trước hết địi hỏi hệ thống pháp luật không chỉ giúp nhà nước phát
hiện xử lý tội phạm mà con không làm oan người vơ tội. Dưới góc
độ bảo vệ quyền con người Luật tố tụng hình sự Việt Nam cần ghi
nhận đầy đủ các quyền con người trong tố tụng hình sự trên cơ sở
các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự.
Trong luật thực định của chúng ta cho thấy còn một số quyền con
người của người bị buộc tội chưa được ghi nhận: quyền được im

lặng, quyền không buộc phải đưa ra chứng cứ chống lại chính mình,
quyền thu thập đưa ra chứng cứ chống lại chính mình, quyền thu
thập đưa ra chứng cứ, quyền bào chữa…vẫn chưa được quy định cụ
thể.
Hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, các bộ luật về hình
sự, tố tụng hình sự nói riêng hiện nay đều cịn tồn tại nhiều hạn chế,
chưa đồng bộ, việc giải thích, hướng dẫn và áp dụng pháp luật cịn
nhiều bất cập. Vì vậy, yêu cầù đặt ra là phải hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật, áp dụng pháp luât phải đầy đủ, cụ thể, rõ ràng và
chính xác để khơng chỉ những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến
hành tố tụng mà bất cứ ai tham gia vào lĩnh vực tố tụng đều có thể

20


thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách thuận lợi và được đảm bảo.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật là tiền đề để áp dụng pháp luật một
cách thống nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xét xử,
đảm bảo mọi vi phạm pháp luật phải được xử lý một cách nghiêm
minh, công bằng.
3.2.3 Triển khai thực hiện có chất lượng, hiệu quả hoạt
động tranh tụng trong xét xử hình sự
Xác định được tầm quan trọng của tranh tụng tại phiên tòa đối
với việc đưa ra các phán quyết của Tòa án, Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng nhấn mạnh: "Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Tiếp đó, trong chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng một
lần nữa yêu cầu: "Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan
tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi

đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp…”. Mới đây nhất,
tại Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của
Quốc hội khoá XIII tiếp tục khẳng định: "Toà án nhân dân tối cao
chỉ đạo các Toà án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên toà”.
Ngoài ra, cần thực hiện nghiêm túc và đồng bộ quy định mới
tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của TAND
Tối cao về vị trí ngồi của Kiểm sát viên và người bào chữa tại các
phiên tịa hình sự theo hướng để Luật sư được ngồi ở ghế đối diện
ngang bằng với Kiểm sát viên và gần bị cáo.
Bên cạnh đó, để thực hiện tốt hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa, cần mở rộng quyền thu thập chứng cứ và cách thức thu thập
chứng cứ của người bào chữa. BLTTHS cần quy định về việc CQĐT
và VKS khi nhận được đồ vật, tài liệu do người bào chữa cung cấp
phải đưa những chứng cứ này vào hồ sơ hình sự. Trong trường hợp
bị cáo khơng có người bào chữa, việc hỏi cung cũng cần sự có mặt
của người đại diện hợp pháp hoặc người thân thích được bị cáo đề
nghị làm người bào chữa cho họ.
3.2.4 Bảo đảm chất lượng, nâng cao trách nhiệm, đạo đức
nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng hình sự
Trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói
riêng, Tịa án giữ vai trị là trung tâm, để đảm bảo chất lượng, nâng
cao hiệu quả công tác xét xử cần chú trọng kiện toàn tổ chức của các

21


Tòa án, đặc biệt là tổ chức của Tòa án cấp huyện (quận, thành phố),
trong đó đội ngũ Thẩm phán được bổ sung nâng cao về số lượng và
chất lượng. Bên cạnh đó, cần xây dựng chế độ đãi ngộ đối với Thẩm
phán cho phù hợp và tương xứng với trách nhiệm mà họ phải thực

hiện, đặc biệt là trong giai đoạn thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp
huyện đã được thay đổi theo chiều hướng tăng so với thời gian trước.
Cần tăng cường đào tạo nghiệp vụ, trình độ chuyên môn, kỹ
năng xét xử, giải quyết các vụ án cho đội ngũ Thẩm phán. Thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc tiến độ và kết quả giải quyết các vụ án của
Thẩm phán.
3.2.5 Chủ động phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm những vi
phạm tố tụng hình sự
Cần nâng cao nhận thức về quyền con người, hay nói cách
khác là tăng cường giáo dục quyền con người cho những người tiến
hành tố tụng, bởi một điều mà người ta lo ngại nhất khi nói đến vấn
đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự đó chính là sự xâm
phạm quyền con người từ phía cơng quyền, sự xâm phạm này khơng
chỉ thể hiện ở việc pháp luật cịn khoảng trống mà phần nhiều nằm ở
chính hoạt động cụ thể của người tiến hành tố tụng.
Phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các lĩnh
vực hoạt động xét xử án hình sự để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm
những vi phạm tố tụng hình sự, hạn chế những vi phạm về quyền và
nghĩa vụ công dân trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.. Trong đó
phải huy động cơng tác kiểm tra, phịng ngừa tội phạm, phát huy
được sự tham gia đông đảo của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân. Nhất là phát huy
vai trò phòng ngừa và tố giác tội phạm trong nhân dân.
3.3 Các giải pháp khác

Việc tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân có tầm ý
nghĩa rất quan trọng trong việc nhận thức và thực hiện các quy định
của pháp luật. Trong tố tụng hình sự, bằng việc nâng cao nhận thức
của người dân về vai trò của Toà án, người bào chữa, KSV, các
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng…cũng góp phần nâng cao chất lượng

của hoạt động tranh tụng tại phiên toà. Để thực hiện được điều đó thì
cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình
thi hành pháp luật và có ý nghĩa, vai trị hết sức quan trọng trong việc

22


tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Cần phải tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư các trang thiết bị
phục vụ cho công tác xét xử để góp phần đảm bảo hoạt động xét xử
hình sự có hiệu quả cao, tăng cường tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.
3.4 Những giải pháp riêng đối với Tòa án nhân dân TP
Đồng Hới

Nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền con người trong
xét xử vụ án hình sự tại Tịa án nhân dân TP Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình, lãnh đạo đơn vị cần quan tâm sâu sắc hơn đến việc đào tạo, tập
huấn, trau dồi kỹ năng cũng như trao đổi kinh nghiệm xét xử các vụ
án hình sự trong đội ngũ Thẩm phán. Cần tổ chức các phiên họp, các
buổi trao đồi kinh nghiệm, kịp thời đưa ra các giải pháp, giải đáp các
vướng mắc giữa các Thẩm phán, tổng hợp và tuyển chọn các kỹ năng
mới, cách làm hay thành tuyển tập và lưu dùng trong đội ngũ Thẩm
phán trong đơn vị. Thường xuyên tạo điều kiện thuận lợi, khuyến
khích đội ngũ Thẩm phán cũng như Thư ký, cán bộ giữ chức danh
Tư pháp khác tham gia học tập, nâng cao trình độ chuyên mơn,
nghiệp vụ, năng lực xét xử... Đồng thời có sự sắp xếp hợp lý trong
công tác quy hoạch đào tạo nguồn (dự bị nguồn) nhân lực, bố trí vị
trí việc làm phù hợp. Ln quan tâm, có chế độ bồi dưỡng, khen
thưởng kịp thời đối với những cá nhân xuất sắc, có nhiều thành tích

trong cơng tác. Bên cạnh đó, thường xuyên tổ chức công tác kiểm
tra, đôn đốc tiến độ và kết quả giải quyết, xét xử các loại án nói
chung và án hình sự nói riêng. Khơng chỉ mở các phiên họp bàn kế
hoạch xét xử trước khi đưa các vụ án hình sự ra xét xử mà cần phải
tổ chức các phiên họp kiểm tra kết quả, đúc rút kinh nghiệm sau xét
xử nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giải quyết, xét xử đồng thời có
những điều chỉnh, xử lý kịp thời đối với các trường hợp sai phạm.

23


×