Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận tư TƯỞNG của v i LÊNIN về ĐẢNG là HIỆN THÂN của mối LIÊN hệ GIỮA đội TIÊN PHONGVỚI GIAI cấp CÔNG NHÂN và QUẦN CHÚNG NHÂN dân LAO ĐỘNG ý NGH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.93 KB, 34 trang )

1

TƯ TƯỞNG CỦA V. I. LÊNIN VỀ ĐẢNG LÀ HIỆN THÂN CỦA
MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỘI TIÊN PHONGVỚI GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VÀ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN LAO ĐỘNG. Ý NGHĨA
THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TA HIỆN
NAY.
Lênin vị lãnh tụ vĩ đại của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Người kế thừa xuất sắc và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong thời
đại của mình. Từ những tư tưởng cơ bản của C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin
đã phát triển và hoàn chỉnh học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân, một học thuyết thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
Học thuyết về đảng kiểu mới là một trong những cống hiến to lớn của
Lênin vào kho tàng lý luận, là kim chỉ nam hành động cho đảng kiểu mới
của giai cấp cơng nhân Nga và các đảng Cộng sản trên tồn thế giới.
Nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử thế giới cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX chúng ta thấy rằng, đây là thời kỳ đánh dấu bước ngoặt quan
trọng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Là giai đoạn chủ
nghĩa tư bản phát triển cao chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
Tính chất phản động của nó đã bao trùm trên tất cả mọi lĩnh vực, cản
trở sự phát triển của xã hội loài người. Trong khi đó từ năm 1898 1903 là thời kỳ tan rã về tư tưởng và tổ chức trong Đảng Công nhân xã
hội dân chủ Nga. Dựa vào bộ “Tư bản” của C.Mác và hoạt động thực
tiễn cách mạng trong phong trào cơng nhân đang phát triển. Lênin
phân tích một cách sâu sắc chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới và chỉ


2

ra rằng, chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vơ sản; rằng,
trên thực tế đã có “điều kiện khách quan để lật đổ chế độ tư bản đã
chín muồi”1, Tính tất yếu khách quan của cách mạng vơ sản đang trở


thành hiện thực. Do đó lịch sử giai đoạn này địi hỏi đảng cách mạng
chân chính của giai cấp công nhân phải thực sự là đội tiên phong, lãnh
tụ chính trị đủ khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp bằng đường
lối, chiến lược, sách lược mới phù hợp yêu cầu thực tiễn cách mạng
đặt ra.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân
lớn mạnh không ngừng cả về số lượng và chất lượng. Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân phát triển cả về bề rộng, chiều sâu và
diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở nhiều nước châu Âu đã chứng minh
rằng: giai cấp cơng nhân hồn tồn có khả năng đồn kết xung quanh
mình những người bị áp bức và bóc lột để lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây
dựng xã hội mới. Thời điểm lịch sử này, với tầm nhìn chiến lược Lênin
đưa ra khẩu hiệu:“Vơ sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đồn
kết lại!”. Bằng trí tuệ và uy tín của mình Lênin cùng bạn bè đã đấu
tranh kiên quyết chống lại quan điểm sai lầm của chủ nghĩa cơ hội
trong quốc tế II, đồng thời kế thừa và phát triển sáng tạo những luận
điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về Đảng, xây dựng nên học thuyết về
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Tháng 03 - 1898, Đại hội I của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội
Nga được triệu tập, Đại hội chưa đưa ra được cương lĩnh và điều lệ mà
1

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1980, tập 26, tr. 119.


3

chỉ làm được một việc duy nhất là bầu được Ban Chấp hành Trung
ương. Tuy nhiên, ngay sau Đại hội hầu hết các uỷ viên Trung ương bị
chính quyền Nga Hồng bắt giữ. Đúng lúc này phong trào cơng nhân

Nga phát triển mạnh mẽ địi hỏi cần có chính Đảng cách mạng lãnh
đạo, trong khi đó phần đơng các tổ chức Mácxít địa phương quen làm
theo lối thủ cơng, cục bộ địa phương khơng có tính chất tồn quốc.
Trải qua giai đoạn khó khăn Lênin và những người bạn chiến
đấu của ông đã đấu tranh không mệt mỏi nhằm thống nhất tư tưởng và
hành động của phong trào công nhân Nga. Chính vì vậy, Đại hội lần
thứ II của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga được triệu tập vào
tháng 7 năm 1903. Tại Đại hội đã nổ ra cuộc đấu tranh rất quyết liệt về
quan điểm giữa phái cách mạng chân chính do Lênin đứng đầu và phái
cơ hội chủ nghĩa do Máctốp đứng đầu. Với những lý luận sắc bén,
chính xác, đầy thuyết phục, Lênin trình bày toàn bộ hệ thống những
quan điểm đầu tiên về xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp
cơng nhân. Những quan điểm đó, sau này được ơng bổ sung trở thành
học thuyết về Đảng Cộng sản.
Hệ thống những nguyên tắc tổ chức cơ bản về xây dựng Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân được Lênin đưa ra trong đại hội trên cơ sở
kết thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen được
khái quát như sau:
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân.
- Đảng là bộ phận có tổ chức của giai cấp cơng nhân.
- Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân.


4

- Đảng được tổ chức theo chế độ tập trung.
- Đảng là hiện thân của sự liên lạc giữa đội tiên phong với
giai cấp công
nhân và đông đảo quần chúng lao động
- Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.

Trong đó nguyên tắc: Đảng là hiện thân của sự liên lạc giữa đội
tiên phong với giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng lao động là
một trong những nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân, là mối liên hệ bản chất, là quy luật tồn tại và phát triển
của Đảng kiểu mới, là sức mạnh, là vấn đề sống còn đối với Đảng cầm
quyền, là điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng thắng lợi và là tiêu
chuẩn của một đảng mácxít chân chính.
Trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức cơ bản về đảng kiểu mới
của Lênin. Đảng Bơnsêvích Nga đã ra đời năm 1903, tiếp theo Quốc tế
III - Quốc tế cộng sản thành lập năm 1919 theo sáng kiến của Lênin.
Quốc tế III đã đóng góp vai trị to lớn đối với sự ra đời của hàng loạt
các Đảng Cộng sản trên toàn thế giới, từ đó thúc đẩy phong trào đấu
tranh của giai cấp cơng nhân phát triển mạnh mẽ. Điều đó chứng minh
rằng: những nguyên tắc tổ chức xây dựng đảng cách mạng chân chính
của Lênin đưa ra là hồn tồn đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát
triển phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết tìm mọi cách chống
phá chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Đặc biệt, là chia rẽ mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng nhân


5

dân. Vì vậy, học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo luận điểm của
Lênin về Đảng là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong của giai
cấp công nhân với quần chúng nhân dân, là một đòi hỏi tất yếu khách
quan trong công tác xây dựng Đảng. Một vấn đề có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng trong q trình xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng
mà phần đông đảng viên xuất thân từ nông dân. Đây vừa là vấn đề quyết
định sự sống còn của Đảng ta, đồng thời là yếu tố quan trọng củng cố

sự tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị, là điều kiện tất yếu bảo
đảm giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản ở nước ta hiện nay.
Trong khi luận giải tính tất yếu khách quan sự ra đời của Đảng
Cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lênin đồng thời làm rõ mối quan hệ giữa
Đảng với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. C.Mác
- Ph.Ăngghen khẳng định rằng: Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp
công nhân; Đảng luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân để giải quyết các vấn đề. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động. Đảng không chỉ đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công nhân
mà cịn đại biểu cho quyền lợi của tồn thể nhân dân lao động. Bởi vì,
giai cấp cơng nhân chỉ có thể tự giải phóng mình nếu đồng thời giải
phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội thốt khỏi
áp bức và bóc lột.
C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ rõ: Đảng Cộng sản thực sự là đội tiên
phong cách mạng của giai cấp cơng nhân thì Đảng phải được vũ trang


6

bằng lý luận tiên tiến, có trình độ giác ngộ cao, đồng thời, trong thực
tiễn, Đảng là người kiên quyết nhất và biết lôi cuốn quần chúng hành
động.
Khi bàn về vai trò của quần chúng trong lịch sử nhân loại, trong
tác phẩm “Gia đình thần thánh” Ph.Ăngghen chỉ ra rằng: quần chúng là
người sáng tạo ra lịch sử. Quần chúng sáng tạo, đó là động lực thực sự
của lịch sử chứ không phải cá nhân anh hùng và sự “phê phán thuần
tuý” sáng tạo ra. Trên cơ sở quan điểm về quần chúng và vai trò của
quần chúng của C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin đã kế thừa, phát triển và

vận dụng sáng tạo trong xây dựng Đảng kiểu mới.
Thực tiễn Lênin đã xây dựng Đảng Bơnsêvích Nga gắn bó, liên hệ
chặt chẽ, máu thịt với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lênin
khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng nhân
dân là lực lượng quyết định, lực lượng sáng tạo ra những giá trị vật chất
và tinh thần của xã hội. Đảng là tổ chức tự nguyện đấu tranh vì sự
nghiệp giải phóng quần chúng khỏi ách áp bức và bóc lột. Quần chúng
cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh ấy.
Đồng thời khơng có sự đồng tình ủng hộ của quần chúng thì mọi chủ
trương, đường lối của Đảng không thể trở thành hiện thực.
Theo Lênin Đảng Cộng sản chỉ tồn tại với tính cách là đội tiên
phong, lãnh tụ chính trị khi gắn bó mật thiết với quần chúng. Đảng
phải liên hệ với quần chúng là tất yếu khách quan. Bởi vì, Đảng Cộng
sản và quần chúng lao động là hai nhân tố cơ bản của cách mạng vô
sản. Đảng là người lãnh đạo và tổ chức quần chúng, còn quần chúng là


7

lực lượng vật chất tiến hành cách mạng. Mối liên hệ khăng khít với
quần chúng đã giúp cho Đảng hiểu rõ lợi ích và nắm vững tâm tư,
nguyện vọng của các giai cấp và các tầng lớp xã hội khác nhau, đồng
thời gây dựng được lòng tin và ảnh hưởng lớn tới các giai cấp và tầng
lớp đó.
Quần chúng là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Sức
mạnh của Đảng là ở mối liên hệ với quần chúng. Do đó, khi giải quyết
mọi nhiệm vụ, Đảng phải dựa vào quần chúng. Mặt khác, chỉ có dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì năng lực sáng tạo to lớn của nhân dân
mới thực sự được bộc lộ và tác động đúng hướng tiến trình phát triển của
xã hội. Khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì quần chúng nhân

dân khơng thể có phương hướng chính trị đúng đắn để đấu tranh và
phong trào quần chúng cũng chỉ dừng lại ở “chủ nghĩa công liên” mà
thôi. Ngược lại, nếu khơng có sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng thì
Đảng khơng thể có sức mạnh, cách mạng vô sản không thể đi tới thành
công được. Sự lãnh đạo của Đảng kết hợp với tính tích cực và sáng tạo
của quần chúng tạo ra một sức mạnh vô cùng to lớn. Lênin chỉ rõ: “Đội
tiên phong chỉ làm trịn sứ mệnh lịch sử của nó khi nó biết gắn bó với
quần chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt tập thể quần chúng tiến
lên. Nếu không liên minh với những người không phải là đảng viên cộng
sản trong các lĩnh vực hoạt động hết sức khác nhau thì khơng thể nói tới
một thành cơng nào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cả”1.

1

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 45, tr. 28 -29.


8

Theo Lênin, Đảng Cộng sản có vị trí rất quan trọng trong cách
mạng vô sản. Đảng là đội tiên phong, là người lãnh đạo, là lãnh tụ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng chỉ trở thành lãnh tụ
chính trị, đội tiên phong khi Đảng gắn bó mật thiết với giai cấp và
quần chúng. Nghĩa là, nó thể hiện mối quan hệ giữa người lãnh đạo
với đối tượng lãnh đạo và phải ln ln duy trì tốt mối quan hệ đó.
Nếu cắt đứt mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và quần
chúng nhân dân lao động thì Đảng khơng cịn tồn tại với tư cách là
người lãnh đạo, đội tiên phong nữa. Người nhấn mạnh: “đối với Đảng
Cộng sản…thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là
tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”1. “Những người lãnh đạo không

được tách rời quần chúng bị lãnh đạo, đội tiên phong không được tách
rời khỏi tồn bộ đội qn lao động”2. Nói cách khác, liên hệ với quần
chúng là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng Cộng sản,
là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là một trong những nhân tố quan
trọng bảo đảm cho sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Xã hội loài người vận động theo các qui luật khách quan vốn có
của nó. Cũng như các quy luật xã hội khác, quy luật này không phải
phát huy tác dụng một cách tự phát mà phải thông qua hoạt động tự
giác của chủ thể của nó đó là Đảng Cộng sản. Vì vậy, Đảng muốn tồn
tại, phát triển, xứng đáng là đội tiên phong và có đủ lực lượng, đủ sức
mạnh hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì Đảng phải liên hệ chặt
chẽ với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và phải được sự ủng hộ
1
2

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 44, tr. 426.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 44, tr. 608.


9

của họ. Đó là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm cho
Đảng có sức mạnh và phát triển, là nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng; là nguyên tắc bất di bất dịch trong công tác
xây dựng Đảng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là một tổ chức tự
nguyện, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng của nhân dân khỏi ách áp
bức và bóc lột, nhân dân cần có đảng với tư cách là người lãnh đạo họ
trong cuộc đấu tranh ấy. Nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ của
nhân dân thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không trở thành hiện

thực. Lênin khẳng định: “Muốn trở thành một Đảng dân chủ - xã hội,
thì cần phải được sự ủng hộ của giai cấp…”1.
Người còn chỉ rõ: Mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng không
phải do số lượng đảng viên nhiều hay ít mà được quyết định chủ yếu ở
chất lượng đội ngũ đảng viên. Các tổ chức đảng của chúng ta bao gồm
những người dân chủ - xã hội chân chính. Họ càng mạnh mẽ bao
nhiêu, trong nội bộ đảng càng ít có tình trạng dao động và khơng kiên
định bao nhiêu, thì ảnh hưởng của đảng đối với những người trong
quần chúng công nhân xung quanh đảng và chịu sự lãnh đạo của đảng
sẽ càng rộng rãi, càng nhiều mặt, càng phong phú, càng hiệu quả bấy
nhiêu.
Sau khi đập tan bộ máy nhà nước Tư sản giành chính quyền về tay
nhân dân, thiết lập nền chun chính vơ sản. Sự lãnh đạo của Đảng ngày
càng to lớn về quy mô, phong phú và phức tạp về nội dung, bao trùm lên
1

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978,tập 8, tr. 293.


10

tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội. Chính sự tăng lên
khơng ngừng vai trị lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục mở
rộng và củng cố mối liên hệ với quần chúng. Lênin chỉ ra rằng: Chúng ta
là đảng của giai cấp, bởi vậy hầu như toàn bộ giai cấp (và trong thời kỳ
nội chiến thì tồn bộ giai cấp khơng trừ một người nào cả) càng phải
hoạt động dưới sự lãnh đạo của đảng ta, phải triệt để xiết thật chặt hàng
ngũ xung quanh đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tiến hành xây dựng xã hội
mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề củng cố và tăng cường mối

liên hệ giữa Đảng với nhân dân càng trở nên cấp bách và quan trọng
hơn bao giờ hết. Bởi vì, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc
cách mạng sâu sắc nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất và do đó cũng gay
go nhất, phức tạp nhất trong lịch sử lồi người. Lênin nói: đó là thời
điểm rung chuyển vũ bão về chính trị và kinh tế, thời điểm đấu tranh
giai cấp cực kỳ sâu sắc. Cuộc cách mạng này đòi hỏi Đảng Cộng sản
phải động viên và phát huy đến mức cao nhất tính tích cực và sáng tạo
của quần chúng nhân dân. Khơng như thế thì khơng thể có chủ nghĩa
xã hội được.
Xét q trình phát triển của xã hội lồi người thì sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một nhiệm vụ hồn tồn
mới mẻ nó vơ cùng khó khăn, gian khổ và phức tạp. Sự nghiệp đó chỉ
có thể thành cơng nếu Đảng tổ chức và phát huy được tính sáng tạo
của quần chúng. Do vậy, nếu cho rằng, chỉ riêng Đảng Cộng sản với
sức mạnh của mình mới có thể xây dựng được xã hội mới, là phạm sai


11

lầm nghiêm trọng. Lênin đã chỉ ra rằng: những người cộng sản chỉ như
những giọt nước trong đại dương nhân dân mênh mông và chỉ riêng
với bàn tay những người cộng sản thì khơng thể xây dựng thành cơng
chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp
của bản thân quần chúng nhân dân. Tính chất hành chính, máy móc,
quan liêu khơng dung hợp với tinh thần của chủ nghĩa xã hội và tính
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, phải phê phán tất cả
những hành động, biểu hiện quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, cục bộ
địa phương làm ảnh hưởng tới những giá trị chân chính của chủ nghĩa
xã hội, làm suy giảm sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân.
Hồn cảnh của lịch sử có tính chất quyết định đối với các hình

thức cụ thể của mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng và sự lãnh đạo
quần chúng của Đảng. Trong lúc chính quyền cịn nằm trong tay bọn
bóc lột thì Đảng đặt ra nhiệm vụ cơ bản là tranh thủ giai cấp công nhân
và các tầng lớp lao động khơng vơ sản khác về phía mình, đồn kết
quần chúng xung quanh giai cấp vơ sản để lật đổ ách thống trị của bọn
tư bản. Chính mục đích đó, Đảng hoạt động trong tất cả các tổ chức xã
hội kể cả các tổ chức phản động, nếu trong đó có quần chúng lao động;
theo Lênin những người cộng sản cần thiết và tất yếu phải tham gia
vào nghị viện tư sản. Đảng tham gia vào các cuộc vận động chính trị
bầu cử vào nghị viện và các tổ chức khác của giai cấp tư sản, làm như
vậy Đảng có thể trình bày trước quần chúng cương lĩnh, mục đích và
nhiệm vụ của mình để lơi kéo quần chúng, vạch trần thực chất tính
chất phản động trong chính sách của giai cấp cầm quyền và tất cả


12

những kẻ ủng hộ chúng, gây sức công phá kẻ thù từ trong lòng kẻ thù,
chuẩn bị mọi mặt cho cách mạng giành chính quyền.
Lênin chỉ ra rằng: khi cách mạng đã bùng nổ và quần chúng tham
gia vào cuộc cách mạng đó, thì làm người cách mạng khơng khó.
Nhưng khi điều kiện cho sự bùng nổ cách mạng chưa chín muồi và cần
phải giải thích cho quần chúng hiểu rõ sự cần thiết của những hành
động cách mạng với mục đích thoả mãn những lợi ích căn bản của họ
thì việc thực hiện đường lối cách mạng sẽ khó khăn hơn nhiều. Chính
điều đó địi hỏi Đảng Cộng sản phải làm cơng tác quần chúng một
cách kiên trì, bền bỉ, khéo léo và có hiệu quả.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi, Đảng Cộng
sản trở thành đảng cầm quyền, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của
mình thơng qua các cơ quan nhà nước, các tổ chức cơng đồn, đồn

thanh niên và các tổ chức quần chúng khác của nhân dân lao động.
Những tổ chức đó là cầu nối liền Đảng với đơng đảo quần chúng cơng
nhân, nơng dân, trí thức và các giai tầng khác, khơng có điều đó thì
khơng thể có được chính quyền vơ sản.
Thực tiễn đã chứng minh khi Đảng Bơnsêvích Nga đã có chính
quyền, Lênin ln nhấn mạnh: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối
liên hệ với nhân dân, từ sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng nhân
dân đối với Đảng. Thiếu điều kiện đó khơng những không thể xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mà cịn có thế dẫn đến mất chính
quyền. Trong lời Chào mừng những người cộng sản Ý, Pháp và Đức,
Lênin khẳng định: “Khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân


13

dân lao động đối với đội tiên phong của mình, tức là đối với giai cấp
vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện được. Nhưng sự
đồng tình và ủng hộ đó...phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp lâu
dài, khó khăn, gian khổ mới giành được”1 và sự đồng tình ủng hộ ấy
“khơng phải kết thúc khi giai cấp vơ sản đã cướp được chính quyền.
Sau khi giành được chính quyền, cuộc đấu tranh đó vẫn tiếp tục như
trước, có điều là với hình thức khác mà thôi”2.
Thực tiễn chứng minh rằng: một trong những nguyên nhân của
hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ là
do các Đảng cầm quyền không thắt chặt mối quan hệ giữa đảng với
quần chúng, không nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân,
không đưa ra được những giải pháp kinh tế - xã hội đáp ứng nhu cầu
bức xúc của quần chúng, không được quần chúng tin yêu, bảo vệ.
Đảng để cho kẻ thù giai cấp lợi dụng tính bột phát của quần chúng, mê
hoặc quần chúng, chống lại sự lãnh đạo của Đảng, phá hoại các mạng.

Chính vì vậy, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng có nhiều
điều kiện mới, công cụ mới rất thuận lợi cho việc tăng cường mối liên
hệ giữa Đảng và quần chúng. Đảng cần xây dựng được cơ chế vận
hành của hệ thống chính trị trên nguyên tắc tập trung dân chủ để giữ
vững kỷ cương, phép nước, đồng thời phát huy dân chủ trong đời sống
xã hội. Động viên quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước, xây dựng đời sống mới văn minh, hạnh phúc.

1
2

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 39, tr. 251.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 39, tr. 251.


14

Mặt khác, khi đảng cầm quyền, đảng viên có chức, có quyền
trong Đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh làm cho một
bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện có thể rơi vào tình trạng
thối hố, biến chất, xa rời quần chúng không quan tâm đầy đủ tới lợi
ích của quần chúng. Lênin coi đó là một trong những nguy cơ mà đảng
cầm quyền cần chú ý đề phòng, khắc phục. Nếu những ai quên mất
những mối liên hệ khăng khít giữa đội tiên phong và tồn thể nhân dân
thì đó là một tai hoạ thật sự. Quan liêu, xa rời quần chúng chính là
nguy cơ làm cho Đảng dễ phạm sai lầm về đường lối, vì nó làm cho
đường lối của Đảng khơng phản ánh đúng đắn và đầy đủ tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của quần chúng. Do đó,
Đảng khơng thể xây dựng được niềm tin, sự tín nhiệm của quần chúng;
không được quần chúng tán thành ủng hộ, khơng quyết tâm thực hiện

đường lối, chính sách của Đảng và kết quả là đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng chỉ nằm trên giấy mà thôi. Đồng thời, quan liêu,
xa rời quần chúng còn là nguyên nhân làm cho một bộ phận cán bộ,
đảng viên khi có chức, có quyền thiếu rèn luyện rất dễ nảy sinh thói
hư, tật xấu, thối hố, biến chất. Điều đó cực kỳ nguy hiểm, bởi nó trái
với bản chất của Đảng, làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của Đảng
đối với quần chúng. Vì vậy, Lênin u cầu trong cơng tác xây dựng
Đảng, Đảng phải kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa quan
liêu, xa rời quần chúng. Đồng thời, Lênin kịch liệt phản đối những
người cộng sản “tả khuynh”, coi cơng đồn là một tổ chức phản động.
Họ ln nói đến khái niệm quần chúng, nhưng họ đã lạm dụng khái


15

niệm đó và khơng hiểu nổi mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Họ
chủ trương rằng, những người cộng sản khơng tham gia cơng đồn,
điều đó có nghĩa là tách Đảng với quần chúng. Lênin khẳng định: Chỉ
có một mình đội tiên phong thơi thì khơng thể thắng nổi. Ném độc một
mình đội tiên phong vào một cuộc chiến đấu quyết định, khi mà toàn
thể giai cấp, khi mà quần chúng đơng đảo hoặc chưa có ít ra là một
thái độ trung lập có thiện cảm đối với đội tiên phong, khiến họ hồn
tồn khơng thể ủng hộ kẻ địch được, thì đó khơng những là một điều
dại dột, mà cịn là một tội ác nữa.
Qua đó chúng ta thấy rằng: củng cố và tăng cường mối liên hệ
giữa Đảng Cộng sản với quần chúng là một đòi hỏi tất yếu của cách
mạng vô sản, của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, là một quy luật
khách quan của công tác xây dựng Đảng. Đây vừa là vấn đề quyết định
sự sống còn của Đảng, vừa là sự bảo đảm quan trọng cho sự tồn tại và
phát triển của hệ thống chính trị, là điều kiện tất yếu trong cuộc đấu

tranh giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Bất kỳ một sự làm suy yếu
nào mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản với quần chúng cũng đều làm yếu
sức mạnh của hệ thống chính trị, làm hạn chế sự phát triển của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản .
Do đó, Lênin khẳng định: Để giữ vững và tăng cường mối liên
hệ giữa Đảng với quần chúng, Đảng phải đi vào các giai cấp, các tầng
lớp với tư cách là người truyền bá tư tưởng, lý luận chủ nghĩa Mác để
giác ngộ, tập hợp quần chúng; tổ chức vận động quần chúng, phát huy
vai trò của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng. Đảng phải hết sức


16

làm cho tinh thần của mình thấm sâu vào các nghiệp đoàn và làm cho
các tổ chức ấy chịu ảnh hưởng của mình.
Đảng Cộng sản phải đại biểu và chăm lo cho lợi ích của quần
chúng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ nguyện
vọng, lợi ích chính đáng của quần chúng, tơn trọng và phát huy quyền
làm chủ của quần chúng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nếu khơng vì quần chúng, xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích của quần
chúng thì Đảng khơng có lý do để tồn tại.
Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần của xã hội. Vì vậy, Đảng phải phát huy được vai
trò chủ động sáng tạo, tiếp thu kinh nghiệm của quần chúng, tập trung
trí tuệ của quần chúng làm lực lượng vật chất hùng hậu xung quanh
Đảng. Đồng thời, Đảng phải có phương pháp, tác phong quần chúng,
dựa vào quần chúng để xây dựng và hoạt động. Thông qua các tổ chức
khác để lôi kéo, tập hợp quần chúng, làm như vậy, Đảng sẽ nắm được
nhiều quần chúng hơn, Lênin đòi hỏi: người cộng sản nhất thiết phải
công tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng, kể cả những tổ chức phản

động nhất.
Đảng phải dựa vào quần chúng để hoạt động và xây dựng Đảng.
xây dựng đường lối, chủ trương cho sát với thực tiễn đời sống của
nhân dân. Thông qua quần chúng để phê bình cán bộ, đảng viên của
Đảng. Đảng phải xây dựng cơ chế, bộ máy của quần chúng để kiểm
tra, giám sát cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng. Đồng thời, thông qua
quần chúng để làm công tác phát triển đảng và sàng lọc đội ngũ cán


17

bộ, đảng viên của Đảng và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, vi
phạm dân chủ trong Đảng. Đảng phải đoàn kết và lãnh đạo quần chúng
tiến hành sự nghiệp cách mạng. Mặt khác, Đảng phải thường xuyên
chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Lênin từng dạy: chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước
nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại nếu chúng
ta quên mất sự khác nhau giữa đội tiên phong và tất cả số quần chúng
hướng theo đội tiên phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng, đội tiên
phong ấy có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng
đơng đảo lên trình độ tiên tiến ấy. Đây chính là yêu cầu quan trọng đặt
ra cho Đảng phải đề phòng và khắc phục các khuynh hướng quan liêu
xa rời quần chúng, vượt quá xa trình độ của quần chúng. Đồng thời, đề
phịng khuynh hướng theo đi quần chúng.
Thực tiễn phong trào cách mạng ở Nga đã chứng minh: Luận
điểm của Lênin về Đảng là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên
phong với giai cấp công nhân và quần chúng là một trong những
nguyên tắc tổ chức cơ bản, quan trọng của Đảng Bơnsêvích Nga lúc
bấy giờ. Cùng với các nguyên tắc tổ chức khác, Lênin đã cùng với
Đảng Bơnsêvích xây dựng thành cơng một Đảng kiểu mới, lãnh đạo

cách mạng Tháng Mười Nga thành công và tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đồng thời, Lênin đã đánh bại những tư tưởng phản động,
những mưu đồ đen tối của bọn cơ hội, xét lại hàng ngày, hàng giờ mưu
toan chống phá Đảng.


18

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định sức mạnh to lớn, vai trị có
ý nghĩa quyết định của quần chúng nhân dân trong lao động sản xuất và
trong các cuộc cách mạng xã hội. Lênin chỉ ra rằng: trong điều kiện có
chính quyền, Đảng cầm quyền có hai nguy cơ là sai lầm về đường lối và
xa rời quần chúng. Do vậy, bất cứ một đảng phái hay giai cấp nào muốn
thực hiện những cuộc cải biến có ý nghĩa cách mạng đều phải dựa vào
quần chúng và thông qua sức mạnh của quần chúng.

Trải qua hơn

100 năm, lịch sử thế giới có nhiều biến động sâu sắc. Song luận điểm
này đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn đối với
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, đặc biệt có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng
hiện nay.
Vận dụng, sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin
về xây dựng Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân vào điều
kiện cụ thể cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những
bước phát triển mới phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và kết cấu giai
cấp, dân tộc Việt Nam. Quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nhất là quan
hệ giữa Đảng cầm quyền đối với nhân dân là một nội dung đặc sắc

trong tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh khẳng định: mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng
là vấn đề cơ bản của xây dựng Đảng. Đảng có liên hệ mật thiết với
quần chúng thì Đảng mới có sức mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây
dựng thành công chế độ xã hội mới. Dưới sự tổ chức và lãnh đạo của


19

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta ngay từ khi mới thành lập cũng như
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ln trung thành lợi ích
của giai cấp, của dân tộc. Đảng ta xác định liên hệ máu thịt với nhân
dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới sự tồn vong của Đảng.
Trước lúc đi xa Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản “Di chúc” tài
sản vô giá cho dân tộc, Người nhấn mạnh về mối quan hệ giữa Đảng
với nhân dân; “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng, một dạ phục vụ giai
cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên ngay từ khi thành
lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta
hăng hái đấu tranh từ thắng lợi này đến thắng lợi khác…Đảng ta là
một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”1.
Trung thành, vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối liên hệ giữa Đảng với quần
chúng điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của dân tộc...Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập. 12, tr. 510.


20

loại, nắm vững qui luật khác quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất
nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng dắn,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân...Đảng Cộng sản Việt Nam là
đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng; đoàn
kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng.”1
Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là vấn đề trung tâm, xuyên
suốt và cốt lõi trong đường lối chính trị của Đảng, là mối quan hệ
khách quan tất yếu, là máu thịt trong q trình lãnh đạo cách mạng,
nếu khơng giữ gìn, củng cố, tăng cường và phát huy nó thì sẽ dẫn đến
những sai lầm khơng thể lường hết được.
Thực tiễn chứng minh rằng từ khi ra đời đến nay, mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân ngày càng được củng cố, tăng cường qua các
thời kỳ. Mối quan hệ keo sơn đó được thể hiện rõ hơn, sâu sắc hơn,
bền chặt hơn khi cách mạng lâm vào thời kỳ thoái trào, bị tổn thất
nặng nề, nhưng Đảng ta vẫn một lòng trung thành với mục tiêu lý
tưởng của dân tộc, lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tin
tưởng sự thương yêu dùm bọc của nhân dân, giữ vững sự lãnh đạo
cách mạng, cịn nhân dân thì thể hiện một lòng sắt son thuỷ chung với
Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy,
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.


Tại Đại hội VI, Đảng ta đã

nghiêm khắc tự phê bình và đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là cột
1

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 4 - 5 - 6


21

mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xứng
và lãnh đạo. Đảng đặc biệt chú ý đề ra đường lối cách mạng phù hợp
với thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân trong
giai đoạn mới. Từ thực tiễn cách mạng trong những năm qua, Đại hội
đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm trong đó bài học kinh nghiệm số một
của Đảng ta là: “Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động.
Đảng ta khơng có mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc
của nhân dân. Quần chúng là người làm nên lịch sử.”1, “quan liêu,
mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân Là
làm suy yếu sức mạnh của Đảng”2. Thực hiện đường lối đổi mới của
Đại hội VI, Hội nghị Trung ương 8 (khoá VI) họp từ ngày 12 17/3/1990 đã ra Nghị quyết về: “Đổi mới công tác quần chúng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và dân”.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đựơc Đảng ta trình bày tại Đại hội lần thứ VII, năm
1991 chỉ rõ:“Sự nhgiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân

chính của nhân dân. sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với

1
2

Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội 2005, tr 28.
Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội 2005, tr 28 - 29.


22

nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những
tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”1.
Quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết Đảng ta đã giành được
nhiều thắng lợi quan trọng. Một trong 6 bài học chủ yếu sau 10 năm
đổi mới được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII rút ra là:“Mở
rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh
của cả dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Chính những ý kiến của
nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng
do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt
qua biết bao khó khăn, thử thách mà cơng cuộc đổi mới đạt được
những thành tựu như hôm nay.”2
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam một lần nữa Đảng ta xác định: “Đổi mới phải dựa vào nhân dân,
vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”3.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng
định: “tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân”. Thực
hiện: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của

Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt nam; là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
1
2
3

Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội 2005, tr 631.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà nội 1996, tr 73.
Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội 2005, tr 631.


23

thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4
Đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi
ích chính đáng của nhân dân thì mới được nhân dân đồng tình ủng hộ,
có như vậy, thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng mới trở thành hiện
thực. Lênin viết: “Muốn trở thành một Đảng dân chủ - xã hội, thì cần
phải được sự ủng hộ của giai cấp…”2.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam 76 năm qua và nhất là trong thời
kỳ đổi mới đã chứng minh rằng: mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh là
nguyện vọng chính đáng của nhân dân được xuyên suốt trong toàn bộ
hệ thống đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đề ra trong từng
giai đoạn cách mạng. Chính điều đó đã đảm bảo cho sự nghiệp cách
mạng nước ta giành được từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; đưa đất
nước thoát khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến, trở thành một nước
độc lập, có chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và đang vững bước tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Qua đó chúng ta khẳng định rằng: một trong những nguyên nhân

cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta giành được những thắng lợi to
lớn như hiện nay là do Đảng ta đã đề ra được đường lối, chủ trương,
chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với lòng dân. Qua mỗi giai
đoạn cách mạng Đảng có biện pháp tổ chức lãnh đạo sáng suốt phù
hợp với thực tiễn, huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân
thực hiện những đường lối, chủ trương, chiến lược, sách lược đó.
1
2

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà nội 2006, tr 116
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 8, tr. 293.


24

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa
và nhất là ở thời kỳ trước đổi mới, trong đường lối, chiến lược, sách
lược cách mạng, Đảng ta cũng đã phạm phải một số sai lầm chủ quan
duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; duy trì quá lâu
cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương
sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác tư tưởng và
tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.
Trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện
nay, mục tiêu chiến lược xây dựng đất nước là: Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và phấn đấu từ nay tới năm 2020
xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng
hiện đại. Vì vậy, một vấn đề có tính ngun tắc rút ra từ những bài học
kinh nghiệm cách mạng 76 năm qua đó là: Mọi chủ trương, đường lối,
chiến lược, sách lược của Đảng đề ra phải phù hợp với lợi ích và

nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là trong điều kiện nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng phải dựa vào dân,
thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đường lối, chủ
trương, chiến lược, sách lược của Đảng đề ta ra cho từng giai đoạn
cách mạng phải xuất từ lợi ích của nhân dân, bao gồm lợi ích chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuỳ theo mục tiêu đặt ra cho từng giai đoạn
phát triển của cách mạng mà xác định lợi ích nào trong các lợi ích trên
giữ vị trí trung tâm chi phối. Đường lối, chính sách của Đảng đề ra
phải mang tính chiến lược, tồn cục, đồng thời có mục tiêu rõ ràng, cụ


25

thể và có tính khả thi sát với quyền lợi nguyện vọng chính đáng của
mọi người dân.
Để thực hiện tốt những đường lối, chủ trương của mình thắng lợi
Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng, nhất là trong giai
đoạn cách mạng hiện nay khi mà đất nước ta đi vào hội nhập. Đảng
xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Nhân dân phấn đấu vì lợi ích của mình, cần phải có sự lãnh đạo
của Đảng, mà thơng qua trực tiếp là đội ngũ cán bộ, đảng viên - lực
lượng tiên tiến của tổ chức chính trị, thì lợi ích của họ mới có thể thực
hiện được trong thực tiễn. Do đó đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là
những phần tư kiên trung, bám rễ bền chặt trong nhân dân, tiếp thu trí
tuệ của nhân dân, kiên quyết đấu tranh vì lợi ích chính đáng của nhân
dân và chỉ có như vậy họ mới giành được lịng tin của nhân dân.
Ngược lại khi quần chúng nhân dân đã mất lịng tin ở những lực lượng
cốt cán của Đảng thì mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân sẽ có nguy

cơ lung lay, Đảng sẽ mất đi cơ sở, nguồn gốc và động lực hoạt động
của mình.
Rõ ràng là mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân được thông qua
đội ngũ cán bộ, đảng viên, thể hiện bằng niềm tin của quần chúng nhân
dân đối với cán bộ, đảng viên, đối với đường lối, chính sách của Đảng.
Cán bộ, đảng viên là tấm gương, là niềm tin của nhân dân, vì vậy


×