Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Một số biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi trong hoạt động góc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 94 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA MẦM NON
----------

TRẦN THỊ HỒNG VÂN

Một số biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận
cho trẻ mẫu giáo 4- 5 tuổi trong hoạt động góc

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM MẦM NON

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

1


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

Khi nói đến hệ thống tri thức của một xã hội là nói đến sự nghiệp giáo dục
của xã hội. Trong xã hội Việt Nam, sự nghiệp giáo dục luôn được Đảng và
nhà nước quan tâm và được coi là nhiệm vụ hàng đầu của xã hội. Trong hệ


thống giáo dục quốc dân của nước ta thì giáo dục bậc học mầm non là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng. Công tác giáo dục mầm non nhằm giáo dục trẻ
bằng cách vui chơi mà giáo dục các cháu những đức tính tốt, chăm sóc sức
khỏe, tập cho các cháu “chơi mà học, học mà chơi” chuẩn bị cho các cháu vào
trường phổ thông. Giáo dục mầm non tốt, mở đầu cho một nền giáo dục tốt.
Đến nay, vị trí của bậc giáo dục mầm non ngày càng được coi trọng và xác
định rõ ràng. Nó là bậc giáo dục mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân
Việt nam, khâu đầu tiên của quá trình giáo dục thường xuyên cho mọi người.
Tuổi mầm non là giai đoạn diễn ra sự phát triển và mạnh trên các mặt
trọng lượng, số lượng, số đo, cơ bắp cũng như các mặt tâm lý – xã hội của
đứa trẻ. Để đáp ứng và thúc đẩy tốc độ phát triển đó, giáo viên mầm non đã tổ
chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động chăm sóc và giáo dục phù hợp với
lứa tuổi. Mỗi giai đoạn phát triển của trẻ gắn liền với một dạng hoạt động mà
các nội dung giáo dục đều được thực hiện thông qua hoạt động đó và nó tác
động đến sự phát triển tất cả các mặt thể chất, tâm lý – xã hội của đứa trẻ khi
giáo viên mầm non nắm vững nội dung, có phương pháp tổ chức các hoạt
động giáo dục phù hợp với lứa tuổi sẽ phát huy được vai trò giáo dục và điều
kiện cho trẻ phát triển tốt nhất.
Đối với trẻ mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo. Qua chơi, trẻ được
hình thành và phát triển nhân cách. Khi chơi cũng là dịp tốt để trẻ khám phá
mơi trường xung quanh, kích thích sự tị mị, khả năng quan sát, năng lực
phán đốn, trí tưởng tượng… của trẻ. Chính vì lẽ đó mà nhiều nhà giáo dục đã
nói: “vui chơi là trường học của cuộc sống”.

2


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân


Vui chơi là một hoạt động ln đi cùng và gắn bó với cuộc sống của
con người ngay từ thời thơ ấu cho đến khi trưởng thành. Tuy nhiên, nội dung
và hình thức chơi ở mỗi giai đoạn, mỗi lứa tuổi có khác nhau, song nó cùng
chung một mục đích là thỏa mãn nhu cầu hoạt động của con người trong cuộc
sống.
Như vậy, trường mầm non là môi trường thuận lợi nhất để trẻ phát
triển. Muốn trẻ phát triển tốt thì cơ giáo phải là người thể hiện tốt nhiệm vụ
của mình, ln linh động sáng tạo, phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của trẻ “học
mà chơi, chơi mà học”, bằng cách thông qua “hoạt động góc”. Trong q
trình giáo dục trẻ nói chung, tổ chức cho trẻ chơi nói riêng. Cơ giáo cần phải
biết dạy cho trẻ chơi cái gì? Chơi như thế nào để đem lại kiến thức phục vụ
cho hoạt động học có chủ đích, phục vụ cho sự phát triển tư duy của trẻ.
Vì vậy, góc chơi càng phong phú bao nhiêu thì càng kích thích trẻ chơi
bấy nhiêu và tạo sự ham muốn được khám phá, mở mang kiến thức về thế
giới xung quanh cho trẻ bấy nhiêu. Việc cho trẻ hoạt động vui chơi ở góc
khơng những thỏa mãn nhu cầu chơi cho trẻ mà còn giúp trẻ phát triển tồn
diện trong các lĩnh vực ngơn ngữ, thẩm mỹ, thể chất, nhận thức và tình cảm
xã hội, hay nói một cách khác đây là mắc xích hỗ trợ lẫn nhau.
Trong khi đó, ở các trường mầm non việc tổ chức cho trẻ vui chơi ở các
góc chưa thực sự được quan tâm. Vậy vấn đề cấp thiết hiện nay là phải tăng
cường tổ chức cho trẻ chơi hoạt động góc, phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể
để tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, hứng thú, có như vậy chúng ta mới thực sự
tạo cho trẻ niềm vui, niềm hạnh phúc…Ở các góc hoạt động trẻ có thể tự vui
chơi, học tập một mình hoặc trong nhóm nhỏ với những bạn cùng sở thích,
khuyến khích trẻ tự quyết định chọn góc chơi, đồ chơi mà trẻ ưa thích, trẻ học
cách chia sẻ, cộng tác hoặc cùng chơi với bạn. Mặc khác góc hoạt động làm

3



Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

bớt cảm giác căng thẳng vì trẻ có thể chơi ở góc này hay góc khác theo ý
thích, giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết của mình.
Việc phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi trong hoạt
động góc có tác dụng phát triển khả năng hợp tác, khả năng định hướng trị
chơi, rèn cho trẻ tính tổ chức, tính kỷ luật trong các vai chơi.Trong trường
mầm non hiện nay, nhiệm vụ phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ mẫu giáo
4–5 tuổi cũng là một trong những nhiệm vụ được quy định chặt chẽ trong
chương trình: “chăm sóc giáo dục trẻ mầm non”. Trong khi đó việc tổ chức
hoạt động vui chơi ở các góc cho trẻ ở nhiều trường mầm non chưa được đầu
tư đúng mức, chưa đúng phương pháp nên mức độ biểu hiện kỹ năng thỏa
thuận của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi còn hạn chế.
Từ lý luận và thực tiễn với khả năng và niềm say mê hứng thú của
mình tơi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận
cho trẻ mẫu giáo 4- 5 tuổi trong hoạt động góc” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu xây dựng biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ
MG 4-5 tuổi qua hoạt động góc nhằm giúp trẻ biết cách giải quyết các mâu
thuẫn với bạn và hịa thuận trong nhóm chơi, từ đó góp phần tăng hiệu quả
trong hoạt động vui chơi.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu:
Quá trình tổ chức hoạt động vui chơi ở các góc của trẻ MG 4- 5 tuổi ở
trường MN.
3.2 Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ MG 4- 5 tuổi qua hoạt

động góc.

4


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

4. Giả thuyết khoa học
Nếu trong hoạt động góc của trẻ, giáo viên biết cách sử dụng các biện
pháp dạy học như: khuyến khích trẻ chơi khám phá cùng nhau; tạo ra các
nhiệm vụ, tình huống để trẻ có cơ hội thỏa thuận; hướng dẫn trẻ cách thỏa
thuận, dạy trẻ cách giải quyết mâu thuẫn, cho trẻ nhiều thời gian để trẻ tự
giải quyết vấn đề trước khi cô giáo can thiệp, cô làm mẫu cách giải quyết
mâu thuẫn cho trẻ,… thì trẻ hiểu về giá trị của sự thỏa thuận trong nhóm và
bắt chước làm theo giúp cho trẻ phát triển kĩ năng sống nói riêng và phát
triển nhân cách tồn diện nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận
cho trẻ MG 4-5 tuổi và mức độ biểu hiện kỹ năng thỏa thuận của trẻ.
- Xây dựng biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ MG 4-5 tuổi
qua hoạt động vui chơi trong hoạt động góc.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm các biện pháp đã xây dựng để đánh giá
tính khả thi của các biện pháp và kiểm chứng giả thuyết khoa học mà đề tài đã
đưa ra.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu kỹ năng thỏa thuận của trẻ MG 4-5 tuổi và những biểu hiện

của nó qua việc tổ chức hoạt động góc theo chủ đề.
- Nghiên cứu biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ MG 4-5
tuổi trong hoạt động góc ở các trường MN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với sự phối hợp các phương pháp nghiên cứu
sau:
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận

5


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

Nghiên cứu thu thập phân tích, hệ thống hóa, khái qt hóa các vấn đề lý
luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1 Phương pháp quan sát
Dự giờ các hoạt động góc của trẻ MG 4-5 tuổi ở trường MN trên địa bàn
Thành phố Đà Nẵng, quan sát và đánh giá các biện pháp phát triển kỹ năng thỏa
thuận cho trẻ MG 4-5 tuổi mà giáo viên đã sử dụng và mức độ biểu hiện kỹ năng
thỏa thuận ở trẻ.
7.2.2 Phương pháp điều tra bằng anket
- Tiến hành đánh giá nhận thức của giáo viên MN về vấn đề phát triển
kỹ năng thỏa thuận cho trẻ MG 4-5 tuổi qua hoạt động góc.
- Tiến hành điều tra thực trạng sử dụng biện pháp phát triển kỹ năng
thỏa thuận cho trẻ qua hoạt động góc của giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp
MG 4-5 tuổi ở trường MN trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
7.2.3 Phương pháp đàm thoại

- Trao đổi với giáo viên để thấy được nhận thức của giáo viên về việc sử
dụng các biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ.
- Trò chuyện với trẻ MG 4-5 tuổi qua các hoạt động của trẻ hàng ngày
để tìm hiểu khả năng thỏa thuận ở trẻ, tìm hiểu ngun nhân và từ đó đưa ra
các biện pháp phù hợp với trẻ.
7.2.4 Phương pháp thực nghiệm
7.2.5 Phương pháp thống kê tốn học
Sử dụng một số cơng thức toán học để xử lý các số liệu thu được từ
khảo sát thực trạng và thực nghiệm.

6


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

8. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu
- Góp phần hệ thống các vấn đề lý luận về biện pháp phát triển kỹ năng
thỏa thuận cho trẻ MG 4-5 tuổi qua hoạt động góc.
- Tìm hiểu được thực trạng sử dụng biện pháp phát triển kỹ năng thỏa
thuận cho trẻ MG 4-5 tuổi qua hoạt động góc và mức độ biểu hiện kỹ năng
thỏa thuận ở trẻ.
- Xây dựng biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ MG 4-5 tuổi
qua hoạt động góc.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung chính luận văn được chia
làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương 2: Xây dựng biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ

MG 4-5 tuổi qua hoạt động góc
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

7


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.1 ở nước ngoài
Thỏa thuận là một kỹ năng sống quan trọng. Nó giúp con người giải
quyết các vấn đề, các mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống một cách uyển
chuyển và linh hoạt, làm cho cuộc sống và những mối quan hệ của chúng ta
trở nên dễ dàng hơn. Kỹ năng này cần được nắm bắt ngay từ tuổi nhỏ để giúp
con người phát triển một cách tồn diện. Chính vì thế kỹ năng này đã được
nhiều nhà giáo dục quan tâm và phát triển.
Năm 1976, William Zartman đã đưa ra câu nói nổi tiếng: “Thời đại của
chúng ta là một thời đại của sự thỏa thuận. Những gì chúng ta có được từ rất
lâu trong quá khứ sẽ dẫn đường cho những quy tắc mới, những vai trò mới và
những mối quan hệ mới… Sự thỏa thuận là con đường đi của chúng ta trong
cuộc sống” [60, tr2-3].
Năm 1979, Neil Rackham, trong một nghiên cứu của mình đã cho rằng
trong một nhóm học cần có sự thỏa thuận, phân chia cơng việc giữa các thành
viên trong nhóm với nhau, mỗi thành viên có quyền lựa chọn và thỏa thuận
với bạn để thực hiện các cơng việc mà mình u thích, có như thế mới tạo nên

sự hiểu biết lẫn nhau giữa các thành viên, hình thành kỹ năng thỏa thuận để
giúp nhau hồn thành cơng việc chung một cách tốt nhất. Sự thỏa thuận cần
phải đảm bảo hai vấn đề là: sự tuân thủ và sự thống nhất giữa đôi bên [58,
tr74-75]
Louise Nieuwmeijer cũng đã đưa ra hình thức huấn luyện theo dõi trực
quan. Với hình thức này, họ đã chia người học ra thành từng nhóm hoạt động.
Thơng qua các nhóm hoạt động này, các học sinh được giáo viên tạo điều

8


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

kiện trị chuyện, đàm thoại, thỏa thuận, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng thực hiện
một tác vụ, thơng qua sự trao đổi đó nhằm hình thành kỹ năng thỏa thuận và
nâng cao hiệu quả dạy học [58, tr29]
Năm 2002, Michael L.Spangle và Myra Warren Isenhart trong nghiên
cứu của mình đã nhấn mạnh: học sinh cần được tạo điều kiện trong việc chọn
bạn lập nhóm để cùng nhau thỏa thuận thực hiện nhiệm vụ của giáo viên đề
ra. Sự thỏa thuận phân chia nhiệm vụ phải hợp lý với sở trường của từng
thành viên, có như thế sẽ phát huy thế mạnh của mỗi người. Các học viên
được quyền lựa chọn những phần việc phù hợp với khả năng của mình và như
thế kết quả thành công sẽ được phát huy đến mức cao nhất. Việc thỏa thuận
giữa các thành viên trong nhóm với nhau tạo nên một hiệu quả đặc biệt trong
việc hình thành tính độc lập, khơng ỷ lại vào các thành viên khác trong nhóm
[57, tr14].
Ira G.Asherman và Sandra Vance Asherman, trong nghiên cứu của
mình, đã chia học sinh theo nhiều nhóm khác nhau, trong mỗi nhóm, mỗi

người lại có những kỹ năng khác nhau. Qua đó, khi ơng giao một nhiệm vụ,
các nhóm có sự thỏa thuận tốt để mỗi người làm phần việc phù hợp với khả
năng của mình thì thời gian hoàn thành nhiệm vụ được giao lại nhanh hơn các
nhóm khơng có sự thỏa thuận. [55, tr167]
Ralph A.Johnson cho rằng, sự điều chỉnh và sự hòa giải là hai điều cần
thiết giúp cho việc thỏa thuận được diễn ra một cách liên tục, và bằng việc
nêu lên vấn đề cần giải quyết, mỗi trẻ tham gia sẽ nhận ra trách nhiệm cụ thể
của mình trong quá trình thỏa thuận. Tuy nhiên, giáo viên cũng đóng vai trị
quan trọng trong q trình thỏa thuận, nếu có xung đột xảy ra, giáo viên phải
biết hịa giải và đơi khi giáo viên phải quyết định thay cho trẻ. Giáo viên phải
lắng nghe và biết cách phân xử hợp lý, để các trẻ chấp nhận và làm theo
những điều đã thỏa thuận. Sự thỏa thuận cần dựa trên một số các yếu tố cần
thiết sau đây: [53]

9


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

- Xác định mục đích của việc thỏa thuận, tức là việc thỏa thuận sẽ cho ra
kết quả như thế nào.
- Thành công của nhóm khơng thể đạt được khi từng thành viên chưa
thỏa thuận và thống nhất được với nhau.
- Xác định những khó khăn, thuận lợi và các giải pháp để giải quyết
cơng việc trong q trình thỏa thuận.
- Thực hiện đúng với các thỏa thuận ban đầu, tức là từng thành viên phải
tuân thủ theo các thỏa thuận để không ảnh hưởng đến cơng việc chung.
Đồng tình với Ralph A.Johnson, Bill Alder cũng đưa ra quan điểm “Việc

giáo dục trẻ phải ln ln gắn liền với thỏa thuận”. Ơng cho rằng thỏa thuận
không phải là sự tranh cãi. Thỏa thuận giữa các trẻ với nhau là một quá trình
đầy thách thức. Trẻ phải diễn đạt yêu cầu của mình thế nào để bạn trẻ có thể
nói “Vâng”, bạn của trẻ sẽ nghe lời ngay lập tức nếu trẻ nêu yêu cầu dựa trên
sự tự trọng và độc lập của trẻ. Trẻ chỉ cần nói nhẹ nhàng để bạn của mình
chấp nhận lời u cầu của mình, điều đó sẽ tốt hơn là phải sử dụng đến vũ lực
để bạn của trẻ phải thực hiện yêu cầu đó. Việc thỏa thuận của trẻ phải diễn ra
như sau:
+ Trẻ phải được trực tiếp tham gia vào các hoạt động thỏa thuận, tự mình
quyết định trong các hoạt động liên quan đến bản thân. Việc trải nghiệm qua
các tình huống mâu thuẫn mà trẻ gặp phải với bạn sẽ giúp trẻ có cơ hội nâng
cao kỹ năng thỏa thuận.
+ Trong các cuộc mâu thuẫn xảy ra, muốn bạn làm theo ý trẻ hay muốn
bảo vệ ý kiến của mình, trẻ phải giải thích quan điểm của mình. Tuy nhiên,
thỏa thuận khơng phải là nhượng bộ, trẻ chỉ thực sự nhượng bộ khi nhượng bộ
sẽ làm cho quyền lợi của các bên tham gia đã được đảm bảo. Bên cạnh đó trẻ
phải biết đặt những câu hỏi thích hợp về những hành vi của bạn để từ đó có
cách ứng xử thích hợp.

10


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

+ Một khi trẻ tức giận hoặc phát cáu lên, phải dành thời gian cho trẻ hạ
hỏa, trong những lúc như thế, việc bạn của trẻ có thêm bất kì hành động nào
nên được suy nghĩ kỹ lưỡng, rằng điều đó sẽ làm giải tỏa căng thẳng hay đào
thêm hố sâu mâu thuẫn và làm cho sự xung đột của trẻ căng thẳng hơn.

+ Trong quá trình thỏa thuận, trẻ biết đưa ra những giải pháp để giải
quyết mâu thuẫn giữa trẻ và bạn. Và một khi các giải pháp vẫn không được
các bên tham gia chấp nhận, cần phải có người lớn tháo gỡ các khúc mắc cho
trẻ.
Trong tác phẩm nổi tiếng thế giới “Đắc nhân tâm”, tác giả Dale Carnegie
đã đưa ra 6 cách để thu hút gây thiện cảm với người giao tiếp. Trong đó tác
giả nhấn mạnh đến cách: “thành thật chú ý đến người giao tiếp với mình, biết
nghe người khác nói chuyện, thành thật làm cho người giao tiếp với mình
thấy được sự quan trọng của họ” [7, tr97]. Cách này cũng rất có hiệu quả khi
giáo viên giao tiếp với trẻ trong tổ chức cho trẻ hoạt động. Trẻ mẫu giáo rất
sung sướng, thích thú khi giáo viên, người lớn chú ý đến mình. Nhằm tạo cho
trẻ cảm giác thoải mái, hứng thú hoạt động, chơi hết mình, kích thích sự sáng
tạo của trẻ, động viên khuyến khích trẻ nói lên ý tưởng chơi của mình, cũng
như thỏa thuận với bạn khi có mâu thuẫn xảy ra, thì giáo viên cần phải biết
lắng nghe trẻ và giúp trẻ lắng nghe ý kiến của mọi người. Kỹ năng này rất
quan trọng đối với giáo viên và trẻ. Nó biểu hiện ở hành vi hướng vào người
nói, chăm chú nhìn vào mắt người nói, nở nụ cười với người nói, đồng thời
đưa ra những lời tán đồng, nhận xét, gợi ý… khi cần thiết.
1.1.1.2 Ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, vấn đề thỏa thuận cũng được một số tác giả đề cập tới.
Theo ý kiến của Thạc sĩ phát triển cộng động Nguyễn Thị Oanh, khoảng cách
giữa nhận thức và hành động luôn khá lớn. Cha mẹ, thầy cô giáo biết là không
nên đánh trẻ nhưng vẫn đánh. Ngày xưa trong giáo dục truyền thống, trẻ chỉ
việc nghe lời cha mẹ. Những gì học ở gia đình và xã hội lại giống nhau. Ngày

11


Khóa luận tốt nghiệp


Trần Thị Hồng Vân

nay thì khác, những gì học trong gia đình và tác động của xã hội rất khác nhau
qua bạn bè, truyền thông đại chúng, phim ảnh… trong nhiều trường hợp, trẻ
phải tự ứng phó một mình. Với sự bùng nổ thơng tin, trẻ tiếp cận với đủ thứ
loại tác động, tốt có, xấu có. Do ngày càng có nhiều việc phải quyết định một
mình nên trẻ không chỉ cần được biết thế nào là điều hay lẽ phải mà cịn phải
có khả năng hành động theo nhận thức.
Trong cách giáo dục mới, trẻ được giúp đỡ để biết mình là ai, mình muốn
gì, có mục đích gì trong cuộc sống, biết dung hịa giữa cái tơi và cái chúng ta
và có những chọn lựa và quyết định đúng trước những biến cố do cuộc sống
đưa đến. Để có năng lực tâm lý xã hội này, trẻ được dạy các kỹ năng như: ý
thức về bản thân, thấu cảm với người khác, suy nghĩ sáng tạo và có phán
đốn, truyền thơng và giao tiếp có hiệu quả, thỏa thuận tìm cách giải quyết
vấn đề, lấy quyết định, ứng phó với cảm xúc và stress v.v… Phương pháp
giáo dục là đặt trẻ trước những tình huống khó giải quyết để trẻ giải quyết
theo nhóm thơng qua thảo luận, trò chơi, sắm vai, vẽ tranh hay hành động cụ
thể. Qua đó, trẻ học bằng hành và tự quyết định với sự góp ý của nhóm bạn.
GS.Hồng Tụy cũng đã chỉ ra, nền giáo dục nước ta phải đặt ra yêu cầu
giáo dục đào tạo con người hiện đại, có thể sống được trong thời hiện đại này,
đóng góp vào cơng cuộc hiện đại hóa đất nước, thành công trong hội nhập
quốc tế. Cần coi trọng rèn luyện các phẩm chất đạo đức cơ bản của con người
hiện đại có cá tính nhưng bao dung, biết giao tiếp, thỏa thuận và hợp tác, biết
làm việc có hiệu quả, có tư duy cởi mở với cái mới, thích dấn thân, khơng
ngại đương đầu với thách thức, khó khăn, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm vì
mục đích lớn, và nhất là trung thực và có đầu óc sáng tạo, là những đức tính
tốt cần thiết trong đời sống xã hội hiện đại. Đồng thời cần quan tâm đến GD
thẩm mỹ, GD cảm xúc, đào tạo tồn diện con người có tâm hồn và thể chất
khỏe mạnh.


12


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

Kết quả của nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ
phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như: sự
hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tị mị, thỏa thuận, khả năng thấu hiểu
và giao tiếp. Trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến trường, sự lo lắng của
giáo viên mầm non thường tập trung vào những trẻ có vấn đề về hành vi và
khả năng tập trung. Đơn giản là vì: những trẻ này thường khơng có khả năng
chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này
làm cho trẻ khơng thể tập trung lĩnh hội những điều cơ giáo dạy. Vì vậy giáo
viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những
kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non. Trẻ cần phải học về cách ứng xử khi
vào trong các nhóm trẻ khác nhau. Khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao
tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn bè, thì trẻ sẽ nhanh
chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hóa một cách tốt
nhất.
Có thể thấy, trẻ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân
bằng, biết cách phát triển kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, ngày
nay trên thế giới rất nhiều trường áp dụng phương pháp học trung tính là
phương pháp học tập thơng qua các giao tiếp tích cực với những người khác .
Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với các bạn khác
trong lớp, biết chia sẻ, chăm sóc, lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của
mình trong nhóm bạn, biết thỏa thuận cùng bạn, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin
khi tiếp nhận các thử thách mới.
Thỏa thuận luôn xảy ra ở mọi lúc mọi nơi: gia đình, nhà trường, xã hội.

Tuy nhiên, vấn đề thỏa thuận mới chỉ được nhắc nhiều trong các lĩnh vực kinh
tế, đối ngoại nhưng chưa được quan tâm đúng mức trong giáo dục nói chung
và giáo dục mầm non nói riêng, đặc biệt là nghiên cứu đến việc phát triển kỹ
năng thỏa thuận cho trẻ MG 4-5 tuổi trong hoạt động góc.

13


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

1.1.2 Một số khái niệm cơ bản
1.1.2.1 Kỹ năng thoả thuận
1.1.2.1.1. Kỹ năng
Kĩ năng là một đề tài được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và họ đã đưa ra
nhiều quan điểm khác nhau.
- Quan điểm thứ nhất: Xem xét kĩ năng từ góc độ kĩ thuật của hành động
+ Theo quan điểm của Trần Trọng Thủy cho rằng: Kĩ năng là mặt kĩ thuật
của hành động, con người nắm được hành động tức là kĩ thuật hành động có
kĩ năng.
+ Theo Hà Nhật Thăng: “Kĩ năng là kĩ thuật của hành động thể hiện các
thao tác của hành động”.
+ Theo A. G. Covaliop cho rằng: Kĩ năng là phương thức thực hiện hành
động thích hợp với mục đích và điều kiện hành động .
+ V.A. Kruchetxki: “Kĩ năng là thực hiện một hành động hay một hoạt
động nào đó nhờ sử dụng những kĩ thuật, những phương thức đúng đắn”.
Tóm lại, theo quan điểm thứ nhất thì kĩ năng là một phương thức hành
động của con người. Người có được kĩ năng của hoạt động nào đó là người
nắm được phương thức hành động phù hợp với mục đích, yêu cầu của hành

động mà khơng nhắc đến kết quả của hoạt động đó.
- Quan điểm thứ hai: Xem xét kĩ năng từ góc độ mặt kĩ thuật của hành
động, năng lực của con người cũng như kết quả của hành động.
+ Theo từ điển Việt Nam: “Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức
thu được vào thực tế”.
+ Theo Bùi Văn Huệ: “Kĩ năng là khả năng vận dụng tri thức, khái niệm,
định nghĩa, định luật vào thực tiễn”.

14


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

+ Theo Lưu Xuân Mới: “Kĩ năng là sự biểu hiện kết quả hành động trên cơ
sở kiến thức đã có. Kĩ năng là tri thức trong hành động”.
+ Vũ Dũng: “Kĩ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri thức về
phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện nhiệm vụ tương
ứng”.
+ Các nhà tâm lý học Việt Nam như Ngơ Cơng Hồn, Nguyễn Thị Ánh
Tuyết, Nguyễn Quang Uẩn…cho rằng: Kĩ năng là một mặt năng lực của con
người thực hiện một số cơng việc có hiệu quả.
+ Với A.V. Petrovxky: “Kĩ năng là sự vận dụng những tri thức, kĩ xảo đã
có để lựa chọn những phương thức hành động tương ứng với mục đích đề ra”.
+ H.D. Levitov thì cho rằng: “Kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một tác
động nào đó hay một hành động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng
đúng đắn các hình thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả”.
+ Theo P.A. Rudich thì “kĩ năng là tác động mà cơ sở của nó là sự vận
dụng thực tế của kiến thức đã tiếp thu được để đạt kết quả trong một hình thức

hoạt động cụ thể”.
+ Các tác giả K.K.Platonop và G.G.Golubev quan niệm: “Kĩ năng là năng
lực của con người thực hiện cơng việc có kết quả là một chất lượng cần thiết
trong những điều kiện mới và trong khoảng thời gian tương ứng”.
Tóm lại, theo quan điểm thứ hai các nhà nghiên cứu coi trọng cả mặt kĩ
thuật, phương thức hành động lẫn khả năng con người và kết quả của hành
động. Theo quan niệm này thì kĩ năng vừa có tính ổn định vừa có tính mềm
dẻo, linh hoạt, sáng tạo.
Từ những quan niệm trên, trong đề tài này chúng tôi lựa chọn khái niệm
“kĩ năng” như sau:
Kĩ năng là sự vận dụng có hiệu quả những kiến thức đã được tích lũy để
thực hiện một hành động nào đó tương ứng với mục đích, điều kiện của hành

15


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

động. Như vậy, kĩ năng vừa là kĩ thuật hành động vừa là năng lực của cá
nhân.
1.1.2.1.2. Khái niệm thỏa thuận
Quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm các
mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con
người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mac đã nêu
lên luận đề nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận đề trên khẳng định rằng,
khơng có con người trừu tượng thốt ly mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã

hội. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực
và tư duy trí tuệ. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó, con người mới
bộc lộ bản chất của mình. Luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có
nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, trái lại, điều đó
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết
là ở bản chất xã hội. Mặt khác, cái bản chất và ý nghĩa là cái phổ biến, cái
mang tính quy luật, chứ khơng thể là cái duy nhất. Do đó cần phải thấy được
các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về phong
cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
Như vậy, dựa trên cơ sở lợi ích, tính phong phú đa dạng của lợi ích cá
nhân trong một tập thể biểu hiện thành nhu cầu phong phú, đa dạng của mỗi
người. Trong điều kiện hiện thực của tập thể, không thể đáp ứng mọi yêu cầu
của cá nhân. Vì vậy, dẫn đến mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân và cá nhân
với tập thể. Tuy nhiên, đây là mâu thuẫn tất yếu, nảy sinh trong quá trình vận
động và phát triển của cá nhân và tập thể. Bởi vậy, cần phải phát hiện mâu
thuẫn một cách kịp thời và phân biệt vị trí các loại mâu thuẫn để giải quyết,
trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc định hướng về sự phát triển hài hịa, tồn diện

16


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

nhu cầu và lợi ích của cá nhân cũng như tập thể. Sự kết hợp hài hịa và tồn
diện của các quan hệ lợi ích và nhu cầu, sự bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau
trên cơ sở nguyên tắc, ý thức trách nhiệm về nghĩa vụ và hành vi của mỗi cá
nhân trước tập thể là những điều kiện chủ yếu cho sự phát triển của tập thể và

cá nhân phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Theo quan niệm đó, C.Mac cũng cho rằng, các cá nhân trong phạm vi xã
hội tự thỏa thuận với nhau để bảo vệ quyền tư hữu của cá nhân nhưng phải
được xét trong tính lịch sử cụ thể của nó.
Trong từ điển Tiếng việt do tác giả Hồng Phê chủ biên đã nêu: “Thỏa
thuận chính là sự đồng ý với nhau về điều nào đó có quan hệ đến các bên, sau
khi đã cân nhắc, bàn bạc trao đổi” [32, tr1174].
Nhà tâm lý học Carl E.Pickhardt Ph.D cũng cho rằng: “Sự thỏa thuận
thành công được định nghĩa là nghệ thuật tìm và thực hiện giải pháp giải
quyết mâu thuẫn hoặc bất đồng sao cho mỗi bên liên quan đều cảm thấy thỏa
mãn dù ở mức độ thấp nhất” [59, tr15]
Dựa trên kết quả phân tích trên, chúng tơi thấy rằng thỏa thuận có thể
hiểu như sau: Thỏa thuận là quá trình giao tiếp xã hội, mà trong đó con người
trao đổi, bàn bạc với nhau để đi đến một sự thống nhất về điều nào đó có liên
quan đến các bên.
1.1.2.1.3. Khái niệm kỹ năng thỏa thuận
Dựa trên sự phân tích khái niệm “kỹ năng” và “thỏa thuận” chúng tôi
xác định kỹ năng thỏa thuận như sau:
Kỹ năng thỏa thuận là kỹ năng trao đổi, bàn bạc để đi đến thống nhất về
một nội dung nào đó liên quan đến từ hai người trở lên và thỏa mãn được tất
cả các bên liên quan ở một mức độ nhất định.
Từ khái niệm “kỹ năng thỏa thuận”, chúng tôi đưa ra khái niệm về kỹ
năng thỏa thuận của trẻ mầm non như sau:

17


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân


Kỹ năng thỏa thuận của trẻ mầm non là kỹ năng trao đổi, bàn bạc giữa
các trẻ để đi đến sự nhất trí về một điều nào đó, đáp ứng sự thỏa mãn ở một
mức độ nhất định của các bên liên quan.
Qua sự phân tích trên, một cách trực quan chúng tơi có thể quy kỹ năng
thỏa thuận về những hành động, hành vi quan sát được.
1.1.2.2 Biện pháp phát triển kĩ năng thoả thuận
1.1.2.2.1 Biện pháp
Để giải quyết một vấn đề, chúng ta cần phải nghiên cứu các yếu tố liên
quan tới vấn đề đó. Các yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau và trong một
chừng mực nhất định, yếu tố này là cơ sở để xác định yếu tố kia. Biện pháp là
một trong những yếu tố cần thiết để giải quyết một vấn đề, nó được xác định
căn cứ vào những yếu tố khác như: mục đích, nhiệm vụ, nội dung, đặc điểm
của đối tượng…
Vậy biện pháp là gì? Theo cuốn từ điển tiếng Việt – Viện ngơn ngữ học
2005 – Trung tâm từ điển học – nhà xuất bản Đà Nẵng khái niệm biện pháp
được giải thích như là một “cách làm, cách thức giải quyết một vấn đề cụ thể”.
Trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng”, tác giả
Nguyễn Văn Đạm cho rằng : “Biện pháp là cách làm, cách hành động đối phó
để đi tới một mục đích nhất định” [6]
Biện pháp là cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ thể
nhằm đạt được mục đích đề ra.
1.1.2.2.2 Phát triển
Giáo trình triết học Mác-Lênin, NXB Giáo dục: Phát triển là khuynh
hướng vận động đã xác định về hướng của sự vật: hướng đi lên từ thấp lên
cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn…Nhưng nếu hiểu sự vận động
phát triển một cách biện chứng toàn diện, sâu sắc thì trong tự bản thân sự vận
động phát triển đã bao hàm sự vận động thụt lùi, đi xuống với nghĩa là tiền đề,
điều kiện cho sự vận động đi lên, hồn thiện. Ý nghĩa của ngun lí này địi


18


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

hỏi trong khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng phải tôn trọng nguyên tắc
phát triển của chúng, không được thành kiến định kiến…Luôn lạc quan tin
tưởng vào khuynh hướng vận động của sự vật, tạo mọi điều kiện để sự vật
phát triển.
Như vậy, phát triển là khuynh hướng đi lên của sự vật, hiện tượng từ
thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
1.1.2.2.3 Biện pháp phát triển kỹ năng thoả thuận
Như chúng ta đã biết, biện pháp là cách thức, cách làm, cách hành
động, đối phó đi tới mục đích nhất định hay biện pháp là cách giải quyết vấn
đề cụ thể, trước những vấn đề khó khăn của thực tiễn với từng đối tượng cụ
thể, những khó khăn đã được xác định từ đó đưa ra những giải pháp nhằm cải
thiện tính tình thực tiễn, giúp giải quyết vấn đề hiện tại được tốt hơn.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu biện pháp phát triển kỹ năng thỏa thuận
cho trẻ MG 4-5 tuổi là những cách thức tiến hành các nội dung và hình thức
giáo dục về kỹ năng thỏa thuận cho trẻ nhằm tạo cho trẻ điều kiện và cơ hội
phát triển một cách toàn diện
Đối với trẻ mầm non, việc phát triển các kỹ năng nói chung và phát
triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ nói riêng là một nội dung tương đối khó
nhưng lại có một vai trò quan trọng đối với trẻ. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn
của cơ và sự tích cực hoạt động của bản thân trẻ, trẻ phát triển kỹ năng thỏa
thuận nhằm trang bị cho trẻ một trong những kỹ năng cơ bản vào trường phổ
thông.
Với giáo viên, để phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ qua hoạt động

góc, người giáo viên cần vận dụng linh hoạt các biện pháp qua hoạt động góc.
1.1.3 Sự phát triển kỹ năng thỏa thuận của trẻ
Trong cuộc sống hàng ngày, trẻ phải đối mặt với những tình huống có khả
năng dẫn đến “sứt đầu bể trán” như chia sẻ đồ chơi, hòa hợp với anh chị em,

19


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

dàn xếp bất hịa với bạn bè… Những sự việc như vậy cũng đòi hỏi ở trẻ phải có
kỹ năng để giải quyết chúng như: lắng nghe, trao đổi, bàn bạc, nhân nhượng…
Ngay từ khi lọt lịng, trẻ đã có những nhu cầu gắn bó với người khác,
đặc biệt là với mẹ. Moecoby và Hesters (1974) đã thống kê những biểu hiện
đặc trưng nhất cho sự gắn bó ở trẻ với mẹ như: địi theo mẹ, khóc, cười với
mẹ, bập bẹ nói chuyện với mẹ… Phản xạ rúc đầu vào bụng, vào ngực mẹ, một
mặt là tìm vú để bú, nhưng mặt khác là muốn áp sát vào da thịt mẹ để được
ôm ấp vỗ về. Có thể nói quan hệ với người mẹ qua xúc giác là quan trọng vào
bậc nhất và cũng xuất hiện sớm nhất. Hiện tượng đó gọi là sự gắn bó mẹ con.
Đây là mối quan hệ đầu tiên và quan trọng nhất, tạo điều kiện cho sự phát triển
sau này của trẻ. Trong mối quan hệ gắn bó mẹ - con, ở cả hai phía, mẹ - con
đều phát tín hiệu cho nhau. Tín hiệu của mẹ được biểu hiện ở những cử chỉ,
động tác, nét mặt, giọng nói… hướng về đứa con nhằm gợi cho nó phản ứng
đáp lại, ở đứa con, tuy chưa có những hành động, cử chỉ hướng về mẹ một cách
chủ định, nhưng ở trẻ cũng đã có thể bày tỏ nhu cầu khiến cho người xung
quanh chú ý đến mình như la khóc, vặn mình, cọ quậy chân tay… Nhờ đó mà
mẹ nhận ra và đáp ứng được nhu cầu của trẻ, tạo ra sự gắn bó với trẻ.
Nhu cầu gắn bó mẹ - con còn là cơ sở nảy sinh nhu cầu giao tiếp giữa trẻ

với những người xung quanh. Đến khoảng tháng thứ 2 trẻ đã biết mỉm cười, tỏ
ra vui mừng khi có ai đó đến với trẻ, buồn bã khi người đó đi mất, rồi lại chới
với tìm người khác. Tạo ra mối quan hệ gắn bó mẹ - con ngay trong những
ngày đầu trẻ mới ra đời là một cách phòng ngừa tốt nhất, tránh cho trẻ nguy cơ
chậm phát triển hoặc phát triển lệch lạc về sinh lý cũng như tâm lý sau này.
Một kết luận hết sức quan trọng của tâm lý học hiện đại là nhiều rối loạn tâm lý
về sau, kể cả lúc đã trưởng thành có nguyên nhân từ những nhiễu loạn trong
mối quan hệ gắn bó mẹ - con ở những tháng năm đầu cuộc đời. Có thể nói, đây
là mối quan hệ sâu sắc về tình cảm, là giai đoạn khởi đầu của mối quan hệ xã
hội, là hạt nhân của những mối quan hệ sau này và theo suốt cuộc đời trẻ.

20


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

Từ 4 – 6 tháng tuổi, trẻ trở nên tò mò và muốn tham gia mọi chuyện, trẻ
cười to khi thích thú, thích có người bên cạnh và khóc khi bị bỏ một mình. Trẻ
có thể tự kiềm chế và biểu hiện cảm xúc ngày càng nhiều hơn qua các trò chơi.
Lúc này, trẻ đang bắt đầu biết cảm thấy mắc cỡ khi gặp người lạ. Đây là dấu
hiệu đầu tiên cho thấy “cái tôi” của trẻ đang xuất hiện. Trẻ mỉm cười với những
người quen biết và dùng các biểu lộ trên khuôn mặt để giao tiếp. Trẻ tỏ ra thích
các trị chơi, học các kỹ năng điều khiển và chơi với chúng bằng cách bắt
chước bạn. Khả năng tập trung của trẻ giai đoạn này cũng được nâng lên.
Ngồi ra, trẻ có thể điều chỉnh kỹ năng lắng nghe của mình và tận dụng những
âm thanh để phân biệt được những vật thể khác nhau. Trẻ còn sử dụng những
âm tiết, nguyên âm và phụ âm để luyện tập cách giao tiếp với thế giới bên
ngoài, bắt chước những âm thanh nghe được từ những người xung quanh như

một dạng tiền ngôn ngữ.
Từ 7 – 9 tháng tuổi, tâm trạng của trẻ rất dễ thay đổi. Trẻ sẽ nhanh
chóng chuyển từ tâm trạng vui sang buồn, yên tĩnh sang giận dữ chỉ trong
giây lát. Khi khám phá thế giới xung quanh, trẻ rất tị mị và hiếu kỳ về những
gì trơng thấy. Trẻ có thể quay đầu qua lại liên tục để tìm kiếm âm thanh, đồ
chơi bị mất và bắt đầu di chuyển theo tiếng gọi hoặc đồ chơi trẻ thích. Khi bắt
đầu trở nên linh hoạt hơn, trẻ khám phá tất cả những thứ mới mẻ xung quanh
mà trước đây chưa thể với tới. Đây là khoảng thời gian rất thú vị và quan
trọng để trẻ trải nghiệm, học hỏi được nhiều kỹ năng mới cũng như sự an
toàn. Trong khoảng thời gian này, trẻ đã hiểu được tính ổn định lâu dài của
các sự vật xung quanh, đó là khi một vật nào đó ra khỏi tầm nhìn của trẻ. Trẻ
sẽ cố gắng tìm kiếm những món đồ chơi khi bố mẹ cất chúng đi khỏi tầm
quan sát của trẻ. Trẻ sẽ quấy khóc khi bố mẹ cố gắng cất giấu những món đồ
trẻ đang muốn chơi. Khi trẻ thể hiện những cảm xúc tiêu cực như sợ hãi, thất
vọng hay tức giận có nghĩa là trẻ đang phản ứng lại với những hoàn cảnh tạo
nên cho trẻ cảm xúc đó. Đến tháng thứ 9, trẻ bắt đầu tương tác với MTXQ, trẻ

21


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

sớm có thể sử dụng những đồ vật trẻ có thể hoặc biết chơi với những đồ vật
khác. Khả năng sử dụng tay để làm được việc trẻ muốn là một bước tiến quan
trọng hướng tới những kỹ năng và nhận thức phức tạp hơn. Khả năng này
được trẻ sử dụng để giải quyết các vấn đề hiệu quả hơn. Nhờ vào quá trình
giao tiếp trực tiếp với người lớn và hoạt động với đồ vật mà các kỹ năng thỏa
thuận của trẻ cũng được hình thành và phát triển.

Từ 10 – 18 tháng, trẻ đã làm việc có suy nghĩ. Trẻ bắt đầu lắng nghe âm
thanh xung quanh và phân biệt được các âm thanh nào là quan trọng đối với
trẻ. Trẻ có thể nhận ra rất nhiều giọng nói khác nhau, âm thanh quen thuộc
trong nhà mang ý nghĩa gì, và những âm thanh khơng xuất phát từ sinh hoạt
trong gia đình như tiếng chim hót, tiếng chó sủa… Sự khác biệt tiến bộ trong
giai đoạn này là trẻ có thể sử dụng những tương tác xã hội để giải quyết
những vấn đề nếu trẻ không thể tự suy nghĩ và “dàn xếp” được, cụ thể là: trẻ
bắt đầu điều chỉnh cách phát âm đối với những người trẻ đặc biệt muốn giao
tiếp để ám chỉ những thứ có ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ ngay cả khi bố mẹ
chưa thật sự sẵn sàng để hiểu được mục đích của trẻ muốn nói gì, hoặc tỏ ra
cho bố mẹ biết trẻ cần sự giúp đỡ khi trẻ không tự làm được. Trẻ cố gắng tạo
ra những cuộc đàm thoại không chỉ để gây được sự chú ý đối với bố mẹ,
nhưng có thể trẻ sẽ nản lịng nếu bố mẹ khơng đáp lại những câu nói của trẻ.
Từ 16 – 18 tháng, trẻ đã nói được thành câu, nghe và làm theo các lời chỉ dẫn,
biết tỏ ra giận dữ khi không vừa ý bằng cách dùng từ ngữ và cử chỉ để biểu lộ
những điều chúng muốn. Trẻ thực sự có hứng thú thiết lập quan hệ với các trẻ
em khác, đặc biệt với các bạn cùng tuổi. Ở tháng 18, trẻ đã có thể “chơi” với
bạn thơng qua lời nói, tương tác...Cứ như vậy quan hệ giao tiếp giữa trẻ với
những người xung quanh được nảy sinh.
Giai đoạn từ 18 – 24 tháng, trẻ đã biết mình là “trung tâm” và chưa có
khái niệm chia sẻ nên trẻ thường giữ khư khư đồ chơi trong tay, không cho
bạn khác đụng vào. Tuy nhiên, trẻ có thể dễ dàng thích thú một vật, nhưng

22


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân


cũng dễ dàng và nhanh chóng chán nó, chẳng hạn, khi trẻ đang tranh giành đồ
chơi với bạn, khi người lớn đưa trẻ một đồ chơi khác kích thích sự chú ý của
trẻ hơn, trẻ sẽ “bỏ qua” ngay việc giành với bạn. Trẻ thường hành động bột
phát do ảnh hưởng của tình cảm và ý muốn nảy sinh từ hoàn cảnh trực tiếp
trong một thời điểm nào đó. Ở độ tuổi này, khả năng tự điều khiển hành vi
của trẻ còn hạn chế, chính vì vậy trẻ rất khó khăn khi phải kiềm chế khơng
làm điều mà mình thích khi khơng có sự giúp đỡ của người lớn.
Từ 24 – 36 tháng, ý thức bản ngã của trẻ cứ theo thời gian mà phát triển
dần. Trẻ thực sự có hứng thú thiết lập quan hệ với các trẻ em khác, đặc biệt
với các bạn cùng tuổi. Trẻ đã tự biết phải xoay sở thế nào với ý muốn của
mình, các hoạt động của trẻ cũng khá nhuần nhuyễn. Trong tất cả các hoạt
động hàng ngày của mình, trẻ thích được cùng bạn trao đổi, trò chuyện, cùng
nhau chơi. Khi trẻ được 33 tháng tuổi, trẻ đã có khái niệm rõ ràng về sự sở
hữu hay biểu hiện của sự ích kỷ nên có thể gây ra những xung đột khó tránh
khỏi, nhưng đó chỉ là một phần trong cách nhìn của trẻ rất riêng về thế giới
xung quanh. Việc phát triển ngôn ngữ giao tiếp cũng giúp trẻ thể hiện được
những nhu cầu của bản thân. Trẻ biết nói với bạn để làm dịu những tranh cãi
với sự giúp đỡ của người lớn, ví dụ trẻ dùng những câu hỏi như: “Cậu dùng
xong cái này chưa?”, “Cậu cịn cần cái này nữa khơng?”, “Tớ lấy được
khơng?”. Lúc này, trẻ đã có thể suy nghĩ ra trước rồi thỏa thuận với nhau về
một chủ đề trị chơi khơng phức tạp lắm, rồi phân vai và chia nhau đồ chơi.
Đồng thời trẻ cũng bắt đầu học được cách chờ đợi đến lượt với sự giúp đỡ
của người lớn, ví dụ: đi chơi xe ơ tơ điện ở cơng viên thì trẻ cần phải xếp
hàng chờ.
Từ 36 – 60 tháng, trẻ trở nên thân thiết hơn với các bạn ở trường và các
mối quan hệ với bạn bè, thầy cô sẽ khiến trẻ bận rộn hơn. Khi trẻ 4 tuổi, tâm
lý của trẻ có nhiều biến chuyển, thể hiện rõ nét nhất là trong quan hệ với cha
mẹ, với bạn bè và các mối quan hệ xã hội. Trẻ đã biết phân biệt rõ mình và

23



Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

người khác, mình và thế giới xung quanh. Hiểu được khái niệm “của tôi”,
“của bạn ấy”. Trẻ rất quan tâm, chú ý đến những nhận xét của mọi người đến
bản thân mình. Qua việc chơi với những trẻ khác, trẻ cũng đã hình thành một
số kỹ năng xã hội như chia sẻ, nhân nhượng, chơi lần lượt. Đến 5 tuổi, trẻ
càng có ý thức chan hịa hơn với bạn cùng chơi. Đây chính là lúc trẻ trở nên
độc lập và có khả năng tự giải quyết các vấn đề của bản thân. Biết tuân thủ
luật chơi, biết cho mượn, chia sẻ đồ chơi, sử dụng nhiều cách phân chia chờ
đến lượt. Trẻ có thể trao đổi đồ chơi với các bạn để lấy những món đồ mới mà
trẻ khơng có ở nhà. Đời sống tình cảm của trẻ ở lứa tuổi này phong phú và sâu
sắc hơn rất nhiều so với lứa tuổi trước. Trẻ đã biết thiết lập quan hệ rộng rãi,
phong phú với bạn đồng lứa và trải nghiệm nhiều trạng thái xúc cảm, tình
cảm, hướng tình cảm của mình đến nhiều đối tượng khác nhau. Trẻ nhận ra
được những cảm giác của người khác và bộc lộ tình cảm của mình mạnh
mẽ, rõ ràng hơn đối với mọi người, luôn tỏ ra thông cảm, an ủi người khác,
biểu hiện là nếu thấy bạn buồn thì trẻ sẽ chạy lại hỏi han, an ủi bạn. Tuy
nhiên, do trẻ thích hoạt động theo cách riêng của bản thân nên xung đột
thường xảy ra như bắt nạt bạn chơi. Trẻ đã biết nhờ sự hỗ trợ của người lớn
để giải quyết vấn đề với từng cá nhân hoặc từng nhóm, đồng thời bắt đầu
biết và cải chính nguyên nhân của hành động.
Khi tham gia vào những trải nghiệm mới, trẻ 5 tuổi thường đưa ra nhiều
câu hỏi có tính phân tích và cân nhắc các lựa chọn của mình. Trẻ cũng trở nên
dễ gần gũi hơn khi chúng học những điều mới mẻ và thích các hoạt động có
sự tham gia của các trẻ khác. Ở độ tuổi này trẻ thích tương tác với các trẻ
khác và người lớn, thích khởi xướng các cuộc trị chuyện, có thể chờ đến lượt

mình để nói trong các cuộc nói chuyện nhóm, và đặc biệt là khả năng đưa vào
câu chuyện những chi tiết phù hợp khi chia sẻ những kinh nghiệm của bản
thân. Trẻ đã có thêm nhiều kỹ năng hòa nhập vào xã hội hơn như: đề nghị làm
việc cùng nhau, cùng tham gia vào một hoạt động đang diễn ra, hoặc chia sẻ

24


Khóa luận tốt nghiệp

Trần Thị Hồng Vân

đồ dùng đồ chơi với bạn… Trẻ có thể độc lập hơn khi kiểm sốt cảm xúc cá
nhân và những tình huống quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, trẻ cũng nhận thức
được những người khác có những quan điểm, suy nghĩ và tình cảm khác nhau
về các ý tưởng và tình huống. Vì vậy, trẻ có khả năng giải quyết tranh chấp
theo các cách có thể chấp nhận như nói thẳng thắn với bạn về điều đó, trẻ có
thể tự quyết định đi ra chỗ khác để lấy lại bình tĩnh hoặc thử các kế sách như
thương lượng và thỏa thuận để giải quyết mâu thuẫn trước khi phải nhờ đến
sự giúp đỡ của người lớn. Tuy nhiên, trẻ vẫn gặp khó khăn khi tự mình giải
quyết vấn đề và đa phần các cách giải quyết tranh chấp ở lứa tuổi này có sự
tham gia của người lớn tham gia dàn xếp.
Với những nội dung và nhiệm vụ nhận thức, cách thức tổ chức, cách
đánh giá mới, là cơ hội để giúp trẻ duy trì hoạt động và thúc đẩy trẻ thỏa
thuận với nhau thành công và hiệu quả. Ở lứa tuổi này, sự trao đổi, thỏa thuận
và thiết lập các mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm hoạt động đã trở
nên thành thục, sự phối hợp hành động cũng trở nên nhịp nhàng hơn. Trẻ đã
biết cùng nhau phân chia nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm.
Như vậy, sự thỏa thuận của trẻ MG được hình thành và phát triển khơng
chỉ phụ thuộc vào lứa tuổi mà cịn phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức,

hướng dẫn của người lớn. Nếu như người lớn chúng ta không quan tâm,
không tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động chung của tập
thể với những nội dung, cách thức, phương pháp hấp dẫn thì sự hình thành và
phát triển các kỹ năng thỏa thuận của trẻ sẽ bị hạn chế.
Thỏa thuận là một trong những kỹ năng cần thiết cho con người mới, đó
là một trong những tiêu chí để đánh giá sự phát triển tồn diện nhân cách của
một con người. Vì vậy, ngay từ lứa tuổi mầm non, chúng ta cần phải quan tâm
đến việc kích thích nhu cầu, và phát triển kỹ năng thỏa thuận cho trẻ.

25


×