Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch sinh thái tại vườn quốc gia xuân thủy – nam định và định hướng phát triển đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA ĐỊA LÝ

----

LÊ THỊ NGỌC

Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch
sinh thái tại vườn quốc gia Xuân Thủy –
Nam Định và định hướng phát triển đến
năm 2020

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SƯ PHẠM ĐỊA LÝ

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ
ở các nước phát triển mà cịn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, đời sống của con người ngày càng được
nâng cao và du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu. Đây chính là tiền đề vơ cùng
quan trọng để thúc đẩy ngành du lịch phát triển mạnh mẽ. Việt Nam là đất nước đã
2


được tạo hóa ban tặng nhiều danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử được
UNESCO cơng nhận là di sản thế giới như: Vịnh Hạ Long, Phong Nha – Kẻ Bàng, ….
Đó là những điều kiện vơ cùng thuận lợi để quảng bá hình ảnh non nước Việt Nam


trong mắt bạn bè thế giới và đưa ngành du lịch của Việt Nam không ngừng phát triển.
Tỉnh Nam Định nằm ở phía nam của đồng bằng sơng Hồng có nhiều ưu đãi của
thiên nhiên và vị trí địa lí thuận lợi để phát triển kinh tế, trong đó có loại hình du lịch
sinh thái, khi nhắc đến du lịch Nam Định người ta không thể không nhắc đến Vườn
quốc gia Xuân Thủy. Đây là một khu rừng ngập mặn thuộc khu dự trữ sinh quyển châu
thổ sông Hồng. Xuân Thủy là rừng ngập mặn đầu tiên ở Việt Nam được quốc tế công
nhận theo công ước Ramsar, là rừng ngập mặn thứ 50 của thế giới. Khu vực Vườn
quốc gia Xuân Thủy được nhiều dự án quan tâm để phát triển kinh tế của địa phương,
đặc biệt là phát triển loại hình du lịch sinh thái.
Là người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nam Định, tôi cảm thấy vô cùng
tự hào và yêu mến quê hương. Cùng với những tình cảm ấy, tơi mong muốn đóng góp
một phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của quê hương. Đặc biệt là nghiên cứu
thực trạng loại hình du lịch sinh thái tại vườn quốc gia Xuân Thủy, từ đó có định
hướng và giải pháp để phát triển loại hình du lịch sinh thái nơi đây. Đó cũng chính là lí
do tơi chọn đề tài: “Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch sinh thái tại vườn quốc
gia Xuân Thủy – Nam Định và định hướng phát triển đến năm 2020” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Ngành du lịch cùng với sự phát triển của nó đã thu hút được đông đảo các nhà
nghiên cứu cả về lí luận và thực tiễn. Ở Việt Nam cũng đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu, và các tài liệu viết về du lịch ngày càng nhiều như “thống kê du lịch” Nguyễn
Cao Thường, Tô Đăng Hải, năm 1990, “ xây dựng hệ thống, chỉ tiêu phân vùng Việt
Nam” Lê Thông, năm 1992, “ thị trường du lịch” của Nguyễn Văn Lưu (1998), ….
Những năm gần đây, nhiều tác giả đã quan tâm đến việc nghiên cứu hoạt động du lịch
sinh thái như: TS. Đỗ Thị Thanh Hoa “ Nghiên cứu đề xuất tiêu chí khu du lịch sinh
thái ở Việt Nam” năm 2007.
Ở Nam Định vườn quốc gia Xuân Thủy là đề tài được được nhiều người hoạt
động trong lĩnh vực du lịch cũng như các anh chị sinh viên quan tâm và chú ý. Một số
đề tài nghiên cứu về vườn quốc gia Xuân Thủy có thể kể tới như: “Sự suy giảm đa
dạng sinh học vườn quốc gia Xuân Thủy tỉnh Nam Định. Vấn đề bảo vệ tính đa dạng
sinh học” Nguyễn Thị Thu Thùy năm 2011 cùng với nhiều bài viết trên các sách báo

và tạp chí khác.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu

3


Nghiên cứu thực trạng phát triển loại hình du lịch sinh thái ở VQG Xuân Thủy,
từ đó đề xuất các định hướng và giải pháp để nâng cao khả năng hoạt động và góp
phần bảo tồn tài ngun mơi trường du lịch, đồng thời đem lại lợi ích cho người dân
địa phương.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu trên đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Tổng quan các cơ sở lý luận về VQG, du lịch và du lịch sinh thái.
- Nghiên cứu về hiện trạng phát triển các loại hình DLST tại Xuân Thủy – Nam Định.
- Đánh giá về thực trạng phát triển loại hình du lịch sinh thái ở VQG Xuân Thủy
- Đề xuất định hướng và giải pháp phát triển cho các loại hình du lịch của VQG.
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Loại hình du lịch sinh thái ở VQG Xuân Thủy – Nam Định
- Hướng phát triển cho loại hình du lịch sinh thái.
4.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Do đặc tính của đề tài và nguồn dữ liệu, luận văn chỉ nghiên cứu số liệu trong khoảng
thời gian từ 2000 - 2010.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1 Quan điểm nghiên cứu
5.1.1 Quan điểm hệ thống
Du lịch tồn tại và phát triển trong sự phát triển của các thành phần: tự nhiên,
kinh tế - xã hội và các quy luật cơ bản của các loại hình du lịch, do vậy du lịch bao
gồm nhiều thành phần có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan điểm này giúp xem

xét đối tượng một cách toàn diện, nhiều mặt, nhiều mối quan hệ khác nhau. Quan điểm
này được coi là cơ sở hình thành hệ thống du lịch, đảm bảo tính khách quan và khoa
học trong nghiên cứu.
5.1.2. Quan điểm tổng hợp
Tài nguyên du lịch bao gồm nhiều yếu tố cùng tồn tại trong một khơng gian cụ
thể và có mối quan hệ với nhau. Quan điểm này được vận dụng sau khi đã phân tích
hoạt động của từng thành phần trong tổng thể.
5.1.3. Quan điểm kinh tế - sinh thái bền vững
Cũng như các ngành kinh tế khác, tiêu chuẩn để đánh giá sự phát triển của
ngành du lịch chính là hiệu quả kinh tế mà nó mang lại cho mỗi quốc gia, dân tộc.
Đồng thời việc phát triển ngành du lịch phải gắn với công tác bảo vệ môi trường, bảo
tồn, tôn tạo các giá trị tự nhiên và nhân văn. Cũng chính vì vậy mà trong chính sách

4


phát triển du lịch cần đảm bảo cho ngành du lịch phát triển, thu được lợi nhuận cao
vừa đảm bảo cho môi trường sinh thái được bền vững.
5.1.4. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Du lịch cũng có q trình phát sinh và phát triển. Quan điểm này vận dụng
trong q trình phân tích, tổng hợp các q trình hình thành, phát triển trong hệ thống
du lịch và xu hướng của hệ thống lãnh thổ. Qua đó ta biết được giá trị lịch sử của tài
nguyên trong quá khứ, hiện tại cũng như dự báo được hướng phát triển của những tài
nguyên đó trong tương lai.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng du lịch sinh thái tại VQG
Xuân Thủy của tỉnh Nam Định, định hướng phát triển đến năm 2020. Do đó đề tài sử
dụng nhiều phương pháp nghiên cứu trong địa lý đã được sử dụng rộng rãi:
5.2.1. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp này sử dụng phổ biến trong các cơng trình nghiên cứu.Trên cơ sở

các tài liệu thu thập được từ thực tế, qua sách báo, các đề tài và các cơng trình nghiên
cứu khoa học cơng bố ở trong nước cũng như ở nước ngoài tiến hành lựa chọn và xử lí
(phân tích, tổng hợp, so sánh) để rút ra những thông tin cần thiết cho nội dung đề tài.
5.2.2. Phương pháp khảo sát thực địa
- Đây là phương pháp đặc thù trong nghiên cứu địa lý. Công tác thực địa kết
hợp nghiên cứu bản đồ các tài liệu có liên quan với thực tế nhằm nắm được đặc trưng
của lãnh thổ một cách cụ thể, làm cho thơng tin trở nên chính xác.
- Do điều kiện và thời gian có hạn nên đề tài tập trung khảo sát thực địa tại
VQG Xuân Thủy để tìm hiểu rõ về thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở đây.
5.2.3. Phương pháp bản đồ
- Phương pháp này được sử dụng trong q trình tiến hành và hồn thiện đề tài.
Bản đồ chủ yếu để khai thác thông tin về mối quan hệ không gian lãnh thổ giữa các
đối tượng nghiên cứu.
- Bản đồ được sử dụng trong đề tài như bản đồ hành chính Nam Định, bản
đồ thủy văn Nam Định, bản đồ giao thông, bản đồ khu du lịch ở VQG Xuân Thủy.
5.2.4 Phương pháp điều tra xã hội học
- Đây được xem là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu khoa học hiện đại
và có tính định tính. Các thơng tin thu thập được qua điều tra đã giúp cho các nhà
nghiên cứu tổng hợp các ý kiến, các quan điểm đa dạng từ khách, cư dân, các nhà quản
lý một cách khách quan. Sự kết hợp phương pháp này với phương pháp thực địa có ý
nghĩa quan trọng trong việc phân tích các hiện tượng thực tế.
-Trên địa bàn nghiên cứu đi thực địa và điều tra tình hình hoạt động du lịch, lấy
ý kiến của du khách và người dân địa phương về mức độ hấp dẫn, khả năng phục vụ,
5


hiện trạng hệ thống hạ tầng vật chất kỹ thuật tại VQG Xuân Thủy. Qua đó đánh giá kết
quả một cách khách quan và trung thực.
5.2.5 Phương pháp chuyên gia
Trong q trình nghiên cứu và hồn thiện đề tài, phương pháp này được vận

dụng thông qua việc xin ý kiến chỉ đạo, góp ý về phương pháp, nội dung nghiên cứu
cũng như các vấn đề lý luận và thực tiễn khác của các chuyên gia và các nhà quản lý
có kinh nghiệm và am hiểu trong lĩnh vực du lịch sinh thái làm căn cứ cho việc đưa ra
các kết luận một cách xác đáng, có căn cứ khoa học và thực tiễn, có khả năng thực thi
và có sức thuyết phục cao, làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp phát triển du lịch
sinh thái ở VQG Xuân Thủy.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch sinh thái tại VQG Xuân Thủy – Nam
Định
Chương 3: Định hướng phát triển loại hình du lịch sinh thái tại VQG Xuân
Thủy – Nam Định đến năm 2020

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Cơ sở lý luận về du lịch và du lịch sinh thái
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1 Du Lịch
6


Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích,
một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch đã trở thành một
nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa xã hội của các nước. Về mặt kinh tế,
du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước công
nghiệp phát triển. Tuy vậy hoạt động du lịch mới được quan tâm từ những năm 50 trở
lại đây. Dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du
lịch khác nhau.Theo luật du lịch năm 2005 “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến

chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu
cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất
định”[3].
Các học giả biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam đã tách nội dung cơ bản
của du lịch ra thành hai phần riêng biệt. nghĩa thứ nhất là một dạng nghỉ dưỡng sức
tham quan tích cực của con người ngồi nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí,
xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cơng trình văn hóa, nghệ thuật…vv. Theo
nghĩa thứ hai du lịch được coi là “một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về
nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc,
từ đó góp phần làm tăng thêm tình u đất nước; đối với người nước ngồi là tình hữu
nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả
rất to lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ ” [10]
Còn theo tác giả I.I Pirôgionic, 1985 “Du lịch là một hoạt động của dân cư
trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú
thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao
trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự
nhiên, kinh tế và văn hóa” [11].
Như vậy du lịch là một hiện tượng xã hội, góp phần nâng cao dân trí, phục hồi
sức khỏe cộng đồng, giáo dục lịng u nước, tình đồn kết. Vì vậy xã hội phải có
trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ đầu tư cho du lịch phát triển như đối với giáo dục, thể
thao hoặc lĩnh vực văn hóa khác.
1.1.1.2. Du lịch sinh thái
Ngày nay sự hiểu biết về du lịch sinh thái đã phần nào được cải thiện, đã có một
thời gian dài du lịch sinh thái là chủ đề nóng của các hội thảo về chiến lược và chính
sách bảo tồn và phát triển các vùng sinh thái quan trọng của các quốc gia và thế giới.
Đã có nhiều nhà khoa học danh tiếng tiên phong nghiên cứu lĩnh vực này như:
Hector Ceballos -Lascurain- một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch sinh thái
(DLST), định nghĩa DLST lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: "Du lịch sinh thái là du
lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với những mục tiêu
đặc biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và giới động -thực vật

7


hoang dã, cũng như những biểu thị văn hoá (cả quá khứ và hiện tại) được khám phá
trong những khu vực này" [18].
Hiệp hội DLST Hoa Kỳ, năm 1998 “DLST là du lịch có mục đích với các khu
tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của mơi trường, khơng làm
biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng địa phương”. [18].
Ở Việt Nam vào năm 1999 trong khuôn khổ hội thảo xây dựng chiến lược quốc
gia về phát triển du lịch sinh thái đã đưa ra định nghĩa như sau: “Du lịch sinh thái là
hình thức du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và mơi trường có tác
động tích cực đến việc bảo vệ mơi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về
tài chính cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn”. [18].
Năm 2000, Lê Huy Bá trong cuốn “du lịch sinh thái” cũng đưa ra khái niệm về
du lịch sinh thái “DLST là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên
làm đối tượng để phục vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng
thức những cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết
hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp
của quốc gia cũng như giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triền môi trường và tài
nguyên thiên nhiên một cách bền vững”. [18].
Trong luật du lịch năm 2005, có một định nghĩa khá ngắn gọn “Du lịch sinh
thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với
sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững” [18]. Theo quy chế quản lý các
hoạt động du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, do bộ Nông
nghiệp và PTNT ban hành năm 2007, thì du lịch sinh thái được hiểu là: “Hình thức du
lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gi a của
cộng đồng dân cư ở địa phương nhằm phát triển bền vững”.
Theo Hiệp hội Du lịch Sinh Thái (The Internatonal Ecotourism Society) thì
“DLST là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và

cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương”. [18].
Qua các khái niệm trên ta có thể thấy rằng các khu bảo tồn và vườn quốc gia là
nơi có nhiều yếu tố hấp dẫn khách du lịch sinh thái. Những yếu tố này có thể là một
hoặc nhiều loài động thực vật quý hiếm và đặc hữu, cuộc sống hoang dã phong tục tập
quán, tính đa dạng sinh học cao, địa hình hùng vĩ, các khu di tích lịch sử hoặc văn hóa
đương đại, mang tính đặc thù trong điều kiện tự nhiên. Những yếu tố này sẽ làm lợi
cho các đơn vị tổ chức du lịch sinh thái và cộng đồng địa phương do vậy các yếu tố
này sẽ được bảo vệ tốt, chính đây là mối quan hệ giữa du lịch và các khu bảo tồn và
vườn quốc gia.

8


So với các loại hình du lịch khác, du lịch sinh thái là phát triển muộn hơn cả.
Tuy nhiên, DLST đã và đang phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt
trong hai thập kỷ qua DLST như một hiện tượng và một xu thế phát triển ngày càng
chiếm được sự quan tâm của nhiều người bởi đó là loại hình du lịch thiên nhiên có
trách nhiệm, hỗ trợ cho các mục tiêu bảo tồn môi trường tự nhiên, các giá trị văn hoá
bản địa, phát triển cộng đồng, đồng thời đem lại nguồn lợi kinh tế to lớn, góp phần tích
cực vào sự phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
1.1.2. Lịch sử phát triển du lịch
1.1.2.1. Hoạt động du lịch trên thế giới
Lịch sử du lịch đã có nhiều thay đổi, nhìn chung tiến bộ khoa học, kỹ thuật và cơng
nghiệp đều có ảnh hưởng tích cực đến du lịch. Chiến tranh, thiên tai, đói kém… là
những lý do cơ bản kìm hãm sự phát triển của du lịch.
a. Thời kỳ cổ đại
- Năm 3500 TCN phát minh ra bánh xe của người Sumeri là một sự kiện có ý
nghĩa to lớn đối với việc đi lại của loài người.
- Theo các nhà sử học, vào năm 680 TCN đồng tiền xu đầu tiên được đưa vào
sử dụng ở Lydia. Điều này góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch một cách gián

tiếp thông qua sự gia tăng của các hoạt động buôn bán.
- Trong thời kỳ này, ngồi các nhà bn, các q tộc, chủ nơ cũng đã sử dụng
thời gian rảnh rỗi của mình để đi tham quan, giải trí ở những miền đất lạ. Ngồi các
loại hình du lịch chủ yếu như là cơng vụ, bn bán, giải trí kể trên, du lịch thể thao
cũng đã xuất hiện mà tiêu biểu là ở Hy Lạp cổ đại với sự ra đời của thế vận hội
Olympic tổ chức 4 năm một lần từ năm 776 TCN. Du lịch chữa bệnh bằng nước
khoáng thiên nhiên đã xuất hiện phổ biến ở nhiều nơi như Trung Quốc, Ấn Độ…
- Các chuyến đi với mục đích tơn giáo như truyền giáo của các tu sĩ, thực hiện
nghi lễ tơn giáo của các tín đồ tại các giáo đường, dự các lễ hội tôn giáo… cũng là một
xu hướng lớn trong thời kỳ này.
- Các loại hình du lịch bn bán, giải trí, tơn giáo và thể thao đã được người La
Mã coi như một phần cuộc sống thuộc tầng lớp trên của xã hội đương thời. Hình ảnh
ngôi nhà ở nông thôn dùng để nghỉ ngơi trong lúc rỗi rãi đã trở nên quen thuộc đối với
một số kẻ giàu có của La Mã ngay từ thời kỳ này
- Trong những chuyến đi biển đầu tiên, những chuyến đi của cư dân vùng Đông
Nam Á đến các khu vực ở Châu Đại Dương thật đáng ngạc nhiên. Bằng thuyền độc
mộc nhỏ, dài chừng 3- 4 mét họ đã vượt hàng trăm kilomet đường biển.
b.Thời kỳ trung đại
- Sự sụp đổ của nhà nước La Mã đã làm cho du lịch bị ảnh hưởng sâu sắc.
Nhiều kiệt tác kiến trúc, nghệ thuật, xã hội, văn học bị vứt bỏ, hủy hoại. Cho đến tận
9


thế kỷ thứ 10, du lịch khơng cịn an tồn, tiện nghi và thoải mái như trước đó. Chiến
tranh liên miên, nhà cầm quyền thay đổi, thế giới biến động… làm cho việc đi lại trở
nên khó khăn. Du lịch cao cấp không thể tồn tại lâu dài trong thời kỳ Trung cổ. Trong
khi đó từ một trong tơn giáo đương thời thiên chúa giáo trở thành một lực lượng lớn
mạnh ở Châu Âu. Du lịch tôn giáo là loại hình chủ yếu trong giai đoạn này. Những
cuộc thập tự chinh tôn giáo, hành hương về thánh địa, nhà thờ diễn ra một cách rầm rộ.
Các quán trọ, các dịch vụ khác nhau ra đời như nơi bán đồ ăn, thức uống, đồ lưu niệm,

đồ tế lễ. Xuất hiện những người chuyên hướng dẫn cho khách đi lại, hành lễ…
- Trong thời kỳ này cũng có những chuyến viễn du dài ngày đầu tiên của loài
người như: Marco Polo (1266), Cristoforo Colombo (1492), Magenllan (1519 – 1522).
Các chuyến đi trên đã để lại kinh nghiệm quý bái cho lớp người kế tiếp và dư âm của
các chuyến đi đã kích thích trí tị mị, sự ham muốn của nhiều người, mở đường cho
các chuyến đi xa về sau.
- Vào thế kỷ 15, ở Hungary người ta đã sáng chế ra chiếc xe chở khách đầu tiên.
Tới thế kỷ 17 những chiếc xe như vậy đã trở nên phổ biến ở nhiều nơi. Theo dọc các
tuyến đó là các nhà ăn, nhà nghỉ phục vụ lữ hành.
c. Thời kỳ cận đại
- Vào thời kỳ cận đại, du lịch đã bước sang một trang mới. Các chuyến tàu thủy
vận chuyển hành khách và hàng hóa định kỳ đầu tiên được hình thành để phục vụ việc
đi lại giữa Manchester và London năm 1972. Vào năm 1784, sau nhiều năm nghiên
cứu, James Watt đã chế tạo thành công động cơ hơi nước đầu tiên. Phát minh này
châm ngịi cho cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ nhất, mở ra chân trời mới cho
ngành vận chuyển. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển du lịch trong lịch sử
loài người.
- Việc phát minh loại xe chạy trên đường ray ở Đức vào thế kỷ 17 là một cuộc
cách mạng lớn trong vận chuyển, tuy nhiên tốc độ chuyên trở không cao
- Năm 1885, một kỹ sư người Đức là Benz đã sáng chế ra chiếc ơ tơ đầu tiên,
góp phần đáng kể cho việc thu hút và vận chuyển du khách đi du lịch. Thời kỳ này con
người đã phát minh ra các phương tiện truyền tin khơng gian như điện tín (1876), điện
thoại (1884), radio (1895)…tất cả đã góp phần đưa du lịch bước sang trang mới.
1.1.2.2. Hoạt động du lịch ở Việt Nam
Tài nguyên du lịch Việt Nam khá phong phú và đa dạng. Ba phần tư lãnh thổ là
đồi núi với nhiều cảnh quan ngoạn mục, những cánh rừng nhiệt đới và nhiều lồi cây
cỏ, chim mng, những hệ thống sông hồ tạo nên một bức tranh thủy mặc sinh động,
bao gồm 54 dân tộc anh em cùng chung sống, mỗi dân tộc lại có những phong tục tập
quán riêng, tất cả cả có sức hấp dẫn mạnh mẽ với những người ưa khám phá. Việc khai
10



thác tài nguyên phục vụ mục đích du lịch và nghỉ dưỡng trở nên rõ nét hơn trong thời
kỳ đô hộ của Pháp. Hàng loạt biệt thự và nhà nghỉ được xây dựng ven các bãi biển,
vùng hồ hay vùng núi, nơi có khí hậu dễ chịu Vũng Tàu, Đà Lạt, Ba Vì, Tam Đảo…
Sau ngày hịa bình lập lại (1954) đất nước chia làm 2 miền. Việc khai thác du
lịch theo hai hướng khác nhau. Ở miền Bắc, mặc dù điều kiện kinh tế cịn khó khăn,
song thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên thường tổ chức các chuyến đi tham quan
cắm trại và tham gia các hoạt động vui chơi ngoài trời. Ở miền Nam, một số khách sạn
lớn được xây dựng để đáp ứng nhu cầu một số ít người thuộc tầng lớp trên của xã hội
và của binh lính, sĩ quan nước ngồi.
Ngành du lịch Việt Nam mới ra đời cách đây hơn 40 năm hình thành và phát
triển, tuy đã có nhiều cố gắng để vượt qua những khó khăn trở ngại như tình trạng đất
nước bị chia cắt, chiến tranh, cấm vận…nhưng ngành du lịch của Việt Nam vẫn chưa
thực sự chiếm được vị trí xứng đáng trong nền kinh tế đất nước.
Từ sau đại hội VI đến nay, ngành du lịch Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh,
đây là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn mang lại hiệu quả kinh tế cao và là đòn bẩy
thúc đẩy sự phát triển của tất cả các ngành kinh tế, tạo ra tích lũy ban đầu cho nền kinh
tế và là chiếc cầu nối giữa thế giới bên ngoài và trong nước.
a. Giai đoạn từ 1960 đến đại thắng mùa xuân 30/04/1975
Với nghị định 26/CP ngày 9/7/1960 của Hội đồng chính phủ, Cơng ty Du lịch
Việt Nam đầu tiên của nước ta được thành lập. Là một công ty trực thuộc bộ ngoại
thương nhưng nhiệm vụ cơ bản của công ty du lịch đầu tiên ở Việt Nam là phục vụ các
đồn khách của chính phủ. Tổ chức du lịch đầu tiên này ra đời với cơ sở vật chất kỹ
thuật nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ cán bộ nhân viên ít ỏi về số lượng, non kém về
nghiệp vụ nên gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong cơng tác đón tiếp và phục vụ
khách. Về mặt ý nghĩa, tổ chức này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành
kinh tế mới mẻ của đất nước.
b. Giai đoạn từ 1976 đến trước năm 1990, những năm đầu thời kỳ đổi mới
Căn cứ vào Nghị quyết 262 NQQHK6 ngày 27/06/1978 của Ủy ban Thường vụ

Quốc hội phê chuẩn việc thành lập Tổng cục du lịch, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành nghị định 23/1/1979 quyết định chính thức thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam.
Sự ra đời của Tổng cục Du lịch Việt Nam đã tạo ra bước ngoặt lớn trong sự chỉ đạo
của Nhà nước đối với hoạt động du lịch Việt Nam.
Trong giai đoạn này 1 sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra, đánh dấu sự khởi đầu
cho một giai đoạn mới của đất nước. Đó là đường lối đổi mới nền kinh tế do Đại hội
VI đề ra. Với chính sách mở cửa : Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước, du lịch
nước ta đã thực sự có điều kiện khởi sắc.
c. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
11


Sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với du lịch là một tiền đề hết
sức quan trọng cho những đổi mới của ngành. Sự quan tâm này thể hiện trong Hiến
pháp năm 1992. Như vậy thì trong tương lai du lịch Việt Nam sẽ có một vị trí xứng
đáng trong nền kinh tế nước nhà.
1.1.3. Vai trò du lịch sinh thái
Theo các chuyên gia về lĩnh vực du lịch thì du lịch sinh thái đích thực hoạt
động tuân thủ các nguyên tắc của nó sẽ mang lại những lợi ích to lớn, mà cuối cùng và
cao nhất là đảm bảo mục tiêu bảo tồn các giá trị tự nhiên và nhân văn. Bằng các hình
thức khác nhau (hướng dẫn viên, tờ rơi, sách hướng dẫn, chỉ dẫn, các phương tiện
truyền thông...), các hệ sinh thái điển hình, sự đa dạng sinh học của hệ sinh thái được
giới thiệu sẽ giúp du khách và người dân địa phương nâng cao nhận thức, thay đổi thái
độ và có hành vi bảo vệ các giá trị đặc biệt của các hệ sinh thái. Việc đảm bảo các
phương tiện hỗ trợ giáo dục trên các tuyến điểm tham quan như thơng tin, chỉ dẫn,
biển báo có thuyết minh mơi trường, các phương tiện cho nhu cầu vệ sinh, rác thải có
vai trị quan trọng trong giảm thiểu tác động đến môi trường.
Mặt khác, du lịch sinh thái đề cao sự tham gia của nhân dân vào việc hoạch
định, quản lý du lịch sẽ tăng cường sự liên kết giữa phát triển du lịch với bảo tồn thiên
nhiên và phát triển cộng đồng; sử dụng lao động là người địa phương vào việc tham

gia quản lý, vận hành các hoạt động du lịch sinh thái như các dịch vụ vui chơi, giải trí
của khách, các cơ sở lưu trú, bán hàng gia công, lưu niệm sử dụng sản phẩm địa
phương. Du lịch sinh thái, thông qua hoạt động môi trường giúp cho du khách và cộng
đồng địa phương hiểu rõ hơn về những giá trị tự nhiên và nhân văn của nơi mình cư
trú. Việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá là nguyên tắc quan trọng mà hoạt động
du lịch sinh thái phải tuân thủ, bởi các giá trị về văn hoá là một bộ phận hữu cơ không
thể tách rời các giá trị môi trường tự nhiên.
1.1.4. Ý nghĩa của du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn, phục hồi sức khỏe và
tăng cường sức sống cho nhân dân. Trong một chừng mực nào đó có tác dụng hạn chế
bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Khi đi du lịch mọi
người có điều kiện tiếp xúc với nhau, gần gũi nhau hơn. Như vậy thơng qua du lịch
mọi người xích lại gần gũi, tăng thêm tình đồn kết cộng đồng. Bên cạnh đó du lịch
sinh thái cịn có ý nghĩa trong việc giáo dục tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào
dân tộc khi tham quan tại các di tích lịch sử, cơng trình văn hóa. Góp phần phục hồi và
phát triển truyền thống văn hóa dân tộc.
Du lịch giúp giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng các dân tộc với nhau, làm
phong phú đa dạng thêm bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

12


Du lịch còn ảnh hưởng rõ nét đến nền kinh tế của địa phương thông qua việc tiêu
dùng của du khách. Du lịch là một ngành dịch vụ mà sản phẩm của nó có chất lượng
cao của nhiều ngành kinh tế khác nhau, khi đi du lịch du khách có nhu cầu về các mặt
hàng có chất lượng cao, có những đòi hỏi về tiện nghi hiện đại…Do vậy du lịch đã
đóng góp một giá trị đáng kể vào trong GDP của đất nước.
1.2. Vườn quốc gia
1.2.1. Khái niệm
Theo quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng

Chính phủ Việt Nam, thay thế cho Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 01
năm 2001 về Quy chế quản lý rừng thì Vườn quốc gia là một dạng rừng đặc dụng,
được xác định trên các tiêu chí sau:
- Vườn quốc gia là khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc ở vùng đất ngập nước, hải
đảo, có diện tích đủ lớn được xác lập để bảo tồn một hay nhiều hệ sinh thái đặc
trưng hoặc đại diện không bị tác động hay chỉ bị tác động rất ít từ bên ngoài; bảo tồn
các loài sinh vật đặc hữu hoặc đang nguy cấp.
- Vườn quốc gia được quản lý, sử dụng chủ yếu phục vụ cho việc bảo tồn rừng
và hệ sinh thái rừng, nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và du lịch sinh thái.
- Vườn quốc gia được xác lập dựa trên các tiêu chí và chỉ số: về hệ sinh thái đặc
trưng; các loài động vật, thực vật đặc hữu; về diện tích tự nhiên của vườn và tỷ lệ diện
tích đất nơng nghiệp, đất thổ cư so với diện tích tự nhiên của vườn.
Theo Công ước RAMSAR năm 1975, vùng đất ngập nước được bảo vệ bởi Công
ước này được hiểu một cách rất rộng. Theo văn kiện của Công ước này (Điều 1.1), đất
ngập nước được xác định là: “Những vùng đầm lầy, miền đầm lầy, vùng đất than bùn,
vùng đất tự nhiên hoặc nhân tạo, có thể tồn tại lâu dài hay tạm thời, có nước tĩnh hoặc
nước chảy, là nước ngọt, nước lợ hay nước mặn, bao gồm cả những vùng nước biển có
độ sâu khơng q 6 mét khi triều kiệt”. [17].
Hệ sinh thái rừng ngập mặn bao gồm tất cả các thành phần hữu sinh (cây ngập
mặn, nấm, tảo, vi sinh vật trên cây, dưới nước, trong đất rừng ngập mặn, và kể cả
trong khơng khí) và các thành phần vơ sinh (khơng khí, đất, nước). Hai thành phần này
luôn tác động qua lại và quy định lẫn nhau, vận động trong khơng gian và thời gian.
1.2.2. Vai trị của VQG đối với phát triển du lịch
- Duy trì lâu dài những mẫu điển hình thiên nhiên có diện tích đủ rộng lớn và đó
là hệ sinh thái đang hoạt động.
- Duy trì tính đa dạng sinh học, có tác dụng điều chỉnh môi trường nhờ các quần
xã sinh vật có khả năng phân giải các chất ơ nhiễm như kim loại nặng, thuốc trừ sâu

13



và các chất thải sinh hoạt khác đang ngày càng tăng do các hoạt động của con người,
góp phần phục hồi các tài nguyên tái sinh.
- Duy trì các vốn gen di truyền, là nơi cung cấp nguyên liệu cho công táctuyển
chọn vật nuôi cây trồng hiện nay và sau này kể cả cho các mục đích khác.
- Duy trì cân bằng sinh thái cho từng vùng nhất định, điều hịa khí hậu, mực
nước, bảo vệ các tài ngun sinh vật để chúng phát triển bình thường, hạn chế xói
mịn, lũ lụt, hạn hán. Quần xã thực vật có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc điều
hịa khí hậu địa phương, khí hậu vùng và ngay cả khí hậu tồn cầu.
- Bảo vệ được phong cảnh, nơi giải trí và du lịch cho nhân dân, bảo vệ được các
di sản văn hóa, khảo cổ, lịch sử dân tộc.
- Nơi nghiên cứu khoa học, học tập, giáo dục, đào tạo.
- Tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm cho người dân trong vùng

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VQG
XUÂN THỦY – NAM ĐỊNH
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội tỉnh Nam Định.
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
14


Nam Định là tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ. Vĩ độ: 19°54′B đến
20°40′B, Kinh độ: 105°55′Đ đến 106°45′ Đ. Nam Định tiếp giáp với tỉnh Thái Bình ở
phía Đơng Bắc, tỉnh Ninh Bình ở phía Nam, tỉnh Hà Nam ở phía Tây Bắc, giáp biển
(vịnh Bắc Bộ) ở phía Đơng. Tỉnh Nam Định có diện tích: 165.145,72 ha, bằng 0,52 %
diện tích cả nước (Niên giám thống kê tỉnh Nam Định năm 2010).
2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên
a. Địa hình
Tỉnh Nam Định có chiều dài theo hướng Bắc - Nam là 68 km, theo hướng

Đông- Tây là 72 km theo đường chim bay. Tỉnh Nam Định giống một tứ giác: cạnh
sông Hồng dài 78 km, cạnh sông Đáy dài 88 km, bờ biển dài 72 km. Phần giáp tỉnh Hà
Nam dài 56 km. Địa hình tương đối bằng phẳng, có 2 vùng chính là vùng đồng bằng
thấp trũng và vùng đồng bằng ven biển, ở phía Tây Bắc tỉnh có một số ít đồi núi thấp.
Địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, chỗ cao nhất từ đỉnh núi Gôi cao 122
m, chỗ thấp nhất 3 m (so với mặt biển) ở vùng đồng bằng trũng huyện Ý Yên.
Vùng đồng bằng gồm các huyện: Ý Yên, Mỹ Lộc, Vụ Bản, Tp Nam Định, Nam
Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, chiếm phần lớn diện tích đất tự nhiên của tỉnh với
điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và các
ngành nghề truyền thống.
Vùng ven biển gồm huyện Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy có bờ biển dài
khoảng 72 km, địa hình khá bằng phẳng. Một số nơi có bãi cát thoải mịn thích hợp
phát triển du lịch biển như Thịnh Long (Hải Hậu), Quất Lâm (Giao Thuỷ), Rạng Đông
(Nghĩa Hưng). Nam Định có 3 sơng lớn là sơng Hồng, sơng Đáy, sơng Ninh Cơ. Ngồi
ra, có sơng Đào nối liền sơng Hồng và sông Đáy cùng với nhiều sông nhỏ khác giúp
cho giao thơng đường thuỷ thuận lợi. Bên cạnh đó cịn có tiềm năng phát triển kinh tế
tổng hợp ven biển như ni trồng, đánh bắt hải sản, đóng tàu, du lịch biển...
b. Khí hậu
Nam Định mang những đặc điểm khí hậu của khu vực cận nhiệt đới ấm, ẩm.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ khơng khí trung bình năm khoảng 23 – 24 o C. Mùa đơng
nhiệt độ trung bình là 18,9 oC, tháng lạnh nhất là vào tháng 1 và tháng 2. Mùa hạ, có
nhiệt độ trung bình là 27 oC, tháng nóng nhất là vào tháng 7 với nhiệt độ trung bình là
29,4 o C (nhiệt độ nóng nhất có thể lên tới hơn 40 oC).
- Độ ẩm: Độ ẩm khơng khí ở Nam Định tương đối cao, trung bình năm 80 85%, tháng có độ ẩm cao nhất là 90%, thấp nhất là 81% (tháng 11)
- Nắng: Hàng năm trung bình có tới 250 ngày nắng. Tổng số giờ nắng trong
năm dao động trong khoảng 1.650 – 1.700 giờ. Mùa hạ có số giờ nắng cao khoảng
1.100 – 1.200 giờ và chiếm 70% số giờ nắng trong năm.

15



- Mưa: lượng mưa trung bình năm từ 1.750 - 1.800 mm phân bố tương đối đồng
đều trên toàn bộ lãnh thổ tỉnh. Lượng mưa phân bổ không đều trong năm, mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa chiếm gần 80% lượng mưa của cả năm, các tháng
mưa nhiều là tháng 7, 8, 9. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa
chiếm 20% lượng mưa cả năm. Tháng ít mưa nhất là tháng 12, tháng 1, tháng 2, có
tháng hầu như khơng có mưa.
- Hướng gió: hướng gió thịnh hành thay đổi theo mùa, tốc độ gió trung bình cả
năm là 2 - 2,3 m/s. Mùa đơng hướng gió thịnh hành là gió đơng bắc với tần suất 60 70%, tốc độ gió trung bình 2,4 - 2,6 m/s, có những tháng cuối mùa đơng gió có xu
hướng chuyển dần về phía đơng. Mùa hè hướng gió thịnh hành là gió đơng nam, với
tần suất 50 - 70%, tốc độ gió trung bình 1,9 - 2,2 m/s, đầu mùa hạ thường xuất hiện
các đợt gió tây khơ nóng.
- Bão: Nam Định nằm ở phía Tây vịnh Bắc Bộ, nên hàng năm thường chịu ảnh
hưởng của bão hoặc áp thấp nhiệt đới, bình quân 4 - 6 cơn bão/năm (khoảng từ tháng 7
đến tháng 10).
Nhìn chung, khí hậu của Nam Định thuận lợi cho mơi trường sống của con
người, sự phát triển của hệ sinh thái động, thực vật, mùa đông cho phép phát triển
nhiều loại rau màu có giá trị kinh tế cao
c. Thuỷ văn
Nam Định có hệ thống sơng ngịi khá dày đặc với mật độ lưới sông khoảng 0,6
- 0,9 km/km2. Do đặc điểm của địa hình, các dịng chảy ở các sông lớn như sông
Hồng, sông Đáy, sông Ninh Cơ chảy qua Nam Định theo hướng Tây Bắc - Đông Nam
và thuộc phần hạ lưu nên lịng sơng thường rộng và khơng sâu lắm, tốc độ dịng chảy
chậm hơn phía thượng lưu. Chế độ nước của hệ thống sơng ngịi ở đây được chia làm
hai mùa rõ rệt là mùa mưa lũ (từ 5-10) và mùa khơ (từ 11-4).
Ngồi ra trên địa bàn tỉnh cịn có hệ thống sơng nội đồng với tổng chiều dài 279
km, phân bố đều khắp trên địa bàn các huyện rất thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp,
công nghiệp, giao thông thủy...Thuỷ triều tại vùng biển Nam Định thuộc chế độ nhật
triều, thời gian triều lên ngắn (xấp xỉ 8 giờ), chiều xuống dài (khoảng 18 giờ). Biên độ
triều trung bình từ 1,6 - 1,7 m, cao nhất là 3,31 m và nhỏ nhất là 0,11 m. Dịng chảy

của sơng Hồng và sơng Đáy kết hợp với chế độ nhật triều đã bồi tụ tại vùng cửa hai
sông tạo nên hai bãi bồi lớn ven biển là: Cồn Lu, Cồn Ngạn (Xuân Thuỷ).
d. Nguồn nước
* Nguồn nước mặt
Nguồn nước mặt tại Nam Định phong phú, với hệ thống sơng ngịi khá dày đặc
với ba sơng lớn là sơng Hồng, sơng Đáy, sơng Ninh Cơ. Ngồi ra trên lãnh thổ Nam
Định cịn có rất nhiều ao hồ đầm được phân bố rộng khắp trên địa bàn. Chất lượng
16


nguồn nước mặt khá tốt, các chỉ tiêu lý, hóa theo khảo sát điều tra đều nằm trong giới
hạn cho phép.
* Nguồn nước ngầm
Ngoài nguồn nước mặt dồi dào, Nam Định cịn có một trữ lượng nước ngầm
khá phong phú. Nguồn nước ngầm ở Nam Định nằm chủ yếu trong tầng chứa nước lỗ
hổng Pleistocene và Holocene, hàm lượng Cl < 200mg/l. Tầng khai thác phổ biến ở độ
sâu trung bình từ 40 - 120m có thể khai thác phục vụ sinh hoạt. Ngồi ra, cịn phát
hiện một số tầng nước ngầm có độ sâu từ 250 - 350 m, nước có chất lượng tốt và trữ
lượng lớn có thể khai thác phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân.
e. Sinh vật
- Rừng: Theo kết quả tổng kiểm kê đất đai tính đến năm 2010 tồn tỉnh có
4.240,46 ha rừng các loại. Rừng ở Nam Định chủ yếu là rừng phịng hộ, cây trồng
chính là sú, vẹt, phi lao, bần. Rừng góp phần làm trong lành khơng khí cho khu vực.
- Hệ sinh thái: Nam Định thuộc hệ sinh thái nhiệt đới và á nhiệt đới khá đa
dạng, phong phú. Hệ thực vật chiếm khoảng 50%, hệ động vật chiếm khoảng 40% cả
nước. Đặc biệt là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Cồn Lu, Cồn Ngạn (nay đã
được công nhận là VQG Xuân Thuỷ), hệ động thực vật khá đa dạng phong phú.
Nam Định có nguồn lợi thuỷ sản phong phú và đa dạng (gồm thuỷ sản nước
ngọt, thuỷ sản nước lợ và nước mặn): 65 loài thực vật nổi, 59 loài động vật nổi và giun
nhiều tơ thuộc lớp động vật đáy. Mặt nước vùng cửa sơng cịn có nhiều tảo và thực vật

thuỷ sinh là thức ăn cho cá, ốc, tôm, cua...Vùng ven biển Nam Định có nhiều bãi cá
lớn với nhiều lồi cá, hải sản có giá trị kinh tế cao như tơm, cua, ghẹ, sị…, ngồi ra
cịn phát hiện thêm 1 số lồi khác như: moi, sị huyết, sị lơng, bào ngư, cầu gai tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển đồng thời hấp dẫn khách đến thưởng
thức những món ăn hải sản của vùng.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.1.2.1 Đặc điểm dân cư, dân tộc
Phân theo địa giới hành chính, tỉnh Nam Định có 9 huyện, 1 thành phố loại I
trực thuộc tỉnh, 229 xã, phường, thị trấn ( 194 xã, 20 phường, 15 thị trấn) (theo Niên
giám thống kê 2010). Dân số toàn tỉnh năm 2010 là 2.005.771 người trong đó dân số
nơng thơn là 1.504 ngàn người ( chiếm 82,2%), dân số thành thị là 326 ngàn người
(chiếm 17,8 %). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1%. Cơ cấu dân số: số dân có độ tuổi từ
15-59 tuổi chiếm 63,12% dân số toàn tỉnh, dân số dưới 14 tuổi chiếm 23,43%. Năm
2010, tổng nguồn lao động của tỉnh có 1.038 nghìn người chiếm 56,7% dân số.
Mật độ dân số trung bình 1.108 người/km2 (Nguồn: Niên giám thống kê 2010).
Dân cư thường tập trung ở đơ thị và các thơn xóm dọc theo các trục giao thông đường

17


bộ, đường thủy quan trọng tạo thuận tiện cho việc đầu tư các cơng trình hạ tầng phúc
lợi cơng cộng như trường học, trạm y tế, lưới điện, nước sinh hoạt...
2.1.2.2. Vấn đề lao động và việc làm
Nam Định có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự sinh sống của dân cư và phát
triển kinh tế. Do vậy Nam Định là một trong những tỉnh có dân cư, lao động tập trung
đông đúc của nước ta. Tuy nhiên dân cư, lao động vẫn phân bố chủ yếu ở vùng nông
thôn (87% -2002). Trong khi kinh tế cũng chậm phát triển, chuyển dịch nên vấn đề lao
động, việc làm đang là vấn đề nan giải ở đây.
Năm 2009 số lao động ở nơng thơn Nam Định là 918 nghìn người. Số lao động
trong nhóm tuổi trung niên ngày càng chiếm tỷ lệ cao. Điều này cho thấy nguồn lao

động ở nông thơn Nam Định có sự già hố. Lao động ở nơng thơn Nam Định có trình
độ học vấn khá cao, số lao động có trình độ chun mơn ngày càng tăng lên nhưng vẫn
cũng chiếm tỷ lệ nhỏ. Hiện nay cơ cấu kinh tế, ngành nghề đó cú sự chuyển dịch nên
số lao động được tạo công ăn, việc làm ngày càng tăng. Lao động đông, kinh tế chậm
chuyển dịch, cơ cấu ngành nghề thiếu đa dạng nên lao động ở đây vẫn hoạt động chủ
yếu trong nông nghiệp (80,6% -2004), lao động hoạt động trong công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ cũng ít, tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm đang diễn ra phổ biến.
Đây chính là nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện tượng di cư theo mùa ở Nam Định.
Do đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng trong tỉnh khác nhau nên
loại hình sử dụng lao động ở nơng thơn Nam Định khá đa dạng. Những vùng ở xa
trung tâm, xa các đường giao thơng lớn loại hình lao động thuần nơng khá phổ biến
nhưng loại hình này đang dần nhường chỗ cho các loại hình lao động kết hợp. Loại
hình lao động kết hợp nơng - ngư nghiệp phổ biến ở các huyện ven biển.
2.1.2.3. Vấn đề phát triển kinh tế
Năm 2010, GDP của tỉnh đạt 10.920 tỷ đồng, cơ cấu kinh tế: Nông- Lâm- Ngư
nghiệp 30%, Công nghiệp- Xây dựng là 32%, Dịch vụ là 38%. Trong cả giai đoạn
2001-2010, tốc độ tăng trưởng bình quân 8,82% cao hơn tốc độ bình quân của cả
nước. Các ngành kinh tế của tỉnh đều đạt sự tăng trưởng liên tục, trong đó tốc đ ộ tăng
trưởng ngành nơng, lâm, thủy sản giai đoạn 2006-2010 đạt 4,99%/năm; ngành công
nghiệp - xây dựng đạt 16,73%/năm, khu vực dịch vụ đạt 8,84%/năm. GDP bình quân
đầu người theo giá hiện hành đã tăng từ 5,14 triệu đồng năm 2005 lên 14,4 triệu đồng
năm 2010, tuy nhiên mới bằng 53% bình quân của vùng đồng bằng sông Hồng.
Cơ cấu kinh tế từng bước được chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng dần tỷ
trọng các ngành phi nông nghiệp và giảm tương đối các ngành nông nghiệp.
Khu vực nông lâm thủy sản giảm dần về tỷ trọng từ 40,9% năm 2000 xuống
31,9% năm 2005 và đến năm 2010 còn 29,5%. Khu vực kinh tế nhà nước, tuy chiếm
17,7% trong GDP của tỉnh, nhưng đã nắm giữ và chi phối các ngành kinh tế then chốt.
18



Khu vực kinh tế dân doanh ngày càng phát triển và có đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi ngày càng tăng song quy mô
nhỏ bé nên hoạt động sản xuất kinh doanh chưa cao.
a. Nông - lâm - thủy sản
- Sản xuất nơng nghiệp ổn định và có bước phát triển. Giá trị sản xuất bình quân
tăng 3,8%/năm, duy trì truyền thống thâm canh lúa (năng suất lúa bình quân đạt 118,4
tạ/ha/năm); sản lượng lương thực bình quân đạt 950 nghìn tấn/năm; bảo đảm an ninh
lương thực; chuyển dần sang sản xuất hàng hoá, tăng hiệu quả sản xuất; giá trị thu
được trên 1 ha canh tác tăng nhanh, năm 2010 đạt 70 triệu.
- Khai thác nuôi trồng thủy sản: Tổng sản lượng khai thác năm 2010 đạt 39.890
tấn, tăng 3,44% so với năm 2009. Phát triển khai thác, nhất là nghề cá xa bờ. Tính đến
hết năm 2010 tồn tỉnh có 2.479 tàu đánh bắt thủy sản tăng 10 chiếc so với năm 2009,
trong đó số tàu từ 90 CV trở lên có 245 chiếc tăng 45 chiếc so với năm trước. Sản
lượng nuôi trồng thủy sản đạt 49.137 tấn tăng 16,44% so với năm 2009 .
- Lâm nghiệp: Diện tích rừng ngập mặn tập trung trên địa bàn 3 huyện Giao
Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng. Hầu hết diện tích rừng là rừng trồng phịng hộ ven biển.
Ngồi ra, cịn có rừng phịng hộ đồi núi tại 2 huyện Ý Yên, Vụ Bản. Trong 5 năm
(2005 - 2009) tỉnh Nam Định tích cực trồng rừng và đã trồng được 1.316 ha. Hiện nay,
tổng diện tích rừng là 4.950 ha với các loại cây trồng chủ yếu là phi lao, vẹt, keo,
thơng, bạch đàn… Năm 2010 tồn tỉnh đã hồn thành kế hoạch trồng rừng phịng hộ
tập trung với tổng diện tích 328 ha đạt 103% kế hoạch; chăm sóc và trồng dặm 58 0 ha
rừng mới trồng; bảo vệ 1.660 ha rừng phòng hộ khu vực xung yếu.
- Diêm nghiệp: Năm 2010, diện tích sản xuất muối tỉnh đạt 1030, 54 ha, năng
suất bình quân 94,85 tấn/ha, sản lượng đạt 80.439 tấn, bằng 95,9% so với kế hoạch.
b. Công nghiệp
Công nghiệp liên tục phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao. Giá trị sản xuất
tăng bình quân 20,5%/năm. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong GDP tăng dần,
năm 2010 đạt 36,5%.
Các khu, cụm công nghiệp tiếp tục được đầu tư, có tác động rõ rệt hơn đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội. Đã quy hoạch 12 khu cơng nghiệp, đã có 4 khu công

nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng. Đến nay, đã có 165 dự án được cấp phép đầu tư, trong
đó có 96 dự án đưa vào hoạt động, giá trị sản xuất công nghiệp chiếm khoảng 20% giá
trị sản xuất cơng nghiệp tồn tỉnh, giá trị xuất khẩu chiếm trên 40% giá trị xuất khẩu
tồn tỉnh. Đã có 20 cụm công nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng, thu hút 372 dự án đầu
tư. Giá trị sản xuất đạt 1.090 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 12.000 lao động. Tồn
tỉnh có 94 làng nghề giải quyết việc làm cho trên 48.000 lao động nông thôn.
c. Các ngành dịch vụ
19


Tỷ trọng khu vực dịch vụ giảm nhẹ từ 38,2% năm 2000 xuống 36,6% năm 2005
và giảm xuống còn 34,1% năm 2010. Tỷ trọng công nghiệp xây dựng trong GDP tăng
từ 20,9% năm 2000 lên 31,5% năm 2005 và đạt 36,4% năm 2010, chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong 3 nhóm ngành. Sản phẩm dịch vụ khá đa dạng với chất lượng ngày càng tốt
hơn. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn 20052010 tăng bình quân 22,97%/năm. Xuất khẩu tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng bình
quân là 14,4%/năm, giá trị xuất khẩu năm 2010 đạt 253,2 triệu USD. Giá trị xuất khẩu
bình quân đầu người ước đạt trên 138 USD. Kết cấu hạ tầng thương mại, du lịch từng
bước được cải tạo, nâng cấp, phát triển các loại hình thương mại hiện đại, hiện có 7
siêu thị bước đầu đã làm thay đổi phương thức hoạt động thương mại và xu hướng tiêu
dùng của nhân dân trên thị trường.
2.1.2.4. Lịch sử - văn hóa
Nam Định là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi phát tích của vương triều Trần –
triều đại hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Con người Nam
Định tài hoa, thông minh, cần cù, dũng cảm từ ngàn xưa đã tạo dựng và để lại cho con
cháu kho tàng di sản văn hóa tinh thần với những nét văn hóa đặc trưng, phong phú.
2.2. Hoạt động du lịch ở tỉnh Nam Định
2.2.1. Lượng khách
Cùng với sự phát triển của du lịch cả nước, hoạt động du lịch ở Nam Định bước
đầu đạt kết quả đáng khích lệ, tạo nên những chuyển biến rõ rệt trước hết về số lượng
khách du lịch. Từ năm 1995, lễ hội Phủ Dầy được khôi phục trở lại, một số lễ hội khác

trong tỉnh được tổ chức tốt hơn cùng với việc quy hoạch mở rộng các khu du lịch biển
Thịnh Long, Quất Lâm và nhiều điểm tham quan du lịch khác, sản phẩm du lịch của
tỉnh Nam Định từng bước được đầu tư ngày càng đa dạng, có sức hấp dẫn, thu hút đối
với du khách. Lượng khách du lịch đến với Nam Định mỗi năm một nhiều hơn. Đặc
biệt trong 10 năm trở lại đây (2000 - 2010), tốc độ tăng trưởng trung bình năm đạt
8,0% trong đó khách có lưu trú tăng trưởng 13%/năm. Diễn biến lượng khách du lịch
Nam Định theo các giai đoạn:
Giai đoạn 2000-2005: Cùng với việc triển khai thực hiện “Chương trình phát
triển du lịch tỉnh Nam Định thời kỳ 2001-2005”, hoạt động du lịch đã có những
chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng bình quân về khách du lịch duy trì ở mức
9,6%/năm. Năm 2000, lượng khách du lịch đến tham quan các điểm du lịch của Nam
Định đạt 728.580 lượt khách và vẫn tiếp tục duy trì mức tăng đều đặn ở các năm tiếp
theo. Năm 2005, cùng với xu hướng hồi phục của du lịch Việt Nam, lượng khách du
lịch đến các điểm tham quan, di tích trên địa bàn tỉnh Nam Định đã đạt mốc 1.150.000
lượt, tăng gấp 1,6 lần so với năm 2000.

20


Giai đoạn 2006 đến 2010: cùng với sự phục hồi của du lịch thế giới, du lịch
Việt Nam; sự cải thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch,
hoạt động du lịch Nam Định tiếp tục phát triển. Lượng khách du lịch đến các điểm du
lịch vẫn tiếp tục duy trì được mạch tăng trưởng khá ổn định. Năm 2006 có 1,27 triệu
lượt khách, đến năm 2009 đã có hơn 1,5 triệu lượt khách và đến năm 2010 toàn ngành
du lịch Nam Định thu hút được 1,6 triệu lượt khách đến các điểm tham quan du lịch
của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân của khách du lịch giai đoạn này đạt 6%.
Tính chung cả giai đoạn 2000 - 2010, lượng khách du lịch đến các điểm tham
quan du lịch trên địa bàn tỉnh Nam Định có tốc độ tăng trưởng bình quân là 8,0%/năm.
* Về cơ cấu khách
Khách du lịch đến Nam Định gần như quanh năm : vào mùa xuân (lễ hội), mùa

hè (nghỉ mát, tắm biển) và mùa đông (tham quan, nghiên cứu). Mặc dù vậy, khách đến
Nam Định đông nhất vẫn là vào mùa lễ hội. Trong tổng số khách đến các điểm tham
quan du lịch thì khách lễ hội chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 60% - 70% . Lượng khách này
hầu như không lưu trú tại các cơ sở lưu trú du lịch, do đó, khách du lịch tuy đông
nhưng khách do các cơ sở kinh doanh du lịch đón phục vụ chỉ vào khoảng 30- 40%,
trong đó, khách lưu trú chỉ đạt 40-50% so với tổng số khách do các cơ sở kinh doanh
phục vụ. Khách du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng biển chiếm 28% và khách du lịch công
vụ chiếm 12%.
Bảng 2.1: Cơ cấu khách du lịch đến các điểm du lịch ở Nam Định
(Đơn vị: Ngàn lượt khách)
Khách du lịch

2000

2005

Tổng số khách đến

728,6

1150,0 1270,0

1350,0 1410,0 1510,0

1600,0

Khách công vụ

78,3


131,0

158,2

180,2

185,5

190,3

195,3

% so với tổng khách

10,8%

11,4%

12,5%

13,3%

13,2%

12,6%

12,2%

Khách du lịch biển


240,3

390,0

386,8

242,8

244,5

273,3

284,8

% so với tổng khách

33,0%

33,9%

30,5%

18,0%

17,3%

18,1%

17,8%


Khách du lịch lễ hội

410,0

629,0

725,0

927,0

980,0

1046,4

1120,0

% so với tổng khách

56,3%

54,7%

57,1%

68,7%

69,5%

69,3%


70,0%

2006

2007

2008

2009

2010

(Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Nam Định 2011)

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu khách du lịch đến Nam Định năm 2010
Chú thích:

21


Phân tích số liệu cơ cấu khách du lịch đến Nam Định cho thấy, những năm gần
đây, lượng khách đi lễ hội tăng chậm, chứng tỏ khách đi lễ hội đã gần đạt tới đỉnh
điểm, muốn tăng lượng khách này thì phải có những thay đổi về phương thức tổ chức
đón tiếp, phục vụ, bố trí thêm các cơng trình dịch vụ… Lượng khách du lịch biển có
xu hướng giảm xuống đáng kể (năm 2006 khách du lịch chiếm 30,5% tổng số khách,
đến năm 2010 chỉ còn 17,8% tổng số khách). Phần lớn dòng khách này đi về trong
ngày, số cịn lại có thời gian lưu trú tại các khu du lịch biển tương đối ngắn.
* Về thị trường khách
Khách du lịch quốc tế : Cũng như một số tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc bộ
như Thái Bình, Hà Nam, Hưng Yên, lượng khách du lịch quốc tế đến Nam Định thấp,

chỉ chiếm trung bình 1,2% tổng lượng khách. Khách lưu trú rất ít do thiếu cơ sở lưu
trú phù hợp (khách sạn 3 -5 sao), thiếu sản phẩm dịch vụ cao cấp, hạ tầng giao thông
kém... Năm 2000, có 1.065 lượt khách quốc tế đến Nam Định, chiếm tỷ trọng 1,08%
tổng số khách có lưu trú; năm 2005 có 2.363 lượt khách, chiếm tỷ trọng 1,14% và đến
năm 2010 có 4.650 lượt khách, chiếm tỷ trọng 1,56%. Khách du lịch quốc tế đến Nam
Định chủ yếu với mục đích tham quan nghiên cứu khoa học (tại vườn quốc gia Xuân
Thủy), đến các lễ hội (đền Trần, Phủ Dầy), các làng nghề truyền thống và đến Nam
Định với mục đích đầu tư, bn bán thương mại kết hợp du lịch. Ngày lưu trú bình
quân của khách du lịch quốc tế còn thấp (khoảng 1,5- 1,8 ngày).
Khách du lịch nội địa là thị trường khách chính của Nam Định. Lượng khách
nội địa hàng năm chiếm tới 98,8% trong tổng lượng khách đến Nam Định. Đặc điểm
tài nguyên du lịch của Nam Định có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu nguồn khách, đặc biệt
thu hút khách du lịch nội địa với loại hình du lịch lễ hội tín ngưỡng, du lịch tâm linh.
Khách du lịch nội địa đến đây chủ yếu là trong dịp lễ hội đền Trần, lễ hội Phủ Dầy,
chùa Cổ Lễ, chùa Keo... Các luồng khách chính tới Nam Định chủ yếu là từ Hà Nội và
các tỉnh lân cận, khách có mục đích rõ ràng là du lịch văn hóa tín ngưỡng. Khách chi
trả khơng nhiều. Ngày lưu trú trung bình của khách du lịch nội địa đến Nam Định nhìn
chung cịn thấp và ở mức 1,3- 1,5 ngày.
2.2.2. Doanh thu
2.2.2.1.Thu nhập du lịch

22


Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã áp dụng hệ thống thống kê cho các
nước thành viên về thu nhập du lịch được tính bằng tồn bộ số tiền mà khách du lịch
phải chi trả khi đi thăm một nước khác (trừ chi phí cho việc vận chuyển hàng khơng
quốc tế). Tuy nhiên, ở nước ta nói chung và Nam Định nói riêng, hệ thống thống kê
chưa được hồn chỉnh nên các khoản chi trả của khách du lịch trong tồn bộ chương
trình du lịch chưa tập hợp được đầy đủ và chính xác. Ngược lại, trên thực tế có những

doanh nghiệp du lịch tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, kinh doanh tổng hợp v.v...,
nhưng nguồn thu này lại được tính cho ngành du lịch, điều này cũng chưa hợp lý.
Chính vì lẽ đó, số liệu thống kê thu nhập ngành du lịch chỉ ở mức độ tương đối.
Bảng 2.2 : Thu nhập của ngành du lịch tỉnh Nam Định, giai đoạn 2000 - 2010
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Thu nhập
Lưu trú
Ăn uống
Vui chơi
Mua sắm

2000
34,52
6,05
4,91
2,85
20,71

2004
2006
2007
2008
65,00
87,20
110,0
128,0
18,25
20,45
26,76

28,90
16,47
24,14
34,77
37,90
7,23
8,91
7,65
13,00
23,55
33,70
40,82
48,20
(Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch

2009
2010
135,0
175,0
30,80
39,00
41,50
81,00
14,60
15,50
48,10
39,50
Nam Định 2011)

Giai đoạn 2006 đến nay, thu nhập du lịch của Nam Định đạt mức tăng trưởng

mạnh mẽ ở mức 21,4%/năm. Năm 2006 đạt 87,2 tỷ đồng, năm 2010 đạt 175 tỷ đồng.
Số liệu thống kê cho thấy thu nhập du lịch của tỉnh vừa qua đã có sự tăng trưởng
đáng kể. Nếu như năm 2000 tổng thu nhập của toàn ngành du lịch mới đạt 34,52 tỷ
đồng thì đến năm 2001 đã đạt mức 45,56 tỷ đồng. Đến năm 2005, thu nhập du lịch đạt
75 tỷ đồng. Tăng trưởng trung bình về thu nhập du lịch giai đoạn 2000-2005 đạt
16,78%/năm. Tuy nhiên có thể thấy rõ là do lượng khách du lịch đến Nam Định còn ít
và các dịch vụ bổ sung còn thiếu.
2.2.2.2. Cơ cấu doanh thu
Theo số liệu thống kê, khách du lịch đến Nam Định (cả khách quốc tế và khách
nội địa) đều chi tiêu nhiều cho các dịch vụ ăn uống (chiếm tỷ lệ cao nhất, trung bình
33,0%) và lưu trú (20,0-24,0%). Doanh thu từ dịch vụ lữ hành, vận chuyển chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng doanh thu du lịch. Các số liệu này cũng phù hợp với cơ cấu chi
tiêu chung của khách du lịch đến Việt Nam, trong đó, chi tiêu cho dịch vụ lưu trú và
ăn uống thường chiếm tỷ trọng cao nhất.
Theo kết quả điều tra chi tiêu của khách du lịch ở Việt Nam năm 2005 (do Tổng
cục Thống kê thực hiện) thì chi tiêu bình quân của khách du lịch nội địa là 506,2 ngàn
đồng/ngày và khách quốc tế khoảng 1,5 triệu đồng/ngày. Các số liệu này cho thấy chi
tiêu bình quân của khách du lịch đến Nam Định là thấp hơn khá nhiều so với bình
quân chung của cả nước. Một trong những nguyên nhân làm cho mức chi tiêu của

23


khách du lịch nội địa và quốc tế tại Nam Định khá thấp là do sản phẩm dịch vụ của
ngành du lịch còn đơn điệu, đặc biệt là thiếu các dịch vụ vui chơi giải trí.
2.2.2.3. Giá trị gia tăng du lịch
Theo số liệu trong Niên giám thống kê tỉnh Nam Định năm 2010 bên cạnh nhóm
ngành cơng nghiệp - xây dựng vẫn duy trì được nhịp tăng trưởng cao, khá ổn định, giá
trị tăng thêm bình quân hàng năm giai đoạn 2006 - 2010 tăng 19,0%, nhóm ngành
thương mại - dịch vụ - du lịch phát triển với tốc độ thấp hơn, tăng bình quân hàng năm

giai đoạn 2006-2010 đạt 9,0%. Đáng chú ý hơn cả trong nhóm ngành dịch vụ là ngành
du lịch có tốc độ tăng trưởng khoảng 13%. Với mức tăng trưởng trong thời gian qua có
thể thấy nền kinh tế của Nam Định đã và đang phát triển đúng với định hướng phát
triển kinh tế xã hội và phù hợp với xu thế phát triển chung của cả nước.
Giá trị gia tăng ngành du lịch Nam Định năm 2000 đạt 24,16 tỷ đồng, năm 2005
đạt 52,5 tỷ và năm 2010 đạt 122,5 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng đạt 17,6%/ năm.
2.2.3. Lực lượng lao động
Một trong những nguồn lực để phát triển du lịch Nam Định trong giai đoạn tới
là yếu tố con người. Năm 2010 tổng số lao động làm việc trong ngành dịch vụ - du lịch
là 153,8 ngàn người chiếm 16,0% trong cơ cấu lao động.
Bảng 2.3 Một số chỉ tiêu dân số, nguồn nhân lực tỉnh Nam Định
thời kỳ 2000 - 2010
Nhịp tăng (%)

Chỉ tiêu

- NLĐ/Dân số

Đơn vị

2000

2005

2010

%

60,6


59,5

61,5

1.038,6

983,8

971,2

-1,08

-0,26

945,1

987,3

960,0

0,88

0,05

100,0

100,0

100,0


a. Số người trong độ tuổi có
Ngàn người
khả năng LĐ
b. Lao động làm việc trong
nền kinh tế QD

Ngàn người

c. Cơ cấu lao động
- Nông lâm thuỷ sản

%

78,2

71,9

64,4

- Công nghiệp, xây dựng

%

12,8

14,7

19,6

- Dịch vụ


%

9,0

13,4

16,0

2005- 2000 2006-2010

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nam Định 2011)

Dự báo đến năm 2020 có khoảng 52% dân số Nam Định ở độ tuổi lao động,
trong khoảng thời gian đó trung bình hằng năm Nam Định cần trên 10 nghìn việc làm
mới. Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Nam Định giai đoạn 2006-2020 là
không ngừng cải thiện và nâng cao chất lượng dân số, nguồn nhân lực theo các giải
pháp nâng cao dân trí, mở rộng quy mơ đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của lực
24


lượng lao động. Đây cũng là nguồn lực quan trọng đối với phát triển du lịch Nam Định
trong thời kỳ hội nhập.
2.2.4. Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
2.2.4.1. Kết cấu hạ tầng
a.Giao thơng
Nam Định có hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, bao gồm đường bộ,
đường thuỷ, đường sắt phân bố hợp lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh.
 Đường bộ
Mạng lưới đường bộ tỉnh Nam Định đã được hình thành theo dạng đường

xuyên tâm, có đường vành đai. Các trục quốc lộ 10 và 21 đều đi qua trung tâm thành
phố Nam Định; các đường tỉnh hầu hết đều có hướng từ trung tâm thành phố toả ra các
huyện, thị, tạo thuận lợi cho việc phát triển du lịch của tỉnh.
 Đường thủy
Tổng chiều dài sông kênh của tỉnh Nam Định là 519km (khơng kể 1.130km
kênh nội đồng), trong đó trung ương quản lý 240km và địa phương quản lý 279km. Hệ
thống sông lớn cấp quốc gia như sông Đào, sông Ninh Cơ, sông Hồng, sông Đáy và
mạng lưới sông nội đồng tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa phục
vụ cho phát triển kinh tế. Ngồi ra cịn có kênh Quần Liêu nối sơng Ninh Cơ với sơng
Đáy. Vì vậy, Nam Định có nhiều thuận lợi trong việc sử dụng khai thác, vận chuyển
đường thủy - một loại hình vận tải giá rẻ và hiện đang hấp dẫn du khách.
 Đường sắt
Đường sắt Bắc Nam chạy qua địa bàn tỉnh Nam Định có chiều dài 42 km, với
6 ga hành khách và hàng hóa, đi qua các huyện Mỹ Lộc, thành phố Nam Định, Vụ
Bản, Ý Yên. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch Nam Định khi đón các
đồn tàu khách thực hiện các chương trình du lịch xuyên Việt bằng đường sắt.
b. Hệ thống cấp điện
Nam Định có hệ thống cấp điện khá hoàn thiện với mạng lưới điện cao thế, hạ
thế. Tồn tỉnh có 10 trạm biến áp 110 KV với 14 máy với tổng công suất là 410 MVA;
20 trạm trung gian 35 KV với 38 máy với tổng công suất 131,5 MVA; 2416 trạm phân
phối bao gồm 2465 máy với tổng cơng suất 721,673 MVA.. Nói chung, hệ thống điện
ở thành phố Nam Định đã được đầu tư, nâng cấp, đáp ứng tiêu chí của đơ thị loại I và
trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng. Chất lượng điện năng được nâng cao, sự
cố điện giảm. Nhờ vậy các khu, điểm du lịch trên địa bàn đều đã có điện lưới quốc gia
phục vụ nhu cầu kinh doanh, dịch vụ của các cơ sở kinh doanh du lịch phục vụ khách
du lịch được tốt hơn.
c. Cấp nước

25



×