Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Quyền của bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trong xét xử hình sự tại TAND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.24 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ LAN ANH

QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, NĂM 2019


Cơng trình được hồn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trương Hồ Hải

Phản biện 1: TS. Đàm Bích Hiên
Phản biện 2: GS.TSKH. Đào Trí Úc


Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành
chính Quốc gia.
Địa điểm: Phòng họp 204 .Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học
viện Hành chính Quốc gia.
Số 77 - Đường Nguyễn Chí Thành - Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội
Thời gian: vào hồi 14giờ00 ngày 13tháng12.năm 2019

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
Hoặc trên trang Webcủa Ban Quản lý Đào tạo Sau đại học,
Học viện Hành chính Quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trong thời gian vừa qua Đảng ta đã ban hành chiến lược về cải cách tư pháp
đến năm 2020. Thực hiện yêu cầu đó, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị đã thể hiện quan điểm đề cao vai trò của Tịa án trong q trình
xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) là bảo
đảm vị trí trung tâm của Tịa án trong hệ thống tư pháp, giữ vai trò trọng tâm của
hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự (TTHS) và thực hiện tranh tụng. Thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp, cùng với việc xác định Tòa án là cơ quan xét xử, thực
hiện quyền tư pháp, Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân
dân (TAND) là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người (QCN), quyền công dân,
bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân [39].
Tịa án là cơ quan có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ
quyền con người, quyền công dân và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Theo
hiến pháp quy định thì chỉ Tịa án thực hiện xét xử đưa ra phán quyết nhân
danh nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, có thẩm quyền coi một người là có
tội và phải chịu hình phạt, bảo đảm quyền quan trọng của bị cáo với tính cách

là QCN về dân sự. Trong tồn bộ q trình TTHS, phiên tịa xét xử là nơi thể
hiện tập trung và rõ nét bản chất hoạt động xét xử của Tịa án, quyết định tính
đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ QCN và bảo vệ pháp
chế XHCN.
Ở Việt Nam, trẻ em luôn được xác định là chủ nhân tương lai của đất
nước. Do đó, sau khi phê chuẩn Cơng ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em
năm 1989, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ quyền
của trẻ em trên nhiều phương diện, nhất là phương diện pháp lý. Nhà nước ta
đã thể chế hóa những cam kết quốc tế của mình vào nhiều lĩnh vực khác nhau
của pháp luật quốc gia, trong đó có lĩnh vực pháp luật TTHS. Trong pháp luật
TTHS, Nhà nước không chỉ quy định quyền của bị cáo là người chưa thành
niên, mà cịn quy định những bảo đảm để quyền đó được thực hiện đầy đủ.
Người chưa thành niên là nhóm người dễ bị tổn thương, khi tham gia vào


TTHS với tư cách là bị cáo họ đều có thể bị tác động ở mức độ nghiêm trọng
nhất định bởi các biện pháp điều tra và biện pháp cưỡng chế của TTHS. TTHS
là quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án nhưng cũng là quá trình mà
bị cáo là người chưa thành niên ln có nguy cơ bị tổn thương thêm lần nữa. Vì
thế, chỉ có thể bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong TTHS
khi các quyền này được pháp luật quy định và được hiện thực hóa bởi hoạt động
thực hiện pháp luật của những chủ thể có liên quan và sự bảo đảm chung của
Nhà nước và xã hội.
Bên cạnh những tư tưởng chỉ đạo, quan điểm nguyên tắc xử lý trách
nhiệm hình sự với người phạm tội chưa thành niên được quy định trong Bộ
luật Hình sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam cũng có
những quy định, ngun tắc riêng trong q trình điều tra, truy tố, xét xử đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 2/6/2002 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm của

cơng tác trong thời gian tới, ngày 27/11/2015 BLTTHS đã được thông qua
thay thế cho BLTTHS năm 2003.
Trong những năm qua, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng, đặc
biệt là tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự vẫn còn
diễn ra rất phức tạp. Trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng
trong những năm vừa qua xảy ra nhiều vụ án hình sự mà có bị cáo là người
dưới 18 tuổi. Trong quá trình THTT đặc biệt ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, viêc bảo đảm quyền của bị cáo tuy đã có những tiến bộ nhất định
nhưng vẫn cịn nhiều điểm khó khăn, tồn tại và bất cập. Trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền, quy định mới của Hiến pháp năm 2013 và hội
nhập quốc tế hiện nay, pháp luật TTHS cịn có những bất cập nhất định, việc
thực hiện cịn những hạn chế, thiếu sót cần có giải pháp khắc phục. Yêu cầu
cải cách tư pháp đòi hỏi khách quan phải tăng cường bảo đảm quyền trẻ em
trong lĩnh vực tư pháp hình sự trong đó có TTHS.
Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn vấn đề: Quyền của bị cáo là người
chưa thành niên phạm tội trong xét xử hình sự tại TAND huyện Thủy Nguyên,
thành phố Hải Phòng làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con người của bị cáo trong tố
tụng hình sự, đặc biệt là vai trị bảo đảm quyền con người của Tịa án đã có
rất nhiều cơng trình nghiên cứu tìm hiểu ở những mức độ khác nhau, có thể
kể đến như:
* Những cơng trình nghiên cứu trong nước.
- Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị cáo
trong TTHS Việt Nam” năm 2011 của tác giả Lại Văn Trình [46]. Cơng trình
ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học đã phân tích một cách tổng thể, chi tiết về
hoạt động bảo đảm quyền con người của những người bị buộc tội như người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Luận án cũng xác định được

các phương thức bảo đảm quyền của bị can, bị cáo cũng như đưa ra các giải
pháp nhằm tằng cường bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự trong đó có xác định vị trí, vai trị của Tịa án trong hoạt động
này.
- Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của tịa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam
hiện nay” năm 2017 của tác giả Võ Quốc Tuấn [49]. Trong luận án này tác
giả đã phân tích trực tiếp về hoạt động bảo đảm quyền con người của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, trong đó có xác định được vị trí, vai
trị của Tịa án trong bảo đảm quyền của bị cáo. Trong hoạt động này Tịa án
với tính chất là cơ quan xét xử sẽ tiến hành các phương thức, biện pháp để
bảo đảm thực hiện tốt quy định của pháp luật TTHS về bảo đảm quyền con
người của bị cáo.
- Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia “Bảo vệ QCN bằng pháp luật
hình sự và pháp luật TTHS trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam” - Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2006 [29]. Trong cơng
trình này, nhóm tác giả phân tích về hoạt động bảo đảm quyền con người nói
chung trong đó có nhóm quyền con người của bị can, bị cáo, người bị hại,
những người tham gia tố tụng khác. Như vậy, hoạt động bảo đảm quyền con
người của bị cáo chỉ là một phần đối tượng nghiên cứu mang tính chính thức
của đề tài. Trong chương 3 của đề tài nhóm tác giả đã phân tích về các giải


pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình
sự.
- Ngồi các cơng trình ở cấp độ là luận án, đề tài khoa học thì cịn có các
bài tạp chí “Bảo đảm quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm
giam trong TTHS Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn, Tạp chí Luật
học số 3/2011 [43]. Trong bài viết này tác giả đã phân tích về nội dung,
phương thức bảo đảm quyền con người của các chủ thể bị bắt, bị tạm giữ, bị

tạm giam trong tố tụng hình sự. Những chủ thể này bị áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự do đó có khả năng cao bị tác động tiêu cực
đến các quyền con người cơ bản của họ. Chính vì vậy, trong bài viết của
mình, tác giả cịn đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền
con người của người tạm giữ, người bị tạm giam…;
Bài viết, “Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo” của tác giả Phạm Hồng
Hải, Tạp chí Kiểm sát số 01/2009 [19]. Trong bài viết này, tác giả đã phân
tích về một nội dung có thể nói là quan trọng nhất, cơ bản nhất về quyền của
bị cáo đó là quyền bào chữa, nội dung của quyền này bao gồm quyền tự bào
chữa, quyền im lặng và quyền nhờ người bào chữa của bị cáo trong tố tụng
hình sự trong đó thể hiện tập trung nhất là tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự;
Bài viết “Bảo vệ QCN của người bị tạm giữ, bị cáo trong TTHS đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp” [48] của tác giả Trần Văn Độ, Tạp chí Khoa học
pháp lý số 6/2011. Bài viết của tác giả cũng đưa ra các phân tích về hoạt
động bảo vệ quyền con người của những đối tượng bị buộc tội trong tố tụng
hình sự như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Bài viết của tác giả Võ Quốc Tuấn (2015), “Bảo đảm QCN của bị cáo
trong hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7 [48]. Trong bài viết của mình tác, giả đã
đưa ra các phân tích về hoạt động bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
quá trình tranh luận để xác định sự thật khách quan của bị án hình sự. Qúa
trình tranh luận tại phiên tịa là q trình một quyền của bị cáo được bảo đảm
một cách cụ thể và chi tiết nhất đó là quyền bào chữa...


- Nhóm cơng trình thứ hai là các cơng trình nghiên cứu về hoạt động xét xử
vụ án hình sự là người chưa thành niên như:
- Tham luận "Những vướng mắc trong thực tiễn xét xử người chưa thành
niên (NCTN) phạm tội" [45] của Quách Hữu Thái tham luận tại hội thảo chuyên

đề của Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2013. Trong tham luận
của mình, tác giả đã đưa ra phân tích về những vướng mắc, trong quá trình xét xử
đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong nội dung tham luận, tác giả có đề
cập và phân tích về hoạt động bảo đảm quyền con người trong xét xử đối với các
bị cáo là người chưa thành niên.
- Luận án tiến sỹ "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp
luật TTHS Việt Nam" năm 2013 Học viện Khoa học Xã hội của Trần Hưng Bình
[2]. Trong luận án của mình, tác giả đã nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền của
người chưa thành niên trng tố tụng hình sự. Như vậy, luận án nghiên cứu về bảo
đảm quyền của người chưa thành niên trong các giai đoạn tố tụng và ở các tư
cách tố tụng khác nhau như người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo… Đề tài cũng
đưa ra các phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Luận văn thạc sĩ “Xét xử hình sự sơ thẩm đối với NCTN phạm tội từ thực
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” [50] năm 2016 Học viện Khoa học Xã hội của
Trương Hồng Tú. Đề tài phân tích về hoạt động xét xử sơ thẩm đối với các vụ án
mà bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn cụ thể là thành phố Hồ
Chí Minh. Trong đó tác giả cũng đã đề cập đến nội dung về bảo đảm quyền của
bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự.;
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu nước ngồi.
- Cuốn Human right and criminal procedure (tạm dịch : Quyền con người và
tố tụng hình sự) (2009) [27] của tác giả Jeremy McBride do Hội đồng Châu Âu
xuất bản với mục đích hỗ trợ các thẩm phán, công tố viên và luật sư trong việc
thực thi pháp luật chung Châu Âu về tố tụng hình sự đã đề cập nhiều đến QCN
trong tố tụng hình sự có minh chứng bằng những vụ án thực tế.
- A guide to juvenile court law (tạm dịch: Hướng dẫn thi hành luật xét xử
người chưa thành niên) [16] của tác giả Gilbert H.F.Mumford và T.J.Selwood
xuất bản năm 1974 tại London. Nội dung chủ yếu đề cập đến khái niệm NCTN



và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ 14 đến 17 tuổi. Tác giả đã dựa vào định
nghĩa của The Children and Young Persons Act của những năm 1933 và 1938 để
đưa ra khái niệm NCTN. Bên cạnh đó, tác giả cịn đề cập đến phiên tịa xét xử
NCTN phạm luật sẽ được tiến hành theo các hình thức như đưa ra xét xử giản
đơn như một cuộc thảo luận (chỉ có một thẩm phán tham gia) hay xét xử tại Tịa
án với sự có mặt của Bồi thẩm đoàn. Thành phần xét xử sẽ gồm 3 thẩm phán và
trong đó ít nhất phải có một người là nữ giới.
- Law of Juvenile Delinquency (tạm dich: Luật quy định các hành vi phạm
tội NCTN) [15] của tác giả Frederick B. Sussmann, A.B., M.S. in Ed., LL.B xuất
bản năm 1968 tại New York đề cập đến quy trình, thủ tục điều tra và xét xử đối
với NCTN phạm tội. Tuy nhiên, nhóm tác giả này chỉ mới nêu được khái quát
các thủ tục TTHS đối với vụ án hình sự tham gia của NCTN phạm tội mà chưa
chỉ ra được quy trình, thủ tục điều tra sẽ bắt đầu như thế nào.
- The guarantees for accused persons under Article 6 of the European
Convention on Human Rights (tạm dịch: Những quy định về bảo lãnh cho bị cáo
theo khoản 6 Công ước của Liên minh Châu Âu về Nhân quyền) [44] của tác giả
Stephanos Stavros, NXB Sweet & Maxwell, Anh quốc, năm 1993. Công ước
Châu Âu về nhân quyền, tên chính thức là Cơng ước bảo vệ nhân quyền và các
quyền tự do căn bản (Convention for the Protection of Human Rights and
Fundamental Freedoms). Điều 6 Công ước đưa ra quyền được xét xử cơng bằng
cách chi tiết, trong đó có quyền được xét xử cơng khai trước một tịa án độc lập
và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền được coi là vơ tội khi chưa có
phán quyết của tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với những người bị cáo
buộc một tội hình sự (đủ thời gian và các điều kiện để chuẩn bị việc biện hộ bảo
vệ họ, tiếp cận với đại diện pháp luật, quyền thẩm vấn các nhân chứng chống lại
họ, quyền được có thơng dịch viên miễn phí). Cơng trình phân tích một cách đầy
đủ về các vụ án cụ thể tại các quốc gia thành viên EU và sử dụng phép so sánh
giữa những vụ án được xét xử theo Công ước Châu Âu về nhân quyền với những
phán quyết được dựa trên sự áp dụng của các quốc gia thành viên. Tác giả đã kết
luận rằng Điều 6 đã được hiểu và vận dụng vào trong các luật quốc gia theo cách

khác hoàn toàn với những chuẩn mực được quy định trong Công ước. Vấn đề là


các quốc gia thành viên hiểu, vận dụng thế nào về những quy định của Công ước
phù hợp với truyền thống lập pháp của quốc gia mình.
- Criminal process and human rights (tạm dịch: Quá trình tố tụng hình sự và
các quyền con người) [28] của tập thể tác giả là các giáo sư, phó giáo sư của các
Trường Đại học Luật tại Melbourne: Jeremy Gans, Terese Henning, Jill Hunter
và Kate Wamer, NXB New South Wales, Australia, 2011. Nội dung bàn về vấn
đề thực thi quyền con người tại Australia đặc biệt là trong quá trình TTHS phải
đảm bảo các quyền tự do của con người trong bắt giữ, giam giữ, xét xử; quyền
được giữ im lặng; quyền được xét xử một cách cơng bằng.
Như vậy, có thể thấy, vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung và bảo
đảm quyền con người của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự nói riêng
ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập
đến. Tuy nhiên các cơng trình này là những cơng trình nghiên cứu đề cập
những nội dung khác nhau, ở những khía cạnh chung về vấn đề đảm bảo
quyền của các bị cáo là chủ thể bị buộc tội nói chung trong TTHS Việt Nam.
Các cơng trình này đề được công bố trước khi BLTTHS năm 2015 được ban
hành và không nghiên cứu thực trạng thực hiện tại một địa phương nhất định là
huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phịng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề về lý luận và
thực tiễn về quyền của bị cáo là NCTN tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự
thơng qua đó tìm ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện
BLTTHS, đồng thời tìm ra những hạn chế, bất cập, chưa hoàn thiện trong
BLTTHS mới ban hành năm 2015, và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả áp dụng BLTTHS năm 2015 nhằm bảo đảm thực
hiện đầy đủ các quyền của, bị cáo là NCTN trong TTHS ở Việt Nam hiện

nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:


- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về quyền của bị
cáo là NCTN trong TTHS như khái niệm quyền của bị cáo là người chưa
thành niên, các đặc điểm của quyền bị cáo là người chưa thành niên; khái
quát hóa vấn đề bảo đảm quyền của NCTN trong TTHS Việt Nam như khái
niệm, đặc điểm, nội dung của bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành
niên.
- Đánh giá việc áp dụng BLTTHS trong thời gian qua, làm sáng tỏ những
bất cập, hạn chế của BLTTHS năm 2015 về quyền của bị cáo là NCTN trên
địa bàn huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng
- Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hồn thiện hơn
nữa BLTTHS năm 2015 và tăng cường hiệu quả áp dụng BLTTHS trong thực
tiễn Việt Nam nói chung và huyện Thuỷ Ngun, thành phố Hải Phịng nói
riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, các quy định
của pháp luật TTHS Việt Nam về quyền của bị cáo là người chưa thành niên
và thực tiễn thực hiện tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện
hành về quyền của bị cáo dưới góc độ TTHS Việt Nam.
- Về thực tiễn: Luận văn nghiên cứu hoạt động áp dụng các quy định của
pháp luật về quyền của bị cáo tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng
trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018.

- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
2015 và thực tiễn trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giai
đoạn từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành Luận văn và giải quyết được các yêu cầu đề ra Luận văn
được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác - Lê nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, đường
lối, quan điểm của Đảng ta về bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm quyền


của bị cáo là NCTN nói riêng tại Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị
ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Việc thực hiện luận văn còn dựa vào thực tiễn xét xử, những tổng kết, đánh
giá của ngành Tòa án, những số liệu thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức
cán bộ... để kiến nghị, đề xuất có cơ sở thực tiễn tại huyện Thuỷ Nguyên, thành
phố Hải Phòng. Ngoài ra, tác giả dùng phương pháp nghiên cứu so sánh,
phương pháp tổng hợp, tiếp cận hệ thống, lịch sử, thống kê để hoàn thành luận
văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần làm phong phú hơn và hồn thiện hơn cơ sở lý luận về
quyền của bị cáo là người chưa thành niên, bảo đảm quyền của bị cáo là
người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự như khái niệm, nội dung và
các phương báo bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu thực tiễn hoạt động bảo đảm quyền của bị cáo là người
chưa thành niên trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đồng
thời đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người

của bị cáo là người chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo trong thực tiễn
công tác của các cán bộ Tòa án, Viện kiểm sát, Luật sư đồng thời có thể là tài
liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu luật học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền của bị cáo là người chưa thành niên
trong xét xử hình sự của Tịa án nhân dân cấp huyện


Chương 2: Thực trạng quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong
xét xử hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố
Hải Phòng
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của bị cáo là người
chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tịa án nhân dân huyện Thủy
Ngun, thành phố Hải Phòng


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƯỜI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị cáo là người chưa thành
niên trong xét xử vụ án hình sự của Tịa án nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét
xử hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
Trước khi xác định khái niệm quyền của bị cáo là người chưa thành
niên chúng ta cần tìm hiểu khái niệm về bị cáo là người chưa thành niên
phạm tội trong TTHS.

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về người phạm tội chưa
thành niên như sau: Dưới góc độ TTHS, người phạm tội chưa thành niên là
người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi bị Tòa án quyết định đưa
ra xét xử.
Bị cáo chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 đến chưa thành
niên đã bị VKS truy tố bằng bản cáo trạng ra trước Tòa án và Tòa án quyết
định đưa ra xét xử.
Quyền của bị cáo là người chưa thành niên là những điều mà pháp luật
quy định cho người từ đủ 14 đến chưa thành niên bị Tòa án quyết định đưa ra
xét xử được hưởng, được làm, được đòi hỏi khi tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.1.2. Đặc điểm của quyền bị cáo là người chưa thành niên trong xét
xử hình sự của tịa án nhân dân cấp huyện
Thứ nhất, do bị cáo là người chưa thành niên, có đặc điểm tâm sinh lý đặc
thù nên hệ thống quyền của bị cáo là người chưa thành niên có những nét đặc thù
hơn so với quyền của người đã thành niên.
Thứ hai, với những đặc điểm tâm sinh lý nêu trên nên bị cáo chưa thành
niên chưa có năng lực đầy đủ để có thể tự bảo vệ lợi ích của mình trước sự
buộc tội của Nhà nước chính vì vậy, bị cáo là người chưa thành niên có
những nét đặc trưng là quyền bào chữa của họ cần được bảo đảm một cách
chặt chẽ.


Thứ ba, quyền của bị cáo là người chưa thành niên là đối tượng đặc biệt,
cần có những quy định riêng, cần được bảo vệ đặc biệt bằng một thủ tục tố
tụng thân thiện với họ.
Thứ tư, quyền của bị cáo là người chưa thành niên cần được bảo vệ chặt
chẽ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.1.3. Quy định của pháp luật về quyền của bị cáo là người chưa thành
niên trong xét xử vụ án hình sự

a. Những quyền chung của bị cáo là người chưa thành niên
- Được giải thích về quyền và nghĩa vụ:
- Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá và đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của BLTTHS:
b. Quyền bào chữa của bị cáo chưa thành niên
- Quyền tự bào chữa
- Quyền nhờ NBC của bị cáo chưa thành niên
c. Những quyền khác của bị cáo
- Được nhận các quyết định theo quy định của BLTTHS như quyết định
đưa vụ án ra xét xử; bản án, quyết định của Toà án:
- Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tồ; nói lời
sau cùng trước khi nghị án:
- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án
1.2. Những vấn đề chung về bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa
thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tịa án nhân dân cấp huyện
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên
trong xét xử vụ án hình sự của Tịa án nhân dân cấp huyện
Bị cáo chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi đã
bị VKS truy tố bằng bản cáo trạng ra trước Tòa án và Tòa án quyết định đưa ra
xét xử.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN là
những hoạt động, những công việc tạo ra những điều kiện, tiền đề cần thiết


làm cho quyền của bị cáo là NCTN tham gia TTHS được có đầy đủ, để cho
quyền đó có tính hiện thực và khơng mang tính hình thức.
Từ khái niệm bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN thể hiện hai đặc điểm

sau đây:
Thứ nhất, Chủ thể bảo đảm
Bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN xuất phát từ yêu cầu bảo vệ QCN nói
chung. Vấn đề bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN thực chất là vấn đề các yếu
tố bảo đảm tính hiện thực của quyền đã được pháp luật thừa nhận.
Qua phân tích, chúng tơi có thể đưa ra khái niệm bảo đảm quyền của bị
cáo là NCTN như sau: Bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN là hoạt động
của nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân trong việc
xây dựng các quy phạm pháp luật và thực hiện pháp luật trên cơ sở những
bảo đảm chung cho QCN nhằm mục đích bảo vệ các quyền của bị cáo là
NCTN và thực thi chúng trong cuộc sống.
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên
trong xét xử vụ án hình sự của Tịa án nhân dân cấp huyện
1.2.2.1. Những bảo đảm về kinh tế xã hội
Bảo đảm kinh tế cho việc thực hiện QCN là việc tạo ra tiền đề vật chất để
quyền đó thực hiện.
Như vậy, bảo đảm về chính trị, kinh tế, xã hội là điều kiện cần nhưng
chưa đủ để tạo ra một môi trường xã hội cho QCN được thực hiện mà cần
phải có bảo đảm về mặt pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm
QCN, đồng thời bảo đảm về mặt pháp lý có ý nghĩa trực tiếp trong việc thực
hiện trên thực tế. Sự phân định các thành tố trong việc bảo đảm chỉ là tương
đối vì các bảo đảm đều thể hiện qua hình thức pháp lý.
1.2.2.2. Bảo đảm về hệ thống pháp luật
Ở Việt Nam, QCN là các giá trị đối với những thành quả cách mạng đã
đạt được trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã được quy định bằng pháp luật
thành các quyền và nghĩa vụ của cơng dân.
Tóm lại, xây dựng và khơng ngừng hoàn thiện hệ thống các quy phạm
pháp luật về QCN nói chung và quy phạm pháp luật về QCN trong TTHS là



cơ sở pháp lý quan trọng nhất để từ đó tổ chức thực hiện các đảm bảo khác về
QCN nói chung và quyền của bị cáo là NCTN trong TTHS nói riêng.
1.2.2.3. Bảo đảm về tổ chức hoạt động
Để đáp ứng những yêu cầu đang đặt ra của công cuộc đổi mới toàn diện
ở nước ta, cùng với việc phải cải cách bộ máy nhà nước như là một nhiệm vụ
trọng tâm thì phải xây dựng và hồn thiện các thiết chế về tổ chức, hoạt động
của các cơ quan tư pháp để các cơ quan này hoạt động đúng chức năng, thẩm
quyền, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một tất yếu.
1.2.3. Vai trò của bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên
trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
Quy định quyền của một chủ thể trong pháp luật TTHS giúp phân biệt chủ
thể này với chủ thể khác, đồng thời xác định vị trí và tầm quan trọng của chủ thể
đó trong mối quan hệ pháp luật và có vai trị quan trọng về cả chính trị, xã hội và
pháp lý.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 của luận văn học viên phân tích về những vấn đề lý luận
chung về quyền của bị cáo là người chưa thành niên và bảo đảm quyền của bị
cáo là người chưa thành niên. Trong đó nội dung của chương 1 gồm:
Thứ nhất, phân tích khái niệm về người chưa thành niên, bị cáo là người
chưa thành niên và quyền của bị cáo là người chưa thành niên.
Thứ hai, vấn đề bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên.
Thứ ba, các yếu tố ảnh hưởng tới bảo đảm quyền của bị cáo là người
chưa thành niên là việc bảo đảm đầy đủ các yếu tố chính trị - xã hội, yếu tố
pháp lý, yếu tố cơ sở vật chất.


Chương 2
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỊA ÁN NHÂN

DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên
trong xét xử vụ án hình sự tại Tịa án nhân dân huyện Thủy Nguyên
thành phố Hải Phòng
2.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thự trạng bảo đảm quyền của bị cáo
là người chưa thành niên trong xét xử hình sự tại Tịa án nhân dân huyện
Thuỷ Ngun thành phố Hải Phịng
Yếu tố thứ nhất, đặc điểm tình hình tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
Theo số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2014 đến năm 2018 tồn huyện
Thuỷ Ngun, thành phố Hải Phịng đưa ra xét xử 522 vụ/678 bị cáo. Trong
đó có 88 vụ/ 115 bị cáo là người chưa thành niên (chiếm tỉ lệ 1.9% tổng số vụ
án và 1.7% bị cáo). Kết quả xét xử các vụ án có người chưa thành niên tại
huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đạt được như sau:
Bảng 2.1. Số người dưới 18 tuổi phạm tội bị đưa ra xét xử tại Tòa án
nhân dân huyện Thuỷ Nguyên trong 5 năm 2014 – 2018
Năm

Số người dưới 18 tuổi bị đưa ra xét xử

2014

19

2015

22

2016


23

2017

25

2018

26

Tổng
115
Nguồn: Báo cáo tổng kết cơng tác năm 2014 đến năm 2018 của Tịa án
nhân dân huyện Thủy Nguyên [47]


Số liệu trên có thể được thể hiện qua sơ đồ sau.
30
25
20
15
10
5
0
2014

2015

2016


2017

2018

Yếu tố ảnh hưởng thứ hai tới việc bảo đảm quyền của bị cáo là người
chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự là tình hình tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân huyện Thủy Ngun.
Tịa án nhân dân huyện Thủy Ngun có 32 cán bộ, cơng chức, người lao
động trong đó có 01 Chánh án, 03 Phó Chánh án, 01 Chánh Văn phịng, 01
Phó Chánh Văn phòng, 07 Thẩm phán, 01 Thẩm tra viên, 11 Thư ký, 01 Kế
toán; 01 chuyên viên đánh máy, 02 bảo vệ, 02 tạp vụ và 01 lái xe.
2.1.2. Những kết quả đạt được trong bảo đảm quyền của bị cáo là
người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự tại Tịa án nhân dân
huyện Thủy Ngun thành phố Hải Phòng và nguyên nhân
* Những kết quả chung
Trong giai đoạn xét xử đối với các vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội
ở huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phịng trong những năm vừa qua có
thể thấy thơng qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2. Tình hình xét xử vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18
tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên trong 5 năm
2014 – 2018
Năm

Số người dưới
18 tuổi bị đưa
ra xét xử
19
2014
22
2015

23
2016
25
2017
26
2018
Tổng
115

Số vụ trả hồ sơ

Số vụ đình
chỉ

Số vụ có kháng
cáo/kháng nghị

0
1
2
1
0
4

1
1
0
0
2
4


3
2
5
3
3
16


Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2014 đến năm 2018 của Tòa án
nhân dân huyện Thủy Nguyên [47]
* Hoạt động đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành
niên tại Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Ngun, thành phố Hải Phịng.
Phân tích trên là một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc phạm tội của
người chưa thành niên, do đó, muốn hạn chế tình hình tội phạm ở độ tuổi này
cần phải giải quyết triệt để các nguyên nhân trên và đòi hỏi sự quan tâm của
tồn xã hội.
- Trước khi mở phiên tịa:
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án chuẩn bị cho việc mở phiên tòa. Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa đã phân loại được bị cáo là người chưa thành niên và đã
giải thích pháp luật cho bị cáo cũng như người thân của bị cáo về quyền tự
bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa.
Bảng 2.3. Số vụ án có người bào chữa tham gia tại Tòa án nhân dân
huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giai đoạn từ 2014 - 2018
Năm

Số người dưới 18 tuổi
Số vụ án bị cáo có
Số vụ án mà chỉ định
bị đưa ra xét xử

thuê luật sư bào chữa
người bào chữa

2014

19

5

14

2015

22

8

14

2016

23

11

12

2017

25


5

20

2018

26

14

12

Tổng

115

43

72

Nguồn: Báo cáo tổng kết cơng tác năm 2014 đến năm 2018 của Tịa án
nhân dân huyện Thủy Nguyên [47]
BIỂU ĐỒ VỀ SỐ VỤ ÁN CÓ NGƯỜI
BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN
50
0
2014


2015
Số vụ xét xử ND18T
Số vụ chỉ định NBC

2016

2017
Số vụ có thuê luật sư

2018


Như vậy, qua bảng số liệu trên cho thấy trong 115 vụ án có người chưa
thành niên là bị cáo thì có 43 bị cáo là người chưa thành niên được thuê luật sư
là người bào chữa, còn 72 vụ án được Tòa án chỉ định người bào chữa theo
đúng u cầu của BLTTHS, và khơng có trường hợp nào từ chối người bào
chữa. Như vậy, quyền bào chữa của người chưa thành niên là bị cáo trong xét
xử vụ án hình sự đã được TAND huyện Thủy Nguyên đảm bảo theo đúng yêu
cầu của BLTTHS.
- Trong phiên tòa
HĐXX đã đảm bảo sự có mặt của bị cáo, đại diện hợp pháp của họ (đối
với bị cáo chưa thành niên, có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất).
Trường hợp vắng mặt bị cáo, NBC, đại diện hợp pháp của bị cáo là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, HĐXX đều
hỗn phiên tịa để xét xử vào một ngày khác, ít khi thực hiện việc xét xử vắng
mặt bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo và NBC.
* Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Một là, hiện nay về cơ bản các văn bản pháp luật có liên quan đến trình
tự, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên đã được Quốc hội và các cơ
quan hữu quan mới sửa đổi bổ sung

Hai là, về mặt nhận thức của lãnh đạo Tòa án và các Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân Tịa án Thủy Ngun trong cơng tác xét xử vụ án hình sự đối
với người chưa thành niên phạm tội có thể thấy trong thời gian qua đã có tiến
bộ vượt bậc.
Ba là, quan hệ phối hợp của TAND với các cơ quan THTT khác tại
huyện Thủy Nguyên và việc chỉ đạo, điều hành trong công tác xét xử vụ án
hình sự có người chưa thành niên phạm tội của TAND thành phố Hải Phòng
đã được tăng cường.
Bốn là, về cơ bản cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho TAND huyện
Thủy Nguyên đã được tăng cường.
2.2. Những hạn chế trong bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa
thành niên trong xét xử vụ án hình sự tại Tịa án nhân dân huyện Thủy
Ngun, thành phố Hải Phòng và nguyên nhân
Một là, quyền bào chữa của bị cáo chưa được đảm bảo.


Hai là, việc thực hiện quyền tranh luận tại phiên tòa chưa được đảm bảo
một cách hiệu quả.
Thứ ba, những hạn chế trong quy định của pháp luật. cụ thể là:
Thứ nhất, một trong những yêu cầu rất quan trọng góp phần giải quyết có
hiệu quả các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên thực hiện, đó là điều
tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán THTT đối với người chưa thành niên phạm
tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo
dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa
thành niên.
Thứ hai, quy định về quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC bắt buộc
theo điểm b khoản 2 Điều 75 Bộ luật TTHS còn chưa cụ thể, rõ ràng.
Thứ ba, quy định về người đại diện hợp pháp của bị cáo là người chưa
thành niên còn chưa rõ ràng.
Thứ tư, quy định về trường hợp cần thiết phải có mặt của đại diện gia đình

bị can trong khi hỏi cung tại CQĐT còn chưa hợp lý
Thứ năm, quy định việc quyết định xét xử kín đối với bị cáo là người
chưa thành niên tại khoản 1 Điều 423 Bộ luật TTHS cũng chưa rõ ràng. “
Thứ tư, những hạn chế tồn tại trong áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền
của bị cáo chưa thành niên.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 của luận văn, tác giả phân tích về các yếu tố ảnh hưởng
và thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên ở huyện
Thủy Nguyên, thành phố Hải Phịng trong giai đoạn vừa qua.
Theo đó, quyền của bị cáo là người chưa thành niên bị ảnh hưởng bởi các
yếu tố như: hệ thống quy định về địa vị tố tụng của bị cáo, đặc biệt là bị cáo
là người chưa thành niên; quy định về trình tự, thủ tục xác định quyền của bị
cáo là người chưa thành niên.
Hai là thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên ở
huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phịng.
Ba là, các hạn chế này đều có những nguyên nhân nhất định,nguyên nhân
có thể đến từ hệ thống pháp luật bất cập, cũng như các nội dung khác về tổ
chức và hoạt động.


Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TỊA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUN, THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG
3.1. Các quan điểm về bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa
thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tịa án nhân dân huyện Thủy
Nguyên
3.1.1. Bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét
xử vụ án hình sự phải quán triệt yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp

trong giai đoạn hiện nay
TTHS là hoạt động đặc thù của nhà nước nhằm phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội với địi hỏi bảo đảm tính cơng bằng của pháp
luật; bảo đảm QCN, quyền cơng dân trong q trình giải quyết vụ án hình sự
ngày càng cao.
3.1.2. Bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét
xử vụ án hình sự phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cơ bản của tố
tụng hình sự Việt Nam
Cùng với việc ghi nhận bảo đảm quyền của bị cáo chưa thành niên là
nguyên tắc cơ bản trong TTHS, Bộ luật TTHS năm 2013 đã có nhiều quy
định nhằm bảo đảm nguyên tắc được thực hiện một cách có hiệu quả nhất.
3.1.3. Bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét
xử vụ án hình sự phải đề cao hiệu quả phịng ngừa và tính hướng thiện
trong việc xử lý người phạm tội là người chưa thành niên
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đã đưa ra chủ trương hồn thiện chính sách hình sự theo
hướng đề cao tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Ở góc độ
TTHS, chủ trương đó cho đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện thủ tục TTHS đối với
người phạm tội dưới 18 tuổi theo hướng bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ trong
hoạt động tố tụng nói chung và trong hoạt động xét xử nói riêng.
3.1.4. Bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét
xử vụ án hình sự phải đáp ứng được yêu cầu của pháp luật quốc tế
Luật pháp và chính sách về người chưa thành niên khơng phải là bất biến.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc một quốc gia ứng xử như thế nào với


trẻ em gặp khó khăn. Những nhân tố này bao gồm sự thay đổi về tình hình nhân
khẩu, các cấu trúc gia đình mới, sự thay đổi về kinh tế và chính trị, các phát
minh khoa học, tiến bộ kỹ thuật, và những trải nghiệm trước đó. Mặc dù mỗi hệ

thống pháp luật đều vận hành và thay đổi theo nhiều hướng khác nhau nhưng
chúng ta vẫn có thể tìm thấy một số xu hướng xuất hiện trên tất cả các hệ thống
này.
3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành
niên trong xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn tại Tịa án nhân dân huyện
Thủy Ngun, thành phố Hải Phịng
3.2.1. Hồn thiện pháp luật về quyền của bị cáo là người chưa thành
niên trong xét xử vụ án hình sự
Qua sự phân tích các quy định của Bộ luật TTHS 2015, các văn bản pháp
luật khác có liên quan và thực tiễn áp dụng các quy định này đã khắc họa rõ
nét quyền của của bị cáo là người chưa thành niên trong TTHS. Lịch sử
TTHS Việt Nam hơn 50 năm qua đã ghi nhận, khẳng định và ngày càng bảo
đảm quyền của bị cáo nói chung trong TTHS, trong đó, quyền của người
chưa thành niên phạm tội được đặc biệt coi trọng.
Thứ nhất, về điều tra, truy tố và xét xử. Chúng ta cần phải có những hoạt
động hệ thống, củng cố lại các quy phạm pháp luật và cơ chế thực hiện quyền
của bị cáo là người chưa thành niên đang tồn tại để phát hiện những cản trở,
thiếu sót đang tồn tại mà tìm ra giải pháp khắc phục kịp thời, như xác định
những văn bản pháp luật hiện hành trong đó có quy định những thủ tục, quy
trình tố tụng
- Trên thực tế, phần lớn người THTT đối với trường hợp bị cáo là người
chưa thành niên cịn có những điểm chưa đáp ứng.
- Về việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội.
Tại Điều 420 Bộ luật TTHS có sử dụng cụm từ “đại diện của gia đình”.
Trên cơ sở những phân tích trên, chúng tơi kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Điều 420 như sau:
“1. Đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị cáo; thầy giáo, cô giáo,
đại diện của nhà trường, Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức
khác nơi người bị bắt, tạm giữ, bị cáo học tập, lao động và sinh sống có
quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của CQĐT, Viện kiểm

sát, Tòa án.


2. Việc lấy lời khai, hỏi cung bị can tại CQĐT bắt buộc phải có mặt đại
diện hợp pháp của người chưa thành niên, trừ trường hợp đại diện hợp pháp
cố tình vắng mặt mà khơng có lý do chính đáng. Đại diện hợp pháp có thể hỏi
người bị tạm giữ, bị can, nếu Điều tra viên không đồng ý phải ghi rõ lý do
vào biên bản; được quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ
sơ vụ án khi kết thúc việc điều tra.
3. Khi Tòa án xét xử bị cáo là người chưa thành niên bắt buộc phải có mặt
đại diện hợp pháp của bị cáo, trừ trường hợp đại diện hợp pháp cố ý vắng mặt
mà khơng có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức. Đại diện hợp
pháp của bị cáo, đại diện của nhà trường và các tổ chức tham gia phiên tịa có
quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người THTT; tham
gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền
THTT và các quyết định của Tịa án”.
Thứ hai, về trình tự, thủ tục tham gia tố tụng của NBC. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như nhằm bảo đảm quyền của
bị cáo nói chung, có thể nói rằng, Bộ luật TTHS 2015 và Luật Luật sư đã tạo ra
một cơ chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh bảo đảm việc tham gia tố tụng của
NBC một cách thực chất và hiệu quả hơn.
3.2.2. Giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Tòa án, nhất
là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân huyện Thủy
Ngun, thành phố Hải Phịng
Thứ nhất: Ngồi việc đổi mới hệ thống ngành Tịa án thì Tịa án nhân dân
huyện Thủy Nguyên cần phải xem xét lựa chọn đội ngũ cán bộ Tòa án, đặc
biệt là Thẩm phán đủ về số lượng, có đức, có tài và có tâm huyết với nghề, có
năng lực trình độ phục vụ theo trách nhiệm vụ được giao.
Thứ hai: Tiêu chuẩn tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán là người có phẩm
chất đạo đức, trình độ, kinh nghiệm nghề nghiệp và năng lực thực tiễn, hiểu

biết rộng và khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống và
phải cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, tận tụy phục vụ nhân dân; bên cạnh
đó cũng phải chú ý đến cả sức khỏe, ngoại hình, tính cách, phong cách ứng
xử, năng lực sở trường công tác của người Thẩm phán và phải có bản lĩnh,
dũng cảm chống lại những cám dỗ vật chất, vượt qua những hành vi cản trở,
bao che, can thiệp, đe dọa để bảo vệ pháp luật vì công bằng xã hội.
Thứ ba: Hiện nay, hầu hết lực lượng Thẩm phán TAND đều có trình độ
cử nhân luật nhưng khoảng 70% Thẩm phán đương nhiệm không được đào


tạo cử nhân luật chính quy, nên muốn nâng cao chất lượng xét xử đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế góp phần vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thì ngồi trình độ cử nhân luật cần phải có học hàm học
vị cao hơn (thạc sĩ, tiến sĩ luật...), có kiến thức về kinh tế, văn hóa, trình độ
ngoại ngữ, tin học thơng thạo và trình độ lý luận chính trị chun sâu.
Thứ tư: Để việc xét xử của Thẩm phán đạt hiệu quả cao hơn trong giai
đoạn hiện nay, tránh tình trạng văn bản này chồng chéo với văn bản kia làm
cho Thẩm phán không biết áp dụng văn bản nào để xét xử cho đúng thì hệ
thống pháp luật, văn bản luật, pháp lệnh, văn bản hướng dẫn thi hành phải
đồng bộ, đủ để điều chỉnh mọi lĩnh vực đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại. Nội dung văn bản quy phạm phải đảm
bảo tính thứ bậc đồng bộ thống nhất và minh bạch.
Thứ năm: Để đảm bảo pháp lý cao trong việc xây dựng đội ngũ Thẩm
phán chính quy tinh nhuệ, hiện đại cần nghiên cứu ’’nâng cấp Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm TAND huyện Thủy Nguyên hiện hành thành ’’Luật
Thẩm phán’’ nhằm nâng cao hơn nữa vị trí, vai trị cũng như trách nhiệm của
đội ngũ Thẩm phán trong hoạt động xét xử, đảm bảo tốt hơn các điều kiện
tiêu chuẩn, cũng như các trình tự tuyển chọn, bổ nhiệm miễn nhiệm cách
chức, điều động biệt phái, thống nhất hóa việc quy định các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của Thẩm phán hiện đang được quy định rải rác ở các văn bản

pháp luật khác.
3.2.3. Giải pháp về tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ luật sư,
người bào chữa trong hoạt động xét xử án hình sự tại huyện Thủy
Nguyên, thành phố Hải Phòng
Luật sư, NBC là người cùng với các cơ quan THTT góp phần vào q
trình xây dựng và phát triển xã hội, bảo vệ dân chủ và công bằng. Với tư cách
là một chức danh tư pháp tham gia độc lập vào đời sống xã hội và tố tụng tư
pháp, luật sư đóng vai trị ngày càng quan trọng trong các thiết chế dân chủ ở
nước ta.
3.2.4. Giải pháp về đảm bảo chính sách, chế độ đối với cán bộ Tòa án
và cơ sở vật chất tạo điều kiện cho cán bộ Tòa án hoạt động xét xử án hình
sự tại huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phịng
Cơng tác xét xử là một nghề nghiệp đặc biệt. Chỉ có Thẩm phán và
HTND mới được Nhà nước giao cho trọng trách nhân danh Nhà nước tiến


×