Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật hành chính: Mô hình tổ chức của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.61 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN CƠNG KHANH

MƠ HÌNH TỔ CHỨC CỦA THỪA PHÁT LẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – NĂM 2019


Cơng trình được hồn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quang Thái

Phản biện 1: PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh, Học viện Hành chính Quốc gia

Phản biện 2: TS. Đinh Văn Minh, Thanh tra Chính phủ

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính


Quốc gia
Địa điểm: Phịng họp 204, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học
viện Hành chính Quốc gia
Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa – TP Hà Nội
Thời gian: vào hồi 17 giờ ngày 12 tháng 12 năm 2019

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mơ hình tổ chức Thừa phát lại (TPL) có vai trị đặc biệt quan trọng đối với
toàn bộ các hoạt động của TPL, đánh giá mơ hình tổ chức TPL giúp làm sáng tỏ
cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện, đặc điểm tình hình TPL. Tại Việt Nam, Thừa
phát lại tồn tại từ thời kỳ Pháp thuộc, khi đó thực dân Pháp đã áp dụng ngun
mơ hình Thừa phát lại của nước Pháp ở nước ta, mơ hình này đã tồn tại trong
suốt thời kỳ Pháp thuộc và dưới chế độ Ngụy quyền Sài Gịn cho đến khi đất
nước ta hồn tồn giải phóng năm 1975. Sau năm 1975, để phù hợp với công
cuộc xây dựng đất nước, Đảng ta không tiếp tục duy trì Thừa phát lại nữa.
Nhận thức được tầm quan trọng TPL trong quá khứ và yêu cầu cải cách tư
pháp, hoàn thiện định pháp luật nhằm đáp ứng cho công cuộc hội nhập quốc tế và
khu vực. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phải cải cách và đổi mới một cách mạnh
mẽ công tác tổ chức TPL. Thông qua hoạt động thừa phát lại, người dân có thể chủ
động hơn trong các hoạt động dân sự, tố tụng dân sự, hành chính, giúp người dân
có sự lựa chọn trong hoạt động thi hành án, hạn chế tiêu cực và tính độc quyền của
hoạt động này.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu và tìm hiểu về mơ hình tổ chức TPL ở Việt Nam hiện nay,
tác giả nhận thấy vấn đề này đã được một số cơ quan, nhà làm luật ở trong nước

quan tâm, dành thời gian nghiên cứu, như một các tác phẩm sau:
- Nguyễn Văn Nghĩa (2006), “Chế định TPL: Lịch sử ra đời và đổi mới
theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí dân chủ và pháp luật – Bộ tư pháp.
- Nguyễn Đức Chính (1998), Cơ sở lý luận và thực tiễn chế định TPL, Đề
tài nghiên cứu cấp Bộ.
- Nguyễn Cơng Bình (2012), “Xu hướng xã hội hóa THADS từ việc thí
điểm hoạt động TPL tại thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí dân chủ và pháp luật
– Bộ Tư pháp.

1


- Nguyễn Thị Thìn (2018), Thực hiện pháp luật về TPL ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lí luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
- Phạm Phúc Thịnh (2014), TPL trong THADS, Luận văn thạc sỹ luật học.
- Phạm Phúc Thịnh (2014), Hoạt động của tổ chức TPL, Luận văn tốt
nghiệp cử nhân Luật.
- Lê Xuân Hồng (2011), “Từ nhu cầu cầu xã hội đến chủ trương và kết quả
bước đầu của việc thực hiện thí điểm TPL”, Tạp chí dân chủ và pháp luật – Bộ
tư pháp.
Ngồi ra, cịn một số cơng trình nghiên cứu khác đã được công bố trên
sách, báo, tạp chí như tạp chí nhà nước và pháp luật, tạp chí dân chủ và pháp
luật, tạp chí luật học, diễn đàn luật học như:
- Huỳnh Đức Thái Lâm Hoàng (2018), “Giải pháp hoàn thiện pháp luật về
thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí tài chính Việt Nam.
- Bùi Mến, H Giang (2015), “Tổng kết thí điểm chế định thừa phát lại trên
địa bàn Hà Nội”, Báo pháp luật Việt Nam.
- Hà Phương Thảo (2015), “TP.HCM: Nhiều hiệu quả từ mơ hình Thừa
phát lại sau 5 năm thí điểm”, Báo pháp luật Việt Nam.
- Trần Thị Quang Hồng, Đinh Cơng Tuấn (2019), “Cần nhất qn trong xã

hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự”, Báo nhân dân.
- Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, “Phát triển nghề thừa phát lại theo định
hướng xã hội hóa các lĩnh vực bổ trợ tư pháp”, Báo thế giới luật.
- Chu Văn Khanh Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, “Giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động thừa phát lại”, Báo thế giới luật.
- Ái Nhân - Mai Hoa (2018), “Miễn nhiệm thừa phát lại sai phạm gây khiếu
kiện phức tạp”, Báo tuổi trẻ online.
- Phạm Dũng (2014), “Chấn chỉnh nhiều sai phạm của thừa phát lại”, Báo
người lao động.
- Thảo Mộc (2017), “Quy định xử phạt vi phạm về thừa phát lại Tránh hành
chính hóa vi phạm”, Báo người bảo vệ quyền lợi.
2


- Kim Phụng (2018), “Thừa phát lại, biết sai nhưng không phạt được”, Báo
pháp luật TP.HCM.
- Nguyễn Thị Vân Anh (2018), “Tình hình tổ chức và hoạt động Thừa phát
lại trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2017”, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.
Những cơng trình, nghiên cứu, những bài viết trên các báo, tạp chí đã
nghiên cứu ở những góc độ, khía cạnh khác nhau về mơ hình tổ chức, hoạt động
của TPL nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nào đi sâu vào nghiên cứu mơ
hình tổ chức của TPL ở Việt Nam, từ góc độ nghiên cứu, tiếp cận chuyên ngành
lí luận hành chính, hiến pháp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Phân tích, tổng kết một số vấn đề có tính lí luận về mơ hình tổ chức TPL ở
Việt Nam hiện nay, qua đó phân tích đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp
nhằm hoàn thiện về thể chế, quản lý nhà nước đối với tổ chức mơ hình TPL
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Luận văn phân tích đánh giá làm sáng tỏ mơ hình tổ chức TPL ở Việt
Nam hiện nay.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng mơ hình tổ chức TPL ở Việt Nam
hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm hồn thiện mơ hình tổ chức
TPL ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mơ hình tổ chức TPL ở Việt Nam hiện
nay và thực hiện việc tổ chức TPL ở nước ta hiện nay, thực trang và giải pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp luật về mơ hình tổ
chức của TPL ở Việt Nam hiện nay.
3


- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu mơ hình tổ chức của TPL ở Việt Nam
từ năm 2010 đến nay trên cơ sở có tham khảo thêm một số tài liệu có liên quan ở
nước ngồi phục vụ cho cơng việc nghiên cứu của mình.
- Về nội dung: Phân tích, đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế,
nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hồn thiện mơ hình tổ chức TPL
trong thời gian tới.
Bên cạnh việc nghiên cứu về mơ hình TPL tại Việt Nam, do mơ hình bao
giờ cũng gắn với tổ chức nên trong phạm vi của Luận văn này, nội hàm của
Luận văn khơng chỉ nghiên cứu về mơ hình nói chung mà mơ hình gắn với tổ
chức Thừa phát lại ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình nghiên cứu đề
tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích và
tổng hợp tập trung ở chương 1, chương 2 và chương 3; phương pháp so sánh,
đối chiếu; phương pháp thống kê tập trung chủ yếu ở chương 2.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lí luận: Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên
cứu về mơ hình tổ chức TPL, qua đó luận văn đã phân tích cũng như đánh giá, chỉ
ra những tồn tại, hạn chế đối với mơ hình tổ chức TPL, trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp nhằm hồn thiện mơ hình tổ chức TPL trong thời gian tới.
Về mặt thực tiễn: Những phân tích đánh giá và đề xuất cụ thể mà tác giả
đưa ra nhằm xây dựng và hồn thiện mơ hình tổ chức TPL có giá trị tham khảo
hữu ích cho các nhà lập pháp vận dụng vào công tác xây dựng pháp luật, công
tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy và làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ
quan nhà nước trong việc tổ chức thi hành pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần ổn định trật tự xã hội.
4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của đề tài bao gồm ba chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mơ hình Thừa phát lại ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng mơ hình Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hồn thiện mơ hình Thừa phát lại ở Việt
Nam hiện nay

5


Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MƠ HÌNH TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI
Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trị mơ hình Thừa phát lại ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm
Để làm rõ cái khái niệm về mơ hình tổ chức của TPL ở Việt Nam, tác giả
tập trung nghiên cứu một số các khái niệm cơ bản có liên quan như sau:
1.1.1.1. Khái niệm TPL ở Việt Nam
Thừa phát lại là một nghề xuất hiện trên thế giới hàng trăm năm nay, hiện
có 72 nước là thành viên của Liên minh Thừa phát lại quốc tế. Ở Việt Nam, Thừa
phát lại xuất hiện từ thời Pháp thuộc, miền Bắc gọi là Chưởng tòa, miền Trung
gọi là Mõ tòa, miền Nam là Thừa phát lại…”.
Thừa phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao
quyền để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và
các công việc khác theo quy định [97]. Thừa phát lại tương tự như chức mõ tòa
(Người giữ việc báo tin và thi hành các quyết định của tòa án trong xã hội cũ, có
khi trơng nom cả việc bán các động sản của Nhà nước) và chấp hành viên”..
1.1.1.2. Khái niệm về mơ hình và mơ hình tổ chức
Dù với cách hiểu nào thì mơ hình cũng chỉ là sự đơn giản hóa hiện thực
một cách có chủ định, mơ phỏng cấu tạo tổ chức và hoạt động của một vật khác
để tiện trình bày, nghiên cứu. Nó cho phép nhà nghiên cứu bỏ qua các mặt thứ
yếu để tập trung vào phương diện chủ yếu, có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề
nghiên cứu.
Về khái niệm tổ chức: Đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về khái niệm tổ
chức. Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, tổ chức là một
hệ thống gồm nhiều người cùng hoạt động vì mục đích chung. Hay tổ chức là quá
trình triển khai các kế hoạch.

6



1.1.1.3. Khái niệm về mơ hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam
Qua việc nghiên cứu các khái niệm về TPL, mơ hình tổ chức ở trên, tác giả
cho rằng: Mơ hình tổ chức TPL là việc mơ phỏng tổ chức, hoạt động của TPL
với cơ cấu, hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân, các bộ phận sao cho cá nhân và
bộ phận có thể phối hợp với nhau một cách tốt nhất, qua đó duy trì hiệu quả hoạt
động của TPL với tư cách là công lại được Nhà nước trao quyền để cung cấp
dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm, đặt dưới sự quản lý nhà nước, đáp ứng
được nhu cầu của xã hội.
1.1.2. Đặc điểm mơ hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam
Về mục tiêu của tổ chức: Xã hội hóa là giải pháp cải cách tổ chức, hoạt
động của bộ máy nhà nước, huy động nguồn lực và tăng cường trách nhiệm của
xã hội đối với các hoạt động của Nhà nước mà nội dung trọng tâm là chuyển
giao công việc của Nhà nước đang trực tiếp thực hiện cho các tổ chức xã hội,
góp phần làm giảm và từng bước chuyển giao công việc không cần thiết phải do
Nhà nước thực hiện với mục đích phát huy tiềm năng của cá nhân, tổ chức trong
xã hội. Đây chính là mục tiêu để Nhà nước hướng đến xây dựng mô hình tổ
chức TPL ở Việt Nam. Hoạt động của thừa phát lại bước đầu đã đạt được mục
tiêu đặt ra cho hoạt động thừa phát lại.
1.1.3. Vai trị của mơ hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam
Thơng qua hoạt động, TPL ngày càng khẳng định địa vị pháp lý cũng như
vai trò trong hoạt động tư pháp và xã hội hóa thi hành án dân sự.
Đối với người dân, xã hội, việc thực hiện chế định Thừa phát lại đã góp
phần nâng cao nhận thức khơng những đối với cơ quan nhà nước mà còn đối với
người dân về một chủ trương mới của Đảng, Nhà nước.
Ngoài ra, dưới góc độ xã hội, hoạt động Thừa phát lại bước đầu đã tạo lập
một nghề mới trong thị trường cung cấp dịch vụ pháp lý và là bước đầu tiên xã
hội hóa hoạt động thi hành án, tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội.
Đối với hoạt động tư pháp và liên quan, hoạt động Thừa phát lại đã bước
đầu hỗ trợ tích cực cho các hoạt động tư pháp được nhanh hơn, hiệu quả
7



hơn, góp phần giảm tải cơng việc của các cơ quan tư pháp, trước hết là của Tòa
án và Cơ quan Thi hành án dân sự.
Từ vai trò, tác động của việc thực hiện chế định Thừa phát lại trong thời
gian qua tại cho thấy, mơ hình này là cần thiết cho người dân, xã hội nói chung,
cho hoạt động tư pháp nói riêng.
1.2. u cầu của mơ hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam
1.2.1. Bảo đảm sự quản lý nhà nước đối với tổ chức Thừa phát lại
Thừa phát lại thực hiện việc cung cấp dịch vụ thi hành án dân sự, lập vi
bằng theo quy định của pháp luật doanh nghiệp, pháp luật thi hành án dân sự,
các văn bản pháp luật khác có liên quan, nên vừa phải bảo đảm quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp, ở đây là Văn phòng Thừa phát lại, vừa phải bảo đảm
sự kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để Văn
phòng Thừa phát lại tuân thủ đúng pháp luật, vừa bảo đảm quyền tự do kinh
doanh của Thừa phát lại. Đây là yêu cần tất yếu để bảo đảm tổ chức của Thừa
phát lại hoạt động bền vững
Thời gian qua, để bảo đảm hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt động
Thừa phát, Điều 8 Nghị định 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thừa
phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và Nghị định
135/2013/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 61/2009/NĐ-CP đã quy định 04 nội dung
chủ yếu liên quan đến quản lý TPL, theo đó:
Một là, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Thừa phát lại.
Hai là, Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về Thừa phát lại và
có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Ba là, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quản lý nhà nước về Thừa
phát lại tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Bốn là, Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh giúp Ủy ban nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh quản lý nhà nước về Thừa phát lại tại địa phương và có các
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:


8


Thứ nhất, Chính phủ vẫn phải giữ vai trị thống nhất quản lý nhà nước về
Thừa phát lại.
Thứ hai, Bộ Tư pháp tiếp tục là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước
về Thừa phát lại và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Thứ ba, trong vai trò quản lý Nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh cần được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về Thừa phát lại tại địa phương
và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Thứ tư, Sở Tư pháp là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà
nước về Thừa phát lại tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1.2.2. Kiểm sát hoạt động của Thừa phát lại
Mối quan hệ giữa Thừa phát lại và Kiểm sát viên là mối quan hệ kiểm tra giám sát, bảo đảm mọi hoạt động của Thừa phát lại, đảm bảo luôn tuân thủ đúng
quy định của pháp luật, góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa
một số hoạt động tư pháp của Đảng và Nhà nước.
Trường hợp xét thấy văn bản trả lời kháng nghị khơng có căn cứ thì Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét lại
văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự đã trả
lời kiến nghị.
Theo quy định tại Điều 48 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì việc kiểm sát
hoạt động của Thừa phát lại thực hiện theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân và quy định của pháp luật có liên quan.
Trường hợp xét thấy văn bản trả lời kháng nghị không có căn cứ thì Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cáo có văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư
pháp xem xét lại văn bản trả lời của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự.
Việc thực hiện các quyền kiến nghị và yêu cầu của Viện Kiểm sát nhân dân
trong kiểm sát hoạt động của Thừa phát lại được thực hiẹn theo quy định của Luật
tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, pháp luật về tố tụng và pháp luật về thi hành án

dân sự.

9


Chúng tôi cho rằng, việc xác định thẩm quyền và trách nhiệm kiểm sát đối
với hoạt động Thừa phát lại như hiện hành là phù hợp vì Thừa phát lại thực hiện
một số nhiệm vụ liên quan đến tổ chức thi hành án dân sự.
1.2.3. Tổ chức, hoạt động của Thừa phát lại
1.2.3.1. Là một loại hình doanh nghiệp đặc thù
Tại Việt Nam Văn phòng Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của Thừa phát
lại, tên gọi văn phòng Thừa phát lại phải bao gồm cụm từ “Văn phòng Thừa
phát lại” và phần tên riêng liền sau, Văn phòng Thừa phát lại được tổ chức và
hoạt động theo loại hình doanh nghiệp, thực hiện các dịch vụ cơng. Văn phịng
Thừa phát lại có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự
chủ về tài chính. Cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành, chế độ tài chính của văn
phịng Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật.
1.2.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của mơ hình Thừa phát lại
Mơ hình TPL có chức năng, nhiệm vụ sắp xếp, bố trí, tổ chức để làm cho
hoạt động của TPL được thực hiện theo định hướng đã được cơ quan nhà nước
thiết lập đề ra, qua đó cơ quan quản lý nhà nước vận dụng cách sắp xếp, bố trí,
tổ chức đố để điều hành, quản lý nhằm mục đích tơt chức thực hiện mơ hình
TPL đạt được các mục tuiêu đề ra theo trật tự nhất định, đáp ứng được nhu cầu
của xã hội, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng, đảm bảo sự quản lý vận
hành trơn tru, có hiệu quả và tuân thủ pháp luật.
1.2.3.3. Hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam
Một là: Mơ hình TPL ở Việt Nam hiện nay trước hết phải đảm bảo cho hoạt
động của TPL trơn tru
Hai là: Không chồng chéo với các ngành nghề khác
Ba là: Hoạt động TPL đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan có

liên quan
- Mối quan hệ giữa TPL và Chấp hành viên
Bốn là, phải có hiệu quả kinh tế - xã hội:

10


1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến mơ hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam
1.3.1. Yếu tố chính trị
Có thể thấy vai trị của Đảng trong việc đưa ra các chủ trương, chính sách
pháp luật là đặc biệt quan trọng.Với sự quan tâm của Đảng chế định TPL đã đưa
vào Nghị quyết của Đảng, qua đó nhà thực hiện các nghị quyết của Đảng. Từ
những định hướng của Đảng về chủ trương thực hiện mơ hình TPL đã là căn cứ chỉ
đạo, định hướng để các cơ quan Nhà nước nghiêm túc triển khai, thể chế hóa đúng
quan điểm của Đảng về chủ trương thực mơ hình TPL trong thực tiễn.
1.3.2. Yếu tố pháp luật
Pháp luật về tổ chức Thừa phát lại được Đảng và Nhà nước ta tập trung
khôi phục trong những năm gần đây cùng với đó đã ban hành Nghị quyết, các
Thơng tư hướng dẫn, quy định về Thừa phát lại, Văn phòng Thừa phát lại, thành
lập, giải thể, tổ chức hoạt động Thừa phát lại, phạm vi hoạt động, quyền hạn,
nhiệm vụ, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm tra đối với hoạt động
Thừa phát lại, qua đó tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện các hoạt động tổ
chức của Thừa phát lại.
1.3.3. Yếu tố kinh tế
Nền kinh tế - xã hội phát triển, bền vững là điều kiện cho mọi hoạt động pháp
luật phát triển, đóng góp to lớn tới sự hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của mọi
tầng lớp trong xã hội. Qua đó ảnh hưởng nhận thức của nhân dân, nhu cầu sử dụng
các dịch vụ pháp lývề TPL nhiều hơn, từ đó hoạt động TPL sẽ có cơ hội phát triển,
có thể tự ni sống mình bằng nghề TPL, góp phần giải quyết cơng ăn việc làm cho
người lao động, đóng góp thuế cho nhà nước và gia tăng số lượng các văn phòng

Thừa phát để đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
1.3.4. Yếu tố văn hóa, xã hội
Mặc dù đã từng tồn tại ở Việt Nam (miền Bắc cho đến năm 1950, miền
Nam cho đến trước năm 1975) nhưng qua thời gian dài, chế định Thừa phát lại
trở nên khá mới mẻ với người dân. Nhận thức của một số cơ quan, cán bộ, công
chức, kể cả ở Trung ương về việc thí điểm chế định Thừa phát lại vẫn chưa đầy
11


đủ, chưa đáp ứng yêu cầu về việc thực hiện một chủ trương của Đảng và Nhà
nước về cải cách tư pháp, như: Chưa hiểu đúng và đầy đủ về chế định Thừa phát
lại, cũng như vai trò, sự cần thiết thí điểm chế định này; trong triển khai thực
hiện thiếu sự quyết tâm; xem Thừa phát lại, Văn phòng Thừa phát lại là người,
tổ chức hành nghề tự do, vì lợi nhuận, từ đó thiếu sự phối hợp, hỗ trợ, hợp tác.
1.4. Kinh nghiệm mơ hình Thừa phát lại ở một số nƣớc trên thế giới có giá
trị tham khảo
Trong thời gian qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu về mơ hình Thừa phát
lại ở các nước. Qua tổng hợp, đánh giá cho thấy có một số mơ hình chủ yếu và
có thể tham khảo ở Việt Nam như sau:
1.4.1. Mơ hình thứ nhất: Thừa phát lại hành nghề tự do, độc lập
Theo ThS. Đinh Công Tuấn, Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp thì đối với
một số quốc gia có nghề TPL truyền thống, lâu đời như Pháp, Bỉ, Hy Lạp,
Lúcxămbua, Hà Lan,... TPL hành nghề độc lập, không hưởng lương từ ngân sách
nhà nhưng được nhà nước bổ nhiệm, trao quyền để thực hiện một số cơng việc.
Khi nghiên cứu về mơ hình Thi hành án dân sự ở các nước thì mơ hình của
Pháp được xếp vào loại mơ hình Thi hành án bán cơng với nghĩa là q trình
đưa bản án, quyết định của tịa án vào thực thi có sự tham gia của hai chủ thể:
Thẩm phán chuyên trách thi hành án là đại diện của công quyền và Thừa phát lại
(hành nghề tự do).
1.4.2. Mơ hình thứ hai: Chấp hành viên tự chủ tài chính, hoạt động theo

phương thức hành nghề tự do
Kết quả nghiên cứu của ThS. Đinh Công Tuấn, Viện Khoa học pháp lý Bộ
Tư pháp cho thấy, ở một số quốc gia khác như Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Đan Mạch,... chấp hành viên là công chức do nhà nước bổ nhiệm nhưng
hoạt động theo phương thức hành nghề tự do, làm việc độc lập với tịa án, chịu
trách nhiệm về tài chính, nghề nghiệp và kỷ luật; Nhà nước có thể trả lương tối
thiểu hoặc không trả lương cho những người hành nghề độc lập này. Mơ hình
tiêu biểu thuộc nhóm này là mơ hình Chấp hành viên của CHLB Đức. Chấp
12


hành viên đảm nhiệm những công việc tương tự như của TPL, chịu sự giám sát
trực tiếp của chánh án tịa án quận, nhưng khơng nằm trong cơ cấu tổ chức của
tòa án hay trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật. Chấp hành viên thành
lập văn phòng theo quản hạt của các tịa án quận và có trụ sở, con dấu riêng,
giao dịch dưới tên gọi, chức danh, được tuyển nhân viên giúp việc.
Tại Nhật và một số nước châu Á, chấp hành viên do nhà nước bổ nhiệm,
thực hiện công tác tống đạt và tổ chức thi hành án tương tự như mơ hình của Đức.
1.4.3. Mơ hình thứ ba: Xã hội hóa, chuyển đổi mơ hình thi hành án nhà nước
thành TPL hành nghề tự do, độc lập, có sự phân định phạm vi thẩm quyền thi
hành án giữa TPL và thi hành án nhà nước
Một số quốc gia tại Đơng Âu, Trung Âu có nền kinh tế chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường như: Bungaria, Hungary, Cộng hịa Séc, Ba Lan,
Xlơvenia, Slovennia,.. và Campuchia ở Đơng Nam Á đã xã hội hóa hoạt động
thi hành án dân sự, nghĩa là chuyển đổi các cơ quan thi hành án dân sự nhà nước
thành hệ thống các văn phòng TPL hành nghề tự do, thực hiện tổ chức thi hành
án, tống đạt văn bản tư pháp, lập Vi bằng và cho phép sử dụng văn bản Vi bằng
do TPL lập như một loại chứng cứ,..
1.4.4. Nhận xét:
Có thể thấy, hầu hết các quốc gia hiện nay đều áp dụng mơ hình TPL với tư

cách là người hành nghề tự do hoặc là người thuộc cơ quan nhà nước hoạt động
theo cơ chế tự chủ tài chính. Điều này cho thấy, việc xây dựng mơ hình TPL
hoặc chuyển sang mơ hình TPL là xu hướng ngày càng chiếm ưu thế trên thế
giới, thể hiện sức sống bền bỉ cũng như ưu điểm của TPL, bổ khuyết cho các
hoạt động của cơ quan nhà nước, đồng thời giảm gánh nặng ngân sách nhà nước.

13


TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Việc tìm hiểu, luận giải mơ hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho hoạt động của TPL được thực hiện theo định
hướng đã được cơ quan nhà nước như: Đảm bảo cho hoạt động của TPL trơn
tru; không chồng chéo với các ngành nghề khác; đặt dưới sự quản lý của Đảng,
Nhà nước; hoạt động TPL phải liên quan đến các cơ quan khác; có hiệu quả kinh
tế. Trong chương này, luận văn đạt được một số kết quả như sau: Thứ nhất làm
rõ hơn khái niệm, đặc điểm, vai trị mơ hình Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay;
thứ hai chỉ ra một số yêu cầu của mơ hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam; thứ
ba chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến mơ hình Thừa phát lại ở Việt Nam; thứ tư đã
nêu ra được những kinh nghiệm mơ hình Thừa phát lại ở một số nước trên thế
giới có giá trị tham khảo

14


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG MƠ HÌNH TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái qt mơ hình Thừa phát lại ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử
Thừa phát lại xuất hiện ở Việt Nam song hành với việc Vua Tự Đức ký

Hoà ước ngày 05 tháng 6 năm 1862 theo đó nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ,
tiếp đó, với Hiệp ước ngày 06/6/1884 giữa triều đình nhà Nguyễn và Pháp, Việt
Nam đã trở thành một nước thuộc địa của Pháp. Từ đó, Pháp đã trực tiếp áp đặt
chế độ cai trị thực dân, áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ đối với nước ta và
phân chia nước ta thành Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ cùng với đó Pháp đặt Thống
sứ ở Bắc kỳ và Khâm sứ ở Trung kỳ đại diện cho chính quyền Pháp, coi 6 tỉnh
Nam kỳ như một hạt, mỗi tỉnh được coi như mỗi quận của nước Pháp.
Sau đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại đã được ghi nhận cụ thể ở
Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng, Bộ luật hình sự tố tụng do chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu ban hành năm 1972.
Như vậy có thể thấy việc THADS do Thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực
hiện trước đây được thay thế bằng Thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Chánh án. Do vậy từ năm 1950, Thừa phát lại không được duy trì ở miền
Bắc nước ta nữa.
2.2. Những kết quả đạt đƣợc, hạn chế trong mơ hình tổ chức Thừa phát lại
ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Những kết quả đạt được
2.2.1.1. Về quản lý nhà nước đối với Thừa phát lại
Thứ nhất, về công tác xây dựng thể chế về thí điểm chế định Thừa phát lại.
Thứ hai, quán triệt và tuyên truyền nâng cao nhận thức về Thừa phát lại:
Thứ ba, công tác đào tạo, bổ nhiệm Thừa phát lại, thành lập, cấp phép hoạt
động các văn phòng Thừa phát lại.
Thứ tư, về kiểm tra, giám sát hoạt động Thừa phát lại.
Thứ năm, công tác sơ kết, tổng kết hoạt động Thừa phát lại
2.2.1.2. Về kiểm sát hoạt động Thừa phát lại
15


Để bảo đảm hoạt động bình thường của các tổ chức Thừa phát lại, quan
nghiên cứu cho thấy, các cơ quan chức năng cũng đã thực hiện tốt việc giám sát,

kiểm sát hoạt động Thừa phát lại theo quy định của pháp luật. Đoàn Đại biểu Quốc
hội thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức giám sát việc thực hiện thí điểm Thừa phát
lại trên địa bàn.
Hàng năm, VKSND tối cao, đã ban hành Chỉ thị và kế hoạch công tác
ngành kiểm sát về việc chỉ đạo VKSND các địa phương tiến hành kiểm sát
thưởng xuyên và trực tiếp việc tuân theo pháp luật hoạt động của TPL, quá phát
hiện các sai sót để kịp thời chính chỉnh cũng như xử lý theo quy định pháp luật.
2.2.1.3. Về thực hiện mơ hình tổ chức Thừa phát lại hiện hành
Trên cơ sở các nghị quyết của Quốc hội và các văn bản hiện hành, từ năm
2010, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, thống nhất ý kiến với
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao lựa chọn, phê duyệt Đề án
thực hiện thí điểm của 12 địa phương ngồi thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến nay,
chế định Thừa phát lại đã được triển khai tại 13 địa phương gồm: Thành phố Hồ
Chí Minh, Hà Nội, Hải Phịng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An,
Bình Định, Bình Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long,.
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, mơ hình tổ chức của Thừa phát lại cịn
có những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế nhất định, cụ thể như:
2.2.2.1. Về quản lý nhà nước đối với mơ hình tổ chức Thừa phát lại
Thứ nhất, các hoạt động của TPL gắn chặt, hỗ trợ trực tiếp đối với các hoạt
động của cơ quan tư pháp như Tòa án, Thi hành án dân sự, v.v.
Thứ hai, còn tồn tại hạn chế trong việc thành lập Văn phòng TPL.
Thứ ba, hạn chế trong công tác quản lý, kiểm tra, kiểm sát, giám sát hoạt
động TPL.
2.2.2.2. Về mơ hình tổ chức Thừa phát lại
Kết quả hoạt động của một số Văn phòng Thừa phát lại còn chưa cao, chưa
đồng đều ở các địa phương thí điểm và ở các mảng cơng việc, nhất là tại 12 địa
phương mở rộng thí điểm; trong đó việc xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp
16



tổ chức thi hành án còn hạn chế, chiếm tỷ lệ thấp trong kết quả hoạt động. Quá
trình hoạt động của các Văn phịng Thừa phát lại tuy đã có một số sai sót, nhưng đó
là những sai sót nhỏ trong thực thi một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước,
không phải là bản chất của chế định Thừa phát lại và một số bất cập như:
Thứ nhất, về chất lượng hoạt động Thừa phát lại, một số văn phịng Thừa
phát lại cịn những sai sót, ảnh hưởng tới niềm tin và sự lựa chọn dịch vụ của
người dân cũng như các cơ quan Nhà nước.
Thứ hai, có sự mất cân đối lớn trong các dịch vụ của Thừa phát lại
Thứ ba, về chi phí dịch vụ Thừa phát lại, thực hiện tống đạt văn bản của
Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự là công việc có khối lượng rất lớn.
2.2.3. Nguyên nhân của hạn chế
Mặc dù đã từng tồn tại ở Việt Nam nhưng qua thời gian dài, chế định TPL
trở nên khá mới mẻ đối với nhiều người dân. Các văn phòng TPL hoạt động
chưa lâu, trong khi cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, lại theo cơ chế thí điểm nên
người dân cịn tâm lý e ngại, chưa thật tin tưởng để sử dụng các dịch vụ của
TPL. Cũng do thực hiện theo cơ chế thí điểm, trong điều kiện các quy định về
TPL còn thiếu, hiệu lực thấp (đều là văn bản dưới luật) và chưa đồng bộ với các
quy định trong hệ thống pháp luật nên hoạt động của TPL chưa nhận được sự
phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan, nhất là trong việc tống đạt văn
bản, xác minh điều kiện và trực tiếp tổ chức thi hành án, đã hạn chế hiệu quả
hoạt động của tổ chức TPL
Ngồi ra cơng tác thanh tra, kiểm tra, đơn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc có nơi chưa sâu sát, kịp thời; công tác đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn
nghiệp vụ cho đội ngũ TPL, thư ký và nhân viên các văn phòng TPL chưa đáp
ứng được yêu cầu. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức về chủ trương
của Đảng, Nhà nước đối việc thí điểm TPL chưa đầy đủ.
Nhìn chung, nguyên nhân lớn nhất của những tồn tại, hạn chế trên đó là do
đang trong giai đoạn thí điểm, do đó về nguồn lực; về thể chế; về hiểu biết và sự
tin tưởng của người dân đối với hoạt động của Thừa phát lại... còn dừng lại ở


17


một mức độ nhất định. Nếu chế định này được thực hiện chính thức, có thời
gian, lộ trình phù hợp chắc chắn sẽ khắc phục được những tồn tại, hạn chế trên.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Thời gian qua mơ hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam đã đạt được nhiều
kết quả tích cực góp phần quan trọng trong cơng cuộc cải cách hành chính và xã
hội hóa một số lĩnh vực do nhà nước thực hiện thành tư nhân. Hoạt động của Thừa
phát lại đã giúp giảm tải công việc, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác xét xử và thi hành án. Hoạt động lập Vi bằng của Thừa phát lại đã tạo
thêm một công cụ pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế và trong quá trình tố tụng.
Có thể nói, hoạt động của Thừa phát lại đã góp phần bảo đảm tốt hơn
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong đời sống dân sự, trong
quan hệ với cơ quan nhà nước và trong các hoạt động tố tụng; tạo môi trường
pháp lý lành mạnh, đảm bảo các giao dịch dân sự, kinh tế đúng pháp luật, từ đó
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động Thừa phát lại cịn
có những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế nhất định, cụ thể như: Việc
triển khai thực hiện nghị quyết của Quốc hội cịn chậm, cơng tác tun truyền
vẫn cịn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu cho việc phục vụ thí điểm một chế định
mới; kết quả hoạt động của một số Văn phòng Thừa phát lại còn chưa cao, chưa
đồng đều ở các địa phương thí điểm và ở các mảng công việc.
Những tồn tại, hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên
nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân khách quan: Cả về mặt lý luận,
pháp lý và thực tiễn cịn đang trong q trình thí điểm để có cơ sở nghiên cứu,
hồn thiện; việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về Thừa phát lại là rất khó khăn,
chưa thể ban hành đạo luật có hiệu lực pháp lý cao, đồng bộ với các bộ luật, luật

có liên quan để điều chỉnh về vấn đề này; nhu cầu sử dụng dịch vụ này tại một
số địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn chưa nhiều…

18


CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HỒN THIỆN MƠ HÌNH TỔ CHỨC
THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm
3.1.1. Hồn thiện mơ hình tổ chức TPL ở Việt Nam là yêu cầu tất yếu để đưa
một chủ trương quan trọng của Đảng đi vào cuộc sống
Thời gian qua mặc dù vẫn còn một số tồn tại, hạn chế song kết quả triển
khai trong thời gian qua đã khẳng định chế định TPL đã được Chính phủ, Bộ,
ngành và địa phương thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Chủ trương của Đảng về
TPL đã được thể chế hóa và kiểm nghiệm trên thực tế, đã và đang từng bước đi
vào cuộc sống, được người dân, xã hội đón nhận.Việc thực hiện chế định TPL là
một hướng đi đúng về cải cách tư pháp, phù họp với thực tiễn đời sống kinh tế xã hội và hoạt động tư pháp của nước ta cũng như xu thế hội nhập quốc tế..
Như vậy có thể thấy từ chủ trương đến các bước đi đều đã được các ngành
các cấp triển khai thực hiện thận trọng và đã thu được những kết quả quan trọng.
Tuy nhiên, nếu khơng có được một mơ hình tổ chức TPL thì khơng những lãng
phí về tiền của của nhân dân trong việc xây dựng TPL thời gian qua mà chủ
trương quan trọng nêu trên của Đảng sẽ không thể đi vào cuộc sống.
3.1.2. Nhà nước cần phải tạo sân chơi phù hợp để Thừa phát lại có thể tồn tại
bởi chính nghề nghiệp của mình
Thừa phát lại thực hiện việc cung cấp dịch vụ thi hành án dân sự, lập vi
bằng theo quy định của pháp luật doanh nghiệp, pháp luật thi hành án dân sự và
các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan, đương nhiên quyền tự do kinh doanh
của doanh nghiệp, ở đây là Văn phịng Thừa phát lại phải được tơn trọng và bảo
đảm theo quy định của hiến pháp và pháp luật..

Một trong các mục tiêu quan trọng hàng đầu đối với các loại hình doanh
nghiệp nói chung đó là lợi nhuận, muốn đạt mục đích đó cần có sự cạnh tranh,

19


bên cạnh các hoạt động cạnh tranh lành mạnh thì đồng thời cũng xuất hiện sự
cạnh tranh không lành mạnh và các vấn đề tiêu cực cũng có thể phát sinh
3.2. Giải pháp
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống hệ thống pháp luật về Thừa phát lại
Một là: cần xây dựng và ban hành Luật Thừa phát lại, để đáp ứng nhu cầu
thực tiễn đề ra:
Hai là: Bộ Tư pháp nghiên cứu ban hành Thông tư quy định về quy tắc ứng
xử, đạo đức nghề nghiệp của TPL, đồng thời nghiên cứu việc bồi dưỡng, cập
nhật bổ sung kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ TPL đối với các TPL đã được
bổ nhiệm trong giai đoạn thí điểm.
Ba là: Kiến nghị Chính phủ xem xét, sớm ban hành Nghị định quy định tổ
chức và hoạt động TPL trong giai đoạn thực hiện chính thức hiện nay.
Bốn là: Bổ sung quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực TPL.
Năm là: cần xem xét làm rõ địa vị pháp lý quyền hạn của TPL trong hoạt
động của TPL, từ đó đưa ra những điều chỉnh hợp lý:
Sáu là: Cần sửa đổi, bổ sung các quy định về TPL:
3.2.2. Nâng cao chất lượng tổ chức và triển khai thực hiện chế định Thừa
phát lại
Đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật về Thừa phát lại và tiến tới triển khai
chế định TPL trên cả nước, Bộ Tư pháp tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan, như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành các
văn bản hướng dẫn cho việc triển khai tổ chức và hoạt động của TPL.
3.2.3. Cải cách thủ tục hành chính
Cải cách về thể chế:

- Xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật về TPL trên cơ sở Hiến pháp
năm 1992 được sửa đổi, bổ sung;
- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật về TPL.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách,;

20


- Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp trọng tâm là hoàn thiện thể chế
trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động TPL;
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của
TPL;
- Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa các cơ
quan Nhà nước và TPL.
Cải cách thủ tục hành chính:
- Chun mơn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về TPL;
- Thực hiện cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải thiện mơi trường
kinh doanh;
- Kiểm sốt chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính về lĩnh vữ TPL;
- Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính trong hoạt động thành lập
Văn phịng TPL
- Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể
chế, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với
doanh nghiệp và nhân dân;
- Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định
hành chính.
3.2.4. Về quản lý nhà nước, kiểm tra, kiểm sát, giám sát hoạt động TPL
Quản lý nhà nước đối với mơ hình tổ chức TPL cũng như hoạt động TPL là
nhiệm vụ mang tính tất yếu, để đảm bảo thực được tốtnhiệm vụ trên cần, tiếp tục

triển khai chủ trương của Đảng Nhà nước trong thực tiễn, đối với cơng tác quản
lý nhà nước cần có những giải pháp cụ thể như sau:
Một là: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước đối với chủ trương
thực hiện chế định TPL
Hai là: Quốc hội, Hội đồng nhân dân tăng kiểm tra, giám sát của đối với
mơ hình tổ chức chế định TPL
Ba là: Tăng cường chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền trong tổ
21


chức thực hiện chế định TPL
Bốn là: Tổ chức kiểm tra, kiểm sát, giám sát mơ hình tổ chứ về TPL:
Năm là: Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong thực hiện pháp luật TPL
Sáu là: Kiến nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, đề xuất Chính phủ xây dựng cơ
sở dữ liệu điện tử quốc gia về vi bằng.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Thời gian qua mặc dù vẫn còn một số tồn tại, hạn chế song kết quả triển
khai trong thời gian qua đã khẳng định mơ hình tổ chức TPL đã được Chính
phủ, Bộ, ngành và địa phương thực hiện nghiêm túc và đạt được một số hiệu quả
nhất định. Tuy nhiên sau thời gian thí điểm TPL tại các địa phương, đã bộc lộ
những han chế, những bất cập xuất phát từ việc không đồng bộ về thể chế. Có
thể thấy hồn thiện mơ hình tổ chức của TPL ở Việt Nam hiện nay là yêu cầu tất
yếu để đưa chủ trương quan trọng của Đảng đi vào cuộc sống. Để mơ hình tổ
chức Thừa phát lại ở Việt Nam đạt được nhiều kết quả tích cực góp phần quan
trọng trong việc xã hội hóa một số ngành nghề tư pháp nói chung và Thi hành án
dân sự nói riêng, Nhà nước cần hồn thiện hệ thống hệ thống pháp luật về Thừa
phát lại, cùng với đó cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về TPL trên
cơ sở Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung; Quốc hội sớm ban hành Luật
về Thừa phát lại và tiến tới triển khai chế định TPL trên cả nước, Bộ Tư pháp
tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, như Tòa án nhân dân tối cao,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành các văn bản hướng dẫn cho việc triển
khai tổ chức và hoạt động của TPL. Vi vậy tại chương 3 tác giả đã tổng kết và
đưa ra một số quan điểm, giải pháp mà vơ quan nhà nước cần điều chỉnh, hoàn
thiện để mơ hình tổ chức của Thừa phát lại ở Việt Nam hoạt động trơn tru cố
hiệu quả hơn trong thời gian tới.

22


KẾT LUẬN
Mơ hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay là một chủ trương của
Đảng, Nhà nước ta đã được đưa vào thực tiễn cuộc sống.Việc làm rõ mơ hình tổ
chức Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa quan trọng, góp phần quan
trọng trong việc quản lý điều hành, quản lý của cơ quan nhà nước đối với hoạt
động TPL, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp
đã được đề ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chín trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trên cơ sở đó, tạo ra một ngành
nghề mới cho xã hội phát triển, giúp giảm tải các cơng việc cho cơ quan Tịa án,
THADS, qua đó giúp tinh giảm biên chế, tinh gọn biên chế, cơ cấu lại đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức. Vì vậy đây là động lực để thực hiện thành cơng
Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giảm biên
chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước.
Mơ hình tổ chức TPL ở Việt Nam thời gian qua đã mang lại những kết quả
tích cực đối với xã hội, với cơ quan nhà nước như Tòa án, cơ quan THADS, góp
phần bảo đảm tốt hơn các quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức trong
đời sống dân sự, trong các tranh chấp phát sinh với nhà nước cũng như trong
hoạt động tố tụng; góp phần tạo dựng cơ chế pháp lý, tạo nguồn chứng cứ, bảo
đảm các giao dịch dân sự, kinh tế đúng pháp luật, phòng ngừa các tranh chấp
phát sinh sau này, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển góp phần
to lớn đối với niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Sự ra đời của mơ hình TPL ở nước ta đã và đang góp phần quan trọng trong
việc hỗ trợ, giúp đỡ cho hoạt động tư pháp đúng pháp luật, hiệu quả hơn, nâng
cao ý thức trách nhiệm, sự đóng góp của người dân, xã hội đối với hoạt động bổ
trợ tư pháp, giảm tải công việc cho các cơ quan nhà nước, giảm thiểu ngân sách
nhà nước, giúp điều chỉnh tinh giảm biên chế, gọn bộ máy cồng kềnh. Tuy
nhiên, ngoài các mặt tích cực đã đạt được thì mơ hình tổ chức TPL ở nước ta
hiện nay đã bộc lộ những hạn chế cần phải điều chỉnh để phù hợp với chủ
23


×