Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thể chế quản lý nhà nước đối với trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.46 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THANH KHIẾT

THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 834 04 03

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CƠNG

HÀ NỘI – NĂM 2019


Cơng trình được hồn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ NHƯ PHONG

Phản biện 1:……………………………………………………
………………………………………………………………….

Phản biện 2:……………………………………………………
…………………………………………………………………..


Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính
Quốc gia
Địa điểm: Phòng ………. - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành
chính Quốc gia
Số:77 - Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa – TP Hà Nội
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 2019

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Có thể nói, giáo dục đã trở thành một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát
triển thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nó. Trong hệ thống giáo dục
quốc dân, các trường đại học cơng lập có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của giáo dục. Mặc dù Nhà nước tiễn hành xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục khá
mạnh mẽ và sâu sắc nhưng vai trị của các trường cơng lập đặc biệt là các trường đại
học công lập vẫn không thể phủ nhận. Bởi với bề dày truyền thống, cơ sở vật chất
được đầu tư trang bị bài bản và là nơi hội tụ các lực lượng giảng viên có chất lượng
cao. Đây là tiền đề tạo ra nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao tạo động lực
cho sự phát triển của xã hội.
Xuất phát từ vai trò của trường ĐHCL với sự phát triển của ngành giáo dục nên
thể chế QLNN về lĩnh vực này được đặc biệt chú trọng. Bởi nếu xây dựng được thể
chế QLNN phát huy hiệu lực, hiệu quả sẽ tạo lập những tiền đề, điều kiện cho sự phát
triển của giáo dục; góp phần định hướng cho sự phát triển của các trường ĐHCL đáp
ứng các mục tiêu, chiến lược giáo dục trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Trên cơ sở thể chế QLNN đối với trường ĐHCL sẽ tạo khung pháp lý cho tổ chức và
hoạt động của trường; đảm bảo những điều kiện vật chất cho giáo dục phát triển và

hội nhập; cũng như đảm bảo chất lượng của giáo dục đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Chính vì thế, việc xây dựng và hồn thiện thể chế QLNN đối với các trường ĐHCL
nắm giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động quản lý của Nhà nước.
Mặc dù vậy, thực trạng thể chế QLNN đối với các trường ĐHCL hiện nay còn
nhiều hạn chế. Điều này thể hiện tập trung rõ nét đối với các trường ĐHCL trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Với vị trí là Thủ đơ của đất nước, trung tâm văn hố, giáo dục
– kinh tế và chính trị của cả nước, Hà Nội cũng là địa phương có nhiều trường ĐHCL
đóng trên địa bàn nhất. Tuy nhiên, tư duy quản lý theo cơ chế bao cấp và mơ hình các
bộ “chủ quản” đã hạn chế sự phát triển của các trường ĐHCL. Trách nhiệm quản lý
các trường ĐHCL của các Bộ, Ngành, UBND thành phố Hà nội có trường đại học
cịn chưa được làm rõ, đơi khi cịn chồng chéo chức năng QLNN về giáo dục. Sự
phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý các trường ĐHCL còn chưa
chặt chẽ, chưa đồng bộ, nên không kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm. Hệ thống
các trường ĐHCL phát triển nhanh về mạng lưới, quy mô, nhưng cơ chế, phương
pháp quản lý chưa theo kịp. Đội ngũ giảng viên giảng dạy, cán bộ quản lý giáo dục
còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Nguồn lực tài chính và cơ sở vật
chất phục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
chưa thường xuyên, chưa đi vào chiều sâu, chưa kịp thời phát hiện những sai sót, vi
phạm pháp luật ở các trường ĐHCL. Vì vậy, chưa kịp thời đề xuất các biện pháp xử
lý thích hợp và một số vụ việc xử lý còn chưa dứt điểm, dẫn đến đơn thư, khiếu kiện
kéo dài. Những hạn chế trên là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự yếu kém trong chất
lượng giáo dục hiện nay. Hạn chế này trước hết chính do bất cập của thể chế QLNN
đối với trường ĐHCL hiện nay. Hệ thống văn bản pháp luật còn nhiều bất cập, chưa
tạo được một hành lang pháp lý đồng bộ và hiệu quả cho hoạt động QLNN đối với
các trường ĐHCL. Mặt khác việc hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước
thường xuyên thay đổi, mâu thuẫn, còn nhiều khoảng trống chưa điều chỉnh đã ảnh
1


hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo cững như hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý

nhà nước.
Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung cũng như nâng cao
chất lượng của các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng phát triển
đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức cho đất nước đồng thời đảm bảo nhu
cầu ngày càng đa dạng với chất lượng cao của người học đòi hỏi phải tăng cường
hoàn thiện thể chế QLNN về trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chính vì lý do trên việc nghiên cứu đề tài: “Thể chế quản lý nhà nước đối với
trường đại học công lậptrên địa bàn thành phố Hà Nội” là một vấn đề cấp thiết dưới
góc độ lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Thể chế quản lý nhà nước và thể chế quản lý nhà nước đối với trường đại học
công lập là vấn đề được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà quản lý.
Có thể kể một số cơng trình nghiên cứu có những liên quan nhất định đến nội dung
của đề tài như sau:
- Giáo trình “Hành chính cơng” của Học viện Hành chính, (2012) Nhà xuất bản
Giáo dục. Chương 3 của Giáo trình trình bày những vấn đề lý luận cơ bản nhất về thể
chế hành chính nhà nước.
- Tài liệu bồi dưỡng “ Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam” do Phan Thanh
Long chủ biên, (2010).
- Đề tài khoa học cấp nhà nước “Luận cứ khoa học cho các giải pháp đổi mới
quản lý nhà nước về giáo dục ở nước ta những thập niên đầu thế kỷ XXI” do Viện
nghiên cứu phát triển giáo dục trước đây, nay là Viện chiến lược và chương trình giáo
dục thực hiện.
- Luận án tiến sĩ: “QLNN theo hướng đảm bảo sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các trường đại học ở Việt Nam” của tác giả Phan Huy Hùng, (2009).
-Luận án tiến sĩ quản lý công“Thể chế quản lý nhà nước đối với giáo dục sau
đại học ở Việt Nam hiện nay”củaLê Như Phong,(2017).
- Luận án tiến sĩ luật học: “Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công
lập ở nước ta” của Nguyễn Trọng Tuấn, (2018).
Bài viếtMột số giải pháp tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các

trường đại học ở Việt Nam của tác giả Phan Đăng Sơn, Viện Khoa học tổ chức nhà
nước đăng trên Bài viết của tác giả Đoàn Văn Dũng, (2014), Hoàn
thiện thể chế quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học đăng trên Tạp chí Quản lý
nhà nước số tháng 6/2014 cũng đề xuất những giả pháp căn bản hướng tới hoàn thiện thể
chế quản lý nhà nước ở góc độ hẹp là chất lượng giáo dục đại học.
Những cơng trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp về mặt lý luận và
thực tiễn đối với đề tài. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đến nay chưa có đề tài nào đi
sâu nghiên cứu về thể chế quản lý nhà nước đối với trường đại học công lập. Do đó
đề tài: “Thể chế quản lý nhà nước đối với trường đại học công lậptrên địa bàn thành
phố Hà Nội” là một đề tài khơng trùng lặp, mang tính lý luận và thực tiễn cao, đòi
hỏi cần được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở trình bày, phân tích cơ sở khoa học về thể chế QLNN đối với
2


trường ĐHCL, đánh giá thực trạng thể chế QLNN đối với trường ĐHCL trên địa bàn
thành phố Hà Nội hiện nay; mục đích nghiên cứu chính của đề tài là đưa ra các giải
pháp cơ bản nhằm hoàn thiện thể chế QLNN đối với trường ĐHCL trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểmtrường ĐHCL; khái
niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố cấu thành của thể chế QLNN đối với trường
ĐHCL;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thể chế QLNN đối với trường ĐHCL tại thành
phố Hà Nội để chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của thực trạng.
- Đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện thể chế QLNN đối với trường
ĐHCL tại Thành phố Hà Nộihiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống quy định pháp lý về QLNN đối với
trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung
Đề tài nghiên cứu thể chế QLNN đối với trường ĐHCL dưới góc độ hệ thống
văn bản pháp luật điều chỉnh về tổ chức, bộ máy và hoạt động của các trường ĐHCL.
- Phạm vi về địa bàn nghiên cứu:trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu trong đề tài: được xác định từ năm 2017 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo
dục; thể chế QLNN, được thể hiện trong Nghị quyết của Đảng và các văn bản pháp
luật của Nhà nước.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể được sử dụng trong đề tài như
sau:Phương pháp phân tích tài liệu; Phương pháp tổng hợp; Phương pháp so sánh. Bên
cạnh đó, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu bổ trợ khác như:
phương pháp lịch sử, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch… để cung cấp
thêm các luận cứ khoa học và thực tiễn triển khai đề tài.
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý
luận về thể chế QLNN đối với trường ĐHCL, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc
nghiên cứu nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế QLNN đối với trường ĐHCL nói
chung và thể chế QLNN đối với trường ĐHCL tại Thành phố Hà Nộinói riêng.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho học tập và nghiên cứu, cho các cơ quan QLNN, cho các tổ chức và cá nhân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành 2 chương


3


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
1.1. Quan niệm trƣờng đại học công lập và quản lý nhà nƣớc đối với đại học công lập
1.1.1. Quan niệm trường đại học công lập
Trường đại học công lập là cơ sở giáo dục đại học do Nhà nước thành lập và
quản lý, hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và khoa học cơng nghệ bằng kinh phí
từ các nguồn tài chính cơng hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi.
1.1.2. Quan niệm quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập
Quản lý nhà nước đối với trường đại học cơng lậplà sự tác động có tổ chức mang
tính quyền lực - pháp lý của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, hoặc các tổ
chức khi được nhà nước trao quyền thông qua pháp luật để quản lý toàn bộ hoạt
động giáo dục, đào tạo của các học viện, trường đại học công lập nhằm thực hiện
mục tiêu giáo dục của quốc gia.
Từ khái niệm trên có thể xem xét một số đặc điểm của QLNN đối với các trường
ĐHCL như sau:
Một là, cơ quan QLNN đối với các trường ĐHCL.
Hai là, nội dung quản lý nhà nướcđối với các trường ĐHCL
Căn cứ Điều 68,Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy
định về nội dung QLNN đối với giáo dục đại học:
(1) Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học; chiến lược, quy hoạch,
chính sách phát triển giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước;
việc công nhận, thành lập, cho phép thành lập, giải thể, cho phép giải thể cơ sở giáo
dục đại học theo thẩm quyền;
(2) Quy định chuẩn giáo dục đại học bao gồm chuẩn cơ sở giáo dục đại học,

chuẩn chương trình đào tạo, chuẩn giảng viên, cán bộ quản lý và các chuẩn khác; quy
định về xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ giáo dục đại
học; ban hành danh mục thống kê ngành đào tạo của giáo dục đại học, quy chế tuyển
sinh, đào tạo, kiểm tra đánh giá và cấp văn bằng, chứng chỉ trong hệ thống giáo dục
quốc dân; quản lý việc bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học;
(3) Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục đại học; kiểm định, đánh giá,
quản lý, giám sát và đáp ứng nhu cầu thông tin cho cá nhân, tổ chức có liên quan;
(4) Phối hợp với cơ quan có liên quan, tổ chức xã hội - nghề nghiệp về giáo dục
đại học để phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục đại học;
(5) Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục đại học;
(6) Xây dựng cơ chế, quy định về huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để
phát triển giáo dục đại học;
(7) Quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, sản xuất, kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục đại học;
(8) Quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về giáo dục đại học;
(9) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về giáo dục đại học.
4


Như vậy, căn cứ vào nội dung, có thể thấy cơ quan QLNN thực hiện sự QLNN gần
như toàn diện các hoạt động của giáo dục đại học và có nhiều nội dung khá chi tiết, cụ
thể thuộc phần nội dung hoạt động của nhà trường như quy định nội dung khối lượng và
thời gian đào tạo của các khối ngành nghề, các điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ của
các trường.
Tuy nhiên, tiếp cận dưới góc độkhái quát theo quy trình của QLNNgồm 3 nội
dung cơ bản: Xây dựng, ban hành pháp luật; Tổ chức thực hiện pháp luật; Thanh tra,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáovà xử lý vi phạm. Chính vì thế nội dung quản lý
nhà nước đối với trường ĐHCL bao gồm: (i) Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luậtvề giáo dục đại học nói chung cũng như chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,

chính sách phát triển giáo dục đại học; ii) Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về giáo dục đại học và chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
triển giáo dục đại học; iii) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáovà xử lý vi
phạm trong tổ chức và hoạt động các trường ĐHCL.
Ba là, mục tiêu QLNN đối với các trường ĐHCL
Mục tiêu QLNN đối với các trường ĐHCL là việc bảo đảm tuân thủ các qui định
pháp luật trong hoạt động giáo dục của các trường ĐHCL để thực hiện được mục tiêu
giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội.
1.2. Những vấn đề chung về thể chế quản lý nhà nƣớc đối với trƣờng đại học
công lập
1.2.1. Quan niệm thể chế quản lý nhà nước đối với trường đại học cơng lập
Với sự phân tích trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn có thể hiểu: Thể
chếQLNN đối với các trường ĐHCL là hệ thống các quy tắc xử sự được các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hànhdưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật để quy
định, hướng dẫn thực hiện các nội dung QLNN đối với các trường ĐHCL một cách
thống nhất, đảm bảo mục tiêu giáo dụccủa Nhà nước.
Từ khái niệm trên, có thể xem xét một số đặc điểm cơ bản của thể chế QLNN
đối với các trường ĐHCL như sau:
Một là,thể chế QLNN đối với các trường ĐHCL được thể hiện dưới dạng các
văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành.
Hệ thống văn bản pháp luật được ban hành để QLNN đối với trường
ĐHCLngoài nhữngvăn bản chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp như Luật Giáo dục
2005 (sửa đổi, bổ sung 2009), Luật Giáo dục đại học 2012, Luật Giáo dục đại học
sửa đổi, bổ sung năm 2018. Nghị định, thông tư hướng dẫn còn được quy định trong
những văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tài chính, tổ chức bộ máy.
Hai là, thể chế QLNN đối với các trường ĐHCL là một bộ phận của thể chế
QLNNnói chung.Vì thế, thể chế QLNN đối với các trường ĐHCL nằm trong một
chỉnh thể thống nhất và có mối quan hệ khăng khít với các lĩnh vực khác của thể chế
QLNN. Điều này xuất phát từ chức năng chung của bộ máy quản lý nhà nước là quản
lý trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đồng nghĩa với việc xây

dựng, hoàn thiện thể chế thể chế QLNN đối với các trường ĐHCLphải trên cơ sở tính
sự tác động tất cả các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
1.2.2. Vai trị thể chế quản lý nhà nước đối với trường đại học công lập
Thứ nhất, thể chế QLNN đối với trường ĐHCLxây dựng khung pháp lý để tổ chức và
hoạt động hiệu quả, đáp ứng mục tiêu giáo dục
5


Thứ hai, góp phần phịng ngừa, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật phát sinh
trong tổ chức và hoạt động các trường ĐHCL
Thứ ba, góp phần xây dựng cơ cấu tổ chức, bộ máy QLNN đối với các trường
ĐHCL hoạt động thống nhất, hiệu quả
Thứ tư, thể chế QLNN đối với trườngĐHCL góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục đại học, quyết định đến sự phát triển các trườngĐHCL
1.2.3. Các yếu tố cấu thành thể chế quản lý nhà nước đối với trường đại học công lập
Một là, hệ thống quy định pháp luật về bộ máy QLNN đối với các trường ĐHCL
Hai là, hệ thống các quy định pháp luật về tổ chứcnhân sự các trường ĐHCL.
Ba là, hệ thống các quy định về hoạt động chuyên môn các trường ĐHCL
Bốn là, hệ thống các quy định pháp luật về cơ sở vật chất và chế độ chính sách.
Năm là, hệ thống các quy định pháp luật về giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục Đại học.
Sáu là, hệ thống các quy định về tự chủ và trách nhiệm giải trình của các trường
ĐHCL.
1.3. Yếu tố ảnh hƣởng đến thể chế quản lý nhà nƣớc đối với các trƣờng đại học
cơng lập
1.3.1. Yếu tố chính trị
Nội dung, hình thức và quá trình triển khai thể chế QLNN đối với trường ĐHCL
ở Việt Nam phải phù hợp và thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mặt khác sự ảnh hưởng của yếu tố chính trị cịn thể hiện ở sự tác động của mơi

trường chính trị ổn định, phát triển bền vững. Đây là một trong những điều kiện thuận
lợi và ảnh hưởng tích cực đối với hoạt động xây dựng và thực hiện thể chế QLNN đối
với trường ĐHCL, vì nó củng cố ý thức và niềm tin của cán bộ, đảng viên và thành tố
xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng, gia tăng lập trường chính trị - tư tưởng của các
cá nhân có thẩm quyền trong xây dựng và thực hiện pháp luật.
1.3.2. Yếu tố kinh tế
Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac – Lê nin,
Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường, thể chế QLNN về giáo dục đại học
nói chung quy định cơ chế tổng quát phát triển giáo dục đại học hiện nay là: Nhà
nước đóng vai trị chủ đạo kết hợp với cơ chế thị trường, cơ chế tự chủ của các cơ sở
giáo dục và vai trò của xã hội. Cơ chế này đảm bảo cho giáo dục đại học phát triển
theo định hướng của nhà nước, phát huy được những mặt tích cực, hạn chế những
tiêu cực của cơ chế thị trường, đồng thời huy động được sự quan tâm và trách nhiệm
của toàn xã hội đối với sự phát triển giáo dục đại học. Chính vì vậy khi xây dựng,
hồn thiện thể chế QLNN đối với các trường ĐHCL phải trên cơ sở định hướng
chung đó.
1.3.3. Yếu tố văn hóa – xã hội
Ở nước ta, xét từ góc độ văn hóa truyền thống dân tộc, có những giá trị tốt đẹp
tác động tích cực đến chế độ chính trị, xã hội, nền hành chính của ta như: tinh thần
yêu nước, ý chí độc lập dân tộc, lịng nhân ái,...mặt khác, một số yếu tiêu cực: tư
tưởng bản vị, địa phương, bảo thủ, tư tưởng phong kiến tác động không nhỏ đến hoạt
động QLNN nói chung Trên cơ sở đó cũng ảnh hưởng đến thể chế QLNN đối với
trường ĐHCL.
6


1.3.4.Yếu tố con người
Con người luôn là một nhân tố quyết định đến tất cả hoạt động QLNN trong đó
có việc xây dựng, ban hành thể chế QLNN đối với trường ĐHCL. Trong yếu tố con
người, có thể tách ra những chủ thể sau: Một là đội ngũ cán bộ, cơng chức tham gia

q trình xây dựng, ban hành văn bản pháp luật QLNN đối với các trường ĐHCL.
Hai là, lực lượng cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục – nhân tố cấu thành
bộ máy QLNN đối với giáo dục – những người triển khai thực hiện thể chế QLNN
đối với trường ĐHCL.

7


Chƣơng2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.Khái quát chung về Thành phố Hà Nội và đánh giá sự tác động đến thể chế
quản lý nhà nƣớc đối với các trƣờng đại học công lập trên địa bàn
2.1.1. Khái quát chung về thành phố Hà Nội
Thủ đơ Hà Nội nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu
não về chính trị, văn hố và khoa học kĩ thuật, đồng thời là trung tâm lớn về giao dịch
kinh tế và quốc tế của cả nước.
Hà Nội ngày nay vẫn là trung tâm giáo dục lớn nhất Việt Nam.Năm 2017, Hà
Nội có 719 trường tiểu học, 609 trường trung học cơ sở và 208 trường trung học phổ
thông với 27.552 lớp học, 1.814 nghìn học sinh Là một trong hai trung tâm giáo dục
đại học lớn nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều trường đại học cơng lập và
tư thục đào tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng. Nhiều trường đại học ở đây như
Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện
Kỹ thuật Quân sự, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Ngoại thương,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội là những
trường đào tạo đa ngành và chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam.
2.1.2. Ảnh hưởng các điều kiện kinh tế - văn hố- chính trị- giáo dục của thành phố
Hà Nội đến thể chế quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập
Với vị thế là trung tâm chính trị - văn hoá – kinh tế - xã hội – giáo dục của cả
nước, địi hỏi Hà Nội phải khơng ngừng phát triển trên các lĩnh vực, giáo dục cũng

khơng nằm ngồi hệ thống đó. Mặt khác trong xu thế tồn cầu, hội nhập hiện nay đòi
hỏi giáo dục đại học của Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung phải không ngừng
vươn lên, sánh ngang với các nước trong khu vực. Để đạt được mục tiêu đó, hồn
thiện thể chế QLNN đối với các trường ĐHCL là yêu cầu tiên quyết.
Mặt khác với ưu thế so với các tỉnh, thành phố khác trên cả nước, nên việc đầu tư
cho giáo dục trên địa bàn Hà Nội được chú trọng và ưu tiên hơn cả.Đây là một trong
những yếu tố ảnh hưởng góp phần hồn thiện thể chế QLNN đối với trường ĐHCL.
Trên địa bàn Hà Nơi có lượng dân đơng, trình độ dân trí cao u cầu, nắm bắt
thơng tin nhanh nhạy với mọi cải cách trong lĩnh vực giáo dục.Vì vậy, địi hỏi cao với
sự hồn thiện về nội dung, hình thức cũng như kỹ thuật lập pháp của thể chế QLNN
đối với trường ĐHCL.
2.2. Thực trạng thể chế quản lý nhà nƣớc đối với các trƣờng đại học công lập trên
địa bàn Thành phố Hà Nội
2.2.1. Khái quát chung
2.2.1.1.Hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh bộ máy quản lý nhà nước đối với các
trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
Các trường đại học cơng lập đóng trên địa bàn Hà Nội bao gồm ba nhóm:
(1)Trường trực thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo. (2) Trường đại học công lập trực
thuộc “kép” của hai bộ: vừa chịu sự quản lý nhà nước về chuyên môn giáo dục của
Bộ Giáo dục và đào tạo,vừa chịu sự quản lý của Bộ chủ quản gồm 40 trường. Ví dụ
như Đại học Luật Hà Nội thuộc Bộ Tư pháp, Học viện Hành chính Quốc gia thuộc
Bộ Nội vụ,...
8


(3) Trường thuộc UBND Thành phố Hà Nội quản lý như: Đại học Thủ đơ.
Ngồi ra cịn các trường thuộc khối qn đội và cơng an có cơ chế quản lý rất
đặc thù như Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát, Đại học phòng cháy
chữa cháy…
- Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm quản lý nhà nước chung về hoạt

động giáo dục của các trường ĐHCLvà quản lý trực tiếp một số cơ sở đào tạo ĐHCL.
Tại các cơ sở thuộc sự quản lý trực tiếp, Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp ngân sách
và quyết định trực tiếp đến nhân sự và chức năng, nhiệm vụ của các trường này.
Trong Bộ Giáo dục và đào tạo, Vụ Giáo dục Đại học là cơ quan tham mưu giúp Bộ
Các Bộ khác có trường đại học trực thuộc sẽ chịu trách nhiệm phối hợp Bộ Giáo
dục và đào tạo QLNN theo thẩm quyền. Ví dụ: chỉ đạo, kiểm tra các cơ sở giáo dục đại
học trực thuộc Bộ trong việc bảo đảm các điều kiện về thành lập trường, hoạt động
giáo dục, mở ngành đào tạo…; Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc quy
định cụ thể việc đào tạo...
UBND thành phố Hà Nội quản lý hành chính theo lãnh thổ các trường
ĐHCLtrực thuộc các Bộ đóng trên địa bàn; quản lý các trường ĐHCL trực thuộc
thành phố theo điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường do cấp có thẩm
quyền ban hành và các quy định của pháp luật.
Đối với các trường ĐHCL trực thuộc tỉnh, UBND cấp tỉnh quản lý các trường
ĐHCL trực thuộc tỉnh, trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Sở Giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn, tham mưu
giúp việc cho UBND thành phố trong lĩnh vực giáo dục.
2.2.1.2. Quy định về tổ chức, bộ máy và nhân sự của các trường đại học công lập trên
địa bàn thành phố Hà Nội
Về tổ chức, bộ máy, theo Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi bổ sung 2018), cơ
cấu tổ chức của trường đại học bao gồm:Hội đồng trường đại học, hội đồng học viện
(sau đây gọi chung là hội đồng trường); Hiệu trưởng trường đại học, giám đốc học
viện (sau đây gọi chung là hiệu trưởng trường đại học); phó hiệu trưởng trường đại
học, phó giám đốc học viện (sau đây gọi chung là phó hiệu trưởng trường đại học;
Hội đồng khoa học và đào tạo; hội đồng khác (nếu có);Khoa, phịng chức năng, thư
viện, tổ chức khoa học và công nghệ, tổ chức phục vụ đào tạo khác;Trường, phân
hiệu, viện nghiên cứu, cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh và đơn vị khác
(nếu có) theo nhu cầu phát triển của trường đại học (Điều 14). Theo đó Luật Giáo dục
đại học sửa đổi, bổ sung 2018 rất chú trọng đến Hội đồng trường của các trường
ĐHCL với việc quy định rất rõ trách nhiệm, quyền hạn và cơ cấu thành viên của Hội

đồng trường; Tiêu chuẩn, việc bầu chủ tịch hội đồng trường và trách nhiệm, quyền
hạn của chủ tịch hội đồng trường của trường ĐHCL; Danh sách, nhiệm kỳ, nguyên
tắc làm việc của hội đồng trường ĐHCL; Quy chế tổ chức và hoạt động của trường
ĐHCL quy định về hội đồng trường; quy trình, thủ tục thành lập, cơng nhận hội đồng
trường; việc công nhận, bãi nhiệm, miễn nhiệm chủ tịch hội đồng trường, bổ nhiệm,
miễn nhiệm thành viên khác của hội đồng trường. Theo đó Nghị định 127/2018/ NĐCP ngày 21/9/2018 của Chỉnh phủ quy định trách nhiệm QLNN về giáo dục, Chủ tịch
UBND tỉnh/thành phố quyết định thành lập hội đồng trường, công nhận, bổ nhiệm,
miễn nhiệm Chủ tịch hội đồng trường, bổ sung, thay thế thành viên Hội đồng trường;
công nhận, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, khen thưởng, kỷ luật đối với hiệu
9


trưởng, phó hiệu trưởng trường ĐHCL trực thuộc tỉnh theo tiêu chuẩn chức danh và
thủ tục do pháp luật quy định.
Đối với các trường ĐHCL trực thuộc Bộ thì thẩm quyền này thuộc về Bộ trưởng
bộ “chủ quản”.
Chương VIII, Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) quy định
chung về giảng viên, gồm 5 điều (từ Điều 54 đến Điều 58): tiêu chuẩn giảng viên;
nhiệm vụ và quyền của giảng viên; chính sách đối với giảng viên; giảng viên thỉnh
giảng và báo cáo viên; các hành vi giảng viên khơng được làm. Ngồi ra các văn bản
hướng dẫn quy định cụ thể về chế độ làm việc,chế độ chính sách, điều kiện bổ nhiệm
lãnh đạo…; Các quy định như tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa về trình
độ theo chức danh đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục; quyết định về
việcban hành quy định, tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo
sư, phó giáo sư…
Như vậy trong tổng số 74.991 giảng viên trên cả nước, có gần 30% các giảng
viên đang tham gia giảng dạy cho các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trong đó giảng viên có trình độ cao là tiến sĩ chiếm 37,1%; giảng viên có trình độ
thạc sĩ là 26%.
2.2.1.3.Hệ thống các quy định pháp luật về hoạt động chuyên môn của các trường đại

học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
Hoạt động đào tạo được quy định tại Chương IV Luật Giáo dục đại học 2012
(sửa đổi, bổ sung năm 2018),gồm 6 điều từ Điều 33 đến Điều 38 quy định về mở
ngành, chuyên ngành đào tạo; chỉ tiêu tuyển sinh và tổ chức tuyển sinh; chương trình,
giáo trình giáo dục đại học; tổ chức và quản lý đào tạo; văn bằng giáo dục đại học.
Trong tổng số 352.982 sinh viên đại học cơng lập tuyển mới thì sinh viên của
các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội chiếm 32,33%. Số sinh viên đang
học của các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội chiếm 34,81%. Số sinh viên
tốt nghiệp của các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội chiếm 33,58%.
Trong tổng số 41.908 học viên thạc sĩ đại học cơng lập tuyển mới thì học viên
thạc sĩ của các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội chiếm 57,47%. Số học
viên thạc sĩ đang học của các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội chiếm
45,83%. Số học viên thạc sĩ tốt nghiệp của các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố
Hà Nội chiếm 48,95%.
Trong tổng số 2.639 nghiên cứu sinh đại học cơng lập tuyển mới thì nghiên cứu
sinh của các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội chiếm 69,76%. Số nghiên
cứu sinh đang học của các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội chiếm
60,19%. Số nghiên cứu sinh tốt nghiệp của các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố
Hà Nội chiếm 73,75%.
Từ số liệu trên có thể thấy, Hà Nội là trung tâm tập trung các trường ĐHCL lớn
trên cả nước, trung tâm đào tạo đại học và các trình độ chất lượng cao.
Về hoạt động khoa học công nghệ, Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ
sung 2018) dành hẳn một chương để quy định về hoạt động khoa học và công nghệ
(Chương V), gồm 4 điều (từ Điều 39 đến Điều 42) quy định về mục tiêu hoạt động
khoa học và công nghệ; nội dung hoạt động khoa học và công nghệ; nhiệm vụ và
quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học trong hoạt động khoa học và công nghệ; trách
nhiệm của nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ. Trên cơ sở đó, Chính phủ
10



đã ban hành Nghị định 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014 của Chính phủ quy định
việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và cơng nghệ
trong các cơ sở giáo dục đại học.
2.2.1.4. Hệ thống các quy định pháp luật về cơ sở vật chất và chế độ chính sáchđối với
các trường đại học cơng lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
Nội dung này quy định trong Luật giáo dục đại học tại Chương X gồm 4 điều từ
Điều 64 đến Điều 67 (sửa đổi, bổ sung 2018) quy định về nguồn tài chính của cơ sở
giáo dục đại học; học phí, lệ phí tuyển sinh; quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại
học; quản lý và sử dụng tài sản của cơ sở giáo dục đại học. Ngồi ra cịn được thể chế
hóa trong các văn bản hướng dẫn như: Nghị định 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy
định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 2016 đến năm học 2020 – 2021.
Ngoài ra,theo Nghị định 86/2015/NĐ-CP, mức trần học phí năm học 2018 – 2019
đối với các chương trình đào tạo đại trà trình độ đại học tại các cơ sở giáo dục công lập
tự bảo đảm kinh phí thường xuyên và chi đầu tư áp dụng theo các khối ngành Khoa học
xã hội, kinh tế, luật, nông lâm, thuỷ sản là 1,85 triệu đồng /tháng; ngành khoa học tự
nhiên, kỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao, nghệ thuật, khách sạn, là 2,2, triệu
động/tháng; ngành Y là 4,6 triệu đồng/tháng.
2.2.1.5. Hệ thống các quy định pháp luật về giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực giáo dụcđối với các trường đại học công lập trên địa bàn thành
phố Hà Nội
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực giáo dục ngoài quy định trong Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung
2018) , Luật Xử lí vi phạm hành chính 2012 cịn được điều chỉnh cụ thể trong các văn
bản như: Nghị định 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2013 của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động thanh tra giáo dục, Thông tư 32/2014/TT-BGDĐT ngày 25/9/2014 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo quy định về Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ cộng tác viên
thanh tra giáo dục, Thông tư 39/2013/TT-BGDĐT ngày 04/12/2013 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo hướng dẫn về thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục.
2.2.1.6. Hệ thống các quy định pháp luật về tự chủ và trách nhiệm giải trình đối với các

trường đại học công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) chú trọng đến quy định về tự
chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học nói chung và các trường đại
học cơng lập nói riêng. Theo đó cơ sở giáo dục được tự chủ trong 3 lĩnh vực:
(1) Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban
hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào
tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với
quy định của pháp luật.
(2) Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện
quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của
từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức
và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở giáo dục đại
học phù hợp với quy định của pháp luật.
11


(3) Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực
hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu
hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và chính
sách khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Đến thời điểm năm 2018, cả nước có 23 trường ĐHCL tự chủ về tài chính. Trên
địa bàn Hà Nội có một số trường như: Trường Đại học Thương Mại, Trường Đại học
Bách Khoa Hà Nội, Học viện Bưu chính viễn thơng; Trường Đại học Cơng nghiệp
Hà Nội, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Trường Đại học Hà Nội…Trên cơ sở đó
năm học 2018 - 2019, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, học phí đào tạo đại trà
năm khoảng 15-20 triệu đồng; học phí các chương trình tiên tiến bằng 1,3 – 1,5 lần
mức học phí đại trà cùng ngành; học phí các chương trình đào tạo quốc tế khoảng 40
-50 triệu. Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội mức học phí bình qn tối đa năm
học 2018 - 2019 là 16 triệu/năm tăng khoảng 2 triệu đồng so với năm ngối; mức trần
học phí đối với trình độ đào tạo tiến sĩ là 2,5 lần; thạc sĩ là 1,5 lần so mức bình quân

tối đa trên. Trường Đại học Kinh tế quốc dân: chương trình đại trà của trường năm
2018 – 2019 thấp nhất là 13,5 triệu/năm và cao nhất là 18,5 triệu đồng/năm tuỳ từng
ngành học.
2.2.2. Đánh giá chung về thể chế quản lý nhà nước đối với các trường đại học công
lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.2.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân
Thứ nhất, về kết quả đạt đƣợc
Hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục nói chung và pháp luật về giáo dục đại
học nói riêng đã từng bước được hình thành và khơng ngừng phát triển bước đầu đã
thu được những thành quả quan trọng về việc mở rộng quy mơ, đa dạng hóa các hình
thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Trình độ dân trí được nâng
cao, chất lượng giáo dục có những chuyển biến bước đầu. Các văn bản pháp luật của
Quốc hội về công tác giáo dục; các nghị định, quyết định, chỉ thị, thơng tư của Chính
phủ, của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục được ban hành ngày càng nhiều điều
chỉnh từng nội dung công việc cụ thể như: việc tổ chức, điều hành hoạt động nhà
trường, quản lý tài chính, tài sản, quản lý đối với giáo viên, chế độ đối với sinh viên,
các quy định đối với nhà trường trong các bậc học, chế độ thu chi tài chính của nhà
trường.... Chúng ta đã xây dựng được bộ máy quản lý nhà nước đối với các trường
ĐHCL tương đối hoàn chỉnh từ trung ương tới địa phương. Ở Bộ Giáo dục và Đào
tạo có Vụ chuyên trách quản lý giáo dục đại học là Vụ Giáo dục Đại học; ở Vụ Đào
tạo của các Bộ, ngành và ở các Sở giáo dục đào tạo của thành phố đều có cán bộ theo
dõi các trường đại học. Trách nhiệm QLNN về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo
với các bộ, ngành có trường và với UBND tỉnh/thành phố đã được điều chỉnh cụ thể
trong các văn bản pháp lý.
Thứ hai,nguyên nhân của kết quả đạt được
Trước hết là do sự quan tâm mạnh mẽ, liên tục của Đảng, Quốc hội và Chính
phủ, UBND thành phố và toàn thể cơ quan ban ngành, các đồn thể xã hội cho sự
nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Vì vậy nhà quản lý đã có
những nhận thức tương đối tồn diện về sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế QLNN
đối với trường ĐHCL. Trên cơ sở đó Quốc hội, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo

và các đơn vị có liên quan đã tích cực ban hành, triển khai các văn bản pháp luật, các
12


quy hoạch phát triển các trường ĐHCL dài hạn, các chương trình mục tiêu, quyết
định các chương trình đề án lớn, có tác dụng lâu dài đáp ứng yêu cầu thực tiễn.Đội
ngũ nhà giáo tận tâm với nghề, nhân dân có truyền thống chăm lo cho giáo dục. Cán
bộ quản lí giáo dục ở cơ sở và Bộ Giáo dục và Đào tạo nỗ lực khắc phục khó khăn,
sáng tạo giải quyết các nhiệm vụ thực tế đặt ra. Mặt khác, nhận thức của lãnh đạo các
trường ĐHCL ngày càng cao hơn, ý thức được vai trò của thể chế QLNN về giáo dục
trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục quốc gia. Vì vậy các các cơ sở giáo dục ln
chủ động đề xuất, đưa ra chính kiến để góp phần xây dựng hệ thống pháp luật hồn
chỉnh. Và áp lực, dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng cũng là những
phương tiện tác động rất lớn trong việc hoàn thiện thể chế QLNN đối với trường
ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Điều này xuất
phát từ truyền thống coi trọng giáo dục của Việt Nam từ xa xưa đến nay.
2.2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, hạn chế
Một là, hạn chế trong các quy định và triển khai thực hiện các quy định về mơ
hình bộ máy QLNN các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
Hai là, hạn chế trong nội dung các quy định pháp luật về cơ chế tự chủ và trách
nhiệm giải trỉnh.
Ba là Quy định về công tác quản lý tài chính, kinh phí đào tạo chưa phù hợp với
thực tiễn.
Bốn là, bất cập trong tổ chức, bộ máy và nhân sự của các trường ĐHCL
Năm là, bất cập trong các quy định về hoạt động chuyên môn
Sáu là, bất cập trong các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm
Bảy là, hạn chế về kỹ thuật lập pháp, lập quy
Nguyên nhân của bất cập có thể xác định như sau:
Thể chế QLNN đối với các trường ĐHCL đang trong giai đoạn chuyển mình từ

cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế mới dẫn đến phát sinh nhiều quan hệ
xã hội chưa kịp thời điều chỉnh. Bộ máy QLNN, tư duy QLNN chưa theo kịp với
những biến động của giáo dục cũng như những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội.
Tư duy QLNN về giáo dục đại học vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề của tư duy
thời kỳ trước. Khuynh hướng QLNN về giáo dục đại học vẫn luôn đi theo hướng tập
trung quyền lực, ôm đồm, sự vụ, không phân cấp và giao quyền tự chủ cho các
trường
Hệ thống giáo dục bị chi phối cùng lúc bởi nhiều loại quy luật: quy luật sư
phạm, quy luật quản lý hệ thống, quy luật kinh tế và quy luật xã hội. Các cán bộ quản
lý giáo dục , nhất là ở cấp quốc gia không được quy hoạch và đào tạo có hệ thống, để
có thể nắm vững các loại quy luật trên, vận dụng sáng tạo trong công tác, dẫn đến
những hạn chế trong hoạt động QLNN.
Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát
triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm "giáo dục là quốc sách hàng đầu" còn
chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương
trình phát triển giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Chủ trương, quan điểm của Đảng và các quy định pháp luật về cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục công lập khi triển khai cịn mang tính hình
thức. Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở
13


giáo dục, đào tạo chưa rõ ràng. Nhiều khi cơ quan nhà nước lại “lấn sân” sang hoạt
động quản trị trong cơ sở giáo dục. Thể chế QLNN đối với trường ĐHCL vẫn còn
ảnh hưởng bởi cơ chế quản lý quan liên bao cấp, vì vậy nặng chiều chỉ đạo từ trên
xuống, xin từ dưới lên. Tư tưởng ”bộ chủ quản” cịn khá nặng nề vì thế nhà nước
đang ”ơm” quá nhiều lĩnh vực chưa tạo điều kiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
hoàn toàn cho các cơ sở giáo dục. Đồng thời, chính tư duy bao cấp còn nặng đã làm hạn
chế khả năng huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo. Cơ quan
QLNN và các bộ ngành liên quan vẫn coi trường ĐHCL như đơn vị hành chính khác,

một tổ chức trực thuộc Bộ nên dẫn can thiệp sâu vào hoạt động nhà trường dẫn đến các
trường không thể phát huy vai trị chủ động, sáng tạo trong hoạt động.
Cơng tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng
đúng mức dẫn đến các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chậm được phát hiện. Đa
phần khi có phản ánh dư luận hay có thơng tin báo chí thì cơ quan nhà nước mới tiến
hành thanh tra, kiểm tra.
Ngoài ra một lý do khách quan, do sự vận động thay đổi mạnh mẽ của các điều
kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm gần đây (đặc biệt là từ khi có đường
lối đổi mới 1986) dẫn đến thể chế QLNN đối với trường ĐHCL chưa kịp chuyển biến
kịp với tốc độ phát triển và nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Mặc dù chúng ta tiến hành cải
cách giáo dục cùng với các cuộc cải cách khác như cải cách hành chính, cải cách kinh
tế nhưng những chậm trễ trong việc cải cách hành chính nhà nước, trong việc đổi mới
quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng lao động, chính sách tiền lương… là những yếu tố
cản việc giải quyết có hiệu quả những vướng mắc của ngành giáo dục.
2.3. Giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nƣớc đối với các trƣờng đại học công
lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.3.1. Nhóm giải pháp chung
2.3.1.1.Đổi mới tư duy quản lý nhà nước và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
các trường đại học công lập
Các hệ thống đại học trên thế giới rất đa dạng, do mỗi nước có điểm xuất phát
khác nhau và trình độ phát triển cũng rất khác nhau. Nhưng nhìn chung, các hệ
thống đang có xu thế chuyển dần về phía tăng cường tự chủ và tự quản. Sự kiểm tra
về cung cấp tài chính hãy cịn duy trì khá phổ biến.Chính sách và quyết định của nhà
nước chỉ xác định khung pháp lý cho các cơ sở đại học hoạt động.Việc xác định
những mức độ tự chủ nhất định cho các trường đại học là rất cần thiết để hệ thống
đại học có thể đáp ứng một cách hiệu quả và mềm dẻo những thay đổi của điều kiện
thị trường.Mục đích chủ yếu của việc giao quyền làm chủ cho hệ thống giáo dục đại
học có thể hoạt động một cách có hiệu quả và đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của xã
hội.Thể chế tự chủ cao hơn là yếu tố then chốt tạo ra sự thành công của các cuộc cải
cách đại học, đặc biệt là những cuộc cải cách nhằm đa dạng hoá và sử dụng các

nguồn lực một cách có hiệu quả.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo và công bằng xã hội trường đại học phải tự chịu
trách nhiệm của mình, đó là trách nhiệm với với xã hội và trách nhiệm với nội bộ
nhà trường. Trách nhiệm là sự tương xứng giữa hoạt động với nghĩa vụ, là hệ quả
của tự do ý chí của con người, là đặc trưng cho hoạt động có ý nghĩa của con người.

14


Cùng với đổi mới tư duy trong QLNN đối với các trường ĐHCL là tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động QLNN về giáo dục nói chung và trường
ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng. Đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý, chú trọng quản lý chất lượng giáo
dục. Những định hướng phát triển giáo dục và giáo dục trong các Nghị quyết của
Đảng cần được nhanh chóng thể chế hố trong các văn bản pháp lý cụ thể để làm
tiền đề cho hoạt động QLNN.
2.3.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh về bộ máy quản lý nhà nước
Như đã trình bày ở phần 2.2., với ba mơ hình quản lý đối với các trường ĐHCL
hiện nay là một trong những nguyên nhân khơng phát huy được vai trị, sự tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các trường đại học, giảm khả năng sáng tạo của các đơn vị cũng
như làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đại học. Vì
vậy, cần thiết lập một mơ hình tổ chức quản lý nhà nước theo hướng: xóa bỏ mơ hình
bộ “chủ quản, địa phương “chủ quản” tại các cơ sở giáo dục công. Tất cả các
trường ĐHCL chịu sự quản lý chung của một đầu mối là Bộ Giáo dục và đào tạo để
tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và các Bộ chủ quản, chính quyền địa phương
can thiệp sâu vào hoạt động quản trị của nhà trường.
Tuy nhiên, với xu hướng chuyển từ các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Giáo dục và
đào tạo, Bộ ngành và UBND thành phố Hà Nội như hiện này sang các trường đại học
tự chủ 100%. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng không trực tiếp chỉ đạo, điều hành và can
thiệp về tổ chức, tài chính, nhiệm vụ, quyền hạn của các trường đại học công. Tất cả tổ

chức và hoạt động của các trường ĐHCL do Hội đồng trường quyết định. Bộ Giáo dục
và đào tạo chỉ thực hiện chức năng quản lý, nghĩa là tham mưu, hoạch định chính sách,
tạo hành lang pháp lý để các trường ĐHCL hoạt động và phát triển giáo dục. Đồng thời
Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm định chất
lượng giáo dục nhằm phòng ngừa, ngặn xử lý các vi phạm pháp luật.
Như vậy,Bộ Giáo dục và Đào tạo chuyển từ mô hình kiểm sốt truyền thống
sang mơ hình giám sát trong mọi mặt quan hệ với các trường ĐHCL. UBND thành
phố Hà Nội cũng giữ vai trò chức năng là cơ quan QLNN theo lãnh thổ, khơng cịn
trường ĐHCL trực thuộc, do thành phố thành lập, chỉ đạo, điều hành. Cụ thể là tăng
cường công cụ lập kế hoạch, quy hoạch phát triển các trường ĐHCL theo định hướng
chung của phát triển thủ đô; đồng thời tham gia cùng Bộ Giáo dục và đào tạo trong
hoạt động thanh tra, kiểm tra theo địa bàn quản lý.
Nhìn chung mơ hình QLNN chung với các trường ĐHCL trên địa bàn thành phố
Hà Nội cũng như phạm vi cả nước đó là duy trì sự can thiệp đúng mức của nhà nước
thông qua các cơng cụ pháp lý, quy chế, tài chính để rồi từ bỏ dần sự can thiệp trực
tiếp vào quản lý vi mô, tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đại học là cần thiết. Mặt
khác, để có thể sử dụng các lực lượng thị trường, tạo động lực cho giáo dục đại học
một cách đúng mức, cần có sự tham gia của các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà
trường vào việc điều chỉnh và nâng cao sự chịu trách nhiệm của các cơ sở đại học.
Như vậy sẽ khơng tồn tại hình thức “trực thuộc kép” của rất nhiều trường ĐHCL hiện
nay. Cũng khơng cịn hình thức Bộ Giáo dục và đào tạo vừa QLNN vừa quản trị các
trường đại học trực thuộc. Như vậy đảm bảo thống nhất một đầu mối, tránh tình
trạng chồng chéo, mâu thuẫn và các Bộ chủ quản can thiệp sâu vào hoạt động quản trị
15


của nhà trường. Chỉ có những lĩnh vực đào tạo liên quan mật thiết đến an ninh, chính
trị hay những lĩnh vực thiết yếu chưa thể chuyển giao cho khu vực tư thì một số Bộ
ngành như (Bộ Cơng an, Bộ Quốc phòng) và Bộ Giáo dục và đào tạo mới trực tiếp quản
lý. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chuyển dần từ “Chính phủ chỉ đạo, điều hành”

sang mơ hình “Chính phủ kiến tạo, phục vụ” và xu hướng xã hội hóa hoạt động giáo dục
Với những trường ĐHCL thuộc sở hữu Nhà nước, cần xác định rõ vai trò quản
lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng
chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản lý của các cơ sở giáo dục.
Nhà nước với tư cách nhà đầu tư cung cấp một phần vốn hoạt động của các cơ sở này
mà thôi. Cần tiến tới, Nhà nước không chỉ đầu tư tài chính cho các trường ĐHCL. Để
đảm bảo cơng bằng trong lĩnh vực giáo dục và hướng tới chất lượng giáo dục đại học,
trường nào đạt mức độ chuẩn cao sẽ được các cơ chế ưu tiên về đầu tư, khơng có sự
phân biệt cơng – tư.
Bên cạnh đó, để đảm bảo chất lượng, hiệu quả QLNN cần tăng cường phối kết
hợp giữa cơ quan ban ngành trong QLNN đối với trường ĐHCL trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Cụ thể là quan hệ phối hợp giữa cơ quan QLNN theo ngành (Bộ Giáo
dục và đào tạo) và cơ quan QLNN theo lãnh thổ (UBND thành phố Hà Nôi). Đồng
thời, xuất phát từ tính thống nhất trong QLNN, tổ chức và hoạt động các trường
ĐHCL ngoài chịu sự quản lý Bộ Giáo dục và Đào tạo và chính quyền địa phương còn
chịu sự quản lý gián tiếp của các bộ, ngành có liên quan. Ví dụ như vấn đề tài chính
thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính; vấn đề con người, nhân sự do Bộ Nội vụ điều
chỉnh; khoa học công nghệ liên quan đến Bộ Khoa học và công nghệ; hợp tác quốc tế
là thuộc thẩm quyền của Bộ Ngoại giao. Vì vậy để thể chế QLNN đối với các trường
ĐHCL trên địa bàn thành phố Hà Nội là một thể thống nhất, thơng suốt và minh bạch
địi hỏi sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương có liên quan. Vì vậy việc
phân cấp, phân cơng, phân nhiệm phải rõ ràng để tránh chồng chéo và buông lỏng
trong quản lý, chế độ thông tin, báo cáo, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở, phối hợp phải
thông suốt, liên tục.
Cùng với việc thay đổi mơ hình QLNN đối với các trường ĐHCL cần củng cố
và nâng cao chất lượng, trình độ chun mơn của đội ngũ cơng chức trong Bộ Giáo
dục và đào tạo, Sở Giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội – những người trực tiếp
tham mưu hoạch định chính sách và tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra chất
lượng các trường ĐHCL.Bởi lẽ, con người là nhân tố quyết định cho sự thành công
của mọi hoạt động. Trong hoạt động quản lý nhà nước cũng vậy. Đội ngũ công chức

đang làm việc trong các cơ quan QLNN về giáo dục các cấp là thành phần, nhân tố cơ
bản và quan trọng nhất của hệ thống QLNN về giáo dục có tác động trực tiếp đến
chất lượng và hiệu quả của công tác QLNN về giáo dục. Năng lực của người quản lý
giáo dục được hình thành và phát triển thơng qua đào tạo, huấn luyện và tích luỹ kinh
nghiệm trong thực tiễn cơng tác. Quản lý nói chung và quản lý giáo dục là một nghề
chuyên biệt nên người quản lý phải có các phẩm chất, năng lực phù hợp và nhất thiết
phải có đào tạo hoặc bồi dưỡng về chuyên môn quản lý.
Công chức chính là những người nhân danh quyền lực nhà nước để tiến hành
các hoạt động quản lý trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội. Bộ máy nhà nước
chỉ hoạt động có hiệu lực, hiệu quả khi nào mà chất lượng của công chức được nâng
cao. Đặc biệttrong lĩnh vực giáo dục, một lĩnh vực đặc thù khi mà đối tượng quản lý
16


ở đây là con người có trình độ có kiến thức vì vậy địi hỏi hệ thống cơng chức phải có
tư duy và phương pháp quản lý phù hợp. Trên cơ sở sự hiểu biết về con người, các
nhà quản lý phải xây dựng được thể chế kết hợp giữa khơng gian tự do để các nhà trí
thức, nhà giáo dục cống hiến kết hợp với giới hạn quản lý của nhà nước. Vì vậy, cần
đẩy mạnh cơng tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, giỏi về chun mơn nghiệp vụ, có kiến thức và tầm nhìn vĩ
mơ về quản lý nhà nước.
2.3.1.3. Hồn thiện các quy định pháp lý về quản lý nhà nước trong những lĩnh vực cụ thể
Thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp lý về tổ chức, bộ máy, nhân sự các trường
ĐHCL
Việc tổ chức, điều hành của các trường đại học công sẽ do Hội đồng trường thực
hiện. Hội đồng trường là tổ chức quản trị, đại diện quyền sở hữu của nhà trường.Điều
18 Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) Hội đồng trường ngoài nhiệm
vụ, quyền hạn quy định tại như: Quyết định về chiến lược, kế hoạch phát triển, kế
hoạch hằng năm của đại học, việc kết nạp thành viên mới, tổ chức lại đại học theo
quy định của pháp luật;Ban hành quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính,

quy chế dân chủ ở cơ sở của đại học;Quyết định về phương hướng đào tạo, hoạt động
khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học; Quyết
định về cơ cấu tổ chức, đơn vị thành viên của đại học; tiêu chuẩn chủ tịch, phó chủ
tịch (nếu có), thành viên hội đồng đại học; tiêu chuẩn giám đốc, phó giám đốc đại
học; quyết định và trình cơ quan quản lý có thẩm quyền ra quyết định công nhận, bãi
nhiệm, miễn nhiệm giám đốc đại học; bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm phó giám
đốc đại học trên cơ sở đề xuất của giám đốc đại học; việc quyết định các chức danh
quản lý đơn vị thuộc, trực thuộc đại học do quy chế tổ chức và hoạt động của đại học
quy định; tổ chức đánh giá hiệu quả hoạt động của chủ tịch hội đồng đại học, giám
đốc đại học hằng năm; lấy phiếu tín nhiệm đối với chủ tịch hội đồng đại học, giám
đốc đại học vào giữa nhiệm kỳ hoặc đột xuất; Quyết định chính sách đầu tư, xây
dựng cơ sở vật chất, nguồn lực dùng chung trong đại học; chính sách huy động các
nguồn vốn đầu tư phát triển đại học; quyết định chủ trương đầu tư, sử dụng tài sản có
giá trị lớn thuộc thẩm quyền của đại học theo quy định của quy chế tổ chức và hoạt
động của đại học; quy định chính sách tiền lương, thưởng và quyền lợi khác của chức
danh quản lý đơn vị thuộc, trực thuộc đại học theo kết quả, hiệu quả cơng việc; quy
định chính sách học phí, hỗ trợ người học; phê duyệt kế hoạch tài chính, thơng qua
báo cáo tài chính hằng năm, thơng qua quyết tốn kinh phí đối với các nguồn thu hợp
pháp của đại học;Giám sát việc thực hiện quyết định của hội đồng đại học thực hiện
quy chế dân chủ trong hoạt động của đại học và trách nhiệm giải trình của giám đốc
đại học; giám sát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản của đại học; báo cáo hằng
năm trước hội nghị toàn thể của đại học về kết quả giám sát và kết quả hoạt động của
hội đồng đại học;Tuân thủ pháp luật; chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước cơ quan
quản lý có thẩm quyền và các bên liên quan về các quyết định của hội đồng đại học;
thực hiện công khai, minh bạch thông tin, chế độ báo cáo, chịu sự thanh tra, kiểm tra
của cơ quan có thẩm quyền, thực hiện trách nhiệm giải trình trong phạm vi trách
nhiệm, quyền hạn của hội đồng đại học; chịu sự giám sát của xã hội, cá nhân và tổ
chức trong đại học.
17



Có thể nói nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng đại học công lập quy định tại Luật
Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung năm 2018 là rất lớn. Tuy nhiên Luật Giáo dục đại
học sửa đổi, bổ sung 2018 đến 1/7/2019 hiệu lực. Vì vậy cần sớm ban hành các văn
bản hướng dẫn cụ thể trình tự thủ tục, điều kiện bầu thành viên Hội đồng đại học
công lập để có cơ sở triển khai thực hiện. Đồng thời, sửa đổi Luật Cán bộ công chức
2008, Luật Viên chức, theo đó chuyển Hiệu trưởng (hoặc Giám đốc ) sang chế độ
viên chức.
Thành viên hội đồng trường bao gồm: Hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng, bí thư
đảng ủy, chủ tịch Cơng đồn, bí thư Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; đại diện
một số khoa, Một số thành viên hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, công nghệ,
sản xuất, kinh doanh. Đối với các trường đại học công, Nhà nước chỉ là một trong những
thành viên đại điện trong Hội đồng trường.
Mặt khác quy định thời hạn và có chế tài xử lý nghiêm các các trường ĐHCL
chưa thành lập hoặc chậm chễ trong việc thành lập Hội đồng đại học công lập.
Đối với đội ngũ giảng viên, Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung 2018 đã quy
định thạc sĩ là trình độ tối thiểu đối với giảng viên giảng dạy trình độ đại học trừ chức
danh trợ giảng. Đồng thời, trình độ của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ thạc
sĩ và tiến sĩ là tiến sĩ. Như vậy, đến 1/7/2019 Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung
2018 có hiệu lực cần kiên quyết chỉ cho phép các giảng viên đủ tiêu chuẩn tham gia
giảng dạy để đảm bảo sự tuân thủ nghiêm minh pháp luật và chất lượng giảng dạy.
Với 1.497 giảng viên có trình độ đại học của các trường ĐHCL hiện nay, có hai
phương án:
(i) Phương án 1: mỗi trường quy định một thời hạn để các giảng viên học tập
nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu giảng dạy.
(ii) Phương án 2: giảng viên không nâng cao được trình độ đạt chuẩn có thể
chuyển sang phịng ban quản lý (nếu thiếu và đáp ứng yêu cầu) hoặc kiên quyết chấm
dứt hợp đồng lao động.
Bên cạnh việc nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng đội ngũ giảng viên cần song song
cải tiến chế độ, chính sách và đãi ngộ thỏa đáng đối với giảng viên để thu hút và giữ

chân đội ngũ tri thức có trình độ cao, tạo động lực thu hút, động viên đội ngũ giảng
viên toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục đào tạo. Vì vậy cần thiết phải rà
sốt, bổ sung, hồn thiện các quy định, chính sách, chế độ về bổ nhiệm, sử dụng, đãi
ngộ, kiểm tra đánh giá đối với giảng viên cũng như các điều kiện bảo đảm việc thực
hiện các chính sách, chế độ đó; chỉnh sửa lại chế độ bồi dưỡng, thù lao cho hoạt động
của các giảng viên một cách hợp lý theo sự biến động về giá cả hiện nay trên thị
trường. Đúng như tinh thần Nghị quyết số 29/NQ-TƯ về đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục nêu rõ, thang bảng lương của các giáo viên phải được xếp cao nhất.
Vì vậy cần hoàn thiện hệ thống ngạch, bậc lương của giảng viên nói riêng và các
nhà giáo nói chung một cách khoa học, hợp lý. Theo đó phải được ưu tiên xếp cao
nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp. Cùng với chế độ lương là
chế độ phụ cấp đối với nhà giáo tiếp tục được đổi mới hoàn thiện vì tính đặc thù của
nghề giáo theo đúng ngun tắc: “ Cùng mức độ phức tạp cơng việc thì mức độ lương
như nhau: điều điện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi thì thực hiện bằng chế
độ phụ cấp theo nghề” được Nghị quyết số 29/NQ-TƯ.
18


Mặt khác với tư duy đổi mới hoạt động giáo dục theo hướng tăng quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cho các trường ĐHCL thì cần trao quyền thoả thuận mức lương,
thu nhập đối với giảng viên trên cơ sở ngạch lương, bậc lương và các khoản thu sự
nghiệp của trường ĐHCL . Có vậy mới phát huy tối đa, tiềm năng, sức sáng tạo của
các đơn vị giáo dục, cũng như khuyến khích và thu hút được nhân tài.
Cùng với đội ngũ giảng viên, để làm nên chất lượng của trường ĐHCL chính là
đội ngũ viên chức quản lý trong các bộ phận như đào tạo, tổ chức, khảo thí, thanh
tra… Thực tế cho thấy, hầu hết các viên chức quản lý giáo dục ít được đào tạo một
cách bài bản, chuyên nghiệp về kiến thức quản lý nhà nước mà thường được đào tạo
ở rất nhiều chuyên ngành khác hoặc là giảng viên chuyển sang, vì thế năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ của họ chưa đáp ứng được với u cầu cơng việc "quản trị đại
học". Vì vậy, bên cạnh việc tăng cường nâng cao năng lực và chất lượng của giảng

viên đại học thì cũng cần chú trọng nâng cao năng lực và chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý trong các trường đại học thông qua việc đào tạo và đào tạo lại một cách bài
bản cho đội ngũ này, mặt khác phải chú trọng năng lực thực tế của họ để bố trí cơng
việc phù hợp.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp lý về tự chủ và trách nhiệm giải trình của
các trường ĐHCL
Để tăng quyền tự chủ và trách nhiệm của các trường ĐHCL cần có các thơng tư
hướng dẫn theo ngành dọc của Bộ hoặc UBND các cấp, văn bản cần rõ ràng, khả thi,
chuẩn xác, đúng đối tượng thể hiện quan điểm chỉ đạo của Nhà nước về giáo dục đại
học Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế; rà soát lại các văn bản pháp quy liên
quan đến quản lý hoạt động của các trường đại học và ban hành quy định chi trả cải
biên, nội dung quản lý cơng tác đào tạo, tài chính, nhân sự... trong các trường đại học;
xây dựng tiêu chí và mức độ quan hệ giữa quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của
các trường ĐHCL.(Nội dung này được thể hiện và triển khai trong việc hoàn thiện
các quy định pháp lý về tổ chức, bộ máy nhân sự, cơ sở vật chất, tài chính, hoạt động
chun mơn, thanh tra, kiểm tra, đánh giá).
Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp lý về hoạt động chuyên môn của các
trường ĐHCL
Cần xây dựng chiến lược phát triển cho việc đào tạo đại học, thạc sĩ, tiến sĩ trong
nước theo từng giai đoạn. Chiến lược này phải bao gồm bốn yếu tố: ngành nghề đào
tạo, số lượng đào tạo, chất lượng đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực này sau đào tạo.
Về ngành nghề đào tạo, việc ngành nào, nghề nào cũng đào tạo như hiện nay
gây lãng phí nguồn lực xã hội và chất lượng thấp vì đầu tư dàn trải trong khi ngân
sách có hạn. Trong khi đó có những lĩnh vực như khoa học cơ bản rất cần thiết thì
chúng ta cần chọn ra ngành nghề trọng điểm cần đào tạo phù hợp với định hướng
phát triển của đất nước.
Về số lượng đào tạo, chúng ta cần đánh giá chính xác nhu cầu của xã hội, tránh
đào tạo dư thừa. Tiếp theo, chất lượng đào tạo cần được cải thiện, thắt chặt đầu ra, áp
dụng tiêu chuẩn quốc tế. Cuối cùng, các cơ quan chức năng cần xây dựng đề án sử
dụng nguồn nhân lực đã được đào tạo này có hiệu quả, tránh hiện tượng chảy máu

chất xám.
Để khắc phục tình trạng các trường mở rộng quy mô quá lớn so với các điều
kiện đảm bảo chất lượng đào tạo và để nhà trường có điều kiện ổn định và đầu tư phát
19


triển, phải tạo hành lang pháp lý để căn cứ vào các điều kiện bảo đảm chất lượng, nhà
trường được Nhà nước giao nhiệm vụ đào tạo theo một chỉ tiêu đào tạo và giữ ổn định.
Bộ Giáo dục và Đào tọa cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể để các trường đại học
căn cứ vào đó thực hiện, tránh tình trạng các trường tuyển sinh vượt quá kế hoạch, chỉ
tiêu cho phép. Tiến tới xóa bỏ cơ chế chỉ tiêu, kế hoạch tuyển sinh, các trường chủ
động tuyển sinh theo khả năng đào tạo của mình và nhu cầu thị trường lao động
Các trường căn cứ vào đặc điểm của mình có trách nhiệm xây dựng chương
trình đào tạo theo khung chương trình quy định, vừa đảm bảo chất lượng trong việc
thực hiện mục tiêu đào tạo, vừa thể hiện được thế mạnh chuyên môn của từng trường.
Tiếp tục đầu tư để mở các ngành theo hướng đa dạng hóa các ngành nghề đào
tạo, đảm bảo nội dung chương trình theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tiếp
cận chương trình một số trường đại học quốc tế.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định pháp lý về cơ sở vật chất và cơ chế tài chính
của các trường ĐHCL
Sự phát triển của một đơn vị được nhìn thấy ở 2 điểm: cơ sở vật chất đủ mạnh và
phát triển đội ngũ nhân lực trình độ cao. Trong nền kinh tế tri thức, cơ sở vật chất góp
phần quan trọng làm nên uy tín của một tổ chức, nhất là đối với một trường ĐHCL.
Đồng thời quản lý tài chính đóng vai trị hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động
của các trường ĐHCL. Đây là vấn đề then chốt nhằm đảm bảo quá trình tự chủ và tự
chịu trách nhiệm được thực hiện đầy đủ, khách quan, cơng bằng và minh bạch.
Vì vậy, hồn thiện các quy định pháp lý về cơ sở vật chất và tài chính cho các
trường ĐHCL theo hướng: phân cấp cho các đơn vị trong trường; mở rộng nguồn thu
và khốn chi; hồn thiện quy chế chi tiêu nội bộ; quy định trách nhiệm giải trình về
tài chính giữa các cấp trong trường; tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ và cơng khai

tài chính; đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị trong trường.
Quy định hành lang pháp lý cụ thể trong việc huy động các nguồn tài chính hợp pháp
(vay của tổ chức và các nhân, nhận tài trợ, viện trợ,…).
Với các trường ĐHCL chuyển dần sang tự chủ 100% về tài chính, việc tự xác
định mức thu học phí, chi trả lương cho cán bộ, nhân viên là hướng đi cần thiết.
Thứ năm, hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm đối với các trường ĐHCL.
Như đã trình bày trong 2.2 với quy định của Luật Thanh tra 2010 chỉ có hai hệ
thống cơ quan có chức năng thanh tra. Đó là cơ quan thanh tra nhà nước (bao gồm
Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ, Thanh tra sở, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện) và
cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.Trong lĩnh vực giáo
dục, chủ thể có chức năng thanh tra giáo dục chỉ bao gồm Thanh tra Bộ Giáo dục đào
tạo và Thanh tra Sở Giáo dục – đào tạo và Thanh tra tỉnh (đối với các trường ĐHCL
trực thuộc UBND thành phố Hà Nội).Với khối lượng 54 trường ĐHCL trên địa bàn
chưa kể khối trường tư thục và các cấp học khác nữa, các cơ quan thanh tra không thể
thực hiện khối lượng công việc khổng lồ như vậy.
Vì vậy, trước mắt khi chưa có hành lang pháp lý đầy đủ, chuyển các phịng
thanh tra trong các trường ĐHCL sang phòng kiểm tra và khảo thí chất lượng giáo
dục. Phịng này chức hiện chức năng kiểm tra chuyên môn và đánh giá chất lượng
giáo dục trong nội bộ giúp Hiệu trưởng và Hội đồng trường.
20


Sau này sửa đổi Luật Thanh tra 2010, có lẽ cần phải bổ sung một lực lượng
thanh tra chuyên ngành giáo dục trong các đơn vị sự nghiệp với đầy đủ thẩm quyền
pháp lý phù hợp.
Về nội dung hoạt động, trong giai đoạn hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra
cần tập trung vào các nội dung QLNN về giáo dục đại học cũng như công tác tuyển
sinh; chế độ tài chính, học phí, cấp phát văn bằng chứng chỉ và đảm bảo chất lượng
đào tạo... Các hoạt động thanh tra, kiểm tra cần đổi mới theo hướng là "nhà tư vấn"

quá trình đào tạo cho các cơ sở giáo dục. Để công tác thanh tra, kiểm tra phát huy
được ý nghĩa quan trọng của nó, các đơn vị thanh tra, kiểm tra cần có kế hoạch thanh
tra, kiểm tra tập trung vào các vấn đề trọng điểm như việc đảm bảo sự phù hợp nội
dung đào tạo với mục tiêu, sứ mệnh của ngành và cơ sở giáo dục. Cần chú trọng xây
dựng đội ngũ làm công tác thanh tra, kiểm tra có đủ năng lực, kinh nghiệm, dám
nghĩ, dám làm, khơng ngại va chạm và có phẩm chất đạo đức qua việc đào tạo, bồi
dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, trang bị và cập nhật những kiến thức, kỹ năng, học
hỏi kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục tiên tiến để đội ngũ làm công tác thanh
tra kiểm tra hồn thành tốt cơng tác của mình.
2.3.2. Giải pháp cụ thể đối với thành phố Hà Nội
2.3.2.1 Giải pháp về tổ chức thực hiện
Hiện nay, các trường ĐHCL đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội với số lượng
lớn nhưng rải rác và có nhiều trụ sở trường còn xen kẽ các khu dân cư tập trung đơng
đúc (ví dụ Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Bách Khoa..) môi trường giáo dục
không tập trung. Đồng thời việc xây dựng các trường ĐHCL trong nội thành, khu dân
cư tập trung cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tắc đường gây áp lực rất
lớn cho hạ tầng giao thơng thành phố Trong khi đó, u cầu về giảm mật độ dân số,
phương tiện nội đô, hạn chế ùn tắc giao thông đang ngày càng cấp bách…. Vì vậy
năm 2011, thực hiện Quyết định số 1259/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch chung xây
dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính
phủ, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội yêu cầu di dời 12 cơ sở giáo dục: Đại học
Cơng đồn, Đại học Kinh tế kỹ thuật cơng nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, Đại học
Ngoại thương, Đại học Răng Hàm Mặt, Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Xây dựng,
Đại học Y Hà Nội, Đại học Y tế công cộng, Viện Đại học Mở Hà Nội, Cao đẳng
Công nghệ cao Hà Nội và Cao đẳng Y tế Hà Nội. Các trường di dời theo đó sẽ được
bố trí ở các khu đơ thị vệ tinh như Gia Lâm, Sóc Sơn, Sơn Tây, Hịa Lạc... Tuy nhiên,
khó khăn về vốn và nhiều nguyên nhân mà hiện nay mới chỉ có trường Đại học Y tế
cơng cộng di dời ra quận Bắc Từ Liêm. Mặt khác bản thân các trường “chen chúc”
trong nội đô nên cơ sở vật chất nhiều trường khơng đảm bảo, thiếu giảng đường,
phịng thí nghiệm, phịng chức năng khác…

Vì vậy để đảm bảo chất lượng giáo dục, UBND thành phố Hà Nội cần đẩy mạnh
việc phối hợp với các Bộ, ngành tiến hành tổ chức di dời trước mắt 12 cơ sở giáo dục
theo Quyết định số 1259; sau đó tiếp tục lập kế hoạch để di dời các trường ĐHCL
còn lại ra các khu đô thị vệ tinh trừ một số trường hợp đặc biệt có giá trị về văn hố,
lịch sử… Điều này sẽ tạo một không gian giáo dục tập trung, có điều kiện cơ sở vật
chất được đầu tư đầy đủ, hiện đại. Tất nhiên bài tốn khó khăn nhất là kinh phí xây
dựng. Nhưng với cơ chế đặc thù của thủ đơ, UBND thành phố Hà Nội có thể xây
dựng những phương án đặc biệt. Ví dụ đổi đất lấy xây dựng hạ tầng. Các trường
21


ĐHCL hầu hết đều đóng ở những vị trí đắc địa được coil à “đất vàng” của Thủ đô.
Đồng thời với cơ chế tự chủ về tài chính các trường, chính sách thu hút xã hội hố
các nguồn đầu tư… sẽ có nguồn kinh phí hỗ trợ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng các
trường ĐHCL. Đây chính là thẩm quyền quản lý nhà nước theo lãnh thổ của UBND
thành phố Hà Nội đối với các trường ĐHCL không trực thuộc và cũng thể hiện sự
khác biệt trong QLNN đối với các trường ĐHCL ở các địa phương khác
2.3.2.2. Giải pháp về kỹ thuật lập pháp, lập quy
Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động QLNN đối với các trường ĐHCL, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành một số lượng không nhỏ các văn bản quy
phạm pháp luật. Kể từ khi Luật Giáo dục đại học 2012 ban hành đến nay, Chính phủ,
các bộ, ngành ở trung ương đã ban hành hàng trăm văn bản pháp luật nhằm hướng
dẫn thi hành Luật Giáo dục (chưa kể số lượng văn bản của chính quyền địa phương).
Không kể Nghị định hướng dẫn, những loại văn bản chi phối hoạt động của các cơ sở
GDĐH, bao gồm cả Điều lệ chung; Quy chế tổ chức hoạt động chung; Điều lệ riêng
và Quy chế hoạt động của từng cơ sở giáo dục đại học.
Qua phân tích cho thấy, thể chế quản lý nhà nước đối với các trường ĐHCL
vẫn có sự chồng chéo, mâu thuẫn nhất định. Mặt khác Luật Giáo dục đại học 2018 (
sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đại học 2012) ra đời, cần có hệ thống các văn bản
hướng dẫn thi hành các quy định sửa đổi, bổ sung. Đồng thời hệ thống các quy định

pháp lý điều chỉnh về quản lý nhà nước đối với các trường ĐHCL trên địa bàn thành
phố Hà Nội không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật Giáo dục đại học mà còn liên quan
đến các pháp luật về lĩnh vực tài chính (ví dụ Luật Ngân sách, Luật Đầu tư công) ;
nhân sự ( vấn đề tuyển dụng, chế độ, chính sách, khen thưởng, kỷ luật, bổ nhiệm
trong pháp luật về viên chức) , thanh tra, kiểm tra ( quy định trong Luật Thanh tra
2010) và khơng thể khơng nhắc đến Luật Thủ đơ.
Vì vậy, cần tổng rà soát, đánh giá hệ thể chế quản lý nhà nước đối với các
trường ĐHCL. Ngày 6 tháng 2 năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
16/2013 -NĐ về rà sốt và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Nghị định này
quy định nguyên tắc, nội dung, trình tự, thủ tục rà sốt, hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật; việc xử lý kết quả rà sốt; trách nhiệm rà sốt, hệ thống hóa văn bản
và các điều kiện bảo đảm cho công tác rà sốt, hệ thống hóa văn bản do các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện. Đây
là cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành hoạt động rà soát, đánh giá thể chế quản lý
nhà nước đối với các trường ĐHCL hiện nay.
Trước tiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như UBND thành phố Hà Nội cần
kiểm tra, rà soát các văn bản pháp luật quy định thuộc thẩm quyền để tiến hành việc
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của Luật Giáo dục đại học 2018 và phù
hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay về quản lý nhà nước đối với các trường
ĐHCL trên địa bàn cũng như đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật có liên
quan (pháp luật tài chính, nhân sự, thanh tra…)
Song song với q trình rà sốt, hệ thống hóa văn bản pháp luật quản lý nhà
nước đối với các trường ĐHCL cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật Thủ đơ
theo hướng chuyển từ luật ”khung”, luật ”ống” mang tính định hướng, nguyên tắc
cho việc phát triển giáo dục sang việc quy định các cơ chế, chính sách đặc thù cho
việc quản lý nhà nước đối với các trường ĐHCL trên địa bàn. Khi xây dựng văn bản
22


cần bám sát thực tế, đặc thù của thủ đô Hà Nội, và những vấn đề nảy sinh nhằm tránh

sự chủ quan khi xây dựng văn bản; Có quy trình đánh giá tồn bộ các quy định có
liên quan trước khi xây dựng văn bản mới tránh sự trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn
giữa các quy định. Trong quá trình soạn thảo văn bản cần khảo sát, đánh giá tác động
cũng như mở rộng sự tham gia của các cơ quan nghiên cứu, nhà khoa học, của những
người bị điều chỉnh, có cơ chế bắt buộc để những nhà xây dựng văn bản tiếp thu các
ý kiến đóng góp để van bản bám sát thực tế đảm bảo tính khả thi, hiệu quả của văn
bản pháp luật được ban hành.

23


×