Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kiểu con người trong tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.36 KB, 6 trang )

124
KIỂU CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT QUYÊN
CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN VĂN THỌ
SV. Nguyễn Minh Việt
TS. Nguyễn Thị Kim Tiến
Tóm tắt. Bài viết tập trung bàn về kiểu con người trong tiểu thuyết, đó là “con
người cơ đơn” và “con người tha hương”. Trên cơ sở đó chúng tơi đề xuất nhận định
của bản thân về sự đóng góp của các kiểu con người trong tiểu thuyết Quyên. Đồng
thời chúng tôi cũng khái quát sự vận động của tiểu thuyết đương đại Việt Nam, trong
cái nhìn quy chiếu qua tiểu thuyết Quyên để thấy được những điểm nổi bật về phương
diện con người trong tiểu thuyết hải ngoại.
1. Mở đầu
Trong những năm gần đây, với xu hướng tồn cầu hóa, nền văn học nước nhà
đã có những bước phát triển nhất định khơng chỉ về phương diện nội dung mà cịn ở
nghệ thuật. Đặc biệt hơn, văn học hải ngoại đã có những đóng góp khơng nhỏ trong sự
phát triển ấy. Chính vì thế, dịng văn học mang tên hải ngoại những năm gần đây có
những bước chuyển mình đáng ghi nhận của các tác giả như: Thuận, Phan Việt, Đoàn
Minh Phượng, Lê Minh Hà, Nguyễn Văn Thọ… Những điều họ viết thường là nỗi
lòng của những con người Việt khi rời khỏi lãnh thổ hình chữ S với tâm trạng nhớ quê
hương, đất nước, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn… Tất cả làm họ viết nên những trang văn
mang đậm cảm thức tha hương.
Quyên là cuốn tiểu thuyết hay của nhà văn Nguyễn Văn Thọ, nhà văn hải ngoại
đang sống và làm việc tại cộng hòa Đức. Xoay quanh cuốn tiểu thuyết là một khúc bi
ca về những phận người. Với lối dẫn chuyện khá hấp dẫn, đầy ắp chi tiết đời sống và
hơi thở đắng cay, lãng mạn của hiện thực, Quyên của Nguyễn Văn Thọ thực sự đã
mang đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ về tiểu thuyết hậu hiện đại. Kết cấu
nghệ thuật trong tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ rất đặc biệt. Có thể
nói đây là một trong những biểu hiện thành công của nền văn học Việt Nam đương đại
về phương diện nghệ thuật. Qua nghiên cứu tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn
Văn Thọ, chúng tơi thấy có hai kiểu con người xuất hiện phổ biến và xuyên suốt tác
phẩm là “con người cô đơn” và “con người tha hương”.


2. Nội dung chính
Văn học nghệ thuật là phương tiện chính thể hiện cái nhìn về con người. Tiểu
thuyết Qun của Nguyễn Văn Thọ tái hiện bức tranh khốc liệt về số phận đầy biến cố
của những người xa xứ. Bài viết này tập trung khảo sát hai dạng thức cơ bản của con
người trong tiểu thuyết Quyên, nơi biểu hiện rõ nhất cách nhìn, những quan niệm, suy tư
của nhà văn về con người. Từ đó góp phần giúp độc giả khám phá và lí giải một cách rõ
nét hơn quan niệm nghệ thuật về con người, nhữngthông điệp thẩm mĩ - nghệ thuật của
tiểu thuyết Nguyễn Văn Thọ trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam ở hải ngoại.
Qua q trình khảo sát tác phẩm, chúng tơi nhận thấy có hai kiểu thức con
người xuất hiện phổ biến và xuyên suốt tác phẩm là “con người cô đơn” và “con người
tha hương”.


125
2.1. Con người cô đơn
Với tư cách là một người nghệ sĩ mang trong mình vốn hiểu biết của một người
từng trải, Nguyễn Văn Thọ đã tạo cho mình một tiếng nói riêng trên văn đàn hải ngoại.
Là một người nghệ sĩ tha hương, tâm hồn của ông đã chạm đến miền thẳm sâu, đầy bí
ẩn trong tâm trạng và bản thể của mỗi con người. Trạng thái tâm lí thường xuất hiện
trong đời sống nhân vật là nỗi cô đơn và tuyệt vọng trong tâm hồn.
Có thể nói, con người cô đơn là sản phẩm của xã hội hiện đại. Ngay từ sau năm
1975 đất nước được hịa bình thống nhất, văn học khơng cịn khám phá con người ở
phương diện mang tính cộng đồng, thay vào đó là sự lên ngôi của cái tôi cá nhân, các
nhà văn lúc này chuyển ngòi bút quan tâm từng số phận con người. Đặc biệt hơn, cơ
đơn trong gia đình là bi kịch đắng cay nhất của mỗi con người. Bởi lẽ, gia đình là mái
ấm là nơi ni dưỡng hạnh phúc. Thế nhưng, chính cuộc sống tấp nập vội vã của cuộc
sống hiện đại, con người dường như vơ tình để qn gia đình, thậm chí họ từ bỏ gia
đình vốn có để đi tìm một hướng đi mới vì cuộc sống mưu sinh. Đó cũng chính là
ngun nhân khiến cho con người rơi vào cảm thức cô đơn lạc lõng.
Khi Nguyễn Huy Thiệp viết truyện ngắn Tướng về hưu, tác giả đã cho thấy một

hiện trạng về con người cơ đơn trong chính gia đình, chính xã hội đang thay đổi từng
ngày. Ông Nguyễn Thuấn là một vị tướng có uy lực trong quân đội, vào những ngày
cuối đời ông về hưu và trở về với cuộc sống đời thường bên người thân. Từ chính cuộc
sống ấy, ơng đã chứng kiến bao chuyện đau lịng trong gia đình, họ hàng, xa hơn nữa
là một xã hội ông đang sống. Ông cảm thấy cuộc sống này quả thật không phù hợp với
ơng, mặc dù ơng đã cố gắng hịa nhập nhưng ơng đành bất lực. Ln lí đạo đức mà ông
suốt đời trân trọng, yêu quý và luôn giữ bên mình để răn dạy con cháu, điều mà ơng
cho rằng cần thiết với tất cả mọi người thì người đời lại bỏ đi, không thèm để ý đến.
Đặc biệt hơn, người con trai của ông lại hèn nhát trước tên Khổng, người luôn dùng
thơ ca buông lời chọc ghẹo vợ của mình. Do đó ngơi nhà được xem là mái ấm lại trở
thành sự cơ đơn lạnh lẽo, khơng có tiếng cười, tình thương và hạnh phúc. Xét ở một
phương diện nội dung, con người trong tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn
VănThọ cũng khơng nằm ngồi cảm thức đó.
Qun là một cơ gái trẻ đẹp, vì muốn thay đổi cuộc sống, đã cùng chồng là
Dũng vượt biên sang Đức với mong muốn được đổi đời. Thế nhưng chính cuộc ra đi
này đã làm cho Quyên chịu đựng bao bi kịch tan vỡ gia đình và đó cũng chính là
ngun nhân dẫn đến nỗi cơ đơn trống vắng trong lịng người xa xứ. Ngay ở những
chương đầu của tiểu thuyết, tác giả đã để Quyên bước vào tác phẩm với một vẻ đẹp
cuốn hút. Thế nhưng bên cạnh vể đẹp ngoại hình thì Qun cũng mang trong người sự
cơ đơn lạnh lẽo của cõi lịng. Đó là khi cơ đi tìm chồng, trong đêm đầu hai người gặp
lại nhau bao hy vọng được hạnh phúc bên chồng tan biến. Thay vào đó là sự đối xử
lạnh nhạt vì cái thai trong bụng của Quyên. Suốt cả đêm, cả hai đều khơng ngủ, Qun
chủ động đưa tay ơm chồng lấy chồng nhưng đều bị Dũng hất ra và dùng những lời
phũ phàng: “Cơ chửa với thằng nào?” [3, 67]. Lịng ghen tng là sự biểu hiện của
cung bậc tình cảm của con người. Nếu như ai đó đã từng đọc sử thi Ramayana thì sẽ
càng hiểu rõ hơn về vấn đề này. Hoàng tử Rama là một vị vua minh quân, là một
người anh hùng lí tưởng của con người Ấn Độ, có nguồn gốc xuất thân từ đẳng cấp
vương cơng quý tộc. Nhưng trong người của chàng cũng tồn tại mọi cung bậc của tình
cảm, vẫn ghen tng và nghi ngờ Sita khi nàng ở trong tay quỷ vương Ravana quá lâu.
Ở đây sự ghen tuông của Dũng đã làm cho Quyên rơi vào cảm thức cô đơn không lối



126
thốt. Bởi lẽ bao hy vọng tìm chồng, được chung sống hạnh phúc bên chồng giờ đây
đối với Quyên là một thứ xa vời khơng với tới. Trong lịng Qun lúc này như dao cắt,
dường như con người ta lâm vào hồn cảnh khốn cùng thì họ sẽ nghĩ đến cái chết.
Vâng, thật đúng như vậy Quyên đã nghĩ đến cái chết. Trong đêm tối với niềm tuyệt
vọng vây bủa lấy cơ làm cho Qun tự kết liễu đời mình, may mà được Kumar cứu
sống. Nỗi cô đơn trong Quyên cịn xuất hiện khi cơ nhớ đến q nhà. Đó cịn là nỗi cơ
đơn của một người con xa q. Những lúc buồn Quyên chợt nhớ lại những ngày còn ở
Hà Nội bên người thân, ngồi cạnh mẹ già. Giờ nhớ lại sao cơ cảm thấy mình cơ đơn
lạc lõng q, khó mà tìm lại được cuộc sống như ngày xưa.
Khơng chỉ thế, sự cơ đơn của con người cịn được thể hiện qua nhân vật Phi.
Phi là một con người vốn hiền lành, chính sự hiền lành ấy mà Thị - vợ của anh chỉ xem
Phi là một cái bóng nhạt nhịa núp sau vợ. Cuối cùng Phi trở thành một sản phẩm của
sự yếu hèn. Trong Phi lúc nào cũng khao khát hạnh phúc một gia đình thực sự. Niềm
khao khát ấy là nỗi cô đơn bám sâu vào Phi làm cho anh khơng cách nào thốt ra được.
Anh cưu mang mẹ con Quyên với tình thương của một người đồng hương, nhưng
chính tình thương ấy khi sống chung trong nhà đã làm cho anh nảy sinh tình cảm. Để
rồi bao khát khao hạnh phúc trào dâng trong đêm tối và cảnh làm tình diễn ra, đối với
Quyên thì cơ chỉ xem đây là một sự trả ơn chứ khơng có một tình cảm nào với Phi.
Trong khi đó, Hùng, một nhân vật xuất hiện đầu tác phẩm đã tạo một dấu ấn
khá sâu đậm trong lòng độc giả với sự thể hiện con người bản năng đầy ham muốn.
Hùng là một con người sống theo bản năng, chỉ mong chiếm đoạt Quyên về mặt thể
xác. Thế nhưng trong con người anh cũng tồn tại những suy nghĩ lo âu về một kiếp
người. Trong cuối cuộc đời mình Hùng nhận ra rằng chỉ có niềm hạnh phúc và yêu
thương thật sự mới làm cho con người ta thoát khỏi cô đơn. Hùng tâm sự: “lúc đi tây,
người ta ham hố, thích thú lắm. Càng sống lâu, khi mọi việc trở nên nhàm, mới thấy
con người cần nhiều thứ khác cịn lớn hơn vật chất. Phải, giá như có tiền, tôi ở Việt
Nam với mẹ và em trai tôi” [3, 24]. Tâm sự của Hùng chất chứa nỗi niềm của một con

người từng trải, đã lăn lộn với đời bao nhiêu năm, anh nhận ra một điều quý giá ở đời.
Đó là sự thật về giấc mộng làm giàu của những người tha hương mà chỉ người trong
cuộc mới có thể hiểu được. Nếu như trước đây Hùng coi vật chất là đích đến cuối cùng
và hy vọng khi bước chân đến phương Tây có thể đem lại cho anh được điều đó, thì
nay, cuộc sống của kẻ đi buôn tội lỗi, ngày ngày xuyên qua những mảnh rừng, đối mặt
với những cạm bẫy khắc nghiệt nhất của cuộc sống đã nhiều lúc khiến anh thấy kiệt
sức, thấy nhớ da diết về gia đình và anh nhận ra rằng con người ở đời không nên chỉ
mãi lo cho cuộc sống về mặt vật chất mà phải nghĩ đến tình thương, đặc biệt là tình
thương ruột thịt. Tình cảm ấy nó cịn lớn hơn cả vật chất. Vật chất - tình thương, là hai
thứ rất cần thiết, nó cứ luẩn quẩn trong vịng xốy cuộc sống mỗi người, khơng sao
tách ra được, nhất là đối với những thân phận tha phương cầu thực thì cái vịng luẩn
quẩn ấy càng khó tìm được lối thốt chung.
Khơng phải kiểu con người cơ đơn đến văn học đương đại mới được nhắc đến
nhưng nó lại được thể hiện rõ hơn cả trong văn học đương đại. Chắc có lẽ cuộc sống
tấp nập vội vã của nền văn hóa tiêu dùng đã làm cho con người rơi vào cảm thức cơ
đơn khó giãy bày cùng ai. Trong mỗi tác phẩm, kiểu con người này được thể hiện một
cách khác nhau, nhưng nỗi cô đơn trong văn học hải ngoại là nỗi cô đơn khắc sâu vào
tâm trạng nhân vật một cách mãnh liệt, làm cho họ khơng thể nào thốt ra được.


127
2.2. Con người tha hương
Văn học là nơi phản ánh sinh động nhất, đầy đủ nhất những quan niệm về con
người trong một thời đại lịch sử nhất định. Thật đúng với câu nói của nhà văn
M.Gorki: “Văn học là nhân học”. Ơng cho rằng, văn học khơng chỉ mang chức năng
giáo dục con người, hướng con người đến sự hồn thiện chân thiện mỹ. Mà văn học
cịn cung cấp cho người đọc nhiều mảnh đời, nhiều số phận khác nhau để cho người
đọc tự nhận thức cuộc sống cần con người khám phá.
Văn học thời chiến, con người được đặt trong mối tương quan với vận mệnh
lớn lao của dân tộc. Văn học đề cao tinh thần đoàn kết của dân tộc trong công cuộc

dấu tranh bảo vệ đất nước. Động lực chủ yếu làm nên văn học lúc bấy giờ là xem văn
chương là vũ khí lợi hại của mặt trận đấu tranh. Khơng ít tác phẩm, các nhà văn cách
mạng đã thể hiện cuộc sống thời chiến, với những suy nghĩ và hành động mang đậm
dấu ấn anh hùng ca. Đến văn học thời hậu chiến đã đánh dấu những thay đổi trong
nhận thức về con người. Đó chính là con người được nhìn nhận ở nhiều vị thế và trong
tính đa chiều của mọi mối quan hệ. Văn học thời kỳ này đã có những bước đột phá về
nội dung và cả nghệ thuật, cũng như những quan niệm về con người cũng từ đó mà có
sự thay đổi rõ nét. Tất cả đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tiến
trình văn học.
Ở văn học hiện đại, với sự ảnh hưởng của những học thuyết phương Tây, cá
tính con người được đề cao. Chính điều này đã tác động khơng nhỏ đến nền văn học
Việt Nam, con người bước vào văn học với một diện mạo mới, con người được văn
học phản ánh dưới phương diện đời tư thế sự một cách chân thực và sinh động.
Trong tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ, với dung lượng hơn
bốn trăm trang sách nhưng đã mang đến cho người đọc một cái nhìn rõ nét về những
biến cố của cuộc sống mưu sinh của người Việt di dân tới Đức và sự phát triển đáng
ghi nhận của nền văn học hải ngoại. Điều đặc biệt cuốn tiểu thuyết mang lại cho người
đọc là sự thể hiện rõ nét từng số phận khác nhau của những con người tha hương trong
hành trình tìm kiếm miếng cơm manh áo qua ngịi bút giàu xúc cảm, đầy trăn trở của
Nguyễn Văn Thọ.
Những mộng tưởng về cuộc sống giàu sang nơi xứ người bây giờ đã tan biến.
Thay vào đó là sự đỗ vỡ của hạnh phúc, của cảnh chia li đau buồn mà mà Quyên phải
nếm trải. Là một thân phận tha hương bấy lâu, trong tang lễ của Hùng vừa xong.
Quyên suy nghĩ về sự sống và tình cảm như một sự đúc kết kinh nghiệm của bản thân.
“Cuộc sống, suy cho cùng, suy cho cùng là cái gì nhĩ? Suốt cả đời, sao cứ phải biền
biệt, phải đau khổ, vật lộn, mưu mơ, khó nhọc… Để rồi cuối cùng, nếu muốn trở về
đất nước, tất cả, ai ai cũng chỉ còn lại một nắm tro tàn tí tẹo teo kia? Có lẽ cuộc sống
càng hoang lạnh hơn, nếu khi chết đi chẳng để lại một chút tình cảm nào cho một ai đó
cịn đang sống trên thế gian này” [3, 390]. Suy nghĩ của Quyên chất chứa nỗi niềm của
một kẻ đã nghiệm ra một điều quý giá trên đời. Một sự thật nếu không đi nhiều, không

từng trải, không sống phiêu dạt nơi đất khách thì khó mà nhận ra được. Quyên nhận ra
rằng, con người sống trên đời mang tính quy luật của sự hữu hạn. Cuộc đời con người
là gì sao cứ lăn lộn với cuộc sống mưu sinh, thậm chí có thể vì cuộc sống mưu sinh mà
làm những chuyện tội lỗi như buôn thuốc lậu, dẫn đường như Hùng. Để rồi một ngày
kia, con người già theo năm tháng, phải đối diện với thực tại của cái chết, phải trở về
với cát bụi. Đặc biệt hơn là tình cảm của người ra đi và kẻ ở lại sẽ như thế nào nếu con


128
người chết đi mà chẳng có người thân bên cạnh. Qua những suy nghĩ của nhân vật
Quyên, Nguyễn Văn Thọ muốn gửi gắm đến độc giả một thông điệp về quan niệm
sống ở đời. Cuộc sống là một quãng thời gian hữu hạn, cũng như con người trong cuộc
hành trình tha hương. Mặc dù bạn là con người như thế nào? Đã làm ra những lỗi lầm
gì đi chăng nữa? Nhưng bạn sống tốt, biết hướng đến ánh sáng của tình thương thì
chắc hẳn bạn sẽ nhận được những giọt nước mắt từ phía người thân khi bạn khơng
may ngã xuống.
Bên cạnh đó, con người tha hương cịn được thể hiện qua nhân vật Dũng, anh là
một tiến sĩ trẻ trong nước. Anh ra đi với bao nhiêu niềm tin và hy vọng của cuộc sống
giàu sang, thì Dũng lại nhận lấy bấy nhiêu sự tuyệt vọng chán chường của một thanh
niên tri thức: “Xưa, anh hy vọng biết bao nhiêu, về một vị trí xứng đáng đợi chờ anh ở
thế giới phương Tây đầy hấp dẫn, thì ngay sau vài tuần nhập trại, anh thất vọng bấy
nhiêu. Con người ta phải có cơng việc, một nhà khoa học tương lai như anh càng cần
có cơng việc, thế mà bao ngày rồi, anh trở thành kẻ vô công rồi nghề. Bằng cấp, học vị
tiến sĩ của anh, giờ đây chỉ là mớ giấy lộn. Kiến thức và những khát khao, tiền đồ của
anh chỉ là sự phù phiếm. Một sự chờ đợi mệt mỏi, vô vọng!” [3, 69]. Vậy là, bao nhiêu
năm chí thú học hành nghiêm chỉnh, giờ đây vơ hình trung, anh cũng đồng hạn với
những kẻ chỉ mơ ước đủ miếng cơm manh áo, những con người tha hương nơi đất
khách. Đặc biệt hơn là sự ra đi của vợ là một cú sốc quá lớn trong con người anh. Tất
cả đã làm một người thanh niên tri thức như Dũng lâm vào những cơn say men rượu,
đánh mất đi bản tính vốn có của một người tri thức. Từ đây, chúng ta có thể nhận thấy

hình tượng con người Dũng là sự khái quát hóa cao độ của nhà văn về tính bi kịch của
người tri thức hiện đại. Đó chính là những con người vốn có bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến
sĩ nhưng vẫn là một cái bóng dưới đáy xã hội cơ chế thị trường. Vẫn khơng tìm được
một cơng việc cho phù hợp với tài năng thực sự. Đó là sự “thừa nghề thiếu thợ” mà
người đời ta vẫn nói. Nếu như nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa của nhà văn Nam
Cao là sự khái quát tính bi kịch tinh thần của người thanh niên trí thức trước cách
mạng tháng Tám, với mong muốn tạo ra những kiệt tác văn chương để đời. Thế nhưng
vì miếng cơm manh áo, Hộ phải viết vội, viết cẩu thả tạo ra những tác phẩm mà anh
khơng mong muốn thì ở đây, Dũng là một tiến sĩ nhưng anh sống ích kỷ, bị động. Vì
thế, khi quyết định tìm đến “vùng đất hứa” để thay đổi cuộc đời mình thì những tấm
bằng ấy chỉ là tờ giấy lộn, chỉ là những mảnh đời dưới đáy xã hội. Đến đây, ta thấy
tính bi kịch của người trí thức ở mỗi thời đại sẽ có sự biểu hiện khác nhau. Nhưng họ
lại có một điểm chung là, những con người trí thức, có trình độ và tài năng nhưng lại
rơi vào bi kịch tinh thần, không được xã hội trọng dụng, lại rơi vào bi kịch mưu sinh
cơm áo gạo tiền.
Có thể nói con người tha hương là một trong những kiểu nhân vật làm nên tên
tuổi của dòng văn học hải ngoại. Trong mỗi thời kỳ và trong mỗi tác phẩm thì kiểu con
người này lại có những biểu hiện khác nhau theo quan niệm riêng của người nghệ sĩ.
Với Nguyễn Văn Thọ, ông thể hiện con người tha hương như một cảm thức chủ đạo để
gửi đến độc giả nỗi niềm của người xa xứ, của hàng vạn trái tim luôn hướng về quê nhà.
3. Kết luận
Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập quốc tế, ngày càng nhiều những tác phẩm
hải ngoại được giới thiệu đến bạn đọc một cách nồng nhiệt. Tiểu thuyết Quyên của nhà
văn Nguyễn Văn Thọ thật sự tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trên văn đàn nghệ
thuật nói chung và tiểu thuyết hải ngoại nói riêng. Sự hấp dẫn mà cuốn tiểu thuyết


129
mang lại không chỉ ở lối kết cấu nghệ thuật tài tình của nhà văn mà nó cịn là sự khái
quát hóa về cuộc đời của những người Việt tha hương nơi đất khách, sống cơ cực, tủi

nhục, không lối thoát, bế tắc mọi ước mơ, hy vọng về tương lai. Đồng thời tác phẩm
cũng là một khúc “tráng ca” ca ngợi niềm tin, tình thương yêu giữa người với người,
trong hồn cảnh sống tối tăm, tình người vẫn ln tỏa sáng dìu dắt con người qua
mn nỗi đắng cay. Đó cịn là sự nhìn nhận về con người như chính nỗi lịng của nhà
văn. Trong cuộc sống vội vã tấp nập của lối sống hiện đại đôi lúc con người ta rơi vào
cảm thức cơ đơn khó giải bày. Thông qua tác phẩm nhà văn muốn gửi gắm đến chúng
ta một thông điệp vật chất và hạnh phúc là những thứ rất cần ở mỗi con người. Nhưng
không nên quá xem nặng vật chất mà đôi lúc đánh mất đi hạnh phúc mà mỗi cá nhân
vốn được hưởng.
Tài liệu tham khảo
[1].

Hà Minh Đức (chủ biên) (2008), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.

[2].

Nhiều tác giả (2002), Đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.

[3].

Nguyễn Văn Thọ (2011), Quyên, NXB Hội Nhà văn.

[4].

Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, NXB Văn học.

[5].

Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.


[6].

Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục.



×