Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Điều dưỡng: Kết quả tư vấn trước – sau chọc ối và một số yếu tố liên quan tại trung tâm chẩn đoán trước sinh Bệnh viện Phụ sản trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.39 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA KHOA HỌC SỨC KHỎE
BỘ MÔN ĐIỀU DƯỠNG

MAI LỆ HUYỀN
C1201

KẾT QUẢ TƯ VẤN TRƯỚC – SAU CHỌC ỐI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN TẠI TRUNG TÂM CHẨN ĐOÁN TRƯỚC SINH
BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA KHOA HỌC SỨC KHỎE
BỘ MÔN ĐIỀU DƯỠNG

MAI LỆ HUYỀN
C1201
KẾT QUẢ TƯ VẤN TRƯỚC – SAU CHỌC ỐI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN TẠI TRUNG TÂM CHẨN ĐOÁN TRƯỚC SINH
BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG

Chuyên ngành: Điều dưỡng
Mã số
: 8720301


TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Danh Cường
HÀ NỘI - 2019


ĐẶT VẤN ĐỀ
Mỗi năm trên thế giới ước tính có khoảng 7,9 triệu trẻ em
(chiếm khoảng 6% tổng số trẻ em sinh ra trên toàn thế giới) sinh ra
với dị tật bẩm sinh. [13]. Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 1.400 1.800 trẻ bị bệnh Down (Trisomy 21); 200 - 250 trẻ bị hội chứng
Ewards (Trisomy 18); 1.000 - 1.500 trẻ bị dị tật ống thần kinh;
15.000 - 30.000 trẻ bị thiếu men G6PD; 2.200 trẻ bị Thalassemia (tan
máu bẩm sinh) thể nặng sinh ra và các bệnh lý di truyền, dị tật bẩm
sinh khác [16].
Hậu quả của dị tật bẩm sinh là rất nặng nề. Tuy nhiên kinh
nghiệm từ các nước có thu nhập cao chỉ ra rằng có đến 70% dị tật
bẩm sinh có thể dự phịng được [13], [21].
Hiện nay, có rất nhiều phương pháp để sàng lọc trước sinh
nhằm phát hiện dị tật bẩm sinh ở giai đoạn sớm nhưng chọc hút dịch
ối là một phương pháp góp phần rất quan trọng vào chẩn đốn trước
sinh [12], [17]. Tuy nhiên, trong thực tế làm việc, vẫn có những
trường hợp có nguy cơ cao khơng đồng ý chọc hút dịch ối hoặc đồng
ý chọc hút dịch ối nhưng lại khơng đến thực hiện. Với mong muốn
tìm hiểu rõ những vấn đề này nhằm giúp cho công tác tư vấn, chăm
sóc cho bệnh nhân được tốt hơn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này.
Mục tiêu đề tài:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng người bệnh đến chọc hút dịch ối tại
Trung tâm chẩn đoán trước sinh Bệnh viện phụ sản Trung ương.
2. Đánh giá kết quả tư vấn và phân tích một số yếu tố liên quan trong
chọc hút dịch ối.

* Những đóng góp của luận văn
Luận văn lần đầu tiên cung cấp các số liệu liên quan đến
công tác tư vấn chọc hút dịch ối: mô tả được một số đặc điểm lâm
sàng, lý do của đối tượng đến tư vấn chọc hút dịch ối. Xác định được
tỷ lệ chấp nhận chọc ối sau tư vấn, tỷ lệ đến thực hiện chọc ối sau khi
đã chấp nhận và một số lý do đã chấp nhận nhưng không đến chọc ối.
1


Xác định được một số yếu tố liên quan đến việc chấp nhận chọc hút
dịch ối để từ đó nâng cao chất lượng tư vấn.
Luận văn cũng cung cấp bằng chứng vơ cùng quan trọng về
tính an tồn của việc chọc hút dịch ối khi xác định được tỷ lệ biến
chứng. Đồng thời nghiên cứu cũng đưa ra được kết quả của nhiễm
sắc đồ khi đối tượng tham gia chọc ối.
* Bố cục của luận án:
Luận án gồm 53 trang với các phần và 4 chương
- Đặt vấn đề: 02 trang
- Chương 1 - Tổng quan: 15 trang
- Chương 2 - Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 9 trang
- Chương 3 - Kết quả nghiên cứu: 13 trang
- Chương 4 - Bàn luận: 11 trang
- Kết luận: 02 trang
- Khuyến nghị: 01 trang
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm về dị tật thai nhi
Theo định nghĩa của Tổ chức y tế Thế giới (WHO) năm 1972,
bất thường bẩm sinh là tất cả những bất thường về cấu trúc, chức
năng hoặc sinh hố có mặt lúc mới sinh cho dù chúng có được phát
hiện ở thời điểm đó hay khơng [1].

1.2. Một số phương pháp sàng lọc trước sinh
-

Phương pháp sàng lọc bằng siêu âm.

-

Phương pháp sàng lọc bằng định lượng các chất đánh dấu trong
huyết thanh của người mẹ.

-

Các phương pháp sàng lọc không xâm lấn (xác định ADN của
thai trong máu của mẹ NIPT)
2


1.3. Các phương pháp lấy bệnh phẩm của thai
1.3.1. Phương pháp chọc hút dịch ối của thai
Chọc hút dịch ối là một thủ thuật trong đó nước ối được lấy ra từ
buồng tử cung để xét nghiệm. Chọc hút dịch ối là phương pháp lấy
bệnh phẩm dễ tiến hành, ít biến chứng cho mẹ, cho thai và có khả
năng được phổ biến rộng rãi.
1.3.2. Phương pháp sinh thiết gai rau (STGR)
Sinh thiết gai rau thường làm ở tuần thai 10 - 12 tuần qua cổ tử
cung hoặc qua thành bụng. Thuận lợi lớn nhất của STGR là thu được
kết quả di truyền ở tuổi thai sớm hơn so với chọc ối và cho sẩy thai
sớm hơn nếu có kết quả bất thường.
1.3.3. Phương pháp chọc máu tĩnh mạch cuống rốn (CMTMCR)
Chọc máu tĩnh mạch cuống rốn được làm từ tuần thai 18 để

đánh giá tình trạng hematocrit máu, bất thường về máu, nhiễm trùng
bẩm sinh, tình trạng ứ nước của thai, tình trạng chuyển hố, cân bằng
axit-bazơ thai, chức năng tuyến giáp, đếm tiểu cầu thai [22].
1.4. Phương pháp tư vấn chọc hút dịch ối
1.4.1.1. Quy trình tư vấn
- Thu thập tồn bộ thơng tin của thai phụ
- Tư vấn lợi ích và nguy cơ có thể xảy ra trong và sau khi tiến
hành thủ thuật chọc ối (có biên bản tư vấn)
- Thai phụ và chồng ký giấy tờ đồng ý tham gia thủ thuật, chấp
nhận nguy cơ khi tiến hành thủ thuật
- Trước khi tiến hành thủ thuật, thai phụ được làm các xét
nghiệm cơ bản (công thức máu, CRP, đơng cầm máu, nhóm
máu ABO, nhóm máu Rh, HbsAg, TPHA, HIV) và siêu âm
kiểm tra tình trạng thai nhi
- Làm hồ sơ chọc hút dịch ối để lưu lại.
1.4.1.2. Các bước tiến hành
Thời gian tiến hành thủ thuật chọc ối: khoảng 05 phút
❖ Kiểm tra hồ sơ:
3


Kiểm tra các thơng tin hành chính của thai phụ
Kiểm tra các xét nghiệm cơ bản, siêu âm kiểm tra trước chọc
ối xem đã đủ điều kiện làm thủ thuật chưa.
❖ Kiểm tra người bệnh:
- Kiểm tra, đối chiếu tên, tuổi, địa chỉ của thai phụ với hồ sơ
chọc hút dịch ối trước khi tiến hành thủ thuật
- Thai phụ nằm ngửa trên bàn.
❖ Thực hiện kỹ thuật:
- Siêu âm kiểm tra trước chọc ối: xem hoạt động tim thai, vị trí

bánh rau và xác định vị trí sẽ đâm kim trên thành bụng (
tránh vị trí bánh rau)
- Sát khuẩn vùng bụng làm thủ thuật
- Đâm kim qua thành bụng của thai phụ vào trong buồng tử
cung dưới hướng dẫn của siêu âm: đâm kim nhanh, rút nước
ối từ từ và rút kim nhanh
- Lượng nước ối lấy ra:
+ Tuổi thai < 15 tuần: 1 ml/ 1 tuần tuổi thai.
+ Tuổi thai ≥ 15 tuần: 10 - 15 ml/ 1 thai.
- Nước ối sau khi lấy ra được bơm chuyển vào 02 ống chuyên
dụng của phòng xét nghiệm di truyền tế bào. Ống đựng bệnh
phẩm được dán tem có đầy đủ thông tin liên quan đến thai
phụ: họ tên, tuổi, địa chỉ của thai phụ, chỉ định chọc ối, tuổi
thai tại thời điểm chọc hút dịch ối
- Siêu âm lại sau khi rút kim
- Ghi chép rõ ràng các thơng tin liên quan đến q trình chọc
ối: số lần chọc ối, thời gian chọc ối, màu sắc nước ối, tai biến
(nếu có)
- Ghi chép rõ ràng các kết quả liên quan siêu âm sau khi chọc
ối: hoạt động tim thai, cử động thai, tình trạng bánh rau,
nước ối, cổ tử cung
- Lưu trữ hồ sơ theo đúng quy định của Trung tâm.
-

4


CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Thai phụ có chỉ định lấy bệnh phẩm thai nhi bằng chọc
hút dịch ối đến tư vấn tại Trung tâm chẩn đoán trước sinh – Bệnh
viện Phụ Sản Trung ương.
* Địa điểm nghiên cứu
Trung tâm chẩn đoán trước sinh – Bệnh viện Phụ Sản Trung ương.
Thời gian thu thập số liệu: từ 01/2019 – 06/2019.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang.
* Cỡ mẫu nghiên cứu:
Cỡ mẫu của nghiên cứu được tính theo cơng thức sau:
p(1 − p)
2
𝑛 = Z1−α/2
d2
Trong đó:
n: Cỡ mẫu.
α: Mức ý nghĩa thống kê. Chọn  = 0,01 ứng với độ tin cậy
99% thay vào bảng ta được Z(1 – α/2) = 2,58).
p = 0,787 : Tỷ lệ thai phụ chấp nhận chọc ối theo nghiên
cứu của Mai Lệ Huyền.
d = 0,015: Khoảng sai lệch mong muốn giữa tỷ lệ thu được
từ mẫu nghiên cứu và tỷ lệ thu được từ quần thể.
Như vậy cỡ mẫu của nghiên cứu là 1922.
Thực tế cỡ mẫu của chúng tôi là 1953.
Mẫu nghiên cứu sẽ được lựa chọn theo phương pháp lấy liên
tục trong một thời gian nhất định cho đến khi đủ số nghiên cứu theo
công thức đã tính.
Tất cả các hồ sơ có đủ điều kiện tại Trung tâm chẩn đoán trước
sinh – Bệnh viện Phụ Sản Trung ương đều được lựa chọn.
* Nội dung nghiên cứu và phương pháp thu thập số liệu

- Nội dung nghiên cứu
+ Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân đến tư vấn chọc hút dịch ối
+ Kết quả tư vấn chọc hút dịch ối và một số yếu tố liên quan
+ Một số yếu tố liên quan đến việc thai phụ chấp nhận chọc ối
- Phương pháp thu thập thông tin:
5


+ Thu thập thông tin định lượng bằng cách phát vấn sử dụng
bộ câu hỏi tự điền đối với thai phụ đến tư vấn.
+ Lấy thông tin thứ cấp từ hồ sơ bệnh án của thai phụ bằng
phiếu thu thập thông tin thứ cấp.
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân đến tư vấn chọc
hút dịch ối
3.1.1. Đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu (n=1953)
Thông tin chung
Số lượng
Tỷ lệ %
18-24
227
11,6
25-34
958
49,1
Tuổi
35
768
39,3

Thành thị
614
31,4
Khu vực
Nông thơn
1339
68,6
Kinh
1835
94,0
Dân tộc
Khác
118
6,0
Tiểu học
103
5,3
Trung học cơ sở
339
17,4
450
23,0
Trình độ học Trung học phổ thông
vấn
Trung cấp/Cao đẳng
409
20,9
Đại học
560
28,7

Sau đại học
92
4,7
Công nhân
414
21,2
Nông dân
205
10,5
Nghề nghiệp Cơng chức/Viên chức
708
36,3
Lao động tự do
567
29,0
Khác
59
3,0
Có chồng
1930
98,8
Tình trạng
Ly thân, ly hơn, gố
8
0,4
hơn nhân
Khác
15
0,8
Lần 1

390
20,1
Lần mang
Lần 2
609
31,2
thai
Từ lần 3 trở lên
954
48,9

6


Nhận xét:
Gần một nửa các ĐTNC thuộc nhóm tuổi từ 25-34 (49,1%) và
chỉ 11,6% trong độ tuổi từ 18-24. Có 68,6% ĐTNC sống ở nông
thôn. Phần lớn ĐTNC là người dân tộc Kinh (94%). Nhóm ĐTNC có
trình độ trung cấp/cao đẳng/đại học/sau đại học chiếm 54,9%. Nhóm
tiểu học/ trung học cơ sở chiếm 22,7%. Nhóm ĐTNC mang thai từ 3
lần trở lên chiểm tỷ lệ cao nhất (48,9%). ĐTNC mang thai lần 2 và
mang thai lần đầu tiên chiếm tỷ lệ tương ứng là 31,2% và 20,0%.
3.1.2. Tình trạng dị tật bẩm sinh ở những lần sinh trước
Bảng 3.2. Tình trạng dị tật bẩm sinh ở những lần sinh trước
(n=1953)
Tiền sử sinh con dị tật bẩm sinh
Số lượng
Tỷ lệ %
Khơng
1820

93,2

133
6,8
Nhận xét:
Phần lớn ĐTNC khơng có tiền sử dị tật bẩm sinh ở những lần
sinh trước, chiểm tỷ lệ 93,2%.
3.1.3. Lý do đến tư vấn
50%
40%
30%

31.300%

29.400%

20%
10%

19.300%
9.800%

1.600% 6.700%

0%
Tăng
Thai bất Test sàng Tiền sử Mẹ lớn Kết hợp
khoảng thường lọc nguy đẻ con bất tuổi
nhiều chỉ
sáng sau hình thái cơ cao

thường
định
gáy

Biểu 3.3. Lý do đến tư vấn chọc hút dịch ối (n=1953)

7


Nhận xét:
Những lý do chính ĐTNC đến tư vấn chọc hút dịch ối là sau
khi test sàng lọc nguy cơ cao (31,3%) và sau khi kết hợp nhiều chỉ
định (29,4%). Lý do phổ biến tiếp theo là do thai bất thường hình thái
(19,3%). Lí do đến tư vấn do tăng khoảng sáng sau gáy và do mẹ lớn
tuổi chiểm tỷ lệ tương ứng là 9,8% và 6,7%. Tiền sử đẻ con bất
thường là lí do ít gặp nhất, chiếm tỷ lệ 1,6%.
3.2. Kết quả tư vấn chọc hút dịch ối và một số yếu tố liên quan
3.2.1. Kết quả tư vấn chọc hút dịch ối
3.2.1.1. Kết quả chấp nhận chọc ối sau tư vấn chọc hút dịch ối
Bảng 3.5. Tỷ lệ thai phụ chấp nhận chọc ối (n=1953)
Chấp nhận chọc ối
Số lượng
Tỷ lệ %

1374
70,4
Khơng
579
29,6
Nhận xét:

Gần 3/4 ĐTNC chấp nhận chọc hút dịch ối sau khi được tư vấn
(70,4%). Số còn lại khơng chấp nhận chọc hút dịch ối vì nhiều lý do
khác nhau như sợ biến chứng, gia đình khơng đồng ý,...
3.2.1.2. Kết quả chấp nhận chọc ối theo tuổi
Bảng 3.6. Kết quả chấp nhận chọc ối theo tuổi (n=1953)
Tuổi

Chấp nhận chọc ối

Khơng
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
574
74,7
194
25,3
800
67,5
385
32,5
1374
70,4
579
29,6

p

≥ 35 tuổi
< 35 tuổi
0,001
Tổng

Nhận xét:
Tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở nhóm ≥35 tuổi cao hơn nhóm <35 tuổi.
Sự khác biệt về tỷ lệ chấp nhận chọc ối có ý nghĩa thống kê (p <0,05).
3.2.1.3. Kết quả chấp nhận chọc ối theo chỉ định
8


Bảng 3.11. Kết quả chấp nhận chọc ối theo chỉ định (n=1953)
Chấp nhận chọc ối

Khơng
Chỉ định
p
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
lượng
%
lượng
%
Tăng KSSG
153
80,1
38
19,9
Thai bất thường hình thái
166
44,0
211

56,0
Test sàng lọc nguy cơ cao
467
76,3
145
23,7
Tiền sử đẻ con bất thường
25
80,7
6
19,4
<0,001
Mẹ lớn tuổi
81
61,8
50
38,2
Kết hợp nhiều chỉ định
456
79,3
119
20,7
Khác
26
72,2
10
27,8
Tổng
1374
70,4

579
29,6
Nhận xét:
Tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở nhóm có con bất thường về thai nhi
(44%) thấp hơn nhiều so với các nhóm khác. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa các nhóm chỉ định (p <0,05).
3.2.1.4. Kết quả chấp nhận chọc ối theo tình trạng có con bị dị tật
Bảng 3.12. Kết quả chấp nhận chọc hút dịch ối theo tình trạng có
con bị dị tật (n=1953)
Chấp nhận chọc ối
Tình trạng có

Khơng
p
con bị dị tật
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %

104
78,2
29
21,8
Khơng
1270
69,8
550
30,2
0,04
Tổng
1374
70,4

579
29,6
Nhận xét:
Tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở ĐTCN có con bị dị tật (78,2%) cao
hơn so với nhóm khơng có con dị tật (69,8%). Khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (p <0,05).

9


3.2.1.5. Kết quả thai phụ đến thực hiện chọc ối
Bảng 3.14. Tỷ lệ thai phụ đến thực hiện chọc ối (n=1374)
Thực hiện chọc ối

Số lượng

Tỷ lệ %



1263

92,1

Khơng

111

7,9


Tổng

1374

100

Nhận xét:
Trong số 1374 bà mẹ chấp nhận thực hiện chọc ối, thì có 1263
người đến thực hiện chọc ối, chiểm tỷ lệ 92,1%.
3.2.1.6. Lý do không đến thực hiện chọc ối
Bảng 3.15. Lý do thai phụ không đến thực hiện chọc ối sau khi đã
đồng ý chọc ối (n=111)
Lý do thai phụ không thực
Số lượng
Tỷ lệ %
hiện chọc ối
Sợ rủi ro, biến chứng

26

23,4

Gia đình khơng đồng ý

22

19,8

Khác


63

56,8

Tổng

111

100

Nhận xét:
Trong số 111 thai phụ khơng đến chọc ối sau khi đã đồng ý, lý
do thai phụ không đến chọc ối do sợ rủi ro, biến chứng chiếm tỷ lệ
23,4%. Lý do vì gia đình khơng đồng ý chiếm 19,8%. Nhóm vì các lý
do khác chiếm tỷ lệ là 56,8%.
3.2.1.7. Kết quả chọc hút dịch ối
Bảng 3.16. Kết quả chọc hút dịch ối (n=1263)
Kết quả chọc hút dịch ối

Số lượng

Tỷ lệ %

Thành công

1263

100

Không thành công


0

0

Tổng

1263

100

10


Nhận xét:
Tất cả 1263 sản phụ đồng ý chọc hút dịch ối đều đã thực hiện
chọc ối thành công.
3.2.1.8. Biến chứng của chọc hút dịch ối
Bảng 3.17. Biến chứng của chọc hút dịch ối (n=1263)
Biến chứng của chọc
hút dịch ối

Số lượng

Tỷ lệ %



3


0,2

Khơng

1260

99,8

Tổng

1263

100

Nhận xét:
Có 3 trường hợp (0,2%) xảy ra biến chứng sau chọc hút dịch ối.
3.2.1.9. Kết quả nhiễm sắc thể đồ
Bảng 3.18. Kết quả nhiễm sắc thể đồ (n=1259)
Kết quả nhiễm sắc thể đồ

Số lượng

Tỷ lệ %

Bình thường

1126

89,4


Bất thường

133

10,6

Tổng

1259

100

Nhận xét:
Trong số 1259 nhiễm sắc thể đồ, có 1126 (89,4%) kết quả
nhiễm sắc thể bình thường.

11


3.2.2. Một số yếu tố liên quan đến việc đồng ý chọc hút dịch ối
Bảng 3.19. Một số yếu tố liên quan đến việc thai phụ chấp nhận
chọc ối (n=1953)
Một số yếu tố liên quan
OR
95% CI
18-24
1
25-34
0,86
0,62-1,2

Tuổi
35
0,8
0,53-1,2
Nông dân
1
Công nhân
1,01 0,67-1,53
Nghề nghiệp CBCC
0,99 0,69-1,41
Kinh doanh
1,14 0,85-1,53
Khác
0,71 0,36-1,43
Thành thị
1
Địa chỉ
Nông thôn
0,98 0,77-1,24
Kinh
1
Dân tộc
Khác
0,91 0,59-1,41

1
Có con DTBS
Khơng
0,67 0,42-1,06
1

Người thân có Có
con DTBS
Khơng
0,88
0,51-1,5
Có chồng
1
Tình trạng
hơn nhân
Ly thân, ly hơn, gố
0,94 0,53-1,67
Tăng khoảng sáng sau gáy
1
Bất thường hình thái
5,18* 3,43-7,83
1,28 0,86-1,93
Lý do đến tư Test SL nguy cơ cao
vấn
TS đẻ bất thường
1,32 0,48-3,64
Mẹ lớn tuổi
2,57* 1,45-4,55
Kết hợp nhiều chỉ định
1,07 0,67-1,71
Tiểu học
1
THCS
0,6* 0,36-0,98
0,49* 0,29-0,8
Trình độ học THPT

vấn
Trung cấp, cao đẳng
0,48* 0,28-0,82
Đại học
0,62 0,36-1,06
Sau đại học
0,56 0,27-1,14
12


Nhận xét:
Những bà mẹ có thai bất thường hình thái, tuổi mẹ lớn có tỷ lệ
đồng ý chọc hút dịch ối cao gấp 2,57 đến 5,18 lần so với những bà
mẹ siêu âm thấy hình ảnh tăng khoảng sáng sau gáy. Những bà mẹ có
trình độ học vấn từ bậc THCS đến bậc THPT, trung cấp, cao đẳng có
khả năng đồng ý chọc ối ít gấp khoảng 0,6-0,48 lần so với bà mẹ có
trình độ học vấn ở bậc tiểu học. Những mối liên quan này có ý nghĩa
thống kê trong mơ hình hồi quy đa biến logistic với p <0,05.
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân đến tư vấn chọc
hút dịch ối
Trong nghiên cứu của chúng tôi, gần một nửa sản phụ trong độ
tuổi từ 25 đến 34 tuổi, chiếm tỷ lệ cao nhất (49,1%). Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi tương tự với tác giả Nguyễn Thị Hoàng Trang thực
hiện tại Bệnh viện Phụ sản trung ương trong giai đoạn từ năm 2006
đến năm 2011 [4]. Thực tế, kết quả của hai nghiên cứu là hồn tồn
phù hợp vì giới hạn độ tuổi này được coi là độ tuổi trong thời kì sinh
sản của một người phụ nữ [4].
Nghiên cứu của chúng tơi cho thấy có tới 68,6% sản phụ sinh
sống ở khu vực nông thôn và phần lớn các sản phụ là nhóm người

dân tộc Kinh (94%). Kết quả này hồn toàn phù hợp với đặc điểm
dân cư của người Việt Nam. Đây là nghiên cứu được thực hiện tại
một bệnh viện tuyến trung ương tại Hà Nội, nơi tập trung chính của
nhóm người dân tộc Kinh.
Các bà mẹ trong nghiên cứu báo cáo trình độ học vấn trung
cấp/cao đẳng/đại học/sau đại học chiếm 54,9%. Nhóm trải qua qua
bậc học tiểu học/trung học cơ sở chiếm 22,7%. Kết quả của chúng tôi
phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Hà Thị Mỹ Dung, khi đã
báo cáo nhóm có trình độ học vấn cao đẳng/ đại học/ sau đại học
chiếm tỷ lệ cao nhất (44,4%) [3]. Sàng lọc trước sinh cho các bà mẹ
13


trong thời kì mang thai là một vấn đề khơng phải mới, tuy nhiên cần
có sự tư vấn chuyên khoa cũng như sự hiểu biết đúng đắn của sản
phụ thì cơng tác sàng lọc mới có thể phổ biến và đạt hiệu quả. Trình
độ học vấn cũng như học thức và địa vị của các sản phụ ngày càng
càng cao, thì tỷ lệ các sản phụ được tiếp cận với các kỹ thuật sàng lọc
trước sinh cũng ngày càng tăng lên [3].
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tơi, nhóm sản phủ mang
thai từ ba lần trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất (48,9%). Nhóm sản phụ
mang thai lần thứ hai và mang thai lần đầu tiên chiếm tỷ lệ tương ứng
là 31,2% và 20,0%. Kết quả này có phần không tương đồng với
nghiên cứu của tác giả Hà Thị Mỹ Dung với kết quả nhóm sinh con
từ lần thứ ba trở lên chiếm tỷ lệ thấp nhất, tương ứng với 12,8% [3].
Trong khi đó, nhóm bà mẹ chiếm tỷ lệ cao nhất 50,4% là nhóm có
thai lần thứ hai. Sự khác biệt trên xuất phát từ việc lựa chọn đối
tượng trong nghiên cứu của tác giả Hà Thị Mỹ Dung là phụ nữ mang
thai đến khám và theo dõi thai kỳ [3]. Cịn trong nghiên cứu của
chúng tơi sản phụ được lựa chọn là những bà mẹ mang thai có chỉ

định chọc ối và đến tư vấn chọc ối. Tuổi mẹ cao được báo cáo là một
trong những yếu tố nguy cơ dẫn đến dị tật bẩm sinh ở trẻ, do đó tuổi
mẹ là yếu tố quan trọng trong tư vấn chọc ối và chọc ối chẩn đoán bất
thường thai nhi. Theo kết quả điều tra của Tổng cục dân số năm 2015
thì có đến 77,1% phụ nữ sinh con thứ bà nằm trong độ tuổi từ 35 đến
49 tuổi [7]. Như vậy trong nghiên cứu này, các sản phụ mang thai từ
lần thứ ba trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất là phù hợp.
Liên quan đến tiền sử sản khoa, tỷ lệ các bà mẹ trong nghiên
cứu có tiền sử sinh con dị tật bẩm sinh là 6,8%. So với nghiên cứu
của tác giả Hà Thị Mỹ Dung thì tỷ lệ bà mẹ có sinh con dị tật bẩm
sinh trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn đáng kể, tỷ lệ này trong
nghiên cứu của tác giả này chỉ chiếm 2,8% [3]. Sự khác biệt này có
thể là do sự khác nhau trong tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng tham gia
nghiên cứu. Thêm vào đó, theo hướng dẫn về quy trình sàng lọc
14


trước sinh, phụ nữ mang thai có tiền sử sinh con dị tật bẩm sinh là
một trong những chỉ định chọc ối [23], [29], [18]. Do vậy, tỷ lệ sản
phụ có tiền sử sinh con dị tật bẩm sinh trong nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn các nghiên cứu trước. Kết quả của chúng tôi cũng đã cho
thấy, phần lớn các sản phụ khơng có tiền sử có người thân trong gia
đình sinh con bị dị tật bẩm sinh, chiếm tỷ lệ tương ứng là 95,7%.
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tơi, những lý do chính để
sản phụ đến tư vấn chọc hút dịch ối là do sau khi test sàng lọc nguy
cơ cao (31,3%) và sau khi kết hợp nhiều chỉ định (29,4%). Lý do phổ
biến tiếp theo được ghi nhận là do thai bất thường hình thái (19,3%).
Lý do đến tư vấn do tăng khoảng sáng sau gáy và do mẹ lớn tuổi
chiếm tỷ lệ tương ứng là 9,8% và 6,7%. Tiền sử đẻ con bất thường là
lý do ít phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ 1,6%. Kết quả nghiên cứu của

chúng tôi phù hợp với một số nghiên cứu trước được tiến hành tại
Bệnh viện Phụ sản trung ương và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Trong
nghiên cứu của tác giả Lê Anh Tuấn và tác giả Nguyễn Thị Hồng
(năm 2010), lý do phổ biến nhất được báo cáo là do test sàng lọc
dương tính chiếm 56,24% và lý do ít gặp nhất là tiền sử đẻ con bất
thường với tỷ lệ tương ứng là 4,06% [5]. Cũng trong một nghiên cứu
khác của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Trang, kết quả được báo cáo
tương tự với nghiên cứu của chúng tôi, tác giả đã chỉ ra test sàng lọc
dương tính cũng được ghi nhận là lý do phổ biến nhất (49%), và tiền
sử đẻ con bất thường là lý do ít phổ biến nhất (3,1%) [4]. Nghiên cứu
của tác giả Lê Thanh Thúy cũng cho kết quả tương tự với lý do là test
sàng lọc dương tính và tiền sử đẻ con bất thường, chiếm tỷ lệ lần lượt
là 62,1% và 2,3%. Kết quả này một lần nữa cho thấy một thực tế rằng,
thai phụ ngày càng thường xuyên chọn sàng lọc trước sinh bằng test
không xâm lấn trước đó và chỉ chọc ối trong trường hợp kết quả sàng
lọc nguy cơ cao. Thai phụ ngoài 35 tuổi để ước tính nguy cơ liên quan
đến tuổi mẹ có xu hướng làm các xét nghiệm sàng lọc huyết thanh mẹ,
do đó chỉ định chọc ối do mẹ lớn tuổi chiếm tỉ lệ khá thấp.
15


4.2. Kết quả của công tác tư vấn chọc ối và một số yếu tố liên quan
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ chấp nhận chọc ối sau tư vấn
chọc hút dịch ối đạt 70,4%, tỷ lệ này cao hơn đáng kể so với kết quả
nghiên cứu của tác giả Hà Thị Mỹ Dung và cộng sự được thực hiện
từ năm 2014 đến 2015 (13.3%) [3]. Giải thích cho sự khác biệt này
có thể là do số lượng cỡ mẫu khác nhau đáng kễ giữa hai nghiên cứu.
Một giải thích khác có thể do hiệu quả của cơng tác truyền thông, tư
vấn cũng như sự nâng cao chất lượng đội ngũ thực hiện kỹ thuật sàng
lọc trước sinh đến từ các nhân viên điều dưỡng và y bác sĩ trong

nghiên cứu của chúng tôi trong thời gian gần đây. Đáng chú ý, có
29,6% sản phụ khơng chấp nhận chọc hút dịch ối với nhiều lý do
khác nhau như sợ biến chứng, và gia đình khơng đồng ý. Do đó,
chúng tôi khuyến nghị cần đẩy mạnh hơn nữa các các phương pháp
truyền thông, tư vấn, và vận động sàng lọc trước sinh và sơ sinh
nhằm hướng đến mục tiêu phát hiện sớm được những thai kỳ bị dị tật
bẩm sinh nặng, bệnh lý gen hoặc những trường hợp trẻ bị giảm thiểu
trí tuệ (như hội chứng Down, Trisomy 13, Trisomy 18, Thalassemia
...), qua đó, tư vấn cho thai phụ và gia đình có được định hướng kết
thúc thai kỳ và phương pháp tốt nhất để nhằm giảm gánh nặng bệnh
tật cho gia đình và xã hội [10], [14].
Mỗi hành động khác nhau đều phụ thuộc vào kiến thức, thái độ
của bản thân mỗi người và sự tác động của môi trường xung quanh.
Vì vậy, chúng tơi đã tiến hành phỏng vấn, và thu thập số liệu trên
nhóm sản phụ này để tìm hiểu có hay khơng sự khác biệt giữa các bà
mẹ với hành vi chấp nhận chọc hút dịch ối. Kết quả của chúng tôi đã
cho thấy tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở nhóm sản phụ ngồi 35 tuổi là
74,8%, cao hơn có ý nghĩa thống kê nhóm sản phụ dưới 35 tuổi
(67,5%) (p <0.05). Kết quả nghiên cứu của tác giả Julia.GC thực hiện
tại Sheba, Israel cũng cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
hai tỷ lệ này (p <0,001) [33], [30]. Cụ thể, tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở
nhóm sản phụ ngồi 35 tuổi là 86,7%, cao hơn đáng kể so với nhóm
16


sản phụ dưới 35 tuổi (6,6%). Giải thích cho sự khác biệt này, nhóm
tác giả tại Israel đã cho rằng, độ tuổi có thể là lý do quan trọng nhất
ảnh hưởng đến quyết định chọc ối của phụ nữ ngoai 35 tuổi. Trong
khi đó, lý do quan trọng nhất ảnh hưởng đến quyết định không chọc
ối của phụ nữ dưới 35 tuổi là rủi ro của can thiệp. Điều này cũng phù

hợp với khảo sát của tác giả Đoàn Kim Thắng khi có tới 77% phụ nữ
được hỏi biết rằng mang thai khi tuổi trên 35 là một yếu tố nguy cơ
trẻ bị dị tật bẩm sinh [2]. Phụ nữ càng lớn tuổi (≥35 tuổi) thì nguy cơ
sinh con mắc dị tật bẩm sinh càng gia tăng, đặc biệt là đối với trường
hợp bất thường nhiễm sắc thể (thường gặp trong hội chứng Down)
[8]. Tại Việt nam, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Trang
(năm 2012) đã báo cáo sự gia tăng tỷ lệ thai bất thường nhiễm sắc thể
theo tuổi của mẹ là có ý nghĩa thống kê (p <0,05), cụ thể nhóm thai
phụ trong độ tuổi từ 35 đến 39 và độ tuổi ngồi 40 có tỷ lệ thai bất
thường nhiễm sắc thể chiếm tỷ lệ tương ứng là 8,1% và 12,1% [4].
Chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về tỷ lệ chấp nhận chọc ối giữa nhóm sản phụ sinh sống ở thành thị
và nông thôn (tương ứng 71.7% và 69.8%). Chúng tơi cho rằng có
kết quả này là do thực tế nghiên cứu của chúng tôi mới được thực
hiện trong thời gian gần đây, thủ thuật chọc ối chẩn đoán bất thường
nhiễm sắc thể đã trở nên phổ biến. Khơng chỉ ở khu vực thành thị mà
cịn ở khu vực nơng thơn, các bà mẹ mang thai nói riêng và cộng
đồng nói chung đã được tuyên truyền để hiểu rõ giá trị và ý nghĩa của
thủ thuật chọc ối chẩn đốn trước sinh, qua đó, nâng cao hiệu quả của
buổi tư vấn chọc hút dịch ối [12].
Bên cạnh đó, tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở các nhóm nghề nghiệp
là nông dân, công nhân, và công chức chênh lệch không nhiều. Tỷ lệ
này được báo cáo là thấp nhất đối với nhóm làm nghề tự do (68,6%)
và cao nhất đối với nhóm nghề nghiệp khác (76,27%). Tuy nhiên, sự
khác biệt này khơng có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Trong một khảo
sát về kiến thức của phụ nữ độ tuổi từ 15 đến 49 về dự phòng dị tật
17


bẩm sinh của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hà (2015), sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê về kiến thức chung dị tật bẩm sinh giữa các nhóm
ngành nghề khác nhau được ghi nhận, cụ thể nhóm phụ nữ là cán bộ
viên chức có tỷ lệ các câu trả lời đúng (bao gồm 2 câu) là 70,6% và
84,3%; cao hơn so với nhóm phụ nữ làm cơng việc bn bán/nội trợ,
tương ứng là 52% và 62,4%; đồng thời, cũng cao hơn nhóm phụ nữ
làm cơng nhân/nơng nhân/nghề khác, tương ứng ở 52% và 60% [4].
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy khơng có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỷ lệ chọc hút dịch ối ở các đối tượng có trình độ
học vấn khác nhau (p >0,05). Cụ thể thì kết quả chấp nhận chọc ối ở
nhóm sản phụ có trình độ học vấn bậc tiểu học là thấp nhất (62,1%)
và cao nhất ở nhóm sản phụ có trình độ học vấn ở bậc trung cấp/cao
đẳng (73,4%). Trình độ học vấn của nhóm sản phụ cùng với sự thành
công của buổi tư vấn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng ra quyết định
chọc ối của thai phụ. Phụ nữ mang thai càng am hiểu về xã hội và
khoa học sức khoẻ sẽ càng nhận thức sâu sắc hơn vai trò của sàng lọc
trước sinh. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, địa điểm thực hiện
nghiên cứu là một bệnh viện tuyến trung ương tại trung tâm Hà Nội,
việc thực hiện khảo sát liên quan đến quyết định chọc ối của thai phụ
có thể hiểu là sau khi thai phụ đã được làm các xét nghiệm sàng lọc
có kết quả bất thường, những thai phụ có yếu tố nguy cơ cao, họ đã
được tư vấn và cung cấp kiến thức cần thiết để có thể đưa ra quyết
định chọc ối chẩn đoán dị tật bẩm sinh đối với thai nhi. Do vậy, kết
quả khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ chấp nhận
chọc ối ở các đối tượng có trình độ học vấn khác nhau và ở các đối
tượng có nghề nghiệp khác nhau là hồn tồn phù hợp.
Liên quan đến tình trang hơn nhân, chúng tơi khơng quan sát
thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở
nhóm sản phụ ly thân, ly hơn, góa phụ so với nhóm sản phụ đã có
chồng (p >0,05). Tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở nhóm sản phụ có con bất
thường về hình thái (44%) thấp hơn đáng kể so với các nhóm khác,

18


trong đó tỷ lệ cao nhất ở nhóm sản phụ có tiền sử đẻ con bất thường
(80,7%), tiếp đến là các nhóm tăng KSSG (80,1%), kết hợp nhiều chỉ
định (79,3%), test sàng lọc nguy cơ cao (76,3%) và mẹ lớn tuổi
(61,8%). Sự khác biệt được báo cáo là có ý nghĩa thống kê giữa các
nhóm chỉ định (p <0,05). Cũng trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ
chấp nhận chọc ối ở các sản phụ nghiên cứu có con bị dị tật (78,2%)
cao hơn so với nhóm sản phụ khơng có con dị tật (69.8%). Khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (p <0.05). Theo báo cáo từ các nghiên cứu
trước, yếu tố di truyền được coi là một trong những nhóm nguyên
nhân quan trọng gây nên dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Những dị tật do
nguyên nhân này được di truyền từ bố mẹ hoặc các thế hệ trước sang
con cái của họ, trong đó bố mẹ có thể là những người lành mang gen
bệnh hoặc có biểu hiện của bệnh. Do đó, khơng phải cặp vợ chồng
nào cũng biết được tình trạng mắc bệnh di truyền của bản thân.
Chúng tôi cho rằng, đối với những phụ nữ có tiền sử có con bị dị tật
bẩm sinh thì chọc ối là phương pháp thật sự có giá trị để chẩn đốn
tình trạng bất thường nhiễm sắc thể của thai nhi hiện tại, đồng thời
giúp định hướng chẩn đoán bệnh tật di truyền của cha mẹ. Nghiên
cứu của chúng tôi cũng đã cho thấy tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở nhóm
sản phụ có người thân có con dị tật (73,8%) cao hơn nhóm sản phụ
khơng có người thân có con dị tật (70,2%), tuy nhiên sự khác biệt này
được ghi nhận là khơng có ý nghĩa thống kê (p >0,05).
Liên quan đến tỷ lệ thực hiện chọc ối, trong tổng số 1374 bà
mẹ chấp nhận thực hiện chọc ối, thì có 1263 người đến thực hiện
chọc ối, chiếm tỷ lệ 92,1%. Trong số 111 thai phụ không đến chọc ối
sau khi đã đồng ý, lý do thai phụ không đến chọc ối được ghi nhận là
do sợ rủi ro và biến chứng chiếm tỷ lệ 23,4%. Lý do vì gia đình

khơng đồng ý chiếm 19,8%. Nhóm vì các lý do khác chiếm tỷ lệ là
56,8%. Như vậy, trong số tất cả các trường hợp đã đồng ý chọc ối sau
tư vấn nhưng không đến thực hiện thủ thuật thì có gần một nửa trả lời
là vì lý do chủ quan dựa trên niềm tin của cá nhân nhóm sản phụ và
19


người nhà. Thực tế, lí giải cho tỷ lệ chấp nhận 92,1% có thể do nhận
thức chưa đầy của phụ nữ về tầm quan trọng của việc chọc ối trước
sinh nhằm giúp bác sĩ thu thập những thông tin sức khỏe cần thiết
của thai nhi từ một mẫu nước ối của người mẹ. Mục đích của thủ
thuật chọc ối là để xác định xem thai nhi của mẹ có nguy cơ mắc phải
những rối loạn di truyền nhất định hoặc bất thường nhiễm sắc thể hay
khơng. Tuy nhiên, có thể nhiều bà mẹ vẫn đang chủ quan trong quá
trình mang thai và không cảm thấy lo ngại về những vấn đề xáy đến
với trẻ sau sinh. Lý do về bận rộn cơng việc cuộc sống cũng có thể là
một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện chọc ối trước
sinh chưa thể bao phủ sau khi đồng ý chọc ối. Các nghiên cứu xa hơn
là cần thiết để thiết lập các mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố liên
quan đối với việc thực hiện chọc ối ở bà mẹ trong thời kì trước sinh,
cũng như khám phá các yếu tố liên quan đến nhận thức của các bà mẹ
trong nghiên cứu xa hơn. Do đó, cơng tác tư vấn và tuyên truyền cần
được chú ý, ngoài việc hướng vào đối tượng đích là các phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ thì cũng cần chú ý đến các đối tượng khác như gia
đình của người phụ nữ nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất trong công tác
sàng lọc trước sinh. Qua đó, hướng đến đạt được mục tiêu đến năm
2030 là có 70% phụ nữ mang thai được tầm sốt ít nhất 4 loại bệnh
tật bẩm sinh phổ biến nhất [18], [22].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả 1263 sản phụ đồng ý
chọc hút dịch ối đều đã được thực hiện chọc ối thành công, và chỉ có

0,2% xảy ra biến chứng sau khi chọc hút dịch ối. Theo kết quả
nghiên cứu của tác giả Trần Danh Cường và cộng sự thì tỷ lệ này
được ghi nhận là 0,15% [8]. Biến chứng thường gặp nhất xảy ra đối
với thai nhi sau khi chọc hút ối là sảy thai với tỷ lệ sảy thai theo y
văn ước tính dao động từ 0,5 đến 1,9% tùy từng trung tâm thực hiện
chọc ối [5]. Chọc hút dịch ối là một xét nghiệm can thiệp, dẫn đến
khó khăn trong cơng tác tư vấn, và đa số các sản phụ khi được tư vấn
đều lo ngại vấn đề sảy thai hoặc lo lắng thai bị ảnh hưởng. Theo
20


nghiên cứu của tác giả Julia GC và cộng sự thì có đến 65,4% phụ nữ
quyết định khơng chọc ối với lý do sợ biến chứng rủi ro xảy ra [27].
Hiện nay, ngồi phương pháp chọc ối phân tích nhiễm sắc thể đang
được áp dụng rộng rãi thì phân tích DNA tự do trong máu mẹ (NIPT)
cũng là một lựa chọn cho các thai phụ dễ sảy thai, thai lưu và lo lắng
khi chọc ối. Xét nghiệm sàng lọc trước sinh khơng xâm lấn đã được
chứng minh là có độ chính xác cao trong phát hiện thể tam bội
thường gặp ở thai nhi. Tuy nhiên, giá thành xét nghiệm phân tích
DNA tự do trong máu mẹ vẫn cịn rất cao, nên vẫn đang còn hạn chế
trong việc sử dụng rộng rãi trong sàng lọc trước sinh tại Việt Nam và
nhiều nước trên thế giới [28], [24].
Theo kết quả nhiễm sắc thể đồ, trong số 1259 nhiễm sắc thể
đồ, có 10,6% kết quả nhiễm sắc thể được ghi nhận là bất thường. So
với những nghiên cứu trước đây đã thực hiện tại Bệnh viện Phụ sản
Trung ương, tỷ lệ trong nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết
quả của các nghiên cứu trước, tác giả Lê Anh Tuấn và tác giả Nguyễn
Thị Hồng (năm 2010) là 9,06%, tác giả Nguyễn Thị Hoàng Trang
(trong 5 năm từ 2006-2011) là 9,1%, và tác giả Trần Danh Cường và
cộng sự trong 5 năm từ 2012-2016 là 6,7%. Sự khác biệt là không

đáng kễ giữa các nghiên cứu [5], [8], [4].
4.3. Một số yếu tố liên quan đến việc đồng ý chọc hút dịch ối
Với mục tiêu xác định một số yếu tố liên quan đến việc thai
phụ đồng ý chọc hút dịch ối, chúng tơi đã sử dụng mơ hình hồi quy
đa biến logistics để xác định các yếu tố liên quan có ý nghĩa đến việc
đồng ý chấp thuận chọc hút ối ở sản phụ trước sinh. Chúng tôi nhận
thấy những bà mẹ có thai bất thường hình thái, và tuổi mẹ lớn có tỷ lệ
đồng ý chọc hút dịch ối cao gấp 2,57 đến 5,18 lần so với những bà
mẹ siêu âm thấy hình ảnh tăng khoảng sáng sau gáy. Mối liên quan
này có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Sự liên quan này có thể do những
sản phụ siêu âm có hình ảnh tăng khoảng sáng sau gáy lần đầu tiếp
21


nhận thơng tin về tình trạng thai nhi nên dù đã được tư vấn chọc ối
nhưng theo tâm lý tự nhiên, phụ nữ có thai và gia đình vẫn cịn băn
khoăn, trăn trở, và vì là ở quý I của thai kỳ nên họ có thể lựa chọn
tiếp tục theo dõi thai nhi rồi đưa ra quyết định trong tương lai. Mặt
khác, những trường hợp siêu âm bất thường hình thái thai nhi phát
hiện là đã ở thời điểm quý II của thai kỳ và nguy cơ bất thường
nhiễm sắc thể là từ 26% đến 33%, cao nhất trong các chỉ định chọc ối
(theo tác giả Arie Drugan và Mark I. Evan năm 2006). Do đó, các sản
phụ dễ dàng cân nhắc và chấp nhận chọc ối hơn. Vì vậy, kết quả
nghiên cứu của chúng tơi là hồn tồn phù hợp.
Chúng tơi đã cân nhắc đến yếu tố trình độ học vấn để xem xét
mối liên quan đối với việc đồng ý chấp chọc ối ở người phụ nữ trong
thời gian mang thai. Kết quả cho thấy những bà mẹ báo cáo trình độ
học vấn từ bậc THCS đến bậc THPT/trung cấp/cao đẳng có tỷ suất
chênh khả năng đồng ý chọc ối ít gấp khoảng 0,6-0,48 lần so với bà
mẹ báo cáo có trình độ học vấn ở bậc tiểu học. Những mối liên quan

này có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Trong một nghiên cứu của tác
giả tác giả Pawel S và cộng sự thì trình độ học vấn cũng được báo
cáo là yếu tố liên quan độc lập và có ảnh hưởng đáng kể đến quyết
định chọc ối của sản phụ [17]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu trên
quyết định từ chối chọc ối được đưa ra thường xun nhất bởi
phụ nữ có trình độ học vấn tiểu học, kết quả này khác biệt so với kết
quả nghiên cứu của chúng tôi. Sự khác biệt này giúp chúng tơi có cái
nhìn tổng qt hơn về mối liên quan giữa trình độ học vấn của đối
tượng và khả năng đưa ra quyết định. Theo tác giả McCoyd, ngay cả
những người báo cáo có trình độ học vấn và kinh tế tương đối ổn
định cũng có thể thiếu kiến thức và hiểu biết đáng kể về mục đích
khám và chẩn đoán thai nhi trong thời gian mang thai [24], [20].

22


KẾT LUẬN
Thứ nhất, về đặc điểm lâm sàng của các thai phụ đến tư vấn:
- Đa số thai phụ không có tiền sử dị tật bẩm sinh ở những lần
sinh trước, chiếm tỷ lệ 93,2%.
- Những lý do chính thai phụ đến tư vấn chọc hút dịch ối là sau
khi test sàng lọc nguy cơ cao (31,3%) và sau khi kết hợp
nhiều chỉ định (29,4%). Lý do phổ biến tiếp theo là do thai
bất thường hình thái (19,3%). Lí do đến tư vấn do tăng
khoảng sáng sau gáy và do mẹ lớn tuổi chiểm tỷ lệ tương ứng
là 9,8% và 6,7%. Tiền sử đẻ con bất thường là lí do ít gặp
nhất, chiếm tỷ lệ 1,6%.
Thứ hai, về kết quả tư vấn và một số yếu tố liên quan:
- Gần ¾ thai phụ chấp nhận chọc hút dịch ối sau khi được tư
vấn (70,4%). Số cịn lại khơng chấp nhận chọc hút dịch ối vì

nhiều lý do khác nhau như sợ biến chứng, gia đình khơng
đồng ý, ...
- Tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở nhóm ≥35 tuổi cao hơn nhóm <35
tuổi. Sự khác biệt về tỷ lệ chấp nhận chọc ối có ý nghĩa thống
kê giữa hai nhóm tuổi (p <0,05).
- Tỷ lệ chấp nhận chọc ối ở nhóm có con bất thường về thai
nhi (44%) thấp hơn nhiều so với các nhóm khác. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm chỉ định (p <0,05).
- Tỷ lệ thai phụ chấp nhận chọc ối có con bị dị tật (78,2%) cao
hơn so với nhóm khơng có con dị tật (69,8%). Khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (p <0,05).
- Trong số 1374 thai phụ chấp nhận thực hiện chọc ối, thì tỷ lệ
thai phụ đến thực hiệc chọc ối là 92,1%. Trong số 111 thai
phụ không đến chọc ối sau khi đã đồng ý, lý do thai phụ
không đến chọc ối do sợ rủi ro, biến chứng chiếm tỷ lệ
23,4%. Lý do vì gia đình khơng đồng ý chiếm 19,8%. Nhóm
vì các lý do khác chiếm tỷ lệ là 56,8%. Tất cả 1263 thai phụ
23


×