Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

SKKN bồi dưỡng kĩ năngtích luỹ, lựa chọn và phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận văn học cho học sinh giỏi văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.76 KB, 54 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TỈNH VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến:
BỒI DƯỠNG KĨ NĂNG TÍCH LŨY, LỰA CHỌN
VÀ PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG TRONG BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
CHO HỌC SINH GIỎI VĂN

Tác giả sáng kiến: Trần Thị Anh Đào
Mã sáng kiến: 19.51.02

Năm 2021

Năm 2021


DANH MỤC VIẾT TẮT

THPT

Trung học phổ thông

HSG

Học sinh giỏi

NLVH



Nghị luận văn học

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

1. Lời giới thiệu
Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn là nhiệm vụ thường niên của mỗi
giáo viên Văn để góp phần vào việc nâng cao chất lượng mũi nhọn của Nhà
trường. Bên cạnh việc cung cấp kiến thức thì rèn luyện kĩ năng cho học sinh
cũng là một công việc vô cùng quan trọng.Đề thi học sinh giỏi mơn Ngữ văn
thường có cấu trúc 2 phần. Phần 1 là nghị luận xã hội. Phần 2 là nghị luận văn
học (NLVH), trong đó chủ yếu là nghị luận ý kiến bàn về văn học, vấn đề được
đưa ra có tính lí luận văn học sâu sắc. Để phát huy được sự sáng tạo, năng lực
cảm thụ, cá tính của học sinh,trongphần NLVH của đề thi thường khơng giới hạn
ngữ liệu cần phân tích, hoặc chỉ có những định hướng mở địi hỏi học sinh cần
có kĩ năng tốt trong việc lựa chọn, phân tích dẫn chứng làm nên nét đặc sắc
riêng cho bài văn của mình. Kĩ năng này cần phải được trau dồi, bồi dưỡng
thường xuyên mới giúp học sinh nhạy bén, linh hoạt trước các đề thi học sinh

giỏi Văn.
Trên thực tế, khi triển khai một bài nghị luận văn học của học sinh giỏi, xác định
được vấn đề, xây dựng được hệ thống lý lẽ đã là một công đoạn khó, nhưng để
thuyết phục được người đọc, tạo bản sắc cho người viết lại khơng dễ dàng.
Trong đó, kĩ năng huy động, lựa chọn dẫn chứng, phân tích dẫn chứng như thế
nào cho đúng cho hay lại luôn là thử thách với người làm văn. Nhiều bài văn đã
không đạt kết quả vì thực hiện kĩ năng này thiếu tính thuyết phục. Do vậy, để
nâng tầm bài viết của học sinh và nâng cao chất lượng dạy học môn Văn ở
trường THPT, cần thiết phải bồi dưỡng kĩ năng tích luỹ, lựa chọn và phân tích
dẫn chứngtrong bài nghị luận văn học cho học sinh giỏi văn.
2. Tên sáng kiến:Bồi dưỡng kĩ năngtích luỹ, lựa chọn và phân tích dẫn
chứng trong bài nghị luận văn học cho học sinh giỏi văn
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trần Thị Anh Đào
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Bình Sơn - Sơng Lơ - Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0974421882Email:

2


4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Anh Đào
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng trong giảng dạy bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Ngữ văn ở trường THPT.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm 2019.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến
I. Tầm quan trọng của dẫn chứng trong bài nghị luận văn học của học sinh
giỏi
1. Đặc điểm bài nghị luận văn học của học sinh giỏi
Bài văn nghị luận là một kiểu văn bản mà người viết chủ yếu sử dụng lí

lẽ, dẫn chứng, lập luận nhằm xác lập, thuyết phục người khác về một quan điểm,
tư tưởng nhất định. Bài nghị luận văn học là một dạng nghị luận mà các vấn đề
đưa ra bàn luận thuộc phạm vi văn học sử, lí luận văn học hoặc các khía cạnh
trong tác phẩm văn chương.
Bài nghị luận văn học (NLVH) của học sinh giỏi là một sản phẩm đặc biệt
được kết tinh từ trí tuệ, tâm hồn của người học văn, được tạo lập trong quá trình
tiếp nhận, học tập và nghiên cứu văn chương. So với bài viết của học sinh phổ
thơng thì bài NLVH của học sinh giỏi được nâng lên ở một cấp độ cao hơn, được
khẳng định trên thang giá trị của làm văn, bài văn.
Những đặc điểm riêng trong bài NLVH của học sinh giỏi được thể hiện ở
các phương diện sau:
Về bố cục, kết cấu: giống như bài nghị luận thông thường, bài NLVH của
học sinh giỏi cũng đảm bảo 3 phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài. Tuy nhiên, Mở
và Kết trong bài viết của học sinh giỏi không chỉ làm nhiệm vụ giới thiệu và kết
thúc vấn đề nghị luận mà cịn phải tạo được hứng thú, sức hấp dẫn, tình huống
có vấn đề cho người đọc, người nghe. Hệ thống luận điểm, luận cứ trong phần
thân bài được sắp xếp với bố cục hợp lí, khoa học, có tính sáng tạo và mang tính
thuyết phục cao.
Về nội dung kiến thức: bài NLVH của học sinh giỏi không chỉ đảm bảo
đúng yêu cầu của đề, người viết cần phải thể hiện được vốn kiến thức vừa chắc
chắn, phong phú, uyên bác, sâu sắc về các tác phẩm văn học, các tác giả, các
hiện tượng trong lịch sử văn học, các phạm trù lí luận… vừa mang đến những
phát hiện có tính mới mẻ.
3


Về kĩ năng lập luận: bài NLVH của học sinh giỏi thể hiện khả năng vận
dụng nhuần nhuyễn, hiệu quả các thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng
minh, bình luận, bác bỏ, so sánh. Lí lẽ sắc sảo và dẫn chứng lựa chọn tiêu biểu,
mới mẻ; đảm bảo cả về lượng và chất; phân tích dẫn chứng sáng tỏ, sâu sắc được phối hợp chặt chẽ, logic làm sáng tỏ, sâu sắc vấn đề nghị luận, tạo tính

thuyết phục cao.
Về hành văn: bài NLVH của học sinh giỏi thường tạo được giọng điệu
riêng, dùng từ độc đáo, viết câu linh hoạt, diễn đạt có hình ảnh. Bên cạnh
phương thức biểu đạt chính là nghị luận, học sinh giỏi văn thường biết vận dụng
linh hoạt, thông minh phương thức biểu cảm, thuyết minh, tự sự… khiến cho bài
văn tạo được sức truyền cảm, hấp dẫn đối với người đọc.
Có thể nói, bài NLVH của học sinh giỏi là một “tác phẩm” của người học,
vừa khoa học, sâu sắc lại vừa sáng tạo và giàu chất văn.
2. Dẫn chứng và vai trò của của dẫn chứng trong bài NLVH của học sinh giỏi
2.1. Dẫn chứng trong bài NLVH của học sinh giỏi
Dẫn chứng là những sự vật, sự việc, số liệu, ý kiến… rút ra từ thực tế hay
từ sách vở để thuyết minh cho ý kiến, nhận định, đánh giá trong nghị luận.
Trong nghị luận văn học đó có thể là những nhận định, ý kiến bàn về văn học.
Đó có thể là những câu văn, câu thơ được trích dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp. Hay
dẫn chứng có thể là một hình tượng nghệ thuật.
Dẫn chứng được sử dụng trong bài NLVH của học sinh giỏi thường chia
thành 3 loại: dẫn chứng bắt buộc, dẫn chứng tự chọn và dẫn chứng mở rộng (liên
hệ so sánh)
2.2.Vai trò của dẫn chứng trong bài NLVH của học sinh giỏi
Việc lấy dẫn chứng đối với một bài văn nghị luận văn học có vai trị đặc biệt
quan trọng. Trong bài văn nghị luận, dẫn chứng và lí lẽ là hai bộ phận cấu thành
luận điểm và làm tăng thêm tính thuyết phục, hấp dẫn cho hệ thống lập luận.
Khơng có dẫn chứng, bài văn sẽ thiếu “chất sống”, thiếu sự sinh động, hấp
dẫn. Quan trọng hơn, nếu thiếu dẫn chứng, những lý lẽ đưa ra sẽ khơng cịn sức
thuyết phục. Lúc đó bài văn chỉ cịn là những lời bàn luận chung chung, thiếu cơ
sở, thiếu căn cứ và hoàn toàn mang tính lý thuyết sng. Vì thế, việc lựa chọn
vàphân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học là vô cùng cần thiết, giúp
bài văn trở nên hấp dẫn, giàu sức thuyết phục.

4



a. Dẫn chứng là mắt xích quan trọng trong mạch lập luận, thể hiện tư duy
sắc bén người làm văn.
Bản chất cốt lõi của văn nghị luận chính là cách thức người viết sử dụng lí
lẽ để thuyết phục người khác. Vì vậy luận điểm, luận cứ phải có sự liên kết, xâu
chuỗi chặt chẽ theo một quan điểm nhất định để người đọc hiểu và tin ở những
vấn đề mà người viết muốn hướng tới. Với bài NLVH của học sinh giỏi, tính tư
duy logic càng được thể hiện rõ. Vì vậy, lập luận phải có lí lẽ, dẫn chứng phải cụ
thể, xác thực, người viết phải có năng lực trình bày, phân tích, đánh giá làm sáng
tỏ mục đích nghị luận.
Hai thành tố quan trọng làm nên quá trình lập luận đó là luận điểm, luận
cứ. Luận điểm thường là một nhận định, một ý kiến khái quát chủ đề của cả
đoạn văn. Đó chính là đích đến của lập luận được khẳng định và nhấn mạnh.
Luận cứ là những lí lẽ và dẫn chứng làm cơ sở cho luận điểm. Luận điểm sẽ
được cụ thể hóa trong luận cứ hoặc luận điểm có thể được rút ra từ lí lẽ và dẫn
chứng. Trong đó luận cứ lại bao gồm lí lẽ và dẫn chứng có quan hệ mật thiết và
hỗ trợ lẫn nhau. Quá trình tư duy thông thường sẽ đi từ những dẫn chứng cụ thể
kết hợp với lĩ lẽ sau đó mới hình thành nên luận điểm. Khi đó q trình tư duy
được sắp xếp, có sự chuẩn bị để hình thành văn bản. Ngược lại trong quá trình
viết bài văn nghị luận, người viết thường nêu luận điểm trước, sau đó dùng luận
cứ để chứng minh. Dù phát triển vấn đề nghị luận theo hướng nào thì luận điểm
đều có tác dụng thâu tóm luận cứ và luận cứ là nền tảng, cơ sở để hình thành
luận điểm.
Vì vậy, trong bài NLVH của học sinh giỏi, luận cứ, luận chứng càng chân
thực, điển hình, phong phú thì mối liên hệ logic giữa nó với luận điểm càng chặt
chẽ, càng thể hiện năng lực lập luận của người viết. Xét về ý nghĩa đó, mức độ
sâu sắc của luận cứ tỉ lệ thuận với mức độ được chứng minh của luận điểm. Tức
là luận cứ mạnh thì luận điểm thuyết phục, luận cứ yếu thì luận điểm mờ nhạt.
Ví dụ:

Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều bằng cả trái tim và
tâm hồn mình. Ơng đã thương cho nỗi đau đời của người con gái “pha nghề thi
hoa đủ mùi ca ngâm” ấy, khi đứt ruột trao đi mối tình đầu của mình. Dun đã
trao mà tình khơng dứt, đó là bi kịch của tình yêu “giữa đường đứt gánh” của
Thúy Kiều và Kim Trọng. Ơng cịn đau đáu, tủi hờn cho số phận của nàng khi

5


sống ở lầu xanh nhục nhã, ê chề với nỗi cô đơn cùng cực, không thể san sẻ cùng
ai, một mình mình biết, một mình mình hay.
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai”
Đó khơng chỉ là những lời giãi bày, lời than của Thúy Kiều mà dường
như cịn là tiếng nói tình cảm của cụ Nguyễn. Mộng Liên Đường từng nói
“Nguyễn Du viết Truyện Kiều như có máu rỏ trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm
trên trang giấy khiến ai đọc cũng phải xót xa, ngậm ngùi, đau đớn như đứt từng
khúc ruột”. Phải nhập thân vào nhân vật thế nào, phải có trái tim đau đời, đau
người như thế nào, cảm xúc phải trào dâng như thế nào, Nguyễn Du mới viết
được Truyện Kiều hay đến thế. (Bài làm của học sinh)
Trong đoạn văn trên, câu in đậm là câu nêu luận điểm. Các câu còn lại là
luận cứ được huy động để làm sáng tỏ luận điểm. Luận điểm đó có được sự
đồng thuận hay khơng phụ thuộc vào lí lẽ và dẫn chứng sau đó. Cách nêu dẫn
chứng theo lối trích dẫn nguyên văn câu thơ hoặc lồng ghép một số ý thơ tiêu
biểu một cách đa dạng và linh hoạt. Người viết đã khéo léo sử dụng những dẫn
chứng điển hình cho những bi kịch cuộc đời của nàng Kiều cũng như tâm sự tấm
lòng của Nguyễn Du gửi gắm qua tác phẩm. Cách dẫn dắt “khơng những … mà
cịn” giúp dẫn chứng được nêu ra một cách phong phú. Đồng thời người viết
cịn kết lại bằng câu nói của Mộng Liên Đường nhằm nhấn mạnh tính đúng đắn
của luận điểm. Đây là cách viết có tiền đề, kết đề chặt chẽ.

Luận cứ lí lẽ và luận cứ dẫn chứng thường được trình bày đan xen nhau.
Quan hệ giữa hai loại luận cứ này là quan hệ tương hỗ. Lí lẽ được sáng tỏ thông
qua dẫn chứng và ngược lại, dẫn chứng chứng minh tính đúng đắn của lí lẽ. Lí lẽ
được trình bày theo các thao tác nghị luận (giải thích, chứng minh, phân tích…)
và quy luật logic (quan hệ tương phản, nguyên nhân-kết quả, điều kiện- kết
quả…). Dẫn chứng được trình bày theo nhiều cách: dẫn nguyên văn cả câu, cả
đoạn hoặc một văn bản ngắn; trích dẫn ngun văn, trích dẫn một số từ, tóm
lược ý chính. Cách trình bày lí lẽ và dẫn chứng phải có sự kết hợp linh hoạt với
nhau để tạo nên tính hợp lí và hồn chỉnh. Mỗi cách trình bày luận cứ đều thể
hiện một ý thức tổ chức, lựa chọn và sắp xếp của người viết. Trình bày luận cứ
góp phần không nhỏ vào việc thể hiện ý đồ lập luận trong bài văn nghị luận.

6


b. Dẫn chứng thể hiện vốn kiến văn sâu rộng, lối viết văn phóng khống góp
phần mở rộng biên độ ý nghĩa của bài viết
Dẫn chứng là sự tổng hợp và chắt lọc những kiến thức của người viết.
Trong quá trình làm bài người viết phải huy động và xử lý vốn kiến thức này. Vì
vậy vốn kiến văn càng sâu rộng, dẫn chứng trong bài làm càng phong phú, mới
mẻ, sâu sắc, càng thể hiện rõ năng lực của người học văn.
Đối với học sinh giỏi, yêu cầu dẫn chứng phải thực sự phong phú thì mới
có thể chủ động, mạnh dạn, phóng khống trong bài viết. Ngược lại vốn dẫn
chứng nghèo nàn, ít ỏi khiến bài văn trở nên khơ khan, khơng có tính cụ thể để
từ đó khái quát nên luận điểm của vấn đề nghị luận. Vì vốn kiến văn hạn hẹp,
người viết ít có sự lựa chọn nên dễ sa vào lỗi khuôn ép dẫn chứng sao cho phù
hợp với luận điểm bài viết vì thế luận cứ đưa ra trở nên khiên cưỡng.
Ví dụ:
Đề bài: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ”
(Andre Chenien). Qua tác phẩm văn học trung đại đã học, anh/ chị hãy làm sáng

tỏ nhận định trên.
Học sinh đã lấy ra được những ý kiến khác nhau của các nhà văn nổi tiếng
trong nước và ngồi nước, phương Đơng và phương Tây làm dẫn chứng, để dẫn
dắt, đối chiếu và khẳng định vấn đề một cách toàn diện hơn:
Lỗ Tấn - một nhà văn Trung Quốc đã từng nói rằng: “Chuyện văn
chương mn đời vẫn thế, được hay mất cốt ở tấm lòng”. Hay Nguyễn Du - một
nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn cũng từng khẳng định: “Thiện căn ở tại lòng ta/
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Phải chăng, cả Lỗ Tấn, cả Nguyễn Du đều
muốn khẳng định vai trò, tầm quan trọng của tình cảm, cảm xúc trong thơ. Và ta
cũng thấy được sự giao thoa đồng điệu trong tâm hồn của những người nghệ sĩ
phương Đông với nhà thơ phương Tây - Andre Chenien “Nghệ thuật chỉ làm
nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ”.(Bài làm của học sinh)
Bằng vốn hiểu biết sâu rộng, học sinh đã tìm ra những điểm chung trong
tâm hồn của người nghệ sĩ muôn đời không phân biệt ranh giới quốc gia dân tộc:
Tâm hồn nhà thơ chính là cửa ải để hiện thực cuộc sống bước vào trong
thơ. Bằng trải nghiệm của lịng mình, bằng sự nhập thân giữa nhà thơ với cuộc
đời, chính hương phấn cuộc đời và tâm hồn nhà thơ đã giao thoa mà làm nên
nghệ thuật. Trên đỉnh núi Ơđense kì diệu, nơi có những vịm hoa thạch thảo tim
tím nên thơ, Andersen đã nhặt lấy những hạt giống trên luống đất của người
7


dân chài mà dệt lên những bài ca bất diệt. Những phù sa của một dịng sơng
Mississippi miền tây nước Mĩ đã bồi đắp, bồi đắp mãi cho trang văn Mark
Twain. Để rồi bây giờ hơi ấm và chất mặn nồng của con người miền Tây vẫn ám
ảnh ta, gợi cho ta nhớ về những chuyến phiêu lưu, những con người ưa mạo
hiểm. Cả Anđersen, cả Mark Twain đều tìm đến với cuộc đời, một cuộc đời mà
mình gắn bó yêu thương để làm nên các tác phẩm bất hủ. Và Nguyễn Du cũng
vậy, ơng đã từng rung lên vì xã hội đương thời lúc bấy giờ, một xã hội rối ren,
bế tắc, xã hội đồng tiền. Như Chế Lan Viên trong bài “Tổ quốc bao giờ đẹp thế

này chăng” đã từng viết về thời đại Nguyễn Du sống:
“Ông cha ta từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây Phương khơng biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”
(Bài làm của học sinh)
Ví dụ: khi phân tích về cuộc chia ly giữa “mình – ta” trong đoạn trích Việt Bắc
của Tố Hữu, học sinh có sự liên tưởng đến những cuộc chia ly trong ca dao,
trong Truyện Kiều, trong những cuộc chia ly của văn học cách mạng khác để từ
đó thấy được tính dân tộc cũng như giọng điệu riêng của Tố Hữu:
Cuộc ra đi của người lính cách mạng bỗng hóa u thương quyến luyến
như chinh phu – chinh phụ, chàng – thiếp của những ngày xưa. Và đã là những
cuộc chia li, thì trong văn học dường như ít ai khơng mượn đến hình ảnh cái
khăn, cái áo. Ngay từ ca dao:
“Áo xơng hương chàng vắt mắc
Đêm em nằm, em đắp dành hơi”
đến cả cuộc chia li của nàng Kiều với chàng Thúc năm xưa “người lên
ngựa, kẻ chia bào”. Ấy thế mà, cái áo trong thơ Tố Hữu vẫn có điểm mới.
Khơng phải áo xông hương, áo bào sang trọng mà là chiếc áo chàm. Nếu chỉ
hiểu đơn giản là sắc áo dân tộc, cũng đúng, nhưng lại hạ thấp giá trị của câu
thơ đi. Chàm là màu khơng phai khó nhạt. Ta mượn cái màu áo chàm để nói cái
sắc lịng thủy chung son sắt của những người Cách mạng -ấy mới là cách đánh
giá đúng câu thơ.Và ngay cả cái cầm tay cũng quen thuộc quá:

8


“Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước, giây giây lại dừng”
(Chinh phụ ngâm)

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
(Đồng chí)
Nhưng cái cầm tay của Tố Hữu là tình quân dân vẫn thật chặt. Và cái dấu
ba chấm – khoảng nặng vơ ngơn mà dư tình trong thi ca, cũng đã diễn tả sự
“biết nói gì hơm nay” – sự quyến luyến, bồi hồi trong phút chia tay của những
người đã q mực thân quen. Đó chính là cuộc chia li trong Việt Bắc.
(Bài làm của học sinh)
Vì vậy, biết sử dụng những dẫn chứng để liên hệ, mở rộng có hiệu quả đã
thể hiện vốn kiến văn sâu rộng, sự miệt mài trau dồi kiến thức trong quá trình
học văn.
Tóm lại, dẫn chứng có vai trị vơ cùng quan trọng trong bài NLVH của
học sinh giỏi. Thông qua những dẫn chứng được sử dụng trong bài, ta sẽ đánh
giá được tư duy, vốn kiến thức, kĩ năng làm văn của người viết. Xét đến cùng,
năng lực sử dụng dẫn chứng ấy có được là nhờ q trình lựa chọn dẫn chứng xác
đáng, phân tích dẫn chứng hiệu quả, xâu chuỗi dẫn chứng hợp lí, tạo thành một
mạch chung có tính hệ thống làm cơ sở cho lập luận, làm sáng tỏ luận điểm
trong bài viết. Cho nên, đề cao vai trị của dẫn chứng, chính là đề cao vai trị của
kĩ năng chọn và phân tích dẫn chứng trong bài NLVH nói chung và NLVH của
học sinh giỏi nói riêng.
II. Bồi dưỡng kĩ năng tích luỹ dẫn chứng
Tích lũy tư liệu là thao tác quan trọng trong quá trình học tập mơn Ngữ văn. Đặc
biệt, đối với học sinh giỏi, tích lũy tư liệu lại càng cần thiết. Để chọn được dẫn
chứng phù hợp, tiêu biểu, đặc sắc cho bài văn nghị luận văn học, trước hết học
sinh cần có vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú. Tư liệu có dồi dào thì việc lựa
chọn dẫn chứng mới dễ dàng, chính xác. Vì vậy, trong cơng tác bồi dưỡng học
sinh giỏi ngữ văn, việc làm đầu tiên của giáo viên là cần hướng dẫn học sinh có
ý thức và cách thức tích lũy tư liệu văn học, xây dựng kho tàng, vốn liếng tri
thức phong phú.
Để tích luỹ dẫn chứng, cần bồi dưỡng cho học sinh:


9


1.Hình thành thói quen đọc sách:
Giáo viên có thể bắt đầu từ những chủ đề thú vị, gần gũi, khuyến khích các em
tìm đọc khám phá. Ở lớp 10, giáo viên có thể bắt đầu từ các tác phẩm văn học
dân gian hấp dẫn như Thần thoại Hy Lạp, Sử thi Ấn Độ, Truyện cổ tích Việt
Nam…Lớp 11 gieo niềm vui đọc sách từ những tác phẩm của các tác giả nổi
tiếng như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam…Lớp 12 là thơ văn cách mạng
hào hùng của dân tộc. Từ đó mở rộng nâng cao đọc các tác phẩm chuyên sâu
như tác phẩm văn học ngoài nhà trường, các tài liệu nghiên cứu văn học…Việc
đọc phải trở thành quá trình mưa dầm thấm lâu, từ đọc ít đến đọc nhiều, dần dần
trở thành niềm đam mê đọc sách.
Cần lưu ý là giáo viên phải luôn là người đồng hành, theo sát học sinh,
hướng dẫn học sinh tìm tài liệu cần thiết và có giá trị trên các phương tiện sách
báo, mạng…chia sẻ, giải đáp thắc mắc của học sinh trong quá trình đọc.
2. Định hướng cách đọc hiệu quả
Kho tàng tri thức văn học của nhân loại rất đa dạng và phong phú. Vì vậy
để tích lũy tư liệu dẫn chứng, giáo viên cần hướng dẫn học sinh kết hợp đọc lướt
và đọc kĩ, đọc nông và đọc sâu, đọc tồn bộ và đọc có trọng điểm…
- Đọc lướt: là khơng cần đọc tồn bộ tài liệu mà chỉ lướt nhanh nhan đề tài liệu,
mục lục, từ khóa…Kĩ năng đọc lướt giúp học sinh nắm bao quát toàn bộ tài liệu,
nắm được nội dung, thơng điệp chính của tài liệu. Đọc lướt tiết kiệm được thời
gian đồng thời tích lũy được lượng kiến thức lớn, phong phú và đa dạng. Khi
hướng dẫn học sinh đọc lướt, giáo viên cần lưu ý học sinh một số vấn đề sau:
+ Phân tích mục lục để nắm được cấu trúc tài liệu, ý chính của từng chương
+ Dựa vào các câu chủ đề, từ khóa để hiểu nội dung tài liệu
Kĩ năng đọc lướt nên được áp dụng khi cần huy động nguồn dẫn chứng dồi dào
trong một thời gian ngắn
- Đọc kĩ: là đọc đi đọc lại nhiều lần, có trọng tâm. Việc đọc kĩ giúp học sinh hiểu

sâu một vấn đề, khơng chỉ nắm được tinh thần chung mà cịn hiểu cặn kẽ, tầng
bậc ý tứ tác giả gửi gắm trong tài liệu. Để thực hiện kĩ năng này, học sinh cần
chú trọng vào những đoạn quan trọng, đọc nhiều lần, đọc có nghiền ngẫm, suy
nghĩ, so sánh, liên tưởng.

10


Việc đọc kĩ sẽ rất đắc dụng khi học sinh cần lựa chọn một trong nhiều dẫn
chứng. Chỉ khi hiểu rõ được tài liệu, học sinh mới có kĩ năng chọn được dẫn
chứng tiêu biểu và phù hợp.
3. Dạy học sinh đọc kết hợp ghi chép tích luỹ
D.L. Mendeleev đã từng nói: Ý nghĩ khơng được ghi chép lại chỉ là một
kho báu bị giấu biệt. Thật vậy, việc đọc sẽ khơng có kết quả nếu khơng ghi chép.
Việc đọc và việc ghi chép cần được tiến hành song song. Ghi chép có vai trị
quan trọng trong việc tích lũy dẫn chứng nên phải trở thành thói quen, như con
ong cần cù hút mật, như con tằm ăn lá nhả tơ, như người thợ nhặt từng đinh ốc
rơi vãi để sử dụng đúng chỗ khi cần thiết. Để việc ghi chép có hiệu quả, giáo
viên cần hướng dẫn học sinh lưu ý một số vấn đề sau:
- Ghi chép phải chính xác: Dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học chỉ có
tác dụng khi được trích dẫn chính xác. Trích dẫn sai dù chỉ một chữ khơng
những khơng có tác dụng, mà ngược lại còn tạo thành hạt sạn, lỗ hổng kiến thức,
làm giảm chất lượng bài viết. Vì vậy khi đọc học sinh cần ghi lại trung thành với
văn bản, ghi rõ tên tác phẩm, tác giả, nguồn gốc tài liệu.
- Ghi chép phải hệ thống: Dẫn chứng cần được phân loại, sắp xếp một
cách khoa học để phục vụ cho việc tìm và chọn dẫn chứng được dễ dàng. Trên
thực tế học sinh đọc rất nhiều nhưng lại ghi chép lộn xộn dẫn đến tình trạng khó
tìm được dẫn chứng khi làm văn nghị luận. Giáo viên có thể định hướng học
sinh ghi chép theo những tiêu chí sau:
+ Ghi chép theo chủ đề: Đây là cách ghi chép dẫn chứng theo những chủ

đề lớn. Học sinh chia thành nhiều thư mục theo một số chủ đề như: thiên nhiên
trong văn học, hình tượng người chiến sĩ, hình tượng người nơng dân, hình
tượng tổ quốc…Từ đó, trong quá trình đọc, ứng với chủ đề nào thì ghi chép, lưu
trữ vào thư mục chứa chủ đề đó. Việc ghi chép này giúp học sinh phân loại dẫn
chứng và vận dụng dẫn chứng theo chủ đề một cách hiệu quả.
+ Ghi chép theo tác giả: Đây là cách hệ thống dẫn chứng theo các tác giả
lớn. Học sinh ghi chép các tài liệu có liên quan đến nhà thơ, nhà văn như sự
nghiệp văn học, thơ văn, lời phê bình, nhận định…Cách ghi chép này có tác
dụng hệ thống hóa kiến thức theo tác gia, giúp học sinh có kiến thức chuyên sâu
về từng tác giả, từ đó lựa chọn được dẫn chứng đắc dụng cho bài văn nghị luận
văn học
+ Ghi chép theo thể loại: Tài liệu dẫn chứng được chia theo thể loại như
thơ, truyện ngắn, kí, tùy bút…
11


+ Ghi chép theo thời đại: Đây là cách học sinh sắp xếp tài liệu dẫn chứng
theo thời gian, giai đoạn như văn học trung đại, văn học 1930 – 1945, thơ văn
cách mạng…
+ Ghi chép nhận định về văn học của các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học, của chính các tác giả văn học: về thơ, về văn xuôi, về các đặc trưng và
chức năng văn học, về thiên chức người nghệ sĩ…
+ Ghi chép theo mơ típ: trong ca dao (thân em, cây cầu, …); trong cổ tích
(hóa thân, ơng Bụt bà Tiên và phép màu, kết thúc, nhân vật chính được làm
hồng hậu hoặc phị mã con vua,…); trong truyện hiện đại (người hóa vật, đồ
vật,…)
+ Ghi chép theo biểu tượng: trong văn học dân gian (trúc –mai; mận- đào;
trầu cau,…); trong văn học trung đại (những biểu tượng ước lệ tùng cúc trúc
mai,…); trong văn học hiện đại (sáng tạo biểu tượng mang dấu ấn riêng của
người nghệ sĩ (thơ Hàn Mặc Tử, thơ Chế lan Viên,)…

Các ghi chép tích lũy đặc biệt chú ý dẫn nguồn chính xác
- Ghi chép những cảm nhận riêng của bản thân khi đọc tác phẩm: Bên
cạnh việc ghi chép chính xác và ghi chép có hệ thống, học sinh nên ghi lại
những cảm nhận riêng của bản thân khi đọc tài liệu. Đây là điều cần thiết vì đó
là những cảm nhận bật ra ngay khi tiếp xúc với tác phẩm, có thể chưa trọn vẹn
nhưng thường chứa đựng cảm xúc và những ý tưởng bất ngờ. Những cảm nhận
này được ghi lại sẽ giúp ích cho học sinh trong q trình phân tích dẫn chứng
trong bài văn nghị luận văn học.
III. Bồi dưỡng kĩ năng lựa chọn dẫn chứng trong bài NLVH của học sinh
giỏi Văn
1. Các tiêu chí chọn dẫn chứng
a. Dẫn chứng phải đúng, chính xác, trúng trọng tâm
Đây là tiêu chí cần được đặt lên đầu tiên khi lựa chọn dẫn chứng. Phải
đúng, phải trúng mới ghi điểm, mới làm nổi bật được yêu cầu của đề bài, không
bị lạc, bị xa, chưa tới. Nếu lệch, chỉ ở vịng ngồi, loanh quanh chẳng bao giờ
đến đích. Chọn được dẫn chứng trúng sẽ đánh giá chính xác khả năng hiểu và
giải quyết đề bài, khả năng tư duy, năng lực cảm nhận… của học sinh. Chọn
khơng trúng sao có thể thuyết phục được người khác, có cố ép cũng khơng vào
đề.
12


Để chọn đúng, chọ trúng, ngoài việc bắt đúng, trúng vấn đề cần nghị luận,
học sinh phải nắm vững tác phẩm. Có hiểu được đề bài u cầu gì, có tường tận
đến chân tơ kẽ tóc tác phẩm mới thấy dẫn chứng này phù hợp hay dẫn chứng
kia. Không thấu tỏ tác phẩm không thể thực hiện tốt bất cứ thao tác nào.
Sau khi hướng dẫn học sinh giải thích để chốt được vấn đề cần nghị luận,
trình bày cơ sở lí luận văn học để thuyết phục người đọc; giáo viên định hướng
học sinh chọn dẫn chứng. Phương pháp chung là giáo viên yêu cầu học sinh
chọn rồi cùng học sinh nhận xét, phân tích để tìm ra những dẫn chứng tốt nhất.

Ví dụ:
* Đề:
Một tác phẩm hay làm cho người ta rung động. Nhưng một tác phẩm chỉ
có thể trở nên bất tử khi nó đạt đến tầm sâu triết lí nhân sinh (Maurice Barres)
Bằng hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
* Chọn dẫn chứng:
- Căn cứ chọn dẫn chứng:
+ Vấn đề cần nghị luận: hay - rung động, bất tử - tầm sâu triết lí nhân sinh
→ Dẫn chứng đáp ứng được hai luận điểm, trong đó luận điểm hai là chính.
+ Câu văn nêu lệnh: Bằng hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận ý
kiến trên (Căn cứ thêm vào hai chữ tác phẩm trong ý kiến được trích dẫn) →
Dẫn chứng tự chọn, không yêu cầu bắt buộc về thể loại, giai đoạn…
- Tiêu chí chọn dẫn chứng: Đặt tiêu chí trúng lên hàng đầu để chọn. Trúng
vào hai nội dung kiến thức cần làm sáng tỏ: rung động, đạt tới tầm sâu triết lí
nhân sinh.
- Những dẫn chứng nên chọn:
+ Chọn tác phẩm
Tác phẩm điểm qua: Học sinh có thể chọn một số trong những tác phẩm
sau: Bài thơ số 28 (Tago), Ông già và biển cả (Hê-minh-uê), Suối nguồn (Ayn
Rand), bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm, Đị Lèn (Nguyễn Duy)…
Tác phẩm phân tích kĩ: Vội vàng (Xuân Diệu), Tiếng hát con tàu (Chế Lan
Viên), Chí Phèo (Nam Cao) hoặc Đời thừa, Chiếc thuyền ngồi xa (Nguyễn
Minh Châu)…

13


+ Chọn dẫn chứng trong tác phẩm: Nếu chọn Chiếc thuyền ngồi xa là tác
phẩm phân tích kĩ, học sinh phải định hình được khi phân tích tác phẩm này cần
chọn dẫn chứng cụ thể như thế nào để đáp vào được hai ý.

Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm hay vì làm cho người ta rung động.
Rung động rất nghệ sĩ trước vẻ đẹp thiên nhiên tồn bích - chọn dẫn chứng cảnh
đắt trời cho; phẫn nộ trước cái ác, cái xấu - chọn cảnh người đàn ông đánh vợ; nỗi
băn khoăn, xót xa, trăn trở đến day dứt về sự phát triển của những đứa trẻ khi phải
sống trong nạn bạo lực gia đình - chọn thằng bé Phác; cảm thương trước những số
phận bất hạnh - chọn cuộc đời người đàn bà hàng chài; trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp
- chọn vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài…
Chiếc thuyền ngoài xa trở nên bất tử vì đạt đến tầm sâu triết lí nhân sinh.
Triết lí về cuộc đời và đơi mắt chọn hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, hình ảnh
người đàn bà hàng chài; về phẩm chất, nhiệm vụ của người nghệ sĩ chọn
Phùng…
b. Dẫn chứng phải tiêu biểu
Dẫn chứng được coi là tiêu biểu khi nó nổi bật nhất, điển hình nhất. Lúc
này dẫn chứng với vấn đề cần làm sáng tỏ như một cặp tiền định, như có mối
lương duyên từ trước, chúng sinh ra là để dành cho nhau. Nó phải là cái tên đầu
tiên mà đa số mọi người đều nghĩ đến ngay khi bàn về vấn đề ấy.
Có nhiều dẫn chứng đúng và trúng nhưng trong số đó sẽ có tác phẩm; có
đoạn thơ, phần truyện, sự việc... nổi bật hơn. Nếu nó tiêu biểu phải giữ lấy mà
chọn. Khi đã trúng lại nổi bật nhất, dẫn chứng ấy sẽ là ứng cử số một, giúp học
sinh dễ viết, dễ xốy hơn vào đề, từ đó làm nổi bật được yêu cầu. Dẫn chứng
được coi là tiêu biểu phải hay, phải tầm cỡ, phải lớn, phải kết tụ cả tư tưởng, tình
cảm và tài năng của người cầm bút, dễ để lại ấn tượng, dễ được độc giả yêu thích.
c.Phải hiểu hiểu kĩ dẫn chứng được lựa chọn
Dẫn chứng có trúng, có tiêu biểu mà học sinh không hiểu thấu đáo, kĩ lưỡng, sâu
sắc, am tường triệt để thì cũng khơng giải quyết được vấn đề. Vì có hiểu sâu học
sinh mới viết được; viết mới đúng, mới sâu, mới sắc, mới hay. Cùng đảm bảo
tiêu chí trúng, tiêu biểu nhưng tác phẩm nào học sinh nắm vững hơn cố nhiên
học sinh cần phải chọn. Nếu chọn viết về một dẫn chứng còn lơ mơ, lờ mờ
chẳng khác nào một anh chàng đãng trí lao xuống dịng sông cuồn cuộn mà
không biết bơi.


14


d. Dẫn chứng phải phong phú, đa dạng
Nhiều và lắm màu vẻ dẫn chứng sẽ được coi là phong phú, đa dạng. Có
thơ, có truyện; có cổ, có kim; có trung đại, có hiện đại; có Đơng, có Tây; có văn
học nước nhà, có văn học nước bạn; có trong chương tŕnh, có ngồi chương
trình; có chi tiết miêu tả hành động, chi tiết miêu tả nội tâm, ngoại hình; có câu
thơ này, có câu thơ kia...
Chọn dẫn chứng sao cho phong phú, đa dạng với mục đích số một là để
thấy vấn đề đúng ở diện rộng, trải ra ở cả tác phẩm chứ không phải là cá biệt,
đơn lẻ, độc quyền. Nếu dẫn chứng không phong phú, đa dạng bài viết sẽ nghèo
nàn, đơn điệu, loanh quanh, luẩn quẩn, kém đi màu sắc và vì vậy kém hấp dẫn,
không khiến người ta tâm phục khẩu phục. Phong phú, đa dạng cũng là đất để
học sinh được phô diễn kiến thức. Tuy nhiên sự phong phú, đa dạng phải được
sắp xếp theo trình tự hợp lí, logic. Có thể theo trật tự không gian và thời gian.
Tuy nhiên chọn dẫn chứng phong phú, đa dạng khơng có nghĩa là để bài viết chỉ
đi vào chiều rộng mà thiếu vắng chiều sâu.Học sinh có thực hiện được tiêu chí
này hay khơng là phụ thuộc vào kho kiến thức của chính mình đã được trang bị.
Và phải biết cân nhắc loại hay lấy để không bị trùng, lặp, rơi vào đơn điệu.
2. Cách đưa dẫn chứng vào bài làm
a. Khi chọn lọc dẫn chứng trong văn nghị luận phải đảm bảo sự chính xác
Nếu khơng đảm bảo được yếu tố chính xác, dẫn chứng sẽ không làm sáng rõ
được luận điểm. Đối với dẫn chứng là thơ, người viết cần trích dẫn đúng ngun
văn. Đối với văn xi thì tóm lược ý nhưng cần đảm bảo tính chính xác về nội
dung, tác giả, tác phẩm. Có khơng ít trường hợp trích dẫn sai dẫn chứng, chẳng
hạn như trường hợp trích dẫn ngữ liệu từ bài thơ “Tràng giang” của tác giả Huy
Cận: Nắng xuống, trời lên cao chót vót (Đúng phải là Nắng xuống, trời lên sâu
chót vót); hoặc nhầm lẫn về chi tiết, cốt truyện trong “Vợ chồng A Phủ”: Mị vốn

là người yêu của A Phủ nhưng bị A Sử bắt về làm vợ.
Những sai sót này ảnh hưởng khơng nhỏ đến tính thuyết phục của bài văn
nghị luận. Do đó, chúng ta cần nắm dẫn chứng một cách chính xác, rõ ràng.
b. Khi đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận phải đảm bảo yếu tố cần và đủ
Bài văn nghị luận cần có nhiều hơn một dẫn chứng. Lấy q ít dẫn chứng thì
vấn đề nghị luận sẽ không được làm sáng tỏ. Bên cạnh những dẫn chứng mang
tính chất bản lề và bắt buộc, người viết cần liên hệ thêm những dẫn chứng để có
sự liên hệ, so sánh. Tuy nhiên, nếu đưa quá nhiều dẫn chứng vào bài sẽ khiến bài
15


văn nghị luận bị loãng. Bởi vậy, khi đưa dẫn chứng vào bài cần lưu ý yếu tố cần
và đủ, khơng thiếu dẫn chứng nhưng cũng khơng có q nhiều dẫn chứng. Việc
đưa dẫn chứng tùy thuộc vào việc có bao nhiêu vấn đề được nêu ra trong luận
điểm. Thông thường, với mỗi một lí lẽ, người viết cần đưa ra ít nhất một dẫn
chứng đi kèm.
c. Khi đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận phải đảm bảo tính điển hình,
tiêu biểu
Ngồi việc đưa dẫn chứng phong phú, người viết còn cần biết chọn lọc dẫn
chứng, ưu tiên những dẫn chứng điển hình và tiêu biểu. Chẳng hạn khi nói về
hình tượng người trí thức trong văn Nam Cao, HS sẽ chọn tác phẩm quen thuộc
trong chương trình học là Đời thừa. Nhưng vì đã quá quen thuộc nên có thể sẽ
khơng tạo ra được tính hấp dẫn cho bài văn. Người viết nên đưa thêm các dẫn
chứng ngoài chương trình cùng chủ đề như: Nước mắt, Sống mịn. Rõ ràng dẫn
chứng này sẽ truyền thêm cảm hứng cho rất nhiều người. Như vậy, chúng ta nên
chọn lọc những dẫn chứng mới mẻ thơng qua việc thường xun tìm hiểu và
cập nhật các kiến thức ngồi chương trình học bắt buộc. Đây là yêu cầu cần thiết
đối với HSG .
d. Khi đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận phải kết hợp với việc phân tích
dẫn chứng

Khi đưa dẫn chứng vào bài, cần kết hợp với việc phân tích, đánh giá dẫn
chứng. Thao tác này sẽ khiến cho dẫn chứng phát huy hết vai trị, hiệu quả. Nếu
khơng phân tích, đánh giá, bài văn sẽ trở nên hời hợt, sáo rỗng. Không sâu sắc
và đủ sức tác động đến người đọc. Để làm được điều này, người viết cần hiểu
đúng, đánh giá đúng và cảm thụ đúng về giá trị của dẫn chứng.
Chẳng hạn khi phân tích chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ. Đây là chi tiết hay và
cảm động. Ngồi việc phân tích diễn biến câu chuyện dẫn đến tình tiết cởi trói,
q trình tự phát hay tự giác của cơ Mị… người viết cần có thêm những lời nhận
xét, bình giá như: “…Ta cảm thấy xót thương, thơng cảm, căm phẫn bao nhiêu
khi chứng kiến đọan đời đớn đau tủi nhục của Mị trước kia, thì giờ đây khi
chứng kiến cảnh Mị cởi trói cho A phủ ta cảm thấy sảng khoái, thanh thản, thoải
mái bấy nhiêu. Vì chỉ bằng một hành động ấy, cơ Mị lầm lũi ủ rũ kia đã tự cởi
trói cho cuộc đời bị xiềng xích , đầy đọa của mình. Hai tâm hồn khổ đau, hai
cuộc đời nô lệ gặp nhau bỗng chuyển hóa thành sức mạnh. Phía trước gian nan,

16


thử thách còn nhiều nhưng khát vọng sống mãnh liệt sẽ giúp họ có được tình
u, niềm hạnh phúc”
e. Khi đưa dẫn chứng trong văn nghị luận cần đảm bảo tính logic và hệ thống
Khi đưa dẫn chứng trong văn nghị luận, người viết cần đảm bảo tính hệ
thống. Nghĩa là các dẫn chứng phải được sắp xếp theo một trình tự, quy luật
nhất định. Ví dụ như việc sắp xếp dẫn chứng theo trục thời gian tuyến tính (từ
lịch sử, quá khứ đến thời điểm hiện tại). Hoặc theo chiều không gian (từ rộng
đến hẹp, từ xa đến gần,…. hoặc ngược lại). Tính hệ thống sẽ giúp cho người viết
tránh được tình trạng đưa dẫn chứng một cách tràn lan và mất kiểm sốt.
Ví dụ:
Đề bài: Các nhà văn, nhà thơ nhân đạo lớn thường gửi vào sáng tác một cái
nhìn sâu sắc về con người, cách nhìn này hướng đến đời sống nội tâm và cảm xúc.

Bằng việc phân tích một vài tác phẩm văn học trung đại và hiện đại đã học,
anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
Với dạng đề có phạm vi dẫn chứng trên, người viết có quyền lựa chọn các
dẫn liệu khác nhau, không hạn định về thể loại, tác phẩm trong nước hay nước
ngoài. Tuy nhiên, cần chú ý lựa chọn các nhà nhân đạo lớn trong sáng tác văn
học thường hay đặc biệt chú trọng đến đời sống nội tâm và cảm xúc. Mặt khác,
cần chú ý trục thời gian khi đưa dẫn chứng. Cần đưa các tác giả và tác phẩm
trong văn học trung đại trước văn học hiện đại để đảm bảo tính hệ thống và tính
kế thừa tính nhân văn trong văn học. Chẳng hạn khi người viêt chọn ba tác gia
lớn là Nguyễn Du ,Nam Cao, Nguyễn Minh Châu điển hình cho văn học trung
đại và văn học hiện đại, thì dẫn chứng về các tác phẩm cần sắp xếp theo thời
gian xuất hiện trước sau của nó.
f. Khi đưa dẫn chứng cần chú ý tỉ lệ giữa dẫn chứng và lí lẽ
Trong q trình viết bài nghị luận, người viết phải tùy từng vấn đề, từng kiểu
bài mà xác định tỉ lệ giữa lí lẽ và dẫn chứng cho phù hợp. Bài viết nhiều lí lẽ quá
sẽ tạo cảm giác khô khan, nặng nề cho người đọc. Ngược lại bài nhiều dẫn
chứng quá mà thiếu lí lẽ sẽ trở nên nhạt nhẽo, hời hợt, nông cạn, thiếu cơ sở
thuyết phục
g. Khi đưa dẫn chứng đồng thời phải xác định được các cấp độ dẫn chứng
Cần phân biệt đâu là dẫn chứng mở rộng đâu là dẫn chứng bắt buộc để biết
điều chỉnh mức độ phân tích cho phù hợp.Ví dụ: Có ý kiến cho rằng Nguyễn
17


Khuyến là một trong những nhà thơ đặc sắc của làng cảnh Việt Nam. Anh (chị)
hãy chứng minh qua chùm thơ mùa thu của ông.
Với đề này, chùm thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến là phạm vi tư liệu mà
người viết buộc phải lấy làm dẫn chứng. Tuy vậy trong quá trình viết, học sinh
cần liên hệ với các nhà thơ khác cùng viết về mùa thu để so sánh, đối chiếu làm
nổi bật nét đặc sắc của chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến.

IV. Bồi dưỡng kĩ năng phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận văn học cho
HS giỏi Văn.
1. Một số yêu cầu về phân tích dẫn chứng trong bài NLVH của HS giỏi
a. Phân tích dẫn chứng cần làm sáng tỏ lí lẽ và vấn đề nghị luận chung
Đặc trưng của văn nghị luận là tính thuyết phục cao. Nếu lí lẽ khiến cho
người đọc hiểu rõ vấn đề thì dẫn chứng làm cho người ta tin cậy. Nếu lập luận
chỉ dựa vào lí lẽ mà chưa có dẫn chứng thì lập luận thiếu tính thuyết phục. Với
bài NLVH của học sinh giỏi, yêu cầu làm sáng tỏ vấn đề nghị luận và sức thuyết
phục của lí lẽ là vô cùng cần thiết. Một trong những cách thức để tăng tính
thuyết phục cho bài viết chính là nâng cao hiệu quả của việc phân tích dẫn
chứng.
Phân tích dẫn chứng cần làm sáng tỏ lí lẽ nghĩa là dẫn chứng phải hỗ trợ
đắc lực, làm rõ hơn những lí lẽ mà người viết đưa ra trong q trình lập luận.
Nếu lí lẽ nghiêng về lí thuyết, có tính trừu tượng, khô khan - là sản phẩm của tư
duy logic; thì sự phân tích dẫn chứng là những minh họa cụ thể, sinh động trong
thực tế văn chương, có tác dụng làm sáng tỏ hơn lí lẽ.
Phân tích dẫn chứng khơng chỉ làm sáng tỏ lí lẽ mà cịn đảm nhiệm vai trò
kép là sáng tỏ vấn đề mà đề bài yêu cầu. Nghĩa là tính định hướng của việc phân
tích dẫn chứng là một yêu cầu bắt buộc đối với bài viết của học sinh giỏi. Nếu
người viết chỉ phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ lí lẽ mà chưa bám sát vấn đề
nghị luận chung thì tính liên kết về ý của các đoạn văn trong bài văn nghị luận
chưa cao, chưa tập trung làm nổi rõ luận đề, khiến cho người đọc chỉ “thấy cây
mà khơng thấy rừng”. Vì thế, sau mỗi đoạn văn phân tích dẫn chứng làm sáng tỏ
lí lẽ, người viết cần dẫn dắt và chốt lại vấn đề nghị luận chung mà đề yêu cầu.
b. Phân tích dẫn chứng cần sâu sắc
Sáng tỏ mới chỉ mang lại cảm giác tin cậy, sự sâu sắc mới khiến cho
người đọc có cảm giác thuyết phục mọi bề. Vì thế, nếu có lí lẽ sắc sảo cần kết
18



hợp với sự phân tích dẫn chứng thật kĩ lưỡng, có chiều sâu mới thể hiện năng
lực thực sự của người giỏi văn.
Phân tích dẫn chứng sâu sắc nghĩa là khơng chỉ đúng, khơng chỉ sát với lí
lẽ và vấn đề nghị luận chung mà còn phải đào sâu, khám phá, phát hiện ra những
sắc cạnh mà dẫn chứng mang lại. Phân tích dẫn chứng sâu là khơng chỉ soi chiếu
ý nghĩa ở bề mặt ngôn từ, không chỉ dừng lại ở mức độ tái hiện dẫn chứng mà
phải cần đến năng lực thẩm thấu, bình giá, phân tích các yếu tố nghệ thuật, kết
hợp với suy luận, đánh giá cùng những liên hệ, mở rộng để làm rõ sự sâu sắc,
riêng biệt của dẫn chứng mà người viết đã chọn và phân tích. Phân tích dẫn
chứng sâu sắc là cịn phải biết cắt nghĩa, lí giải thuyết phục từ các góc độ khác
nhau.
Ví dụ:Đề u cầu: “Việc sáng tạo nghệ thuật vẫn có hai thiên hướng: làm giàu
mình và làm rõ mình. Để tạo nên một ngịi bút đa dạng, cần làm phong phú bản
thân. Để tạo dấu ấn cá tính lại rất cần làm sắc nét bản ngã. Trong sân chơi
nghệ thuật, anh sẽ chìm vơ tăm tích nếu không thắp nổi một ngọn đèn riêng”.
(Ngọn đèn xanh trong xứ mơ hồ/ Nghĩ về Trúc Thông - Chu Văn Sơn)
Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ thiên hướng “làm
giàu mình và làm rõ mình” của một tác giả văn học Việt Nam hiện đại mà anh
chị quan tâm.
+ Ở đề trên, muốn làm nổi bật vấn đề: thiên hướng “làm rõ mình” để sắc
nét bản ngã, tạo dấu ấn cá nhân và chọn dẫn chứng để phân tích, chứng minh là
tác giả Nam Cao; học sinh cần phân tích dẫn chứng theo các phương diện: cách
nhìn con người, cách xử lí đề tài, xác định chủ đề, đối tượng, cách viết chân thực
có tầm khái qt, sở trường miêu tả tâm lí, giọng điệu riêng không trộn lẫn…
của nhà văn.
+ Muốn làm sáng tỏ luận cứ 1: Nam Cao “làm rõ mình” qua cách nhìn
con người (biểu hiện qua sự quan tâm đặc biệt tới đời sống tinh thần, ln có
hứng thú khám phá “con người bên trong”, đề cao con người tư tưởng; nhìn
bằng con mắt của tình thương), học sinh cần phân tích sâu sắc, kĩ lưỡng bi kịch
tinh thần của nhân vật Hộ trong Đời thừa với những giằng xé nội tâm đầy khắc

khoải, đau đớn; bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo khi bị đồng
loại từ chối…Q trình phân tích dẫn chứng cần chỉ ra được các sắc thái nội tâm
thể hiện qua hành động, ngôn ngữ, suy nghĩ của nhân vật; cần bám sát các hình
thức nghệ thuật để thể hiện nội dung; cần thấy được thái độ, tình cảm của nhà

19


văn đối với nhân vật. Đồng thời, để đánh giá sâu sắc hơn về cái nhìn ấy của
Nam Cao, học sinh cần so sánh với cái nhìn con người của Vũ Trọng Phụng và
lí giải sự khác biệt ấy.
c. Phân tích dẫn chứng thể hiện màu sắc cá nhân
Bài văn của học sinh giỏi nhất thiết phải thể hiện được màu sắc cá nhân,
sự sáng tạo riêng của người học văn. Năng lực đặc biệt ấy không chỉ thể hiện ở
tố chất nhận diện đề tinh, đúng hướng; ở hệ thống lí lẽ sắc sảo mà cịn ánh lên
qua những đoạn văn phân tích dẫn chứng.
Màu sắc cá nhân, sự sáng tạo khi phân tích dẫn chứng được thể hiện qua
góc độ tiếp cận dẫn chứng để phát hiện ra những mới mẻ, độc đáo mà dẫn chứng
đem tới nhằm làm sáng tỏ vấn đề nghị luận; qua kĩ thuật phân tích dẫn chứng
mang đến những hiệu quả bất ngờ, lôi cuốn; qua lối dùng từ, viết câu; qua giọng
điệu, cảm xúc... để lại những ấn tượng đặc biệt cho người đọc mà bài viết mang
đến.
d. Phân tích dẫn chứng cần linh hoạt, phù hợp, đảm bảo tính cân đối giữa
các phần của bài NLVH của học sinh giỏi
Phân tích dẫn chứng trong bài NLVH của học sinh giỏi chỉ có hiệu quả
khi người viết biết làm chủ ngịi bút của mình. Bởi vì, các đoạn phân tích dẫn
chứng thường khác nhau ở mức độ nông - sâu; ở tỉ lệ đậm - nhạt; ở dung lượng
ngắn - dài, tuỳ thuộc vào hệ thống luận điểm và mục đích lập luận của người
viết.
Nếu phân tích dẫn chứng nhằm mục đích minh họa cho lí lẽ (trong đoạn

bình luận ý kiến) thì chọn lối phân tích ngắn gọn, tinh.
Nếu phân tích dẫn chứng nhằm làm sáng rõ hệ thống luận điểm (trong
đoạn chứng minh ý kiến) thì phân tích cần kĩ lưỡng, soi chiếu nhiều góc độ, có
tầng bậc, lớp lang.
Nếu phân tích dẫn chứng nhằm mục đích so sánh, đối chiếu thì thao tác
phân tích cần hướng đến những bình giá tinh gọn, sâu sắc.
2. Các bước phân tích dẫn chứng trong bài NLVH của học sinh giỏi
a. Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận diện yêu cầu của đề và lựa chọn
dẫn chứng phù hợp. (Lựa chọn dẫn chứng cần đảm bảo một số yêu cầu như đã
trình bày ở phần trên)

20


b. Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh tạo lập các đoạn văn phân tích dẫn
chứng trong bài.
Thơng thường, trong bài NLVH của học sinh giỏi, quá trình phân tích dẫn
chứng xuất hiện ở 3 phần của bài viết: phân tích dẫn chứng trong đoạn bình
luận; phân tích dẫn chứng trong đoạn chứng minh vấn đề; phân tích dẫn chứng
trong đoạn đánh giá, nâng cao vấn đề. Ở mỗi phần, kĩ năng phân tích dẫn chứng
có những đặc thù riêng:
+ Phân tích dẫn chứng (khơng bắt buộc) trong đoạn bình luận ý kiến: với
những dẫn chứng đã được lựa chọn tiêu biểu, phong phú thì nội dung đoạn phân
tích phải nêu được dẫn chứng và chỉ ra giá trị của dẫn chứng để làm sáng tỏ lí
lẽ. Muốn thế, người viết cần lựa chọn được những từ khoá thật tinh và trúng, sát
với lí lẽ. Để đảm bảo tỉ lệ cân đối giữa lí lẽ và dẫn chứng nên mỗi dẫn chứng chỉ
nên viết từ 1 đến 3 câu, hình thức câu văn nên lựa chọn kiểu câu ghép, đa thơng
tin nhưng vẫn mang tính hàm súc.
+ Phân tích dẫn chứng trong đoạn chứng minh ý kiến (dẫn chứng bắt
buộc): Đây là những đoạn văn rất quan trọng được coi là điểm sáng trong bài

văn học sinh giỏi. Vì thế, giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng phân tích dẫn
chứng thành thạo, đảm bảo các yêu cầu và tránh các lỗi như đã nêu ở phần II.
Khi phân tích dẫn chứng, học sinh cần tập trung làm sáng tỏ luận điểm. Muốn
thế, cần xác định nội dung chính của dẫn chứng cần phân tích là gì? Tồn bộ đối
tượng hay một khía cạnh của đối tượng cần phân tích? Hình thức đoạn văn phân
tích trình bày theo phương pháp tổng phân hợp hay diễn dịch, quy nạp, song hành,
móc xích? Trình tự phân tích cần đảm bảo các bước: giới thiệu; phân tích nội dung,
nghệ thuật; lập luận, đánh giá khái quát dẫn chứng đối với vấn đề nghị luận.
+ Phân tích dẫn chứng trong đoạn liên hệ, so sánh (dẫn chứng không bắt
buộc): Đây là đoạn cần có trong bài viết của học sinh giỏi để thể hiện vốn kiến
văn và cách lập luận sắc sảo của người học nhưng không phải là trọng tâm của
bài, vì thế khi phân tích cần hướng đến mục đích cụ thể, tránh lan man làm
loãng vấn đề nghị luận.
c.Bước 3: Phát hiện và sửa lỗi: Giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh những lỗi khi
phân tích dẫn chứng: diễn xi ý; nêu mà khơng phân tích; phân tích khơng phù
hợp với lí lẽ, luận điểm; phân tích sơ sài, không bám sát cá yếu tố nghệ thuật;
liên hệ, mở rộng nhưng khơng rõ mục đích... Từ đó, uốn nắn, sửa lỗi cho học
sinh.

21


3. Một số phương pháp phân tích dẫn chứng để nâng cao chất lượng bài
NLVH của học sinh giỏi
a. Tái hiện và cảm nhận dẫn chứng
Phân tích dẫn chứng thơng qua hình thức tái hiện và cảm nhận là cách
thức khá phổ biến trong các bài văn nghị luận khi người viết cần phân tích dẫn
chứng để làm sáng tỏ một vấn đề. Tái hiện là thao tác mà người viết dùng ngôn
ngữ để thuật kể lại sự việc, miêu tả đối tượng hoặc nội dung cảm xúc của đoạn
thơ, bài thơ. Tái hiện thường gắn liền với cảm nhận của người viết khi muốn bày

tỏ suy nghĩ của cá nhân về giá trị đặc sắc của dẫn chứng đó.
Ưu điểm của cách thức tái hiện kiến thức, dẫn chứng là dễ viết nhưng
không thể hiện được màu sắc cá nhân và năng lực của học sinh giỏi. Vì thế,
trong bài NLVH của học sinh giỏi, người viết không được sử dụng duy nhất
cách thức tái hiện mà phải kết hợp với cảm nhận của cá nhân mình: nêu được
những suy nghĩ, đánh giá của bản thân bằng những từ ngữ tinh và trúng thì mới
tạo được sắc thái riêng cho bài viết.
Ví dụ:
Đề: Có ý kiến cho rằng: “Cái đẹp trong nghệ thuật bắt nguồn từ đời sống
nhưng quan trọng và trực tiếp hơn cả là cái đẹp trong chính người nghệ sĩ”.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua những hiểu biết về 2 đoạn trích
“Người lái đị sơng Đà” (Nguyễn Tn) và “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”
(Hồng Phủ Ngọc Tường), anh/ chị hãy làm rõ ý hiểu của mình.
+ Trong phần bình luận ý kiến, gắn với lí lẽ “cái đẹp trong nghệ thuật bắt
nguồn từ đời sống”, người viết có thể dùng lối tái hiện kết hợp với những cảm
nhận của bản thân về những dẫn chứng trong văn học nói chung để làm sáng tỏ
mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, làm rõ được cái đẹp đời sống đã khơi
nguồn cảm hứng, là chất liệu sáng tác văn chương, là đích đến trong ngịi bút
của nhà văn hướng về đời, về con người...
+ Nếu lựa chọn dẫn chứng là những câu thơ, bài thơ lấy đề tài, cảm hứng
từ thế giới thiên nhiên bên ngoài, từ cảnh quan mĩ lệ mn màu của q hương
đất nước mình, học sinh cần tái hiện và nêu một vài cảm nhận như:
“Vẻ đẹp của những áng thơ viết về thiên nhiên, đất nước mình thường bắt
nguồn từ chính cái đẹp có sẵn mà tạo hoá ban cho, khởi sinh cảm hứng để
người nghệ sĩ cất bút đề thơ: đó là bức tranh xứ Nghệ tươi tắn dạt dào niềm tự
hào về vẻ đẹp “non xanh nước biếc như tranh họa đồ” của người bình dân xưa.
22


Đó là chốn lâm tuyền Cơn Sơn trong thơ Nguyễn Trãi, gợi bao thi hứng để nhà

thơ sống những chuỗi ngày ẩn dật mà phong lưu, thanh nhàn. Ngôi nhà thiên
nhiên có suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thơng làm giường, bóng tre trúc làm
rèm...để thi nhân ngâm vịnh thơ ca. Đó là bức tranh tứ bình với đủ phong, hoa,
tuyết, nguyệt được họa khắc từ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ
ngâm của thi sĩ họ Đoàn - dù đậm sắc thái cổ điển hay là các bức tranh thiên
nhiên dù thực hay mộng trong thơ mới; đến những bức tranh núi đồi, sông
nước, rừng thẳm của biển trời quê hương trên khắp các vùng miền – dù nhuốm
màu sử thi hay mang cảm hứng lãng mạn của văn học thời kì hoa lửa … thì
cũng đều lưu giữ, thoát thai từ cái đẹp hiện hữu trong đời sống - trước khi biến
thành cái đẹp bất tử trong thơ văn…” ( Bài viết của học sinh)
+ Ở đoạn phân tích dẫn chứng trên, người viết đã dùng phương pháp tái
hiện những bức tranh thiên nhiên trong văn thơ từ văn học dân gian đến văn học
viết. Vì đây là đoạn bình luận ý kiến phục vụ cho lí lẽ nên có dẫn chứng chỉ
được nêu, có dẫn chứng được phân tích. Đồng thời, người viết cũng đưa ra
những cảm nhận ngắn gọn nhất về vẻ đẹp và nguồn cội của chúng đều là bắt
nguồn từ hiện thực cuộc sống.
b. Phân tích nghệ thuật làm sáng tỏ nội dung
Một trong những cách thức thể hiện năng lực cảm thụ văn chương và kĩ
năng làm văn tốt của học sinh giỏi chính là khả năng phân tích, khai thác các
yếu tố nghệ thuật làm sáng tỏ nội dung. Người viết cần nắm chắc đặc trưng thể
loại, phát hiện các tín hiệu nghệ thuật mang chứa nội dung, phân tích những nét
đặc sắc và hiệu quả của nó trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng, tình cảm của
nhà văn:
Nếu dẫn chứng là thơ: cần bám sát các yếu tố nghệ thuật thuộc đặc trưng
thơ như: thể thơ, nhịp thơ, ngơn ngữ, hình ảnh...
Nếu dẫn chứng là truyện, văn xi: cần bám sát các yếu tố về cốt truyện,
tình huống, nhân vật, chi tiết, nghệ thuật kể chuyện, lời văn ( kiểu câu, nhịp văn,
biện pháp nghệ thuật...)
Nếu dẫn chứng thuộc thể loại kịch: cần chú ý đến xung đột kịch, nhân vật
kịch, ngơn ngữ kịch...

- Ví dụ
+ Ở đề bài trong mục 3.a, trong phần phân tích chứng minh ý kiến qua 2
tác phẩm về dịng sơng, và soi chiếu vào văn bản Người lái đó sơng Đà, cần
23


chứng minh rằng: tạo nên cái đẹp nghệ thuật của những trang văn như “tờ hoa”
ấy vừa bắt nguồn từ núi sông hùng vĩ Đà giang vừa bắt nguồn từ chính tấm lịng,
tài năng, phong cách của Nguyễn Tn. Ở đây người viết chuyên đề chỉ đi vào
một khía cạnh tài hoa của Nguyễn Tuân trong việc biến hóa ghềnh thác thiên
nhiên thành ghềnh thác ngôn từ nghệ thuật. Ở ý này, học sinh cần khai thác kĩ
những yếu tố nghệ thuật để làm nổi bật sự tài hoa của ngịi bút Nguyễn Tn. Có
rất nhiều đoạn văn trong bài kí có thể làm dẫn chứng để khai thác đó. Đây chỉ là
một ví dụ:
+ Nếu phân tích dẫn chứng ở đoạn mặt ghềnh Hát Loong: Học sinh cần
bám sát các yếu tố nghệ thuật như: hình thức câu văn dài, nhiều vế kết hợp với
nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc câu cùng với một loạt động từ mạnh, nghệ thuật
nhân hoá đã làm nổi bật sự cuồng nộ, hung bạo của sơng nước nơi đây.
+ Nếu phân tích dẫn chứng đoạn âm thanh thác nước sông Đà: Học sinh
cần bám sát các tín hiệu nghệ thuật như: nghệ thuật quan sát kết hợp với cảm
nhận bằng thị giác, thính giác từ gần đến xa cùng thủ pháp nhân hoá và lối so
sánh độc đáo: lấy nước so sánh với lửa; lấy cái trên rừng so sánh với cái dưới
sông và tiết tấu câu văn dồn dập, hối hả khiến người đọc hình dung tiếng thác
nước sơng Đà khơng cịn là sơng nước vơ tri nữa, nó vừa giống như một khúc
cuồng ca đa cung nghìn bậc của đại ngàn Tây Bắc vừa tựa như một sinh thể có
tâm trạng dữ dằn, có tâm địa vơ lương khó đốn...
c. Suy luận bằng lí lẽ
Phân tích dẫn chứng thơng qua hình thức suy luận bằng lí lẽ nghĩa là
người viết phải biết kết nối các thông tin, kết hợp cả những kiến thức ngoài văn
bản như hoàn cảnh sáng tác, cuộc đời, phong cách nhà văn, thời đại, lí luận văn

học...để phân tích, lí giải hiện tượng, dẫn chứng văn học.
Thao tác suy luận bằng lí lẽ có tính thuyết phục sẽ thể hiện tư duy logic
của người viết, cho thấy chiều sâu trong suy nghĩ. Tuy nhiên, nếu suy luận thiếu
căn cứ, chỉ mang tính võ đốn sẽ khiến cho bài văn non nớt, mang tính suy diễn,
lan man, khơng thể thuyết phục người đọc.
-Ví dụ:
+ Ở đề trên (mục 3.a), trong phần bình luận ý kiến, để làm sáng tỏ ý:
“quan trọng và trực tiếp hơn là cái đẹp từ chính người nghệ sĩ”, học sinh có thể
dùng lối suy luận như sau:

24


×