Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phân tích báo cáo tài chính của công ty tài chính cổ phần điện lực EVNFC (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.98 KB, 6 trang )

TĨM TẮT LUẬN VĂN
Tính cấp thiết của đề tài:
Cơng ty Tài chính Cổ phần Điện lực- EVNFC là một cơng ty tài chính cịn non trẻ,
mới được thành lập ngày 01/09/2008 với nhiệm vụ chính là quản lý và điều phối vốn
trong Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Ra đời trong bối cảnh nền kinh tế đang phải
đối mặt với nhiều khó khăn: khủng hoảng kinh tế, lạm phát, …; ngành ngân hàng cũng
đang trải qua nhiều biến động với những thay đổi trong chính sách quản lý vĩ mơ khiến
hoạt động kinh doanh của EVNFC gặp khơng ít các trở ngại. Trải qua hơn 2 năm hoạt
động công ty vẫn ln khơng ngừng hồn thiện cả về phát triển sản phẩm lẫn chất lượng
dịch vụ cũng như quy mô hoạt động để phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Và để
đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của EVNFC trong những năm đầu hoạt động,
góp phần hồn thiện hoạt động phân tích báo cáo tài chính tại đơn vị, tác giả đã chọn đề
tài nghiên cứu là “Phân tích báo cáo tài chính của Cơng ty Tài chính Cổ phần Điện
lực- EVNFC”. Đề tài được tác giả thực hiện trên cơ sở phát huy những điểm mạnh và
khắc phục một số điểm yếu trong các công trình nghiên cứu có liên quan đã được thực
hiện trước đó.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đề tài thực hiện hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về BCTC và phân tích
BCTC trong các TCTD. Trên cơ sở phân tích BCTC của EVNFC, đề tài đưa ra những kết
luận đánh giá tình hình kinh doanh của EVNFC trong những năm đầu hoạt động và đề
xuất một số giải pháp để nâng cao năng lực tài chính của đơn vị trong tương lai.
Phạm vị nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chỉ tiêu tài chính thu được từ BCTC của
Cơng ty Tài chính Cổ phần Điện lực.
Phạm vi nghiên cứu: tác giả thực hiện nghiên cứu trên BCTC của Cơng ty Tài
chính Cổ phần Điện lực qua các năm 2008, 2009, 2010.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng trong quá


trình thu thập và xử lý thơng tin. Trên cơ sở nguồn dữ liệu là các BCTC đã được kiểm


toán hàng năm (2008, 2009, 2010) mà tác giả thu thập được từ phịng kế tốn của
EVNFC, tác giả thực hiện sàng lọc số liệu để đưa vào cơng thức tính tốn với sự trợ giúp
của chương trình Excel kết hợp với các phương pháp phân tích như so sánh, loại trừ,
phân tích dupont,… để tính tốn các chỉ tiêu làm cơ sở phân tích, đánh giá năng lực tài
chính của đơn vị.
Kết cấu của đề tài nghiên cứu: ngoài các phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài
liệu tham khảo, mục lục, luận văn được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
Chương 3: Phân tích thực trạng đề tài nghiên cứu
Chương 4: Thảo luận kết quả nghiên cứu, các giải pháp đề xuất và kết luận
Phân tích BCTC là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép
thu thập và xử lý các thơng tin kế tốn nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và
tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính,
quyết định quản lý phù hợp.
Có rất nhiều đối tượng quan tâm đến BCTC và phân tích BCTC của các doanh
nghiệp nói chung, các TCTD nói riêng. Mỗi đối tượng sẽ quan tâm theo giác độ và với
mục tiêu khác nhau nhưng tựu chung lại có hai mục đích cơ bản trong phân tích BCTC
là: sử dụng các cơng cụ phân tích tài chính như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các
số liệu tài chính trong báo cáo và đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương lai.
Hoạt động kinh doanh của các TCTD với những đặc điểm riêng có cũng sẽ ảnh
hưởng đến nội dung phân tích BCTC của các TCTD như: Vốn và tiền vừa là phương tiện,
vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng thời cũng là đối tượng kinh doanh của TCTD;
TCTD kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác, vốn tự có của TCTD chiếm một tỷ lệ
rất thấp trong tổng nguồn vốn hoạt động nên việc kinh doanh của TCTD luôn gắn liền với
một rủi ro mà TCTD buộc phải chấp nhận với một mức độ mạo hiểm nhất định; hoạt


động kinh doanh của các TCTD luôn chịu sự giám sát chặt chẽ và thường xuyên của các
cơ quan quản lý vĩ mơ,...

Tài liệu phục vụ cho q trình phân tích BCTC của các TCTD chủ yếu vẫn là các
BCTC như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính với một số đặc điểm riêng có nhằm phản
ánh chính xác hoạt động kinh doanh của các TCTD.
Do nhu cầu thông tin về năng lực tài chính của các TCTD rất đa dạng, địi hỏi hoạt
động phân tích BCTC phải được tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau giúp các
đối tượng quan tâm có được cái nhìn tổng thể, tồn diện trên các mặt hoạt động của
TCTD. Các phương pháp thường sử dụng trong phân tích BCTC của các TCTD gồm:
phương pháp so sánh, phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích, phương pháp loại trừ,
phương pháp đồ thị, phương pháp kết hợp, …
Để thực hiện phân tích BCTC của các TCTD luận văn đã đưa ra một số nội dung
phân tích cơ bản đó là: Phân tích cơ cấu nguồn vốn và tình hình huy động vốn của TCTD
để đánh giá quy mơ vốn cũng như thực trạng huy động vốn từ các nguồn khác nhau tại
TCTD; Phân tích cơ cấu tài sản và tình hình sử dụng vốn của TCTD để đánh giá thực
trạng sử dụng vốn huy động của TCTD vào các sản phẩm, dịch vụ; Phân tích các tỷ lệ
đảm bảo an toàn trong TCTD để đảm bảo mối quan hệ cân đối giữa hoạt động huy động
vốn với hoạt động sử dụng vốn, đảm bảo các mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của TCTD luôn nằm trong giới hạn cho phép của NHNN; Phân tích tính thanh khoản của
TCTD để giúp các nhà quản lý có những quyết định đúng đắn trong việc sử dụng vốn hợp
lý tránh tồn đọng hay bị chiếm dụng vốn quá nhiều đồng thời vẫn đảm bảo khả năng
thanh khoản của TCTD; Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của TCTD phản ánh
trình độ của TCTD trong việc sử dụng vốn huy động để đạt được kết quả cao nhất với chi
phí thấp nhất.
Thơng qua hoạt động phân tích báo cáo tài chính của EVNFC giai đoạn 2008-2010
tác giả đã góp phần đánh giá hoạt động kinh doanh của EVNFC lần lượt trên các mặt: cơ
cấu nguồn vốn của EVNFC, cơ cấu tài sản của EVNFC, các tỷ lệ đảm bảo an tồn của
EVNFC, tính thanh khoản của EVNFC và hiệu quả hoạt động


kinh doanh của EVNFC.

Đối với hoạt động huy động vốn, trong các năm đầu hoạt động quy mô vốn của
EVNFC đã tăng lên nhanh chóng đạt 23.293 tỷ đồng vào thời điểm 31/12/2010. Năm
2010 vốn huy động của EVNFC đạt 18.940.441 triệu VND tương đương với mức độ tăng
trưởng 68,55% so với năm 2009. Các con số này đã ghi nhận nỗ lực của EVNFC trong
hoạt động huy động vốn từ nền kinh tế trong đó phải kể đến các khoản mục vốn tài trợ,
ủy thác đầu tư; tiền gửi khách hàng; tiền gửi và vay các TCTD khác, uỷ thác quản lý
dòng tiền, phát hành trái phiếu EVN.
Đối với hoạt động sử dụng vốn, bên cạnh sản phẩm truyền thống là tín dụng
EVNFC cũng đang tích cực mở rộng các hình thức đầu tư vốn của mình vào các hoạt
động kinh doanh khác như kinh doanh ngoại hối, kinh doanh chứng khoán, đầu tư chứng
khoán và kinh doanh các dịch vụ khác. Đối với hoạt động tín dụng, EVNFC đã làm tốt sứ
mệnh điều phối vốn cho các dự án ngành điện với tỷ trọng dư nợ cho vay đối tượng
khách hàng là các tổ chức kinh tế thuộc nhóm EVN ln ở mức trên 70%. Tuy nhiên
trong hoạt động tín dụng của đơn vị cũng xuất hiện những tín hiệu khơng tốt như: mặc dù
là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chính và ổn định cho đơn vị xong tỷ trọng dư nợ cho
vay trong tổng tài sản của EVNFC giai đoạn 2008-2010 đang ngày càng giảm từ 30,34%
năm 2008 xuống 17,33% năm 2009 và còn 15,65% năm 2010; với đặc điểm mới đi vào
hoạt động, tín dụng trung dài hạn là chủ yếu xong đã xuất hiện những khoản nợ cần chú ý
vào các năm 2009, 2010. Việc sử dụng vốn vào vào các hoạt động đầu tư, kinh doanh
chứng khoán của EVNFC trong thời gian qua là kém hiệu quả, gây thiệt hại đáng kể đến
kết quả kinh doanh của đơn vị.
Đối với tính thanh khoản, trong giai đoạn 2008-2010 tính thanh khoản của
EVNFC cũng đều duy trì ở trạng thái tốt: giá trị các tài sản có khả năng thanh khoản cao
như tiền mặt, tiền gửi tại các TCTD, chứng khoán dễ tiêu thụ luôn chiếm tỷ trọng cao;
các khoản cho vay là những tài sản có tính thanh khoản thấp nhất thì chiếm tỷ trọng nhỏ.
Xong các chỉ tiêu này cũng đã thể hiện một mặt trái là đơn vị đang đầu tư một lượng lớn
vốn vào những tài sản có tính thanh khoản cao nhưng
sinh lời ít gây ra sự lãng phí nguồn lực.



Về hiệu quả hoạt động kinh doanh, kết quả lợi nhuận trước thuế cũng như lợi
nhuận sau thuế của EVNFC khơng ngừng tăng qua các năm, trong đó có sự đóng góp
đáng kể của hoạt động lãi và các khoản có tính chất lãi. Hoạt động dịch vụ của EVNFC
vừa đạt tăng trưởng trong thu nhập vừa giảm được chi phí kinh doanh cho thấy đây là
một hoạt động kinh doanh tiềm năng của đơn vị. Tuy nhiên, nếu xét về hiệu quả kinh
doanh thì các chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh doanh của đơn vị đang suy giảm chứng tỏ
hiệu quả kinh doanh của EVNFC trong giai đoạn đầu là thấp.
Trên cơ sở phân tích BCTC của EVNFC, nhận ra được những ưu, nhược điểm
trong hoạt động kinh doanh của đơn vị, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
năng lực tài chính của đơn vị trong tương lai như hướng tới huy động tiền gửi tiết kiệm từ
phân khúc khách hàng là cán bộ, công nhân viên ngành điện, thu hút nguồn vốn huy động
bằng cách huy động vốn sử dụng lãi suất điều chỉnh theo lạm phát, cân nhắc lại lượng
vốn đầu tư vào chứng khoán để chuyển sang đầu tư vào các danh mục ít rủi ro hơn, …
Qua q trình tìm hiểu, phân tích tác giả nhận thấy các các hoạt động kinh doanh
của TCTD rất đa dạng, được chia theo nhiều phân khúc đối tượng, sản phẩm khác nhau
nên trong phạm vi có hạn của luận văn này tác giả mới chỉ đánh giá được tổng quan tình
hình tài chính của EVNFC. Vì vậy, trong các luận văn tới, khi phân tích tình hình tài
chính của EVNFC các tác giả khác có thể đi sâu phân tích từng mảng nghiệp vụ của đơn
vị như tín dụng; đầu tư,kinh doanh chứng khốn; góp vốn, đầu tư dài hạn,… hoặc đi sâu
phân tích các rủi ro (rủi ro thanh khoản, rủi ro tiền tệ, rủi ro lãi suất,…) mà EVNFC có
thể gặp phải.
Với đề tài nghiên cứu này, tác giả muốn đóng góp một vài nhận định, phân tích
hoạt động kinh doanh của EVNFC trong giai đoạn đầu hoạt động và góp phần hồn thiện
hoạt động phân tích báo cáo tài chính tại đơn vị. Từ đây đơn vị cũng có thể nâng cao hoạt
động phân tích của mình lên đối với những báo cáo quản trị để kết quả phân tích ngày
càng bám sát thực tế hoạt động kinh doanh của đơn vị.





×