Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về tập trung kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.19 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, tập trung kinh tế tại Việt Nam diễn ra ngày càng phổ biến
dưới nhiều hình thức khác nhau. Đây là xu hướng tất yếu khách quan của nền kinh
tế thị trường, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới xu hướng này diễn ra rất
mạnh, đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Tập trung
kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Mặt khác,
tập trung kinh tế cũng tiềm ẩn nguy cơ hình thành độc quyền hoặc vị trí thống lĩnh
trên thị trường, gây hại cho môi trường kinh doanh, ảnh hưởng tiêu cực đến doanh
nghiệp, người tiêu dùng và cả nền kinh tế nói chung. Trước bối cảnh đó, Luật Cạnh
tranh năm 2004 đã được Quốc hội ban hành nhằm kiểm sốt tập trung kinh tế bảo
đảm mơi trường cạnh tranh lành mạnh, duy trì trật tự cạnh tranh.
Với những lý do trên, em xin chọn đề 06: “Thực trạng pháp luật cạnh tranh
Việt Nam về tập trung kinh tế” để đi sâu vào nghiên cứu.

2


NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận chung về tập trung kinh tế
1. Khái niệm và đặc điểm của tập trung kinh tế
Dưới góc độ pháp luật, Luật Cạnh tranh năm 2004 không quy định thế nào là
tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là tập trung kinh tế (TTKT).
Theo đó, khoản 3 Điều 3 Luật này khẳng định TTKT thuộc nhóm các hành vi hạn
chế cạnh tranh và Điều 16 quy định: “Tập trung kinh tế là hành vi của doanh
nghiệp bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh
nghiệp, liên doanh giữa các doanh nghiệp, các hành vi tập trung kinh tế khác theo


quy định của pháp luật”.
Như vậy, dù được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, TTKT vẫn có 3 đặc
điểm cơ bản sau:
- Chủ thể của TTKT là các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường. Các
doanh nghiệp tham gia TTKT có thể là các doanh nghiệp hoạt động trong cùng
hoặc không cùng thị trường liên quan;
- Hành vi TTKT được thể hiện dưới những hình thức nhất định theo quy định
của pháp luật;
- TTKT đã hình thành nên doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tổng hợp hoặc
liên kết thành nhóm doanh nghiệp, tập đồn kinh tế, từ đó làm thay đổi cấu trúc thị
trường và tương quan cạnh tranh hiện có trên thị trường.
2. Các hình thức tập trung kinh tế
Theo pháp luật về cạnh tranh, các hình thức tập trung kinh tế bao gồm: tập
trung kinh tế theo chiều ngang, tập trung kinh tế theo chiều dọc và tập trung kinh tế
theo đường chéo (tập trung kinh tế hỗn hợp). Luật Cạnh tranh quy định có 4 hình
thức tập trung kinh tế cơ bản tại Điều 16 và Điều 17 như sau:

3


- Sáp nhập doanh nghiệp: khoản 1 Điều 17 Luật Cạnh tranh quy định: “Sáp
nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”. Theo quy định này, sáp
nhập doanh nghiệp là một hình thức TTKT nên bị kiểm sốt nhằm ngăn ngừa khả
năng hình thành doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường có thể dẫn đến thực
hiện hành vi gây cản trở cạnh tranh.
- Hợp nhất doanh nghiệp: khoản 2 Điều 17 Luật Cạnh tranh quy định: “Hợp
nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp

mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất”. Như vậy,
sau khi đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp bị hợp nhất chấm dứt tồn tại, doanh
nghiệp hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về
các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của
các doanh nghiệp bị hợp nhất.
- Mua lại doanh nghiệp: khoản 3 Điều 17 Luật Cạnh tranh quy định: “Mua lại
doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của
doanh nghiệp khác đủ để kiểm sốt, chi phối tồn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại”. Có một số ý kiến cho rằng mua lại toàn bộ doanh
nghiệp là hình thức sáp nhập doanh nghiệp bởi khi mua lại toàn bộ doanh nghiệp,
người mua trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như tài sản của doanh nghiệp,
được hưởng các quyền, nghĩa vụ và tính hợp pháp của doanh nghiệp đó. Về bản
chất, việc mua lại khơng phải là quá trình thống nhất về tổ chức giữa doanh nghiệp
mua lại và doanh nghiệp bị mua lại. Ngoài ra, khoản 1 Điều 35 Nghị định số
116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Cạnh tranh, còn quy định trường hợp mua lại doanh nghiệp khác
không bị coi là tập trung kinh tế.
4


- Liên doanh giữa các doanh nghiệp: khoản 4 Điều 17 Luật Cạnh tranh quy
định: “Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp
cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để
hình thành một doanh nghiệp mới”. Có thể thấy, hành vi liên doanh có một sự khác
biệt cơ bản so với hành vi hợp nhất doanh nghiệp đó là sau khi các doanh nghiệp
góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới thì địa vị pháp lý của các doanh nghiệp đó vẫn cịn tồn tại.
Như vậy, có thể hiểu bản chất của tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp
hoạt động trong cùng hoặc không cùng thị trường liên quan. Các hành vi này được
thực hiện dưới các hình thức nhất định theo quy định của pháp luật như: sáp nhập

doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa các
doanh nghiệp.
II. Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về tập trung kinh tế
1. Quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về tập trung kinh tế
 Mơ hình kiểm sốt tập trung kinh tế:
Luật Cạnh tranh năm 2004 có nhiều điều khoản quy định tạo hành lang pháp lý
cho phép các cơ quan quản lý nhà nước kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế. Cụ
thể là:
- Mơ hình TTKT hồn tồn tự do: Luật Cạnh tranh đã sử dụng tiêu chí thị phần
của doanh nghiệp trên thị trường liên quan để kiểm soát TTKT. Khoản 1 Điều 20
của Luật này quy định các doanh nghiệp có quyền tự do thực hiện TTKT trong hai
trường hợp sau:
+ Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia TTKT thấp hơn 30% trên
thị trường liên quan thì khơng bị cấm và khơng có nghĩa vụ phải thơng báo
+ Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp từ 30% đến 50% trên thị trường liên
quan cũng không bị cấm và không phải thông báo, nếu sau khi thực hiện TTKT
vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của pháp luật;
5


- Mơ hình TTKT phải thơng báo: Tại khoản 1 Điều 20 Luật Cạnh tranh quy
định: “Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50%
trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của doanh nghiệp đó phải thơng
báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế”. Trong
trường hợp này, các doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất,
mua lại và liên doanh sau khi đã hồn tất thủ tục thơng báo và được cơ quan quản
lý cạnh tranh chấp thuận;
- Mơ hình TTKT bị cấm và miễn trừ đối với TTKT bị cấm: Tại Điều 18 Luật
Cạnh tranh quy định: “Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan”. Quy

định như vậy xuất phát từ thực tế cho thấy những vụ việc TTKT có thị phần kết
hợp của doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan luôn
mang bản chất hạn chế cạnh tranh, dẫn đến hình thành một doanh nghiệp hoặc một
nhóm doanh nghiệp nắm giữ đa số thị phần trên thị trường liên quan, đẩy các
doanh nghiệp vừa và nhỏ còn lại trên thị trường đứng trên bờ phá sản. Tại Điều 19
Luật Cạnh tranh quy định cụ thể về trường hợp miễn trừ đối với TTKT bị cấm. Có
thể thấy, pháp luật về cạnh tranh của nước ta dựa trên những tình huống về TTKT
đã diễn ra trên thực tế để dự liệu trường hợp miễn trừ này. Các quy định từ Điều 35
đến Điều 38 Luật Cạnh tranh quy định về trình tự và thủ tục xin hưởng miễn trừ
TTKT được thực hiện thay cho thông báo TTKT và tương tự như thủ tục xin miễn
trừ cấm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
 Thủ tục kiểm sốt tập trung kinh tế:
- Thủ tục thơng báo TTKT: Trình tự xem xét một vụ TTKT ở Việt Nam theo
quy định của Luật Cạnh tranh bao gồm các bước: Doanh nghiệp nộp hồ sơ thông
báo TTKT -> Cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ sơ thông báo TTKT -> Cơ quan
quản lý cạnh tranh trả lời thông báo TTKT. Luật Cạnh tranh đã quy định cụ thể về
thủ tục thơng báo TTKT, trong đó đề cập cụ thể các vấn đề như: đối tượng áp dụng;
6


trách nhiệm của các doanh nghiệp; thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh và
quy định về thời hạn trả lời thông báo tập trung kinh tế.
- Thủ tục thực hiện các trường hợp miễn trừ TTKT: Thủ tục thực hiện các
trường hợp miễn trừ được quy định tại Mục 4 Luật Cạnh tranh và chi tiết tại Mục 6
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP. Mà theo đó, quy trình thực hiện miễn trừ TTKT
như sau: Nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ -> Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn
trừ -> Yêu cầu bổ sung hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ và cung cấp thông tin từ các
bên liên quan -> Ra quyết định chấp thuận hoặc không chấp thuận cho hưởng miễn
trừ -> Thực hiện TTKT -> Bãi bỏ quyết định cho hưởng miễn trừ (nếu thực hiện
trong các trường hợp quy định tại Điều 37 Luật Cạnh tranh) -> Khiếu nại quyết

định liên quan đến việc cho hưởng miễn trừ.
 Tố tụng cạnh tranh đối với vụ việc tập trung kinh tế:
Tố tụng cạnh tranh là hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính. Cơ quan
tiến hành tố tụng cạnh tranh gồm: cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh
tranh. Tuy nhiên Luật Cạnh tranh đã tách hai chức năng điều tra và xử lý vụ việc
tập trung kinh tế cho hai cơ quan này:
- Cơ quan quản lý cạnh tranh: thụ lý, điều tra các vụ việc liên quan đến cạnh
tranh và kiểm sốt q trình tập trung kinh tế là Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ
Công thương;
- Hội đồng cạnh tranh: xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh, xử lý, giải quyết khiếu
nại đối với vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.
Trình tự tố tụng cạnh tranh (vụ việc về TTKT) ở Việt Nam như sau: Khiếu nại
về vụ việc cạnh tranh -> Thụ lý hồ sơ khiếu nại -> Điều tra vụ việc cạnh tranh
(Điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh được tiến hành theo quyết định của Thủ trưởng
cơ quan quản lý cạnh tranh) -> Mở phiên điều trần.
 Xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế:
7


Việc xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế trong Luật Cạnh tranh tập
trung xử lý các vi phạm trong những trường hợp tập trung kinh tế bị cấm hoặc tập
trung kinh tế mà không thông báo khi thuộc những trường hợp phải thông báo.
Hoạt động điều tra, xử lý được thực hiện theo quy trình tố tụng cạnh tranh theo
Luật Cạnh tranh và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực cạnh tranh bao gồm các hành vi sau:
- Hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm (Điều 23);
- Hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm (Điều 24);
- Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm (Điều 25);
- Hành vi liên doanh doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm (Điều 26);

- Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế (Điều 27).
Các hình thức và mức độ xử lý vi phạm pháp luật về TTKT được quy định, bao
gồm: phạt tiền; có thể bị buộc thực hiện chia tách các doanh nghiệp đã hợp nhất,
sáp nhập; bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hoặc bị buộc bán tài
sản đã mua… (Từ Điều 23 đến Điều 27 Nghị Định số 71/2014/NĐ-CP)
 Kiểm soát tập trung kinh tế đối với nhà đầu tư nước ngoài:
Về vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế đối với nhà đầu tư nước ngoài, Luật
Cạnh tranh hiện hành chưa quy định cụ thể điều chỉnh các khía cạnh của một vụ
việc TTKT có liên quan đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các quy định
của pháp luật cạnh tranh mới chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh về thủ tục chung khi
tiến hành TTKT với nhà đầu tư nước ngoài và điều chỉnh việc mua cổ phần doanh
nghiệp Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài tại Điều 13 Nghị định số
102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ, hướng dẫn chi tiết thi hành một
số điều của Luật Doanh nghiệp, theo đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
có quyền góp vốn và mua cổ phần không hạn chế tại doanh nghiệp. Như vậy, các
8


quy định của pháp luật cạnh tranh về TTKT đối với nhà đầu tư nước ngồi cịn rất
hạn chế và đây đang là một lỗ hổng của pháp luật về cạnh tranh ở Việt Nam.
2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tập trung kinh tế
 Kết quả đạt được:
Hơn 12 năm thực thi Luật Cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh đã tích cực
triển khai theo dõi, giám sát hoạt động tập trung kinh tế đối với nhiều ngành, lĩnh
vực trong nền kinh tế và đã đạt được những kết quả nhất định. Theo Báo cáo thống
kê của Bộ Công thương về số vụ việc thông báo tập trung kinh tế và vụ việc tham
vấn về tập trung kinh tế cả trước và trong quá trình các doanh nghiệp thực hiện tập
trung kinh tế, tính đến hết năm 2016, Việt Nam đã thụ lý 32 vụ việc thông báo tập
kinh tế, 45 vụ việc tham vấn tập trung kinh tế, cụ thể:
Thống kê số vụ việc tập trung kinh tế1

Năm
Số vụ
việc
thông
báo
TTK
T
Số vụ
việc
tham
vấn
TTK
T

2005
2007

200
8

200
9

201
0

201
1

201

2

201
3

201
4

201
5

201
6

Tổn
g

0

2

2

1

4

6

4


9

0

4

32

1

0

0

5

6

8

19

2

3

1

45


Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động tập trung kinh tế có xu
hướng diễn ra ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thuộc
mọi thành phần kinh tế nhưng chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp
1 Bộ Công Thương, Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh Tranh, ngày 7 tháng 7 năm 2017

9


có vốn đầu tư nước ngồi. Số vụ việc cạnh tranh được phát hiện, điều tra, xử lý
trong thời gian qua còn khiêm tốn, nhưng xét trong bối cảnh chung của nền kinh tế
nước ta cịn nhiều khó khăn, thách thức, nguồn nhân lực và kinh nghiệm thực tiễn
của cơ quan quản lý cạnh tranh cịn nhiều hạn chế, mơi trường kinh doanh tiềm ẩn
nhiều hành vi tập trung kinh tế có tác động tiêu cực đến mơi trường cạnh tranh nhất
là trong những lĩnh vực có quy mơ lớn hoặc đóng vai trị thiết yếu trong nền kinh
tế như phân phối, bán lẻ, năng lượng, dược phẩm, vận tải, du lịch, … thì quy định
về kiểm sốt tập trung kinh tế trong Luật Cạnh tranh đã dần phát huy tác dụng.
Mặc dù phải đối mặt với những khó khăn nhưng trong thời gian qua, việc thực thi
các quy định pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế của Việt Nam đã ngăn chặn
và giảm thiểu tác động tiêu cực đến thị trường, môi trường kinh doanh và quyền lợi
của người tiêu dùng. Thơng qua q trình điều tra, xử lý các vụ việc cạnh tranh, cơ
quan quản lý cạnh tranh đã đưa ra một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp về
việc tuân thủ quy định pháp luật về tập trung kinh tế, tránh thực hiện các hành vi vi
phạm trong tương lai.
 Hạn chế, bất cập:
- Thứ nhất, quy định về tiêu chí để kiểm sốt tập trung kinh tế chưa đầy đủ
và chưa phù hợp với thực tiễn. Cụ thể:
+ Bất cập khi sử dụng thị phần làm tiêu chí để đánh giá vụ việc TTKT. Khó
khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng thị phần làm tiêu chí để thơng báo. Quy
định nghĩa vụ phải thơng báo chính xác về thị phần của các bên tham gia TTKT là

một khó khăn cho doanh nghiệp. Trên thực tế, doanh nghiệp chỉ có thể biết và chịu
trách nhiệm về doanh số của mình mà khơng có nghĩa vụ phải nắm được doanh số
của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường (căn cứ để tính tốn thị phần của các bên
tham gia TTKT). Việc yêu cầu doanh nghiệp phải thu thập một khối lượng lớn
thông tin liên quan đến thị trương và thị phần tạo một áp lực rất lớn cho các doanh
10


nghiệp mong muốn thực hiện thủ tục thông báo hoặc tham vấn ý kiến của Cục
Quản lý cạnh tranh.
Ngoài ra, việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp làm căn cứ để kiểm soát TTKT
cho thấy Luật Cạnh tranh Việt Nam chỉ kiểm soát các trường hợp TTKT theo chiều
ngang. Vì vậy, việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp
không cùng thị trường liên quan (các dạng sáp nhập thep chiều dọc và hỗn hợp)
khơng chịu sự kiểm sốt của Luật Cạnh tranh.
+ Về việc xác định tiêu chí thị trường liên quan của một loại dịch vụ: Tại
khoản 2 Điều 4 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định: “Đặc tính của hàng hóa,
dịch vụ được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau đây: a) Tính chất vật lý; b)
Tính chất hóa học; c) Tính năng kỹ thuật; d) Tác dụng phụ đối với người sử dụng;
đ) Khả năng hấp thụ”. Theo quy định này, các tiêu chí nêu trên có thể phù hợp đối
với hàng hóa nhưng khơng có sự liên quan nào tới dịch vụ như: dịch vụ internet,
dịch vụ vận tải hành khách, v.v. Do đó, việc xác định thị trường liên quan của một
loại dịch vụ, cơ quan quản lý cạnh tranh không thể áp dụng các tiêu chí này để xác
định đặc tính của dịch vụ. Việc xác định tiêu chí thị trường liên quan của một loại
dịch vụ chưa phù hợp với thực tiễn.
- Thứ hai, quy định pháp luật về thông báo tập trung kinh tế còn đơn giản:
Từ Điều 20 đến Điều 24 Luật Cạnh tranh quy định về thông báo tập trung kinh
tế. Tuy nhiên, các quy định này còn đơn giản, mang tính ngun tắc, khái qt các
vấn đề về quy trình, thủ tục cần thực hiện khi doanh nghiệp thông báo tập trung
kinh tế (như: hồ sơ thông báo, thời hạn thụ lý hồ sơ, thời hạn và nội 13 dung trả lời

thông báo tập trung kinh tế) mà chưa làm rõ các nội dung thẩm tra hồ sơ thông báo
để đánh giá một vụ việc tập trung kinh tế.
- Thứ ba, quy định về đối tượng điều chỉnh trong kiểm soát tập trung kinh tế
chưa đầy đủ và cụ thể:
11


Chưa có quy định cụ thể về kiểm sốt các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động
tại Việt Nam thực hiện tập trung kinh tế ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác
động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh tới môi trường cạnh tranh tại
Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, phạm vi hoạt động của các
doanh nghiệp ngày càng mở rộng trên phạm vi lãnh thổ của nhiều quốc gia, hoạt
động tập trung kinh tế ngày càng nhiều và phổ biến. Thực tiễn thời gian qua, đã
xuất hiện những thương vụ tập trung kinh tế có giá trị giao dịch lớn được thực hiện
bên ngồi lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động nhất định tới thị trường Việt Nam
trong những lĩnh vực như: phân phối, bán lẻ, năng lượng, dược phẩm, v.v. (Ví dụ:
Thương vụ Tập đồn Central Group Thái Lan mua lại hệ thống siêu thị Big C tại
Việt Nam; Thương vụ tập đoàn TCC Holdings Thái Lan mua Metro Cash & Carry
Việt Nam). Nhưng cơ quan quản lý cạnh tranh không thể can thiệp, điều chỉnh
hành vi của những doanh nghiệp nước ngồi này bởi Việt Nam chưa có cơ chế
quản lý đối với đối tượng này
- Thứ tư, cơ quan quản lý cạnh tranh còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập về:
tính độc lập, nguồn nhân lực, kinh nghiệm thực tiễn:
Theo Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh
tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh là Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công
thương. Sau hơn 10 năm thi hành Luật Cạnh tranh, bên cạnh kết quả đạt được, cơ
quan quản lý cạnh tranh đã bộc lộ những hạn chế, bất cập đó là:
+ Tính độc lập của Cục Quản lý cạnh tranh khơng được bảo đảm, dẫn đến hiện
tượng những quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh chịu ảnh hưởng rất nhiều

từ quan điểm, sự chỉ đạo của Bộ Công thương;
+ Đội ngũ cán bộ nhân sự của Cục Quản lý cạnh tranh còn hạn chế về số
lượng, chất lượng và thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Trong khi đó, để điều tra, thụ lý
giải quyết vụ việc cạnh tranh, đòi hỏi đội ngũ cán bộ nhân sự ngoài những kiến
12


thức về chính sách, pháp luật, kinh tế cịn cần cả kiến thức chuyên ngành chuyên
sâu khác. Mặt khác, Cục Quản lý cạnh tranh được quy định có nhiều chức năng
hoạt động: điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh; điều tra, xử lý
các hành vi tập trung kinh tế; bảo vệ người tiêu dùng; quản lý nhà nước về chống
bán phá giá… Trong khi đó, nguồn nhân lực của Cục Quản lý cạnh tranh khó có
thể đáp ứng hết được các chức năng hoạt động này. Điều này dẫn đến tình trạng
quá tải cho hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh trong thời gian qua.
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và nâng cao
hiệu quả về tập trung kinh tế
- Thứ nhất, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chí để kiểm sốt tập
trung kinh tế theo hướng:
+ Nên quy định theo hướng kết hợp giữa tiêu chí thị phần và tiêu chí khác như:
vị thế của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế, giá trị giao dịch, tổng tài
sản, tổng doanh thu của một trong các bên đạt mức ngưỡng nhất định theo quy
định pháp luật… làm cơ sở xác định ngưỡng thông báo tập trung kinh tế. Từ đó,
giúp cơ quan quản lý cạnh tranh có thêm căn cứ xác định thương vụ này sau tập
trung kinh tế có thể dẫn đến doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường/ vị trí
độc quyền, gây ra những ảnh hưởng cho mơi trường cạnh tranh hay khơng.
Mặt khác, mở rộng hình thức kiểm soát tập trung kinh tế theo chiều dọc giúp
cho pháp luật cạnh tranh phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế, có thể
quy định theo hướng: trao quyền chủ động cho cơ quan quản lý cạnh tranh chủ
động trong việc quản lý, giám sát và kiểm tra những doanh nghiệp có khả năng
thực hiện hành vi thâu tóm thị trường bằng hình thức tập trung kinh tế theo chiều

dọc; yêu cầu các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế theo chiều dọc phải chia
sẻ những đơn giao hàng hoặc đơn đặt hàng của họ để cơ quan quản lý cạnh tranh
có thêm cơ sở xác định những thương vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp có khả
năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
13


+ Bổ sung thêm các tiêu chí đánh giá để xác định thị trường liên quan cả về
định tính và định lượng. Đối với việc xác định thị trường liên quan, không nên áp
dụng một cách cứng nhắc các đánh giá mang tính kỹ thuật để đảm bảo xác định
một thị trường liên quan phản ánh đúng thực tế của từng vụ việc cụ thể.
+ Bổ sung các tiêu chí xác định thị trường liên quan của một loại dịch vụ phù
hợp với đặc tính của dịch vụ giúp cơ quan quản lý cạnh tranh có cơ sở pháp lý để
kiểm soát tập trung kinh tế hiệu quả.
- Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định về thông báo tập trung kinh tế theo
hướng sau:
+ Làm rõ các thông tin về sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp tham gia tập
trung kinh tế, thông tin trong Báo cáo thị phần của doanh nghiệp.
+ Xây dựng cơ chế tham vấn và tư vấn doanh nghiệp trong thủ tục thông báo
tập trung kinh tế.
+ Làm rõ nội dung thẩm tra của cơ quan quản lý cạnh tranh đối với hồ sơ thông
báo trên cơ sở xem xét, đánh giá cấu trúc thị trường, mức độ tập trung kinh tế của
doanh nghiệp tham gia, khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường và tác
động tích cực của việc tập trung kinh tế đem lại cho nền kinh tế.
- Thứ ba, quy định về đối tượng điều chỉnh “doanh nghiệp nước ngồi” trong
kiểm sốt tập trung kinh tế cần rõ ràng, cụ thể hơn:
Quy định về cơ chế quản lý, giám sát, kiểm tra các doanh nghiệp nước ngoài
tham gia tập trung kinh tế có giá trị giao dịch lớn cần cụ thể hơn nhằm đảm bảo lợi
ích cho nền kinh tế nước ta theo hướng đó là:
+ Quy định doanh nghiệp nước ngoài thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh

tranh là doanh nghiệp nước ngồi có hiện diện hoặc không hiện diện tại Việt Nam;
+ Quy định cụ thể về điều kiện và quy mô, mức độ để doanh nghiệp nước
ngoài được phép thực hiện tập trung kinh tế tại Việt Nam; quy mô và mức độ tập
trung kinh tế của doanh nghiệp là bao nhiêu...
14


- Thứ tư, nâng cao tính độc lập và năng lực của cơ quan quản lý cạnh tranh
trong kiểm soát tập trung kinh tế, theo đó:
+ Cần trao quyền chủ động cho cơ quan quản lý cạnh tranh để bảo đảm nguyên
tắc tự chủ, khách quan trong phán quyết các vụ việc tập trung kinh tế.
+ Bồi dưỡng và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ của cơ quan quản lý
cạnh tranh để chủ động nghiên cứu và dự đoán trước những thị trường, lĩnh vực
kinh tế và những doanh nghiệp có khả năng tập trung kinh tế, thậm chí những
doanh nghiệp có khả năng thực hiện hành vi thâu tóm thị trường bằng hình thức tập
trung kinh tế.
+ Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với cơ quan
đăng ký kinh doanh cùng các cơ quan hữu quan như: Tổng cục thống kê, Bộ Tài
chính, Ủy ban chứng khốn nhà nước, Ngân hàng nhà nước… để kiểm soát tập
trung kinh tế có hiệu quả. Ngồi ra, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng,
với xu hướng tập trung kinh tế xuyên quốc gia, cơ quan quản lý cạnh tranh cần
tăng cường sự hợp tác với các cơ quan quản lý cạnh tranh quốc tế để trao đổi thông
tin liên quan đến các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp lớn trên thế giới là rất
quan trọng để cơ quan quản lý cạnh tranh chủ động hơn trong việc giám sát hoạt
động tập trung kinh tế của các doanh nghiệp này.
- Thứ năm, cần xây dựng cơ chế thực thi pháp luật đủ mạnh để xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế:
Cơ quan quản lý cạnh tranh là một thiết chế đặc biệt, mang tính đặc thù và có
vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước nên việc xây dựng,
hoàn thiện tổ chức của cơ quan này là rất cần thiết trong thời gian tới.


15


KẾT LUẬN
Tập trung kinh tế là xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường nói chung và nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Tập trung
kinh tế có những tác động tích cực đến nền kinh tế, song mặt bên kia của tập trung
kinh tế lớn lại chính là nguy cơ hình thành độc quyền, triệt tiêu cạnh tranh. Chính
vì vậy, Nhà nước cần quan tâm và hoàn thiện các văn bản pháp lý để tạo nên một
khung pháp lý vững chắc, đầy đủ làm công cụ hữu hiệu để thực hiện quản lý nhà
nước trong lĩnh vực tập trung kinh tế cũng như bảo vệ nền kinh tế tránh được
những rủi ro…

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nơi, Giáo trình Luật cạnh tranh, Nxb. Cơng an
nhân dân, 2011.
2. Luật cạnh tranh 2004
3. Nghị định số 71/2014/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 21/7/2014 quy
định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh
4. Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh
tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh
5. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật cạnh tranh 2004
6. Nguyễn Thị Bảo Ánh (2006), Một số vấn đề pháp lý về tập trung kinh tế
theo luật cạnh tranh Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà

Nội.

17



×