Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Giá trị tư tưởng thượng hiền của mặc tử và chính sách thu hút nhân tài trên địa bàn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 85 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
-----------------------------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG THƯỢNG HIỀN CỦA MẶC TỬ VÀ CHÍNH
SÁCH THU HÚT NHÂN TÀI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Sinh viên thực hiện

: Trần Thị Nguyên

Lớp

: 14SGC

GV hướng dẫn

: TS. Dương Đình Tùng

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2018

Trang 1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận“Giá trị tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử và
chính sách thu hút nhân tài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” là cơng trình nghiên
cứu của riêng tơi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Dương Đình Tùng, trước đó


chưa có bất cứ tác giả nào công bố.
Nội dung tư liệu và số liệu sử dụng trong bản luận văn tốt nghiệp là có tính xác
thực và nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả

Trần Thị Nguyên

Trang 2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em xin
bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới quý thầy cô cán bộ, giảng viên hiện công tác giảng dạy
tại khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng. Cảm ơn
tập thể anh chị em sinh viên lớp 14SGC – Khóa 2014 – 2018 đã ủng hộ, chia sẻ
trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến TS. Dương Đình Tùng, người thầy tận tụy và đầy tâm huyết với biết bao thế hệ
sinh viên. Có thể em khơng là một đứa học trị giỏi và có thể tương lai sẽ không
được thành công như thầy mong đợi, nhưng ít nhất trong bài luận văn tốt nghiệp
này em sẽ cố gắng hồn thành trách nhiệm của mình theo lời dạy của thầy. Suốt thời
gian qua, nhờ sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy, em mới có thể hồn thành
luận văn tốt nghiệp của mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song giới hạn về năng lực nghiên cứu khoa học,
phát hiện và giải quyết vấn đề nên khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế. Do vậy, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cơ giáo và những ý
kiến đóng góp của những người quan tâm. Xin chân thành cảm ơn!

Trang 3



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................5
2.1.

Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................5

2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................................5

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................5
3.1.

Đối tượng nghiên cứu .....................................................................................5

3.2.

Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................5

4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................5
5. Bố cục của đề tài ...................................................................................................5
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ...............................................................................6
NỘI DUNG .....................................................................................................................8
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG THƯỢNG HIỀN CỦA MẶC TỬ 9
1.1.

Điều kiện tiền đề hình thành tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử ..................9


1.1.1.

Bối cảnh lịch sử thời Xuân Thu – Chiến Quốc ...........................................9

1.1.2.

Trường phái triết học Mặc gia...................................................................11

1.2.

Khái quát những nét cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp của Mặc Tử ............12

1.2.1.

Tiểu sử của Mặc Tử ..................................................................................12

1.2.2.

Sự nghiệp của Mặc Tử ..............................................................................12

1.3.

Nội dung, giá trị và hạn chế trong tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử .......16

1.3.1.

Định nghĩa Thượng hiền ...........................................................................16

1.3.2.


Nội dung tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử ...........................................16

1.3.2.1.

Thượng hiền là gốc của làm chính trị....................................................16

1.3.2.2.

Thượng hiền chính là đạo của vua ........................................................20

1.3.2.3.

Đạo làm người hiền tài ..........................................................................27
Giá trị và hạn chế trong tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử ....................31

1.3.3.
1.3.3.1.

Giá trị tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử ............................................31

1.3.3.2.

Hạn chế trong tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử ................................35

1.4.

Một số vấn đề trong chính sách nhân tài của nước ta hiện nay ....................36

Trang 1



Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHÍNH SÁCH
THU HÚT NGUỒN NHÂN TÀI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .........................43
2.1. Chính sách nhân tài của Đà Nẵng từ 1998 đến nay .........................................43
2.1.1. Mục tiêu và phương hướng chính sách nhân tài của thành phố Đà Nẵng ....51
2.1.1.1. Mục tiêu của chính sách nhân tài ..............................................................51
2.1.1.2. Phương hướng phát triển chính sách nhân tài của thành phố Đà Nẵng ..52
2.1.2. Thành tựu và hạn chế của chính sách phát triển nhân tài .............................52
2.1.2.1. Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu .................................................52
2.1.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế .......................................................55
2.2. Kinh nghiệm thu hút nhân tài của một số quốc gia trên thế giới .....................58
2.2.1. Kinh nghiệm của nước Mỹ về sử dụng nhân tài ...........................................58
2.2.2. Kinh nghiệm của Singapore về sử dụng nhân tài .........................................59
2.2.3. Chính sách sử dụng nhân tài của Nhật Bản ..................................................60
2.2.4.Chính sách sử dụng nhân tài của Trung Quốc ...............................................62
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách nhân tài của thành phố ....................63
2.3.1. Phát triển kinh tế xã hội đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu vật chất cần thiết
cho người dân .........................................................................................................63
2.3.2. Công tác triển khai thực hiện và phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội ...65
2.3.3. Nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về công tác thu hút, trọng dụng
và phát triển nhân tài ...............................................................................................69
2.3.4. Hồn thiện hệ thống cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng và phát triển
nguồn nhân tài .........................................................................................................70
2.3.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý sử dụng nguồn nhân tài trong
và ngoài nước ..........................................................................................................73
2.3.6. Tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, an
tồn giao thơng và trật tự xã hội .............................................................................74
KẾT LUẬN ..................................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................78


Trang 2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Tên đầy đủ

Tên viết tắt

1

CNH, HĐH

Cơng nghiệp hóa/ Hiện đại hóa

2

ĐHĐN

Đại học Đà Nẵng

3

Nxb

Nhà xuất bản

4


NQ/TW

Nghị quyết Trung ương

5

UBND

ủy ban nhân dân

6

TB/TU

Thông báo/Thành ủy

7

QĐ - UBND

Quyết định ủy ban nhân dân

8

QĐ/TU

Quyết định - Thành ủy

9


VCCI

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

10

USAID

Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ

11

WB

Ngân hàng Thế giới

12

PCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

13

BLĐ TB & XH

Bộ lao động thương binh và xã hội

14


THCS/ THPT

Trung học cơ sở/ trung học phổ thơng

15

TAND

Tịa án nhân dân

16

ATGT

An tồn giao thơng

17

ATTP

An tồn thực phẩm

Trang 3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trung Hoa là một đất nước với hơn 5000 năm lịch sử. Một đất nước có diện tích,
dân số thuộc top đầu của thế giới. Là một trong cái nôi văn minh của nhân loại Trung
hoa cổ đại đã sớm định hình các tư tưởng triết học, triết học Trung Hoa được hình

thành sớm nhất vào thời Tiên Tần, với những tư tưởng chính của Khổng Tử, Mạnh Tử,
Tuân Tử, Mặc Tử, Lão Tử, Trang Tử… Triết học thời này chủ yếu nói về những
thuyết chu dịch, âm dương, ngũ hành.
Trong số những nhà tư tưởng lớn thời bấy giờ Mặc Tử là một triết gia mang
nhiều tư tưởng thiết thực để đóng góp cho xã hội của thời xưa và nay. Tư tưởng chính
của ơng là đưa ra những quan niệm căn bản để ứng dụng vào hành vi nhân sinh. Chủ
trương của ông là: Kiêm ái, Phi công, Thượng hiền, Thượng đồng, Phi nhạc, Phi
mệnh, Tiết dụng, Tiết táng. Sống trong thời loạn lạc, đất nước chiến tranh nên tư tưởng
Thượng hiền của Mặc Tử được các nhà chính trị xem trọng và đề cao hàng đầu.
Thượng hiền là chính sách tuyển chọn và trọng dụng người hiền tài, nhân đức vào
những vai trị lãnh đạo. Nhờ chính sách Thượng hiền mà các bậc Quân Vương đều
chiếm lĩnh được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước. Các nhà
lãnh đạo ở mỗi quốc gia khác khác nhau cũng nhờ vào chính sách Thượng hiền mà đào
tạo nên một hệ thống nhân tài tinh anh phục vụ cho việc phát triển đất nước.
Tuy tư tưởng của Mặc Tử chỉ xuất hiện và tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng
lại có sức ảnh hưởng rất lớn trong chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục của các
quốc gia mọi thời đại. Hoàng đế Quang Trung cũng đã từng nói rằng: “Dựng nước lấy
dạy học làm đầu, muốn thịnh trị lấy nhân tài làm gốc”, “Hiền tài là ngun khí của
quốc gia, ngun khí mạnh thì nước thịnh, ngun khí yếu thì nước suy, bởi thế các
bậc thánh đế, minh vương xưa nay không ai là người khơng lo chăm sóc, vun xới…”
(Trích văn bia Quốc Tử Giám).
Nghiên cứu những giá trị trong tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử với chính sách
thu hút nhân tài trên một địa bàn tỉnh, thành phố, đặc biệt là với Đà Nẵng vùng kinh tế
trọng điểm khu vực miền trung – Tây Nguyên, thành phố lớn thứ 3 nằm giữa hai thành
phố lớn nhất của Việt Nam là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Có thể được xem là
một đề tài mang tính thiết thực trong cuộc sống. Do đó, sinh viên chọn “Giá trị tư

Trang 4



tưởng thượng hiền của Mặc Tử và chính sách thu hút nhân tài trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.

Mục tiêu nghiên cứu

Từ mục tiêu làm rõ tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử, chỉ ra giá trị tư tưởng
Thượng hiền của Mặc Tử đối với chính sách trọng dụng nhân tài hiện nay và đề xuất
một số giải pháp nhằm thu hút, bồi dưỡng và phát triển nhân tài của thành phố Đà
Nẵng.
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Tìm hiểu khái quát về sự hình thành trường phái triết học Mặc gia, cuộc đời và sự
nghiệp của Mặc Tử.
Phân tích một cách có hệ thống tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử và sự ảnh
hưởng tư tưởng Thượng hiền đối với xã hội.
Trình bày khái quát thực trạng chính sách trọng dụng nguồn nhân lực của Đà
Nẵng trong những năm qua. Từ đó đề ra một số giải pháp nhằm phát triển chính sách
thu hút nhân tài của thành phố.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Giá trị tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử đối với công tác trọng dụng nhân tài
của một quốc gia với chính sách thu hút nhân tài của thành phố Đà Nẵng từ năm 1998
đến nay.

3.2.

Phạm vi nghiên cứu

Những chủ trương, quan niệm của Mặc Tử về tư tưởng Thượng hiền.
Chính sách của thành phố Đà Nẵng trong việc phát huy vai trò của nhân tài trong
sự nghiệp xây dựng, phát triển thành phố Đà Nẵng từ năm 1998 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết,
phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết, Phương pháp lịch sử - logic.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm
2 chương 7 tiết.
Trang 5


6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
- Mặc học (Mặc tử và Biệt Mặc) của Nguyễn Hiến Lê, gồm 533 trang, Nxb Văn
hóa, 1995, bàn về con người Việt Nam với Triết học Đông Tây, cuốn sách đề cập đến
nhiều nội dung của các khoa học triết học cơ bản. Ngoài phần chữ Hán ra, nội dung
cuốn sách gồm bốn phần giới thiệu về: Mặc Tử, học thuyết của Mặc Tử, Biệt Mặc và
Mặc Kinh.
- Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Tập 1: Từ đầu công nguyên đến thời Trần
và thời Hồ. Ngoài phần dẫn luận, kết luận và phần trích dịch tiếng ra tiếng Anh, nội
dung cuốn sách gồm 3 chương. Chương 1: Tư tưởng triết học Việt Nam từ thế kỷ II
trước công nguyên đến nửa đầu thế kỷ X. Chương 2: Tư tưởng triết học Việt Nam từ
khi thốt khỏi ách đơ hộ của phương Bắc đến hết thời Lý (905 - 1226). Chương 3: Tư
tưởng triết học Việt Nam thời Trần và thời Hồ.
- Bách gia Chư tử gồm 5 phần. Phần 1 giới thiệu khá tỉ mỉ thần thế của Chư Tử.

Phần 2 phân tích tình hình xã hội thời Xn Thu. Phần 3 trình bày một cách hệ thống
các tác phẩm. Phần 5 tác giả chốt lại những nhận định cơ bản về các học phái và tác
giả chính: Nho gia (Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử), Danh gia (Huệ Thi), Mặc gia
(Mặc Địch), Âm dương gia...
- Lịch Sử Việt Nam - Một Góc Nhìn là lịch sử Việt Nam được nhìn từ Huếdo các
nhà nghiên cứu triển khai ở Huế nên khơng bao qt tồn bộ nội dung về lịch sử Việt
Nam, bản thân các giảng viên và nghiên cứu sinh của bộ môn cũng chỉ chọn từ một
đến ba bài nghiên cứu tâm đắc nhất trong số bài đã công bố mang tính đại diện nên
cũng khơng phải là tất cả kết quả nghiên cứu của mỗi người. Do vậy, lịch sử Việt Nam
trong tập sách này chỉ thể hiện qua góc nhìn gắn nhiều hơn với vùng đất Huế và Đàng
Trong trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Căn cứ vào kết quả các bài đã tuyển chọn,
cuốn sách Lịch Sử Việt Nam - Một Góc Nhìn được chia làm bốn phần: Mở cõi và bảo
vệ chủ quyền biển đảo (10 bài), kinh tế (5 bài), văn hóa - xã hội (6 bài) và nhân vật
lịch sử (7 bài).
- Các triều đại Trung Hoa, Lê Giảng, Nxb Hồng Đức. Dân tộc Trung Hoa có một
lịch sử lâu đời, trải qua hàng ngàn năm với hàng trăm triều đại nối tiếp nhau. Song có
bao nhiêu triều đại và các triều đại đó hình thành, phát triển, bại vong ra sao thì có
mấy ai biết hết. Cuốn sách này trang trị cho chúng ta những hiểu biết cơ bản, khái quát
và hệ thống về sự mở đầu, tiếp tục và kết thúc của “Các triều đại Trung Hoa” là mong
Trang 6


muốn của tác giả. Cuốn sách trên cơ sở tôn trọng những tài liệu lịch sử có tính chất
chân thực, khoa học, sẽ mang đến cho độc giả cái nhìn toàn cảnh về các triều đại trên
đất nước Trung Hoa, trải từ thời Ngũ Đếvào khoảng đầu thế kỷ 26 đến thế kỷ 21 trước
Công Nguyên với 5 đời vua, 16 nước...
- Vấn đề quốc học, bàn về việc có dân tộc tính hay chăng? Và nếu có thì nó ra
sao? Làm thế nào để tài bồi phát triển? Đó là những vấn đề tối hệ trọng mà bao lâu
chưa trả lời được một cách có giải đáp vững vàng, thì quốc học cũng như giáo dục hay
văn hố sẽ giống như người cứ nhắm mắt đi trồng tỉa mà khơng nghiên cứu loại đất

mình có và tìm loại cây âm hạp. Vậy mà đó là tình trạng của nền quốc học và giáo dục
nước nhà. Sở dĩ như vậy vì những câu hỏi trên chưa tìm được lời đáp. Cuốn sách này
sẽ giúp chúng ta đi trả lời cho những thắc mắc trên.
- Từ điển triết học Trung Quốc, PGS.TS Dỗn Chính, Nxb Chính trị quốc gia,
2009. Cuốn sách này là cơng trình nghiên cứu cơng phu, tập trung giải thích nội dung
tư tưởng của các trào lưu triết học, các triết gia, các tác phẩm, các quan điểm tư tưởng
qua hệ thống các thuật ngữ, khái niệm và phạm trù triết học Trung Quốc theo trình tự
phát triển từ cổ đại đến cận hiện đại qua các văn bản có tính chất kinh điển từ tiếng
Trung Quốc.
- Ngồi ra đề tài còn tham khảo một số bài viết về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực ở Đà Nẵng như:
- Bài viết: “Để phát huy hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Văn Nam (2011), qua bài viết tác giả đã nêu lên thực
trạng phát triển của đội ngũ trí thức của thành phố Đà Nẵng đồng thời khái quát hóa
một số biện pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trị bộ phận lao động nói trên trong cơng
cuộc xây dựng phát triển của địa phương.
- “Định hướng và giải pháp phát triển nhân lực thành phố Đà Nẵng đến năm
2020” tác giả Trần Văn Minh (2011). Bài viết đã nêu cụ thể kết quả cũng như những
mặt hạn chế trong công tác phát triển nguồn nhân lực của Thành phố Đà Nẵng những
năm qua, từ đó đề xuất mục tiêu và định hướng phát triển nguồn nhân lực của Đà
Nẵng đến 2020.
- Chính sách nhân tài ở thành phố Đà Nẵng từ 1997 đến nay tác giả Nguyễn Duy
Qúy (2016). Qua cơng trình nghiên cứu tác giả đã trình bày có hệ thống những vấn đề
lý luận về nhân tài và vai trò của nhân tài đối với một quốc gia, phân tích và đánh giá
Trang 7


thực trạng, thành tựu và hạn chế trong các chính sách phát triển nhân tài ở Đà Nẵng.
Thơng qua đó, đề xuất các giải pháp và định hướng phát triển nguồn nhân tài của
thành phố trong những năm tới.

Trong quá trình tìm hiểu đề tài đã tiếp thu nhiều thơng tin từ một số đề án của
thành phố như: “Đề án 922 về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao (2011)”;“Đề
án quy hoạch (điều chỉnh) phát triển nguồn nhân lực thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2011-2020” của UBND thành phố Đà Nẵng (2012); “Đề án xây dựng và tạo nguồn
cán bộ trẻ đảm nhiệm các chức danh diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý và cán bộ
chủ chốt thành phố đến năm 2025 và những năm tiếp theo (2017)”…
Trên cơ sở tổng quan các cơng trình nghiên cứu, sinh viên nhận thấy rằng chính
sách phát triển nhân tài luôn là vấn đề được nhiều tác giả hướng đến, nhưng việc
nghiên cứu chính sách nhân tài trên cơ sở tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử lại chưa
được đề cập. Do đó càng thơi thúc thêm động lực to lớn cho sinh viên hồn thành khóa
luận tốt nghiệp này.

Trang 8


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG THƯỢNG HIỀN CỦA MẶC TỬ
1.1. Điều kiện tiền đề hình thành tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử
1.1.1. Bối cảnh lịch sử thời Xuân Thu – Chiến Quốc
Thời đại Tiên Tần (nghĩa là trước đời Tần) gồm hai thời Xuân Thu và Chiến
Quốc, là thời đại phát sinh rực rỡ của triết học Trung Quốc, thời đại của “bách gia chư
tử” các học thuyết đua nhau nở. Mới đầu là Khổng giáo, Mặc giáo, Lão giáo rồi về sau
thêm: Danh gia, Nơng gia, Âm dương gia, Pháp gia…
Có thể thấy rằng triết học Trung Hoa được phát sinh mạnh mẽ trong giai đoạn
Xuân Thu – Chiến Quốc tình trạng xã hội loạn lạc, triết gia nào có tâm huyết cũng tìm
cách cứu vớt dân, nên đưa ra giải pháp này, giải pháp khác, lập thành một học thuyết
để truyền bá trong dân chúng và mong các nhà cầm quyền đem ra áp dụng. Cảnh hỗn
loạn, mất kỷ cương thời đó đã được chép trong sử. Người ta tính ra có tới 36 vụ giết
vua, còn những vụ con giết cha, anh em, vợ chồng sát hại lẫn nhau không biết bao
nhiêu mà kể. Khơng có năm nào khơng có chiến tranh. Kinh Thi còn ghi lại cho ta
những lời thở than của dân chúng vì nạn chiến tranh bất tận đó. Mọi người điêu đứng,

nhất là bọn chinh phu, thậm chí tới cây cũng phải khơ xám vì bị tàn phá:
“Hà thảo bất huyền? Hà nhân bất căng?
Ai ngã chinh phu, độc vi phỉ dân”
Nghĩa là: “Cây cỏ nào mà không sạm đen đỏ? Người nào chẳng khơng (góa) vợ?
Thương thay cho phận (chúng) ta làm kẻ chinh phu! Riêng mình chẳng là người sao?”
Càng về cuối đời Chiến Quốc, tình cảnh càng bi đát: nước Vệ bắt lính tới 1 phần
5 dân số, nước Tần bắt ông già 73 tuổi ra tòng quân, nước Tề thu thuế của dân tới 2
phần 3 hoa lợi, ruộng đất bỏ hoang, có kẻ đói quá, phải đổi con cho nhau mà ăn thịt
(dịch tử nhi thực)! Tuy nhiên, nếu chỉ xét cảnh loạn lạc thời đó thì chưa đủ giải thích
được sự bột phá của triết học Trung Hoa được; đời sau cũng có những thời loạn kéo
dài hằng trăm năm, chẳng hạn thời Tam quốc, thời Lục triều, cuối đời Tống… mà
không lưu lại được một cuộc cách mạng nào lớn lao trong triết học. Nguyên nhân quan
trọng nhất vẫn là sự biến chuyển trong tương quan xã hội với những biến chuyển về
các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa… Cái thế ở đầu đời Chu (trong nước có cả
ngàn Chư hầu) chỉ vững được khi nhà Chu còn mạnh. Lúc nhà Chu đã yếu, sợ các rợ ở
phương Tây mà dời đơ qua phương Đơng thì các chư hầu khơng kính nể thiên tử nữa,
tất tranh giành nhau mà gây loạn, có nước mạnh lên, có nước suy đi. Thế là có một
Trang 9


bọn quý tộc mất địa vị. Muốn phục hồi địa vị, họ phải dùng những người tài giỏi về
chính trị hoặc quân sự, kinh tế, trong mọi giai cấp, nghĩa là trong giai cấp bình dân.
Nhờ vậy mà bọn này thốt ly được địa vị nơ lệ và lên địa vị sĩ phu. Đời Xn Thu, ta
thấy có Ninh Thích chăn trâu mà làm quan, Bách Lý Hề vốn là nơ lệ mà được cử làm
quan nước Tấn; Cịn hạng quý tộc như họ Nguyên, Hồ, Khánh, Bá… Bị giáng làm nơ
lệ (Tả truyện); Khổng Tử vốn là dịng dõi quý tộc ở Tống mà nghèo, phải làm một
chức lại coi kho lúa. Lại thêm kinh tế mở mang cũng là một nguyên nhân thúc đẩy sự
biến chuyển về chính trị nữa.
Dân số tăng lên (tổng số nhân khẩu thất quốc đời Đông Chu đã tới khoảng 20
triệu), chế độ điền địa hồi trước khơng cịn hợp thời, nơng dân cực khổ quá, ta thán,

oán trách bọn chủ nhân (bất giá bất sắc, hồ thủ tam bách triền hề), thầm mong bãi bỏ
chế độ “thực ấp”; và Thương Ưởng hiểu rõ xu thế tự nhiên của thời đại, cho dân chúng
tự do khai khẩn. Phương pháp canh tác lại tiến bộ: người ta đã biết dùng bò kéo cày
mà cày được sâu hơn, biết bón phân, làm hai mùa, đào kinh dẫn nước và tháo nước. Sự
khẩn hoang do đó phát triển mạnh và hàng vạn người thành phú nông. Bọn này muốn
khuếch trương công việc thuỷ lợi, như vậy cần thống nhất đất đai, nhất là thống nhất
các nước nhỏ cùng trên một dịng sơng.
Về phương diện thương mại cũng có những hiện tượng mới: những nơi như Hàm
Dương ở Tần, Lâm Tri ở Tề, Hàm Đan ở Triệu, Đại Lương ở Nguỵ đều là những thành
phố phát đạt về thương mại, dân chúng các nơi di cư lại, thành một hạng thị dân. Bọn
phú thương rất có thế lực, mua quan bán tước được và bắt đầu tham gia chính trị,
muốn phá bỏ những biên giới giữa các nước Chư hầu, để cho sự giao thông và thương
mại khỏi bị trở ngại. Sử còn chép những thương gia danh tiếng như Phạm Lãi, Đoan
Mộc Tứ (Tử Cống), Lã Bất Vi. Cuối thời Chiến Quốc đã có tiền vàng tiền bạc, dân
chúng đã ham bn bán nên có câu: “Tịng bần cầu phú, nơng bất như cơng, cơng bất
như thương”, đa số Pháp gia theo trào lưu, không ức thương gia như Nho gia nữa.
Trung Quốc lúc đó đã chuyển từ văn minh phù sa qua văn minh thương mại.
Về văn hóa thì từ trước, hạng q tộc vừa trị dân, vừa dạy dân (quân sư bất phân,
chính giáo hợp nhất), vì chỉ có họ mới được học; nhưng khi họ sa sút mà thành bình
dân thì trong giới bình dân bắt đầu có người học rộng. Khổng Tử là hạng người đó;
ơng mở rộng phong trào tư nhân dạy học, bất kỳ giới nào xin vào học, ông cũng nhận,
và ơng có cơng lớn trong sự khai hố quần chúng. Đời sau, Mặc Tử, một triết gia trong
Trang 10


giai cấp bình dân, tiếp tục cơng việc đó mà sự giảng học phát triển rất mạnh. Sách vở
khơng cịn là những bảo vật chỉ riêng bọn quý tộc mới có. Thiên Q nghĩa trong Mặc
Tử chép rằng: “Mặc Tử đi về phương Nam, chở theo rất nhiều sách” (Mặc Tử nam du,
tải thư thậm đa).
Sau cùng, tâm lý chung của con người, khi dân nước nhỏ mà chịu nhiều gánh

nặng thì chỉ mong làm dân một nước thống nhất hoặc một nước lớn. Tóm lại về
phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thời Xuân Thu, Chiến Quốc là thời
biến chuyển lớn, thế tất phải đi tới sự thống nhất, nên phong trào lập thuyết để cứu thế
mới phát triển.
1.1.2. Trường phái triết học Mặc gia
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt cuối thời Xuân thu, cùng với Nho gia và
Đạo gia đã xuất hiện một trong những trường phái triết học lớn cùng với các học phái
khác chia nhau thống trị đời sống tinh thần xã hội Trung Quốc cổ đại, đó là trường
phái triết học Mặc gia.
Người sáng lập trường phái triết học này với học thuyết “Kiêm ái” nổi tiếng được
xem là kẻ thù của Khổng giáo Mặc Địch. Sau đó học thuyết này được bảo vệ và phát
triển bởi các triết gia hậu Mặc vào thế kỷ IV – III TCN. Trong Hán thư Nghệ văn chí,
Ban Cố từng nói: “Những người trong Mặc gia vốn dĩ ở kẻ giữ thanh miếu. Thanh
miếu thì mái tranh, kèo gỗ cho nên họ quý kiệm. Thanh miếu là nơi thờ Tam lão, Ngũ
canh cho nên họ Kiêm ái. Thanh miếu là nơi chọn quan, dợt lính cho nên Thượng
hiền” [12, tr.395].
Phái Mặc gia do Mặc Tử sáng lập. Lưu truyền qua bao đời, người đứng đầu Mặc
Gia đều được gọi là Mặc gia Cự tử. Mặc gia xây dựng nên cơ quan thành, nơi được ví
như thiên đường giữa chốn nhân gian. Đệ tử Mặc gia tinh thông võ nghệ, am hiểu cơ
quan thuật được hiệu xưng “Mặc hiệp” với tôn chỉ “phi công kiêm ái” chuyên hành
hiệp trượng nghĩa, giúp nước thủ thành nên được người đời phong danh Đại hiệp.
Các đệ tử đời sau kế nhiệm Mặc Tử đều xưng là Cự Tử. Những đệ tử Mặc gia
muốn trở thành Cự Tử đều phải trải qua một cuộc sát hạch rất khắc nghiệt để thể hiện
khả năng của bản thân. Một đệ tử muốn trở thành Cự Tử thì phải là người văn võ song
tồn, có cả trí tuệ lẫn võ cơng cao cường. Trong thời Tần, Mặc Gia từng là gia tộc
đứng đầu của Bách Gia Chư Tử, lập ra một lực lượng chống Tần vương.

Trang 11



Mặc gia là một gia tộc chuyên về cơ quan thuật, là đối thủ của Công Thâu gia.
Tương truyền Yên Đan thái tử của nước Yên là một trong số các đời Cự Tử của Mặc
gia. Kinh Kha cũng là đệ tử của Mặc gia.
1.2. Khái quát những nét cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp của Mặc Tử
1.2.1. Tiểu sử của Mặc Tử
Mặc Tử tên thật là Địch, họ Mặc, có người cho rằng ơng là người nước Tống, có
người lại cho rằng ơng là người nước Lỗ. Trong Hán thư, Nghệ văn chí lại cho rằng
Mặc Địch là người nước Tống thuộc miền Đông tỉnh Hà Nam và miền Tây tỉnh Sơn
Đông bây giờ, từng làm quan đại phu nước Tống. Ông sinh vào khoảng 479 TCN và
mất vào năm 381 TCN. Về ngày sinh của Mặc Tử thì có nhiều học thuyết khác nhau
và khơng có sự xác định thỏa đáng. Có người cho rằng Mặc Tử là người cùng thời với
Khổng Tử. Có người lại cho rằng Mặc Tử là người thời Lục Quốc, đến cuối nhà Chu
hãy còn. Nhưng theo sự nghiên cứu và những chứng minh của Tôn Di Nhượng nhà
Khảo chứng đời thanh khi làm Mặc Tử niên biểu thì cho rằng thì Mặc Tử xuất hiện sau
Khổng Tử mất có đền gần cả trăm năm. Nên tính ra Mặc Tử sinh vào năm đầu Chu
Định Vương, mất nhằm lúc cuối An Vương, sống độ tám chín mươi tuổi. Ơng là người
sáng lập ra trường phái triết học Mặc Gia, là một trong những nhà triết học lớn của
Trung Quốc cổ đại… Tư tưởng của ông đối nghịch với tư tưởng Nho Giáo trong thời
Xuân thu - Chiến quốc. Ông xuất thân từ tầng lớp người tự do sản xuất nhỏ. Sách “Lã
thị Xuân Thu” chép: “Địch này đo mình mà mặc áo, lường bụng mà ăn cơm, tự ví với
khách manh (dân tự do), chưa dám cầu làm quan” [43, tr.47]. Dưới con mắt của giai
cấp quý tộc thị tộc chủ nô, ông thuộc lớp người “Tiểu nhân”, “Tiện nhân”. Thời đại
Mặc Tử là thời đại chế độ quốc hữu ruộng đất của chế độ thị tộc đang tan rã, tư hữu
đang phát triển; thành thị ngày càng phồn vinh, dân tự do và thợ thủ cơng ngày càng
có vị trí kinh tế đáng kể trong xã hội, họ có nhu cầu giải thể chế độ cũ, được tự do
cạnh tranh làm giàu, được tham gia chính quyền. Tư tưởng của Mặc Địch và học phái
Mặc gia là phản ánh nguyện vọng của tầng lớp dân tự do, sản xuất nhỏ, tiểu tư hữu tài
sản đó.
1.2.2. Sự nghiệp của Mặc Tử
Mặc Tử sáng lập ra trường phái Mặc gia với học thuyết Kiêm ái nổi tiếng. Ơng là

người có tài hùng biện thuyết phục người khác. Ông đã từng chu du khắp thiên hạ để
giảng thuyết “Kiêm ái” với tinh thần, nghị lực và niềm tin hiếm có. Với tinh thần xã
Trang 12


thân vì nghĩa, Mặc Tử đã đào luyện đội ngũ học trị cũng có đức hạnh và lịng quả cảm
như ông. Không những thế, Những học thuyết của ông luôn mang lại tính thiết thực
cho xã hội, và cho sự đóng góp xây dựng đất nước.
Tác phẩm: Sách Mặc Tử do phái Mặc gia kết hợp lời giáo huấn của ông, đặc biệt
là những chương 51 – 79 dạy về chiến lược quốc phịng và 40 – 45 nói về phương
pháp luận lý gọi là Tam biểu.
Về thế giới quan: Trong triết học của mình, Mặc Tử trước hết đã tập trung chống
lại thuyết “Thiên mệnh” của Khổng Tử. Theo Mặc Tử khơng thể có số mệnh quyết
định và chi phối sự sống – chết, giàu – nghèo, thọ - yểu, yên – nguy, trị - loạn, đối với
con người. Mọi họa phúc, may rủi, thành bại trong cuộc sống là do chính hành vi con
người gây nên, là tại sức ta chưa đủ, lực ta chưa mạnh, tuyệt nhiên không phải định
mệnh như Nho gia quan niệm. Chỉ cần mọi người nổ lực làm việc, tiết kiệm tiền của,
thì có thể làm cho đời sống đầy đủ và no ấm. Khơng gắn sức làm việc thì sẽ nghèo đói
(Mặc Tử, Phi mệnh). Từ đó, ơng lên án Nho gia tin vào định mệnh nên làm cho người
trên an phận, khơng lo đến việc chính trị, kẻ dưới thì sinh ra ỷ lại, biếng nhát không
làm chủ được vận mệnh của mình.
Khơng thừa nhận “Thiên mệnh”, nhưng Mặc Tử lại đưa ra một thế giới quan tôn
giáo, duy tâm, coi ý chí của trời là nguyên tắc cao nhất của hành vi con người, đồng
thời, ơng cịn cho rằng, sự biến hóa của tự nhiên cũng bị ý chí của trời chi phối. Theo
Mặc Tử trời là một đấng anh minh, có ý chí, có nhân cách và quyền lực tối cao. Trời
chiếu sáng cho vạn vật, tạo ra và ni dưỡng lồi người. Trời xoay vần bốn mùa, sinh
ra các tiết, tạo ra hoa lá cỏ cây, sản vật và con người. Trời luôn yêu thương và làm lợi
cho tất cả mọi người không phân biệt loại, thứ bậc, sang – hèn, thân – sơ… Trời luôn
công minh, sáng lạng, thương người hiền và trừng phạt kẻ ác. (Mặc Tử, Thiên chí).
Tin có trời Mặc Tử cũng tin có quỷ thần. Cùng với chí trời, quỷ thần cũng là một

thế lực đầy quyền uy thiêng liêng giám sát chặt chẽ mọi hành vi của con người, để
khen thưởng những người làm việc nhân nghĩa, trừng phạt những kẻ gây ra điều ác
một cách cơng minh. (Mặc Tử, Minh quỷ).
Ơng cho rằng “ý trời” quy định là “muốn người ta cùng thương yêu nhau, làm lợi
cho nhau mà chẳng muốn người ta cùng ghét nhau, làm hại nhau” và trời đem cái ý
muốn, “pháp độ” ấy giao cho thánh nhân trị thiên hạ, đặt tên là “Thượng đồng” (trên
dưới như nhau), hoặc gọi là “cái nghĩa đồng nhất của thiên hạ”. Đây là cơ sở cho
Trang 13


thuyết “Kiêm ái” (thương yêu lẫn nhau) của ông. Mặc Tử cũng cho rằng, mọi người
đều có quyền lợi như nhau đối với việc thờ cúng quỷ thần, bình đẳng trước quyền lợi
về tín ngưỡng tơn giáo, đó là sự phản ánh nhu cầu địi quyền bình đẳng xã hội của giai
tầng mà ông đại biểu. Như vậy mặc dù xuất phát từ thế giới quan duy tâm, hữu thần
nhưng những kết luận về mặt xã hội của Mặc Tử lại có ý nghĩa tiến bộ, có tính nhân
đạo.
Về nhận thức luận: Tư tưởng triết học về nhận thức của Mặc Tử có yếu tố duy
vật. Ơng coi trọng kinh nghiệm cảm giác, đề cao vai trò của nhận thức cảm giác trong
q trình nhận thức của con người, ơng cho rằng phàm cái gì mà lỗ tai con mắt khơng
cảm nhận được thì tất thảy đều khơng có, khơng tồn tại. Căn cứ vào đó ơng đã bác bỏ
những tư tưởng định mệnh luận. Vì ơng xuất phát từ chỗ coi trọng kinh nghiệm cảm
quan và bằng chức xác thực khách quan, nên học thuyết của ơng cũng có những yếu tố
duy vật. Nhưng do ông quá đề cao cảm giác, đồng thời coi thường tính khách quan của
nội dung kinh nghiệm cảm giác, cho rằng sức tưởng của con người cũng là cảm giác
đúng đắn và lấy nó để chứng minh sự tồn tại của quỷ thần, nên ông đã quay về với chủ
nghĩa duy tâm và rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm cực đoan, hạn hẹp.
Mặc Tử đưa ra học thuyết “Tam biểu” nổi tiếng. Dựa trên “Tam biểu” và lấy
công lợi làm căn cứ, tiêu chuẩn cao nhất để xem xét, thẩm định giá trị, công dụng của
“Kiêm” và “Biệt”. “Kiêm” là đúng, là mang lại lợi lớn cho mọi người; “Biệt” là trái,
là gieo tại họa lớn cho thiên hạ (Mặc Tử, Kiêm ái trung). Ơng chủ trương “Lời nói

muốn chính xác tất phải có ba “biểu”: “có cái gốc của nó”, “Có cái nguồn của nó”,
“Có cái dụng của nó”; “biểu” thứ nhất phục tùng “biểu” thứ hai và “biểu” thứ ba, hai
“biểu” sau quy định “biểu” thứ nhất, ơng giải thích: “Cái gốc” tức là xem xét việc làm
của thánh vương đời xưa nếu thấy đúng (như việc làm của vua Nghiêu, Thuấn, Văn,
Vũ) thì làm, nếu thấy sai (như bạo chúa Kiệt, Trụ, U, Lệ) thì bỏ; “Nguồn của nó” là
xét đến cái thực của tai mắt trăm họ (tức là xem có phù hợp với thực tế khách quan
hay khơng); “Cái dụng của nó” là xem có lợi cho nhà nưởc, nhân dân hay không.
Xuất phát từ lập trường của người lao động, cho nên trong học thuyết về chính trị
- xã hội của Mặc Tử có nhiều điểm tiến bộ, dù còn nhiều ảo tưởng và duy tâm. “Ý
trời” là “muốn người ta cùng thương yêu nhau, cùng làm lợi cho nhau” cho nên phải
“Kiêm ái” và mơ ước xây dựng một xã hội trong đó mọi người khơng có sự phân biệt
sang - hèn, trên - dưới “Thượng đồng” và thật sự “Thương yêu nhau, làm lợi cho
Trang 14


nhau”. Nhưng làm thế nào để thực hiện được lý tưởng đó, ơng lại chủ trương nâng cao
đạo đức của nhân dân trên cơ sở thuyết “Kiêm ái”, để thực hiện được “Kiêm ái” ông
hy vọng vào sự thay đổi đường lối cai trị của giai cấp thống trị, thông qua quyền uy, “ý
chí” của Thượng đế. Đó là tư tưởng ảo tưởng, duy tâm cả về xã hội lẫn tự nhiên. Ông
phản đối tư tưởng an phận của Khổng Tử: “Nghèo cũng vui”; ông chế giễu rằng
Khổng Tử đã lập một thứ “mệnh nghèo”. Lý luận giai cấp của Mặc Tử không lấy thân
tộc làm tiêu chuẩn, không cho rằng “Mệnh trời” quyết định sự giàu sang; ông cho rằng
“quan khơng sang ln, dân khơng hèn mãi”. Ơng chủ trương nhà nước phải dùng
người có tài, phê bình “Vương công đại nhân ngày nay... lúc nhà nước loạn lạc, xã hội
nguy vong thì khơng biết để cho kẻ tài năng ra cai trị. Kẻ thân thích thì được dùng, vô
cớ mà được giàu sang, kẻ mặt mày xinh đẹp thì được dùng” [12, tr.716]. Ơng phản đối
việc q tộc được độc quyền thờ cúng, cũng là gián tiếp đòi quyền bình đẳng của
những người dân lao động ở trần thế. Ơng lý luận: “Nay người nơng phu nộp thóc thuế
cho đại nhân, đại nhân đem làm rượu ngọt cơm ngon để tế Thượng đế, quỷ thần, đâu
phải là vì của người hèn làm ra mà không hưởng” [12, tr.710]. Nếu như Khổng Tử phê

phán việc dùng vũ lực thôn tính lẫn nhau là để bảo vệ Lễ, “mở rộng cơng thất” của nhà
Chu thì Mặc Tử cũng chủ trương không đánh nhau (phi công) nhưng là để bảo vệ sức
lao động, vì lợi ích của tầng lớp cơng thương mới, vì: “Nếu nước Vệ có nạn, người
cơng thương khơng phải không lo”. Lễ của Khổng Tử từ việc ăn uống, đi ở, sống chết,
hơn táng... đều có một loạt khuôn phép, Mặc Tử phê phán “Lễ của nhà Nho là phiền
nhiễu mà khơng nói ra”. Với mục đích để quốc gia được trị, đem đến cái lợi cho thiên
hạ, ông chủ trương quý trọng hiền tài dù là bất cứ ai, biết lắng nghe tiếng nói của giai
cấp bình dân, “dù là hạng người nông dân hay thương nhân, chỉ cần có năng lực là tiến
cử họ, để họ đảm nhận chính sự” (Thượng hiền). Ơng cịn phê phán thuyết “hữu
mệnh” vì làm cho người khác thờ ơ thay vì phải có trách nhiệm trước số mệnh của
người khác, “người chấp vào hữu mệnh nói rằng: số giàu thì giàu, số nghèo thì
nghèo…. Số loạn thì loạn, số sống lâu thì sống lâu, số chết yểu thì chết yểu” (Phi
Mệnh). Vì chấp hữu mệnh thì trên khơng lo việc chính, dưới khơng lo làm việc…nên
có hại cho thiên hạ.
Quan niệm căn bản của triết học Mặc gia là phương pháp triết học. Địa vị quan
trọng của Mặc Tử trên phương diện lịch sử triết học chính là “Chủ nghĩa ứng dụng”
của ông. Bất cứ nơi nào, ông cũng đều lấy sự ứng dụng, thực tế vào hành vi nhân sinh
Trang 15


để làm tiêu chuẩn cho mọi việc phải trái, lành dữ. Các thiên Kiêm ái, Phi công,
Thượng hiền, Thượng đồng, Phi nhạc, Phi mệnh, Tiết dụng, Tiết táng, cũng từ việc
ứng dụng đó mà thành.
1.3. Nội dung, giá trị và hạn chế trong tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử
1.3.1. Định nghĩa Thượng hiền
Thượng hiền là một trong những phạm trù triết học chính trị đặc sắc và có tính
truyền thống trong lịch sử triết học Trung Hoa, trong đó “Thượng là tôn sùng và hiền
là hiền tài. Thượng hiền là chủ trương tôn sùng và trọng dụng những người tài đức
trong xã hội, là một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để tuyển chọn người tài trong
truyền thống chính trị Trung Hoa.” [12, tr.712].

Với Mặc Tử, Thượng Hiền là tuyển chọn, sử dụng những người tài đức vào làm
việc trong xã hội. “Ai có tài năng thì tơn lên và trọng dụng, khơng có tài năng thì hạ
xuống” (Thượng Hiền thượng). [12, tr. 716].
Cho nên khi bàn về chính trị, Mặc Tử muốn rằng: “Tôn chuộng người hiền mà sai
dùng người có tài. Khơng kéo bè cánh với cha anh, không thiên vị kẻ sang giàu, không
say mê kẻ nhan sắc. Ai hiền thì cất nhắc lên, cho kẻ giàu sang làm quan trưởng. Kẻ
nảo bất tiếu thì bỏ đi, kẻ nghèo và hèn dùng làm người phục dịch” [42, tr.268].
Trong quan điểm Thượng hiền, do vị trí đẳng cấp xã hội và cơ sở triết lý khác
nhau, các trường phái triết học Trung Hoa đã đưa ra nhiều quan điểm Thượng hiền
khác nhau khá phong phú. Nho gia là tiếng nói đại diện cho tầng lớp sĩ, cơng khanh,
đại nhân. Mặc gia tuy cùng chủ trương Thượng hiền như Nho gia, nhưng vốn là tiếng
nói của tầng lớp bình dân trong xã hội, đề cao chủ nghĩa Kiêm ái và công lợi, nên cho
rằng bất luận là ai sĩ, nơng, cơng, thương “Chỉ cần có tài năng là tôn lên” và trọng
dụng, được gọi là bậc hiền tài. Đây là đặc điểm nổi bật của Mặc gia, biểu hiện cho
quan điểm bình đẳng sơ khai của họ.
1.3.2. Nội dung tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử
1.3.2.1. Thượng hiền là gốc của làm chính trị
Thứ nhất, thuận theo đạo trời đất
Có thể nói tồn thể dân Trung Hoa thời đó đều tin có trời (trừ một vài kẻ như
Kiệt, Trụ), chủ trương ở các phái khác nhau thì sẽ có quan niệm về trời khác nhau và
một trong số đó phải nhắc đến chủ trương của Lão Tử là tiến bộ nhất. Ông cho rằng
trời là cái luật tự nhiên, khơng có ý chí, khơng có tri thức. Vì vậy mà bảo: “Trời đất bất
Trang 16


nhân, coi vạn vật là chó rơm” (Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu) [27, tr.57].
Luật tự nhiên đó, ơng gọi là Đạo.
Đầu thiên Thượng hiền trung, Mặc Tử đã đưa ra quy tắc: “Tự quý thả trí giả, vi
chính hồ ngu thả tiện giả tắc trị; tự ngu thả tiện giả, vi chính hồ quí thả trí giả tắc
loạn”, nghĩa là: (Người sang (cao quý) và sáng suốt cai trị kẻ ngu và hèn thì nước trị;

người ngu và hèn trị kẻ sang và sáng suốt thì nước loạn). Trời cao quý hơn cả, lại sáng
suốt hơn cả, tất phải cai trị tất cả loài người; Mà ý trời – tức yêu dân, làm lợi cho dân –
phải là phép tắc, mẫu mực trong việc trị dân của nhà cầm quyền, cũng như cái thước
tròn (quy), thước vuông (củ) là phép tắc mẫu mực của người thợ” [27, tr.60].
Đây là điểm Mặc gia khác Nho gia, Mặc gia bảo phải thuận theo ý trời, Nho gia
bảo phải theo ý dân. Tuy Nho cũng chủ trương rằng ý dân và ý trời là một: “Thiên
cang vu dân, dân chi sở dục, thiên tất tòng chi”, nghĩa là: (Trời thương dân, dân muốn
gì trời cũng theo). Cho nên muốn biết lịng trời thì cứ xem lịng dân: “Thiên thị tự ngã
dân thị, thiên thính tự ngã dân thính Thư, Thái thệ”, nghĩa là: (Trời trông thấy tự ở dân
ta thấy, trời nghe thấy tự ở dân nghe thấy). Chung quy theo ý trời hay theo ý dân thì
cũng là mưu cầu hạnh phúc cho dân cả, nhưng chủ trương của Nho gia là trọng ý dân,
dân quyền, rồi từ đó dần dần có thể hướng về dân chủ; Cịn chủ trương như Mặc gia là
trọng thần quyền, có xu hướng độc tài, do đó mà Mặc Tử mới đề ra phạm trù “Thượng
đồng”.
Đạo trời trịn, đạo đất vng, thánh vương bắt chước trời trịn đất vng, lấy đó
mà định ra trên dưới vua tơi. Do đâu mà nói rằng đạo trời trịn? Âm khí đi lên, dương
khí đi xuống, hợp thành mn vật, tuần hồn phức tạp, vận hành khơng ngừng nghỉ,
cho nên nói rằng đạo trời là trịn. Do đâu mà nói rằng đạo đất là vng? Mn vật
khơng cùng loại, khơng cùng hình, mỗi vật có chức phận riêng, không thể kiêm nhiệm
việc khác, cho nên nói rằng đạo đất là vng. Vua nắm trịn, tơi ở vng, vng với
trịn khơng đổi được chức phận cho nhau, thì quốc gia được vương thịnh.
Đạo trời là tơn quý nhất, chẳng ai biết được cái kết thúc của nó. Mn vật lấy nó
làm căn bản. Thánh nhân phỏng theo nó để khiến thiên tính của mình được vẹn toàn và
ngay ngắn, để ra hiệu lệnh. Lệnh vua ban ra các quan chức chịu lệnh mà thi hành, ngày
đêm không nghỉ, tuyên thông quán triệt xuống dưới, dần dần thơng đến lịng dân, đạt
thấu bốn phương, hết vịng quay lại, lịng dân, ý dân lên đến thiên tử, đó là viên đạo.
Lệnh khép được vịng trịn, thì dù là việc có thể hay khơng có thể, việc tốt hay việc xấu
Trang 17



đều có thể đạt tới thiên tử, khơng bị tắt nghẽn ở đâu cả, và như thế đạo làm vua có thể
được thơng đạt. Bởi thế hiệu lệnh là cái mà nhà vua có thể dựa vào để chấp hành mệnh
trời, triều thần có thể chấp hành được, cịn kẻ bất trung thì chẳng thể chấp hành. Điều
này có quan hệ đến sự an nguy của quốc gia. Người ta có tứ chi hình thể, người ta có
thể sử dụng chúng, là vì chúng có cảm giác và có thể nhận biết. Khơng có tri giác thì
tứ chi hình thể chẳng dùng được nữa. Bề tôi cũng vậy, nếu không có cảm giác đối với
hiệu lệnh thì khơng thể sử dụng họ nữa. Có bề tơi, mà khơng thể dùng, thì chẳng bằng
khơng có. Vua sử dụng bề tơi, chứ khơng phải là có bề tơi làm của riêng.
Các tiên vương thông thường đặt ra quan cao, ắt là cho họ giữ chức. Giữ được
chức thì danh phận phân minh. Danh phận phân minh thì kẻ thần hạ khơng tư tà giấu
giếm nhau điều gì. Ví như ngũ âm, mỗi âm đều giữ thanh điệu của mình, nhóm lại mà
thành ra hòa thanh, cung thương giốc chủy vũ, đều giữ đúng cương vị của mình.
Thanh âm đều đặn đúng mực không thể trái ngược quấy rầy lẫn nhau. Hiền vương đặt
ra các quan, cũng giống như vậy. Trăm quan ai giữ chức nấy, lo phần việc của mình để
giúp vua, thì vua chẳng có điều gì bất an. Cai trị đất nước theo cách đó thì chẳng có
điều gì bất lợi, phịng bị tại họa theo cách đó, thì tại họa chẳng thể nào xảy tới được.
Thứ hai, không màng danh lợi quý trọng người tài.
“Thầy Mặc tử bảo: Bậc vương công đại nhân ngày nay trị dân, làm chủ xã tắc, trị
nước, muốn giữ dân, giữ nước được lâu dài, không mất, sao không xét rằng trọng
người hiền là việc căn bản của chính trị? Sao biết được rằng trọng người hiền là việc
căn bản của chính trị? Đáp: Người sang và sáng suốt cai trị kẻ ngu và hèn thì nước trị;
người ngu và hèn trị kẻ sang và sáng suốt thì nước loạn, vì vậy mà biết rằng trọng
người hiền là việc căn bản của chính trị.” [27, tr.171].
Sách Mặc Tử, thiên Thượng hiền thượng, viết: Mặc Tử nói: “Đắc ý hài lịng bậc
hiền sĩ khơng thể khơng cử dùng. Cịn muốn tổ thuật đạo của Nghêu, Thuấn, Vũ thì
khơng thể khơng tơn sùng và trọng dụng người hiền tài. Thượng hiền gốc của chính sự
vậy”. [12, tr.714]. Thiên Thượng hiền hạ, Mặc Tử viết: “… Được như thế khơng ai
khơng khuyến khích khen ngợi, cịn nay các bậc vương công, đại nhân, kẻ sĩ, quân tử
trong thiên hạ, trung thực mới muốn làm nhân nghĩa, cầu là bậc sĩ bên trên, trên muốn
trung với đạo thánh vương, dưới muốn trung với lợi quốc gia thiên hạ. Cho nên thượng

hiền không thể xem xét những điều này. Thượng hiền sẽ lợi cho trời quỷ và trăm họ,
mà chính là gốc của chính sự vậy”. [12, tr.714].
Trang 18


Nguồn gốc của chính trị là cốt “Thành tồn cho sự sống” cốt ở chỗ làm lợi cho
mọi người. “Xác lập ra quân vương không phải để hùa theo quân vương, đặt ra thiên tử
không phải để a dua theo thiên tử, chọn ra trưởng quan không phải để vào hùa theo
trưởng quan”. Ơng khun bề tơi phải biết can gián vua. Trung thần không phải là
hạng bề tôi vua “bảo cúi thì cúi, bảo ngửa thì ngửa, khơng khác gì cái bóng; khơng gọi
thì im lặng, gọi thì thưa, khơng khác gì tiếng vang” [27, tr.84], mà phải biết trình bày
mưu hay với vua, sửa chỗ bậy của vua, dâng vua điều thiện. Nhưng có lẽ ơng cho rằng
những đức đó tất thảy bề tơi nào cũng phải có; nên ông chỉ nhấn mạnh vào khả năng
giúp nước, giúp dân, vì có làm lợi được cho nước, cho dân thì mới là thi hành được
đạo kiêm ái.Cơng dụng của chính quyền là ở chỗ thành tồn cho sự sống, nên thủ đoạn
của chính quyền là ở chỗ lợi dụng ham muốn của con người.
Kẻ nói trị nước biết tự bỏ đi cái ham muốn cá nhân, thì sẽ khơng lấy việc hướng
dẫn ham muốn mà làm khổ kẻ có ham muốn. Biết bớt điều ham muốn, thì sẽ khơng lấy
việc tiết chế ham muốn mà làm khổ kẻ có nhiều ham muốn. Vì then chốt của việc trị
loạn tồn vong khơng dễ phân biệt. Tưởng chừng như có thể biết lại thành như khơng
thể biết, tưởng chừng như có thể thấy lại như không thể thấy. Qúa nghe lời nhiều kẻ
bàn mà trị nước, thì nước sẽ nguy trong sớm tối. Bởi, khơng phải lúc nào chính kiến
của số đơng cũng đúng. Cho nên việc chính trị tất yếu phải cầu kẻ hiền năng. Kẻ hiền
năng lấy chữ Trung làm đầu, lấy chứ Hiếu làm trọng. Trung - Hiếu đã trở thành
nguyên tắc đạo đức cao nhất của con người trong xã hội, là cái “cương cường” của
một quốc gia lúc bấy giờ.
Đạo trị nước, biết lo vốn không dễ, mà thi hành cũng khơng dễ. Khơng biết thì
khơng thể làm, mà làm qua loa, cẩu thả cũng không thể có kết quả, làm mà sợ khó
dừng lại giữa đường, hay sợ lời người chê trách mà dừng lại, thì cũng khơng thể có kết
quả. Lo lắng, tính tốn, vốn cần chuyên gia, nhưng thi hành cần phải có người tài, đó

chính là lý luận của nền chính trị dùng người tài. Phàm làm người giỏi thì khó, chứ
dùng người giỏi thì dễ. Vì sao lại vậy? Ví dụ: Người và ngựa cùng chạy trên một chiếc
xe, thì người chạy tất nhiên không bằng ngựa, nhưng ngồi trên xe mà điều khiển ngựa
thì ngựa tất nhiên khơng bằng người. Kẻ làm vua cũng như người ngồi trên xe, không
rời khỏi xe và những người giỏi đều cố hết sức dùng tài năng để chạy đến đích vậy.
Tóm lại, với chủ trương một thứ “chính trị hiền nhân” Mặc Tử đã khiến cho mọi
người “thượng đồng nhi bất hạ tỵ” đất nước ngày mỗi sung mãn hơn, thành phần trí
Trang 19


thức, hiền tài được trọng dụng trong những công việc lớn của đất nước. Ông đánh
thẳng vào giai cấp quý tộc, tranh đấu cho tầng lớp bình dân được bình đẳng với quý
tộc trong việc điều khiển việc nước.Xóa bỏ chế độ chính trị cha truyền con nối của
phong kiến trước kia, đào tạo và tuyển chọn những người hiền tài để phục vụ đất nước,
phục vụ nhân dân.
Ngày nay, các nhà chính trị, những người đứng đầu quốc gia đều nhận thức rõ
rằng họ khơng cịn là cá nhân nữa vì phía sau họ là nhân dân. Giáo sư, Tiến sĩ Taka
Iwao - Khoa nghiên cứu Kinh tế sau Đại học Reitaka từng nhận định rằng: “Với tư
cách là lãnh đạo quốc gia, một tổ chức, yếu tố quan trọng nhất là phải có được sự tín
nhiệm, tin cậy của những người dân. Người đứng đầu cần ý thức được trách nhiệm,
trọng trách của mình và thực hiện nó là điều vô cùng quan trọng. Và đối với các nhà
lãnh đạo, điều này càng trở nên quan trọng hơn nữa”.
1.3.2.2. Thượng hiền chính là đạo của vua
Cầu lấy cơng danh bằng con đường chính đáng, thì cơng danh khơng thể nào
thốt khỏi, khơng khác gì việc dựng cột biểu lên thì ắt có bóng, cất tiếng hơ thì ắt có
âm vang vậy. Người giỏi đạo làm vua khiến man di bốn phía dẫu khác nhau thói tục,
lời nói cũng đều quy phục, ấy là nhờ có đức dày. Suối nước sâu thì tơm cá theo về, cây
rừng rậm rạp thì chim mn đến ở, bậc qn chủ hiền mình thì hào kiệt bốn phương
quy thuận.
Thứ nhất, đạo làm vua phải có tài đức vẹn tồn mới có thể giành được thiên hạ

Thánh vương xưa trị vì thiên hạ, nhất định phải để chữ cơng lên trước. Cơng tâm
thì thiên hạ ắt được bình hịa. Có được thiên hạ đều do ở cơng tâm mà nên, cịn để mất
thiên hạ thì nhất định chỉ do lịng riêng tư mà ra.“Vơ thiên vô đảng, vương đạo đãng
đãng; Vô thiên vô phả, tân vương chi nghĩa; Vô hoặc tác hảo, tuân vương chi đạo; Vô
hoặc tác ố, tuân vương chi lộ”. Nghĩa là: “Không thiên tư, không bè cánh, đạo làm vua
rộng mở thênh thênh; Không thiên tư, không lệch lạc, tuân theo chính nghĩa của tiên
vương; Khơng sủng ái thiên tư, tn theo phép tắc của tiên vương; Khơng thù ốn
thiên tư, tuân theo đạo trị nước của tiên vương” [43, tr.43].
Đạo làm vua thật giản ước, phẩm đức của người làm vua là ở chính bản thân
mình. Phẩm đức cao nhất là địi hỏi ở mình, thấp hơn một bậc là địi hỏi ở người. Địi
hỏi người khác mà khơng địi hỏi mình, thì địi hỏi càng nhiều bao nhiêu, người ta
càng xa lánh mình bấy nhiêu. Thế nào là địi hỏi mình? Là để cho hai tai, hai mắt của
Trang 20


mình ham muốn vừa phải, tiết chế các ham muốn, bỏ đi sự xảo trá, tránh xa sự giả dối,
giữ cho tâm ý thanh thản và ln hành động vì chính nghĩa tốt đẹp, như vậy thì chẳng
có gì làm tổn hại đến thiên tính của mình. Mặc Tử thiên Thượng hiền thượng, viết:
“Thánh vương đời xưa trị nước, bảo: “Khơng theo điều nghĩa thì khơng được giàu,
khơng theo điều nghĩa thì khơng được sang, khơng theo điều nghĩa thì khơng là người
thân của vua, khơng theo điều nghĩa thì không được gần vua”. [27, tr.84]. Như vậy,
những kẻ trước kia trơng cậy vào tình thân cận với nhà vua để được tước cao, bổng
hậu, nay phải nghĩ lại mà làm theo điều nghĩa, khắp trong nước, từ quan tới dân đều
như vậy: “Dù là nông dân, thợ thuyền, con bn, hễ có tài năng là được đề cử, ban cho
tước cao, lộc hậu, giao cho chức vụ, ai có cơng thì được thưởng, ai khơng có cơng thì
hạ xuống. Cho nên người làm quan không nhất định được sang hồi, mà kẻ thường dân
cũng khơng nhất định bị hèn cho tới suốt đời” [27, tr.84]. Thắng lợi nhỏ là dựa vào trí
tuệ, thắng lợi lớn là dựa vào đức hạnh. Do vậy, phàm là bất cứ việc gì cũng nên biết tự
yêu cầu bản thân làm cho tốt rồi mới nên yêu cầu người khác.
Trời chẳng vì lợi riêng mà che chở mn vật; Đất chẳng vì lợi riêng mà chứa

đựng mn lồi; Nhật nguyệt chẳng vì lợi riêng mà tỏa sáng; Bốn mùa chẳng vì lợi
riêng mà vận hành; Trời, đất, nhật nguyệt, bốn mùa, đều vận hành theo cái đức (bản
tính) của mình mà khiến cho mn vật, mn lồi được sinh trưởng. Bởi vậy, đã làm
vua là khơng được mưu lợi cho riêng mình. Khơng mưu lợi cho riêng mình thì tai nghe
khơng thiên lệch, tai nghe khơng thiên lệch thì bịt lối kẻ gian tà, kẻ làm vua khơng
nghị kị, bàng hồng. Vơ vi thì khiến thân mình được ích lợi mà bình tĩnh, ứng thuận
tính trời. Lão Tử từng nói rằng: “Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận
theo đạo, đạo thuận theo tự nhiên”. Trong “Luận ngữ - Vệ Linh công”, Khổng Tử viết:
“Quân tử bất dĩ ngôn cử nhân, bất dĩ nhân phế ngơn”, ý nói người qn tử nhìn người
là phải suy xét đến cả lời nói và việc làm, khơng nên vì lời hay mà tin tưởng hay một
kẻ mà ta khơng ưa nhưng nói lời hay thì cũng cần lưu ý suy nghĩ chứ không nên bỏ
qua. Cho nên nhà vua mà thất đạo thì biên cương bị giặc xâm nhiễu, bên trong khơng
thi hành được chính lệnh, mà bên ngồi thanh danh sa sút, bách tính coi thường. Do
vậy, có được cái tâm, thì tai nghe mới được, tai nghe được thì việc mới thành, việc có
thành thì cơng danh mới tỏ rạng. Ngũ đế trước lo đạo rồi sau lo đức, cho nên đức thịnh
không ai hơn; Tam vương trước thi hành giáo hóa, rồi sau mới thực thi sát phạt, cho
nên mọi sự nghiệp đều thành công.
Trang 21


Thứ hai, sáng suốt trong phương pháp dụng chúng (dùng người)
“Việc dùng dân phải có lý do. Có được lý do, thì dân khơng có cái gì lại khơng
dùng được. Việc dùng dân có giềng, có mối. Nắm hết được giềng, muôn mắt đều nhấc.
Nắm hết được muối, muôn mắt đều mở. Cái gì là giềng mối của dân? Sự muốn, sự
ghét. Muốn gì, ghét gì? Muốn đều vinh cái lợi, ghét điều nhục cái hại. Cho nên lấy
điều nhục cái hại để phạt thật, lấy điều vinh cái lợi để thưởng thật. Thưởng phạt đều có
thật thì dân khơng có cái gì là khơng dùng được” [41, tr.66].
Bậc đế vương muốn có được hiền tài giúp nước trước hết phải biết cách tuyển
chọn người hiền tài. Theo truyền thuyết, các vua Trung Hoa từ đời Thương trở về
trước hầu hết đều trọng người hiền hơn người thân, giao quyền cho người hiền chứ

không giao cho người thân. Từ đời Chu trở đi mới có chế độ “thân thân”, nghĩa là
“thương yêu người thân, người ruột thịt, họ hàng, giao quyền hành cho họ, dù họ
khơng có tài, tin họ dù họ khơng có đức, mà khơng dùng người ngồi” [27, tr.79]. Do
vậy, mà hình thành nên một giai cấp quý tộc nắm hết quyền mọi quyền lực trong triều
đình, cha truyền con nối. Chỉ có họ mới được học, mới được biết pháp luật, muốn giải
thích pháp luật ra sao cũng tùy ý và dĩ nhiên, họ bênh vực lẫn nhau, cho nên mới có
tục: “lễ bất há thứ nhân, hình bất thướng đại phu”, nghĩa là “giữa họ với nhau có xảy
ra chuyện gì thì họ theo pháp điển bất thành văn (lễ) của họ mà dàn xếp, cịn đối với
dân thường họ mới dùng hình pháp mà chỉ họ được biết đến” [27, tr.79].
Cuối đời Xuân Thu, nhiều nước chư hầu bị các nước mạnh thơn tính tầng lớp quý
tộc cũng từ đó mất đi địa vị vốn có, như tổ tiên Khổng Tử. Sống gần như bình dân,
Khổng Tử có cơng lớn trong việc gầy dựng phong trào giáo dục bình dân. Mơn sinh
của Khổng Tử đa số đều thuộc tầng lớp bình dân, một trong số đó phải kể đến như Tử
Cống, Tử Dư, Tử Lộ, Ngôn Yển… Đều ra làm quan ở Lỗ, Tề, Vệ…
Có thể nói, Khổng Tử khơng những chủ trương tầng lớp bình dân có tài phải
được lãnh chức vụ trong triều đình mà cịn cần phải gắng sức đào tạo những người đó
đểgiúp vua, giúp nước. Trong sách Trung dung, chương 20, Khổng Tử có viết: “Phàm
vi thiên hạ quốc gia hữu cửu kinh, viết tu thân dã, tôn hiền giả, thân thân dã… Tu thân
tắc đạo lập, tôn hiền tắc bất hoặc, thân thân tắc chư phụ, côn đệ bất oán” [5, tr.30],
nghĩa là “Việc trị thiên hạ, nước nhà có chín điều căn bản, mà ba điều là: sửa mình thì
thành đạo, tơn trọng người hiền thì khỏi lầm lạc, u người thân thì cha chú, anh em
khơng dám ốn”. Khổng Tử đặt “tơn hiền” lên hàng nhì, trước “thân thân” ơng đã có ý
Trang 22


×