Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

bai du thi tim hieu 65 nam lich su Dngr biij Gia Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.06 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

CĐ GIÁO DỤC CHƯ PĂH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
<b>CĐCS: TIỂU HỌC IALY </b><i><b>Độc lập – Tự do – Hạnh phúc</b></i>


<b>BÀI THI TÌM HIỂU 65 NĂM</b>


<b> NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ TỈNH GIA LAI</b>


Họ và tên: <i><b>Trần Thị Tuyết Mai</b></i>


Sinh ngày 22 tháng 02 năm 1956 Nam/ Nữ: Nữ
Dân tộc : Kinh Tôn giáo: Không


Đơn vị công tác: Trường tiểu học IaLy - ChưPăh - GiaLai


Ngày vào đảng cộng sản Việt Nam:03/ 8/ 2003 - Ngày chính thức: 03/ 8/ 2004
Bài làm


<b>Câu 1. Bối cảnh ra đời và ngày tháng thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản Đông </b>
<i><b>Dương tỉnh Gia Lai? Ý nghĩa của việc thành lập Đảng bộ tỉnh Gia Lai?</b></i>


<b>- Bối cảnh ra đời: </b>


Tỉnh Gia Lai ngày nay, đầu thế kỷ trước có tên gọi Pleiku. Nằm phía Bắc Tây
Ngun núi sơng hùng vĩ, giữ mợt vị trí chiến lược quan trọng ở miền Trung đất nước,
tỉnh Gia Lai có lịch sử lâu đời với nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc của đồng bào
Jrai, Bahnar, Kinh và nhiều dân tộc thiểu số khác cùng chung sống đoàn kết.


Trải qua lịch sử lâu dài chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, chiến đấu với
nhiều kẻ thù xâm lược, ghi bao chiến công oanh liệt đã hun đúc cho nhân dân trong tỉnh
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam: lao động cần cù, sáng tạo trong dựng nước;
yêu quê hương đất nước, anh dũng, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh giữ nước. Lịch sử


hoạt động và lãnh đạo các phong trào cách mạng trong tỉnh của Đảng bộ Gia Lai từ khi ra
đời đến năm 2005 đã trải qua hơn 60 năm. Trong chặng đường lịch sử vẻ vang đó, đã xuất
hiện biết bao tấm gương sáng chói về tinh thần tận trung với nước, tận hiếu với dân, trung
thành vô hạn đối với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào, cán bộ, đảng viên nhiều thế hệ sinh
sống, sản xuất, chiến đấu và xây dựng trên vùng đất Gia Lai thân yêu. Những chặng
đường lịch sử của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh nhà đã trải qua là cả một chặng
đường biết bao gian khổ hy sinh. Nhờ có Đảng, có Bác Hồ đã dẫn đường chỉ lối mà chúng
ta mới có c̣c sống ấm no, hạnh phúc như ngày nay.


Gia Lai là một tỉnh Bắc Tây Ngun. Địa bàn Tây Ngun có vị trí chiến lược vô
cùng quan trọng ở Đông Dương: "Ai làm chủ Tây Nguyên là làm chủ Đông Dương", cho
nên thực dân Pháp sớm tìm cách chiếm Tây Nguyên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tập quán làm nương rẫy, năng suất trồng trọt rất thấp. Giao thơng giữa các vùng trong
tỉnh khó khăn. Do đó, việc tun truyền phở biến đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước chậm hơn với các vùng khác trong tỉnh. Tình hình trên, sau Tởng khởi
nghĩa 1945, địi hỏi phải nhanh chóng xây dựng củng cố chính quyền cách mạng từ tỉnh
đến huyện, làng, xã theo chủ trương của Đảng và Chính phủ; đồng thời phải xây dựng tổ
chức Đảng để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở Gia Lai. Việc xây dựng tổ chức
Đảng của tỉnh vừa là yêu cầu khách quan, cấp bách trước mắt, vừa lâu dài để lãnh đạo
nhân dân các dân tộc thực hiện các chủ trương của Trung ương tiến hành cuộc đấu tranh
củng cố và bảo vệ chính quyền, ởn định đời sống nhân dân, gấp rút chuẩn bị kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai.


Từ kinh nghiệm thực tiễn cách mạng cả nước, Đảng và Chính phủ đã nhận thấy
nhân tố quyết định và cơ bản để lãnh đạo phong trào, xây dựng chính quyền là cán bợ,
đảng viên và tở chức Đảng. Ở Tây Nguyên, theo chủ trương của Trung ương Đảng, Xứ
ủy Trung Kỳ đã cử đồng chí Phan Thêm làm phái viên Xứ ủy và Mặt trận Việt Minh
Trung Bộ lên Gia Lai để chỉ đạo phong trào, phát triển cán bộ, đảng viên. Những cán bộ
thanh niên hoạt động tích cực trong phong trào thị xã, thị trấn, đồn điền trước và sau


tởng khởi nghĩa giành chính quyền là đối tượng tuyên truyền, giáo dục để lựa chọn
những thành phần ưu tú có uy tín trong quần chúng kết nạp vào Đảng.


Sau thời gian theo dõi, thử thách, tiến hành các thủ tục kết nạp thêm nhiều đảng
viên, ngày 01-10-1945, chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh Gia Lai được thành lập tại thị
xã Pleiku. Chi bợ có 9 đảng viên gồm đồng chí Phan Thêm và 8 đảng viên mới kết nạp
là các đồng chí hoạt động trong phong trào thanh niên yêu nước: Nguyễn Đường,
Nguyễn Xuân, Phạm Thuần và 4 đồng chí hoạt đợng trong phong trào công nhân là Trần
Ren, Nguyễn Bá Hoè, Lý Tú, Trương Trợ. Đồng chí Nguyễn Đường làm Bí thư chi bộ.
Mỗi đảng viên trong chi bộ lấy một chữ trong khẩu hiệu: "Xin thề hy sinh tất cả vì Đảng
ta" làm bí danh: đồng chí Nguyễn Đường (Xin) đồng chí.... (Thề), Nguyễn Bá Hòe (Hy),
Trần Ren (Sinh), Lý Tú (Tất), Phan Thêm (Cả), Phạm Thuần (Vì), Trương Trợ (Đảng),
Nguyễn Xuân (Ta). Đây là một chi bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương xuất hiện đầu
tiên ở tỉnh Gia Lai. Chi bợ đó làm nhiệm vụ như Ban vận đợng thành lập Đảng bộ tỉnh
Gia Lai.


Ngày 25-11-1945, chi bộ Đảng ở An Khê được thành lập gồm có 3 đảng viên do
đồng chí Đỗ Trạc làm Bí thư. Từ tháng 11 đến tháng 12-1945, các chi bộ công nhân
Biển Hồ, Bàu Cạn và một chi bộ trong lực lượng vũ trang của tỉnh (chi bộ trong chi đội
Tây Sơn) cũng lần lượt ra đời, nâng tổng số đảng viên trong toàn tỉnh lên 24 đồng chí.


Trước yêu cầu bức xúc, địi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất và tập trung, ngày


<b>10-12-1945, Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Gia Lai</b> được thành lập, lấy
tên là <i><b>Đảng bộ Tây Sơn</b></i>. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lâm thời gồm 5 đồng chí. Đồng
chí Phan Thêm, phái viên Xứ ủy làm Bí thư, các đồng chí Nguyễn Đường, Nguyễn Xuân,
Trần Ren, Phạm Thuần làm ủy viên Ban Chấp hành. Đây là Tỉnh ủy đầu tiên của Đảng bộ
tỉnh Gia Lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

phong trào cách mạng địa phương. Từ đây cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân các


dân tợc trong tỉnh có sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Đây là nhân tố quyết định để phát
huy tiềm lực cách mạng dồi dào trong tỉnh.


<b>Câu 2: Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Gia Lai trải qua mấy kỳ Đại</b>
<i><b>hội ? Thời gian và địa điểm tổ chức các Đại hợi đó? Nêu tên các đồng chí Bí thư Tỉnh</b></i>
<i><b>uỷ qua các nhiệm kỳ từ khi thành lập Đảng bộ tỉnh đến nay? </b></i>


Tư khi thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Gia Lai trải qua 13 kỳ Đại hợi ?


Bí thư tỉnh ủy đầu tiên của tỉnh GiaLailà đồng chí Phan Thêm đến giữa năn 1948
do đồng chí Phan Thêm chủn cơng tác, đồng chí Phan Bá làm Bí thư Tỉnh ủy. Giữa
năm 1949 Đồng chí Tống Đình Phương làm Bí thư, thay đồng chí Phan Bá về cơng tác ở
Liên khu ủy


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần nhất</b>


<b>Ngày 21-2-1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần đầu tiên</b> được tở
chức tại Gị Cầy, thơn Phú Mỹ, xã Bình Phú, huyện Bình Khê (Bình Định) có 50 đại
biểu, thay mặt cho các tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bợ.


Bí thư: <i><b>đồng chí Nguyễn Xn được bầu làm Bí thư. </b></i>


Để thống nhất và tăng cường sự chỉ đạo chiến trường Bắc Tây Nguyên, từ tháng
12-1949, Liên khu ủy có chủ trương và quyết định đề nghị cấp trên cho sáp nhập hai tỉnh
Gia Lai và Kon Tum thành tỉnh Gia - Kon. Đến đầu năm 1950, Chính phủ mới có quyết
định chính thức đơn vị hành chính tỉnh Gia - Kon. Các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn
thể hai tỉnh hợp nhất, đi vào hoạt động.. Đến tháng 4-1950, Liên khu ủy mới chỉ định
Ban cán sự Đảng tỉnh và phân cơng đồng chí Nguyễn Xuân Nhĩ, Ủy viên Liên khu ủy
làm Bí thư Ban cán sự Đảng. Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh do cụ Nay Der làm
Chủ tịch, đồng chí Nay Phin làm Phó Chủ tịch.



Đại hợi đại biểu Đảng bợ Liên khu V, lần thứ II (7-1951) đặt nhiệm vụ cơng tác
vùng sau lưng địch là: Tích cực tranh thủ nhân dân địch hậu, kiên trì xây dựng cơ sở, tạo
điều kiện phát triển chiến tranh du kích, phá chính sách "bình định" của giặc.


Đồng chí Trịnh Huy Quang, Liên khu ủy viên được phân cơng làm Bí thư Ban cán
sự Đảng kiêm Chính ủy Mặt trận Miền Tây. Đồng chí Trương Quang Tn, Liên khu ủy
viên được phân cơng về thay đồng chí Trịnh Huy Quang, làm Bí thư Ban cán sự Đảng
tỉnh Gia - Kon, kiêm chính ủy E 120. Đầu năm 1952, Đồng chí Trương An, Bí thư Ban
cán sự Đảng tỉnh kiêm Chính ủy E120.


Hợi nghị Liên khu ủy lần thứ ba (10-1952) đồng chí Đỗ Hằng, Bí thư Ban cán sự
kiêm Chính trị viên Huyện đội An Khê và Ban chỉ huy Tiểu đoàn 30.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

. Đến năm 1955, các Ban cán sự các khu được bổ sung thêm đủ 5 ủy viên. Bí thư
Ban cán sự khu gồm các đồng chí: Phạm Chánh (Sáu Thân) làm Bí thư khu 1, đồng chí
Lương Ngoạn làm Bí thư khu 2, đồng chí Đỗ Hằng (Hà) làm Bí thư khu 3, đồng chí
Đào Đức Linh (Vi) làm Bí thư khu 4, đồng chí Siu Nang (Siu Tám) làm Bí thư khu 5,
đồng chí Đoàn Soa (Lý) làm Bí thư khu 6, đồng chí Phạm Xong (Hồng) làm Bí thư khu
7, đồng chí Lê Phi Hùng làm Bí thư khu 8, đồng chí Nguyễn Văn Lưu (Biêu) phụ trách
đoàn cán bộ khu 9.


Tháng 12-1959, tại Đak Hlôh (khu 2), Tỉnh ủy Gia Lai quyết định mở Hội nghị
đại biểu (được cấp trên chuẩn y như Đại hội), gồm 45 đại biểu được chỉ định từ các
Đảng bộ khu và chi bộ trực thuộc. Đại hội đã kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ từ sau
Hiệp định Giơnevơ (7-1954) đến cuối năm 1959 và đề ra phương hướng nhiệm vụ tiếp
tục thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng.


Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bợ gồm 13 đồng chí (9 Tỉnh ủy viên chính
thức và 4 Tỉnh ủy viên dự khuyết) do đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) làm Bí thư.


Tháng 9-1960, đồng chí Võ Trung Thành dự Đại hợi đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng, sau đó chuyển về Khu ủy V, đồng chí Phạm Chánh được chỉ định quyền Bí
thư Tỉnh ủy (sau là Bí thư).


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ hai</b>


<b>* Từ ngày 12 đến ngày 22-7-1965, tại xã Đak Kơpiar (khu 10), Đại hội đại</b>
<b>biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ hai được khai mạc</b>. Tham dự Đại hợi có 67 đại biểu chính
thức, 20 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 2.321 đảng viên, 147 tổ chức cơ sở đảng trong
toàn Đảng bộ.


Đại hội đã bầu Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ gồm 15 ủy viên (có 2 ủy viên dự
khuyết), trong đó có 5 ủy viên người dân tợc thiểu số. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 5 đồng
chí, <i><b>đồng chí Trần Văn Bình (Đẳng) được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i>


Tháng 11-1967, Hội nghị liên tịch giữa Đảng ủy và Ban chỉ huy Mặt trận Tây
Nguyên với đại diện các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk thống nhất kế hoạch tởng
cơng kích và nởi dậy, bàn kế hoạch phối hợp hoạt động giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa
phương, giữa tấn công và nổi dậy, thống nhất chỉ đạo, chỉ huy, thành lập Ban chỉ huy
mặt trận mỗi tỉnh. Tỉnh Gia Lai, Ban chỉ huy chung toàn tỉnh mang ký hiệu "Mặt trận
300" do đồng chí Nguyễn Văn Trân, Tham mưu phó Mặt trận Tây Nguyên, làm Chỉ huy
trưởng; đồng chí Võ Trung Thành, Khu ủy viên khu V, Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III.</b>


<b>* Vào mùa thu 1969, từ ngày 5 đến ngày 14-8 tại làng Tengleng thuộc xã</b>
<b>Krong, khu 10 đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III.</b> Tham dự Đại
hợi có 110 đại biểu, đại diện cho trên 4.000 đảng viên của Đảng bộ. . Đại hội bầu Ban
Chấp hành Đảng bợ khóa III gồm 19 ủy viên (4 ủy viên dự khuyết), Ban Thường vụ
Tỉnh ủy gồm 6 đồng chí. <i><b>Đồng chí Trần Văn Bình (Đẳng) được bầu làm Bí thư Tỉnh</b></i>


<i><b>ủy</b></i>, 3 đồng chí được bầu làm Phó Bí thư là: Phạm Xong (Hồng), Ksor Ní (Ama Nhan),
Kpă Thìn (Bơhâm).


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>* Ngày 14 đến ngày 24-9-1971 đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần</b>
<b>thứ IV,</b> tại làng Kon Tơmok, xã Đakhleh, khu 1. Có 126 đại biểu thay mặt cho 4.544
đảng viên toàn Đảng bộ về dự. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh khóa IV gồm
26 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 8 đồng chí. <i><b>Đồng chí Trần Văn Bình (Đẳng)</b></i>
<i><b>được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i> Các đồng chí Ksor Ní (Ama Nhan), Kpă Thìn
(Bơhâm) được bầu làm Phó Bí thư.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ V</b>


<b>Từ ngày 23 đến ngày 30-10-1973, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần</b>
<b>thứ V</b> họp tại làng Salam Vir, xã Krong, khu 10. Dự Đại hợi có 169 đại biểu thay mặt
hơn 5.000 đảng viên toàn Đảng bộ.


Đại hợi bầu Ban Chấp hành Đảng bợ khóa V gồm 27 ủy viên (có ba ủy viên dự
khuyết), bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 8 đồng chí, <i><b>đồng chí Trần Văn Bình được</b></i>
<i><b>bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i>


Ngày 19-4-1974, đồng chí Trần Văn Bình, mợt cán bợ lãnh đạo tận tụy bám sát
phong trào, bốn nhiệm kỳ được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, là Khu ủy viên Khu V, sau một
thời gian đau nặng đã từ trần tại vùng căn cứ của tỉnh. Lễ tang đồng chí được tổ chức
trọng thể tại căn cứ. Đồng bào, cán bộ vô cùng tiếc thương một cán bộ lãnh đạo luôn gần
gũi dân... Thường vụ Khu ủy V quyết định chỉ định <i><b>đồng chí Ksor Ní làm Bí thư Tỉnh</b></i>
<i><b>ủy. </b></i>Cuối tháng 9-1975, Tỉnh ủy Gia Lai họp Hội nghị mở rợng có 21 đồng chí trong Ban
Chấp hành và 40 cán bộ lãnh đạo các ngành tham dự. Hội nghị xem xét đánh giá tình
hình trong tỉnh năm 1975 và bàn những công tác cấp bách chuẩn bị hợp nhất với tỉnh
Kon Tum. Thực hiện Nghị quyết Bợ Chính trị và Nghị quyết Khu ủy V về hợp nhất hai
tỉnh Gia Lai và Kon Tum thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Ban Chấp hành lâm thời Đảng


bộ Gia Lai - Kon Tum được Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa III) chỉ định gồm 39
Ủy viên. <i><b>Đồng chí Trần Kiên (Nguyễn Tuấn Tài), Ủy viên Thường vụ Khu ủy V làm</b></i>
<i><b>Bí thư Tỉnh ủy</b></i>, đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) làm Phó Bí thư Thường trực
Tỉnh ủy, các đồng chí Ksor Ní, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai và đồng chí Phan Quyết, Bí thư
Tỉnh ủy Kon Tum làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum. Cuối năm 1976, Trung
ương quyết định bổ sung đồng chí Rơchơm Thép (Ama Quang), Khu ủy viên làm Phó
Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI</b>


<b>Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI</b> có 295 đại biểu tham dự. Vịng mợt họp tại
Hội trường 19-5 thị xã Pleiku từ ngày 11-11 đến ngày 20-11-1976. Vịng hai của Đại hợi
Đảng bợ họp tại trường Đảng tỉnh (nay là Trường Chính trị tỉnh Gia Lai) từ ngày 1-3
đến ngày 10-3-1977


Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh gồm 37 đồng chí (33 ủy viên chính
thức, 4 ủy viên dự khuyết). Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 11 đồng chí, <i><b>đồng chí Nguyễn</b></i>
<i><b>Văn Sĩ, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương được bầu làm Bí thư Tỉnh</b></i>
<i><b>ủy.</b></i> Đồng chí Y Pah (Y Một), Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương và đồng
chí Võ Trung Thành (Năm Vinh), được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>- Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII</b> tiến hành từ ngày 26-6 đến ngày 2-7-1979
tại Pleiku..Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa VII gồm 45 ủy viên (có 4 ủy viên dự
khuyết). Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí<i><b>, đồng chí Nguyễn Văn Sĩ được bầu làm Bí</b></i>
<i><b>thư Tỉnh ủy</b></i>; đồng chí Võ Trung Thành làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII</b>


* .Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII họp từ ngày 15 đến ngày
19-3-1983 tại Pleiku.. Dự Đại hợi có 473 đại biểu chính thức thay mặt cho 13.199 đảng viên


của 564 tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bộ. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 45
đồng chí. Ban Thường vụ có 13 đồng chí. <i><b>Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ, Ủy viên Trung</b></i>
<i><b>ương Đảng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i>


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX</b> diễn ra từ ngày 21 đến ngày
29-10-1986 tại Pleiku. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh khóa IX gồm 58 đồng chí.
Trong đó có 45 đồng chí ủy viên chính thức và 13 đồng chí ủy viên dự khuyết. Hợi nghị
Tỉnh ủy lần thứ nhất bầu Ban Thường vụ gồm 15 đồng chí. <i><b>Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ</b></i>
<i><b>(Ksor Krơn), Ủy viên Trung ương Đảng, được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai</b></i>
-Kon Tum. Các đồng chí Sơ Lây Tăng, Nguyễn Văn Tiềm, Ngơ Thành (Chinh) được bầu
làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<i>Kỳ họp thứ chín Quốc hội khóa VIII, họp từ ngày 27-7-1991 đến 12-8-1991 đã ra</i>
<i>Nghị quyết về việc chia tách tỉnh Gia Lai - Kon Tum; thành lập lại hai tỉnh Gia Lai và</i>
<i>Kon Tum. Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai - Kon Tum họp ngày </i>
<i>21-8-1991 và ngày 10-9-21-8-1991, đã thống nhất phương pháp tiến hành cách sắp xếp bộ máy, bố</i>
<i>trí cán bộ các cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể ở hai tỉnh. Thực</i>
<i>hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 21-8-1991, Hội đồng nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon</i>
<i>Tum khóa VI họp bất thường và ra Nghị quyết về phân định địa giới hành chính và các</i>
<i>đơn vị hành chính, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân của mỗi tỉnh. Theo đó tỉnh Gia</i>
<i>Lai có thị xã Pleiku và 10 huyện là: Chư Pah, Chư Prông, Đức Cơ, Chư Sê, Ayun Pa,</i>
<i>Krông Pa, Kông Chro, An Khê, Kbang và Mang Yang. Tỉnh Gia Lai có diện tích</i>
<i>1.606.670ha, dân số 681.823 người. Hội đồng nhân dân tỉnh có 59 đại biểu.</i>


<i>Theo Quyết định của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy lâm thời Gia Lai có 34 ủy viên. Ban</i>
<i>Thường vụ Tỉnh ủy gồm 8 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ, Ủy viên Trung ương</i>
<i><b>Đảng, được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí Nguyễn Hùng (Lê Tam) và đồng</b></i>
<i>chí Ngơ Thành (Chinh) được chỉ định làm Phó Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí Lê Tam kiêm</i>


<i>Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh.</i>


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

(Lê Tam) được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI</b>. Đại hội diễn ra từ ngày 6 đến ngày
10-5-1996 tại Pleiku., có 250 đại biểu tham dự thay mặt cho 12.582 đảng viên sinh hoạt,
công tác trong 575 tổ chức cơ sở đảng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh Gia
Lai khóa XI gồm 47 ủy viên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 13 đồng chí. <b>Đồng chí Lê Tam</b>
<b>được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy</b>. Đại hợi bầu 13 đại biểu chính thức và hai đại biểu dự
khuyết đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XII</b>


* <b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XII</b> được tổ chức trọng thể từ
ngày 26 đến ngày 30-12-2000 tại Pleiku. Dự Đại hợi có 300 đại biểu, đại diện cho
17.491 đảng viên, sinh hoạt tại 647 tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ.


Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh khóa XII (2001-2005) gồm 47 đồng
chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai khóa XII gồm 13 đồng chí; <b>đồng chí Ksor Phước</b>
<b>được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy</b>; các đồng chí Đỗ Tiến Hoàng, Nguyễn Vĩ Hà được
bầu làm Phó Bí thư. Đại hợi đã bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng gồm 13 đại biểu chính thức và 1 đại biểu dự khuyết.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII </b>Đảng bộ tỉnh. Đại hội


được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 12-12-2005 tại Pleiku, đúng vào dịp kỷ niệm 60 năm
ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Gia Lai. Dự Đại hợi có 299 đại biểu đại diện cho hơn
23.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh khóa
XIII gồm 49 đồng chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XIII gồm 13 đồng chí, <b>đồng chí</b>
<b>Hà Sơn Nhin được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.</b> Tại Đại hợi đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng, đồng chí Hà Sơn Nhin được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.


<b>Câu 3</b> : <i><b>Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam được tổ chức vào ngày tháng</b></i>
<i><b>năm nào? Địa điểm tổ chức Đại hội? Nêu nội dung và ý nghĩa thư của Chủ tịch Hồ</b></i>
<i><b>Chí Minh gửi các dân tợc thiểu số miền Nam tại Đại hội? </b></i>


Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã tở chức hai Đại hội các dân tộc
thiểu số ở hai miền Nam và Bắc: <b>Ngày 19-4-1946, Đại hội các dân tộc thiểu số miền</b>
<b>Nam được tổ chức tại thị xã Pleiku với hơn 1000 người tham dự, bao gồm đại biểu</b>
<b>các dân tộc Tây Nguyên và miền núi các tỉnh Nam Trung Bộ</b> và ngày 3-12-1946 tại
Hà Nội.


Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất, được tổ chức tại Hà
Nội trong hai ngày vào trung tuần tháng 5-2010. Hội nghị sẽ khai mạc vào ngày 12
tháng 5 năm 2010.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Cùng các đồng bào dân tộc thiểu số,</i>


Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ.


Tiếc vì đường sá xa xơi, tơi khơng đến dự được. Tơi tuy xa, nhưng lịng tơi và
Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào.


Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba
Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.


Chúng ta sống chết có nhau, sướng khở cùng nhau, no đói giúp nhau.


Trước kia chúng ta xa cách nhau, mợt là vì thiếu giây liên lạc, hai là vì có kẻ xui
giục để chia rẽ chúng ta.


Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hợi có đủ đại
biểu các dân tợc. Chính phủ thì có "NHA DÂN TỢC THIỂU SỐ" để săn sóc cho tất cả
các đồng bào.


Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên
tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hợ Chính
phủ ta.


Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu
hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta.


Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đoàn kết của chúng ta khơng bao
giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập
của chúng ta.


Xin chúc Đại hội thành công.


Lời chào thân ái


<i>Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 1946</i>


HỒ CHÍ MINH


<b>Câu 4</b> <i><b>: Đại hợi lần thứ mấy của Đảng bộ tỉnh đề ra các nhiệm vụ phát triển</b></i>
<i><b>kinh tế - xã hội, giữ vững q́c phịng an ninh theo đường lới đổi mới của Đảng. Nêu</b></i>


<i><b>nội dung trọng tâm của các nhiệm vụ ? </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

hợp với điều kiện về môi trường sinh thái của từng vùng với sự tham gia của mọi thành
phần kinh tế. Tập trung các nguồn vốn đầu tư cho thủy lợi, giao thông nông thôn, điện
và các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hợi. Khuyến khích thị trường nông thôn phát triển…


<i><b>Nội dung trọng tâm của các nhiệm vụ</b></i>


1 - Nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân
phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý của chính
quyền các cấp, nhân dân tham gia, Công an làm nịng cốt.


2 - Chủ đợng đởi mới các mặt cơng tác bám sát và phục vụ có hiệu quả việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phát huy sức mạnh tởng hợp của cả hệ
thống chính trị, dựa vào nhân dân để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự.
3 - Trong xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự phải giữ vững nguyên tắc,
đồng thời có sách lược mềm dẻo, linh hoạt, tranh thủ sự đồng thuận của mọi tầng lớp xã


hội và ủng hộ của quốc tế.


4 - Coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng Công an nhân dân
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tở chức, trong đó cơng tác cán bộ là khâu đột phá để
tạo chuyển biến trong toàn bộ các mặt công tác công an.
Tình hình liên quan đến an ninh trật tự đang biến đởi nhanh chóng, khó lường, địi hỏi
phải nắm chắc tình hình, tiếp tục đởi mới chủ trương và giải pháp nhằm bảo vệ vững
chắc an ninh chính trị nội bộ, vô hiệu hoá các hoạt động thâm nhập tác động chuyển hoá
nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh chống địch phá hoại tư tưởng, nâng cao hiệu quả công tác
bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh thông tin; bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình
hợi nhập kinh tế quốc tế, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động ''diễn
biến hoà bình'', bạo loạn lật đở của các thế lực thù địch; đảm bảo an ninh trật tự ở các địa


bàn trọng điểm, ngăn chặn các loại tội phạm, hạn chế và từng bước loại trừ những nhân
tố gây mất ổn định, để trong bất cứ tình huống nào cũng phải giữ vững được an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa.


Để thực hiện thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng về nhiệm vụ
đảm bảo an minh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, thời gian tới chúng ta cần tập
trung thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:


<i>Một là, </i>các cấp uỷ đảng cần tập trung chỉ đạo việc tuyên truyền giáo dục, làm cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ về tầm quan trọng của cơng tác bảo vệ an
ninh, trật tự trong tình hình hiện nay, nâng cao cảnh giác cách mạng, xác định trách
nhiệm tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội. Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng và
Nhà nước trên lĩnh vực này. Đẩy mạnh giáo dục nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự trong
các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và phổ thông trung học; bồi dưỡng kiến thức về
công tác bảo vệ an ninh, trật tự cho cán bợ chủ chốt của Đảng, chính quyền, các ban,


ngành, đoàn thể ở cơ sở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

hiện nghiêm những quy định về kỷ luật Đảng, nội quy bảo vệ cơ quan, bảo vệ bí mật nhà
nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với cơng tác xuất bản,
thơng tin, báo chí. Kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng ''đa nguyên chính trị'', khơng


để hình thành tở chức chính trị đối lập.


<i>Ba là,</i> tiếp tục phát huy có hiệu quả hơn nữa sức mạnh tởng hợp của hệ thống
chính trị. Xác định rõ vai trò, phạm vi trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, cơ quan Nhà
nước, các đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong cơng tác phịng
chống tợi phạm, phịng chống tham nhũng, tiêu cực. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có


kết quả các quy chế phối hợp giữa cơ quan chuyên trách với các ngành, các đoàn thể
trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự; nhất là trong đánh giá, dự báo tình
hình, xây dựng và tở chức diễn tập phương án đối phó với các tình huống khủng bố, phá


hoại, gây rối, gây bạo loạn...


<i>Bốn là,</i> tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của toàn
dân trong công tác đảm bảo an ninh, trật tự. Tập trung phát hiện, khắc phục kịp thời
những sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện các chính sách quản lý kinh tế - xã hợi, chính
sách về đất đai, tơn giáo, dân tợc, chính sách đối với người có cơng, chính sách đối với
đồng bào ở vùng sâu, vùng xa... Giải quyết triệt để, kịp thời những mâu thuẫn, tranh
chấp, khiếu kiện trong nhân dân, nhằm tăng cường sự đồng thuận trong xã hội. Hoàn
thiện và thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về các quyền tự do dân chủ; đồng thời
kiên quyết đấu tranh ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tự do, dân chủ để phá hoại an ninh


quốc gia, trật tự an toàn xã hội.


<i>Năm là, </i>chủ động tăng cường quan hệ hợp tác với các nước về công tác đảm bảo
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội theo đúng đường lối đối ngoại của Đảng.
Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan đối ngoại, tổ chức tốt công tác thông
tin tuyên truyền, chủ động đấu tranh với những luận điệu vu khống, xuyên tạc, chống
phá của các thế lực thù địch. Đẩy mạnh hợp tác với các nước trên lĩnh vực đấu tranh
phòng, chống khủng bố và các loại tội phạm.


<i>Sáu là,</i> tiếp tục xây dựng kiện toàn các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội vững mạnh về mọi mặt. Nghiên cứu xây
dựng một tổ chức phù hợp, đủ mạnh để tham mưu cho Đảng, Nhà nước và chỉ đạo tổ
chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Tiếp tục xây dựng lực lượng Công an
nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao
chất lượng, hiệu quả các mặt công tác, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ



trong giai đoạn mới.


Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hợi là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, có vị trí đặc biệt quan trọng. Để hoàn thành nhiệm vụ đó chúng ta phải chủ
động phát hiện, đấu tranh ngăn ngừa mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, các
loại tợi phạm, tạo mơi trường hoà bình, ởn định và điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra.


<b>Câu 5 : Ông, bà, anh, chị hãy nêu phương hướng, nhiệm vụ tổng quát và</b>
<i><b>những mục tiêu chủ yếu do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII đề ra?</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

của giai đoạn 2006-2015: Coi trọng phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng kết hợp
giữa mở rộng quy mô với nâng cao chất lượng cây trồng, vật nuôi, phát triển mạnh thủy
lợi; đồng thời chuyển trọng tâm đầu tư vào khu vực công nghiệp và dịch vụ mà hướng
đột phá là thủy điện, chế biến nông lâm sản, các ngành dịch vụ có lợi thế so sánh gắn với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo việc làm, từng bước cải thiện đời sống
nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số1<sub>.</sub>


Đại hội cũng đã xác định mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 2006-2010; đồng thời
nêu lên những định hướng và giải pháp phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ
yếu; văn hóa xã hợi; xây dựng hệ thống chính trị, quốc phòng - an ninh.


Để thực hiện đạt và vượt các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội XIII đặt ra, Gia Lai
sẽ tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:


- Ưu tiên tăng nguồn lực đầu tư nhằm phát huy lợi thế của những ngành, những
lĩnh vực quan trọng như thủy điện, chế biến nông thổ sản, chăn nuôi; gắn phát triển vùng
nguyên liệu với giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ. Tập trung đầu tư và có chính


sách hỗ trợ đưa tiến bợ khoa học kỹ thuật vào phát triển giao thông, thủy lợi phục vụ sản
xuất.


- Ban hành các cơ chế chính sách thông thoáng để thu hút đầu tư liên doanh, liên
kết với các địa phương trong và ngoài nước; trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính,
xây dựng đợi ngũ cán bợ, cơng chức có đạo đức cách mạng trong sáng, giỏi về chuyên
môn, nghiệp vụ.


- Phát triển kinh tế đi đơi với ưu tiên giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hợi bức
xúc như xóa đói, giảm nghèo; giải quyết đất sản xuất, hỗ trợ nhà ở cho đồng bào dân tợc
thiểu số tḥc diện đói nghèo; kiên cố hóa trường học...


- Tiếp tục củng cố và tăng cường sức chiến đấu của hệ thống chính trị cơ sở, đề
cao vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của các cấp ủy Đảng. Huy động sức mạnh của cả
hệ thống chính trị để giữ vững ởn định chính trị, nhất là những địa bàn trọng điểm, kiên
quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch.


- Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chương trình của
các cấp ủy và chính quyền.


<b>Câu 6: Ơng, bà, anh, chị, hãy nêu những cảm nghĩ của mình về truyền thớng</b>
<i><b>lịch sử và vai trị lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Gia Lai qua 65 năm đấu tranh, xây dựng</b></i>
<i><b>và phát triển; đồng thời hiến kế để xây dựng tỉnh Gia Lai ngày càng giàu đẹp? </b></i>


Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai kể từ sự kiện ra đời của các chi bộ cộng sản đầu tiên
và nhanh chóng tiến tới thành lập tỉnh Đảng bợ mang tên Đảng bộ Tây Sơn
(10-12-1945), cho đến nay đã chắn 65 năm. Nhìn lại toàn bợ chặng đường lịch sử sáu thập kỷ
hoạt động, xây dựng, trưởng thành của Đảng bợ, tuy khơng dài trong tiến trình lịch sử
của tỉnh và của Đảng, nhưng là cả mợt quá trình lãnh đạo, phấn đấu đầy gian khổ, thử
thách, hy sinh với những thành tích to lớn và thắng lợi vẻ vang, góp phần tơ đậm những


trang sử vàng của Đảng, của dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Đảng bộ tỉnh Gia Lai được thành lập sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
1945 chưa đầy bốn tháng. Trong khí thế cách mạng hào hùng của kỷ nguyên độc lập, tự
do, xây dựng đất nước và công cuộc chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm
lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cợng sản Việt Nam (lúc đó lấy tên Đảng Cợng sản
Đông Dương), Đảng bộ tỉnh Gia Lai ra đời là một tất yếu lịch sử. Đảng bộ ra đời trước
hết là kết quả trực tiếp của phong trào yêu nước, phong trào công nhân kết hợp với tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn đến phong trào cộng sản ở
một tỉnh miền núi Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng nối liền với các tỉnh
duyên hải miền Trung và các tỉnh phía Nam của đất nước, sớm được Trung ương Đảng,
Xứ ủy Trung Kỳ chú ý phát triển tổ chức cơ sở


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

nhất rộng rãi được tiến hành trong tỉnh 10 tháng sau đó. Từ phong trào cơng nhân đồn
điền đấu tranh giành chính quyền, hoạt đợng u nước, tiến bợ của Đoàn thanh niên Gia
Lai, Đoàn thanh niên Chấn hưng An Khê, Đoàn thanh niên Cheo Reo... đi đầu trong
khởi nghĩa, một số cán bộ được tiếp tục rèn luyện giác ngợ trong đấu tranh củng cố
chính quyền, xây dựng xã hợi mới mà hình thành những cốt cán cách mạng, những
nhóm cợng sản của Đảng. Trong bối cảnh đất nước đứng trước họa xâm lăng, nền độc
lập dân tộc bị đe dọa như "ngàn cân treo sợi tóc", trên cơ sở các phong trào cách mạng
trong tỉnh, những chi bộ Đảng đầu tiên ở Gia Lai ra đời: Chi bộ thị xã Pleiku
(1-10-1945), Chi bộ An Khê (25-11-(1-10-1945), Chi bộ nông trường Bàu Cạn, Chi bộ nông trường
Biển Hồ và Chi bộ trong lực lượng vũ trang, dẫn tới thành lập Đảng bộ tỉnh. Đảng bộ
tỉnh Gia Lai ra đời là một biểu hiện sinh động quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Bác Hồ sáng lập.


Trong chặng đường 30 năm đầu sau khi Tỉnh ủy lâm thời đầu tiên được thành lập
do Xứ ủy Trung Kỳ chỉ định, Đảng bộ với số lượng cán bợ, đảng viên ít ỏi, dần dần từng
bước phát triển, trưởng thành trong quá trình tở chức đợng viên và lãnh đạo nhân dân
các dân tộc trong tỉnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ,


kinh qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc - cuộc kháng chiến chống Pháp xâm
lược (1945-1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) do Đảng lãnh
đạo.


Sự phấn đấu bền bỉ của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã tạo được những
chuyển biến quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phịng.
Kinh tế có bước phát triển, mức tăng trưởng của các ngành kinh tế đạt khá và cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, đào tạo cán bợ có
những bước tiến bợ mới. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện từng
bước. Ổn định chính trị, an ninh quốc phịng, trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh được giữ
vững. Nhân dân tin tưởng, kiên định mục tiêu và con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa
mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, tin tưởng đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo.


Theo chủ trương của Đảng, Nhà nước, ngày nay tỉnh phải xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong mọi địa bàn. Nhưng với vị trí chiến lược và
truyền thống cách mạng, kháng chiến, từ thực tiễn địa phương để xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh bảo vệ vững chắc địa bàn, Đảng bộ và
quân dân trong tỉnh cần phát huy hơn nữa kinh nghiệm truyền thống của căn cứ kháng
chiến, chăm lo hơn nữa đời sống, chính sách xã hợi đối với đồng bào dân tợc thiểu số ở
vùng căn cứ. Đó là trách nhiệm lãnh đạo của Đảng bợ tỉnh, cấp ủy, chính quyền, mặt
trận và các đoàn thể các cấp từ tỉnh đến cơ sở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

chủ nghĩa xã hội, tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng tỉnh Gia Lai giàu đẹp
trong thế kỷ XXI. Trước mắt, những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống yêu nước, cách
mạng đó là hành trang tinh thần vô giá để Đảng bộ và nhân dân thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, chuẩn bị sẵn sàng mọi
điều kiện chào đón Đại hợi lần thứ XI của Đảng và tiến hành Đại hội lần thứ XIV của
Đảng bộ tỉnh Gia Lai.



<i><b> IaLy, ngày 25 tháng 3 năm 2010</b></i>
<i><b> Người viết</b></i>


</div>

<!--links-->

×