Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử thăng long nổi giận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.21 KB, 76 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------

NGUYỄN ĐĂNG KHOA

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử
Thăng Long nổi giận

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm vừa qua đề tài lịch sử luôn thu hút sự chú ý khám
phá của nhiều thế hệ nhà văn cũng như đợc giả. Nhìn lại nền văn học nước
nhà có thể thấy, tiểu thuyết lịch sử đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát
triển của văn xuôi dân tộc. Trong nền văn học Việt Nam đương đại, Hoàng
Quốc Hải được đánh giá là một trong những cây bút viết tiểu thuyết xuất sắc
với nhiều sáng tác về mảng đề tài lịch sử.
Cũng như nhiều tác phẩm khác của Hoàng Quốc Hải, thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết lịch sử Thăng Long nổi giận của ông được xây dựng hết sức
phong phú, đa dạng và ln đóng vai trị là hạt nhân trung tâm tạo nên sự
thành công cho những trang tiểu thuyết của nhà văn.
Nghiên cứu thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Thăng Long nổi
giận không chỉ tìm hiểu đặc trưng phong cách nghệ thuật của Hoàng Quốc


Hải mà cịn góp phần khẳng định tài năng và vị trí của nhà văn trong lịch sử
văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời, với việc nghiên cứu đề tài này, chúng
tơi cịn mong muốn được bổ sung thêm những kiến thức, hiểu biết vơ cùng
hữu ích cho công việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy sau này.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Bộ sáu tiểu thuyết lịch sử “Bão táp triều Trần” ra đời là lúc Hồng
Quốc Hải khẳng định chổ đứng của mình trên văn đàn dân tộc. Điều này đồng
nghĩa với những sáng tác của ông được đông đảo bạn độc cũng như giới
nghiên cứu quan tâm nhiều hơn. Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu qua mợt số
cơng trình, bài viết đề cập về nhân vật liên quan đến nội dung nghiên cứu của
khóa luận:
Nhà văn Phùng Văn Khai trong bài viết Nhà văn Hoàng Quốc Hải trái
tim đập thăng trầm với các nhân vật lịch sử, đã đề cập đến sở trường của


3

Hoàng Quốc Hải “là làm trái tim của bao nhân vật lịch sử đập trở lại, đập
trung thực, đập dạt dào miên viễn và vĩnh cửu xôn xao cùng trái tim của
những con người đang sống trong trần gian hôm nay, cũng chính là nhịp đập
của trái tim ơng nữa”. [20, tr.32].
Bài viết Suy ngẫm về bộ tiểu thuyết lịch sử “Bão táp triều Trần”, tác
giả Hoàng Công Khanh lại đề cao bút pháp của Hoàng Quốc Hải “ Với bút
pháp điềm đạm, tình lý rạch rịi như mũi khoan kht sâu vào tính cách nhân
vật, vào nợi hàm sự kiện có dự báo; anh đem đến cho người đọc cả sự chân
thực lẫn chân lý lịch sử” [20, tr.9].
Trong bài Bộ tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quốc Hải và quan
niệm về nhân vật anh hùng, theo Hoài Anh, ở “Bão táp triều Trần” tác giả
Hoàng Quốc Hải đã dựa vào tiêu chuẩn đạo đức để đánh giá người anh hùng,
và chia thành ba loại anh hùng: anh hùng có năng lực hành đợng vĩ đại, lập

nên sự nghiệp cứu nước, cứu dân; anh hùng là những bậc hiền triết; và anh
hùng là những phụ nữ biết hy sinh vì nghĩa cả, có trí ṭ sáng suốt [20]. Về
nghệ thuật xây dựng nhân vật của Hoàng Quốc Hải, tác giả Hoài Anh nhận
xét: “ Nhân vật xây dựng có tính cách rõ rệt, sự chuyển biến về tâm lý khá
hợp lý. Tác giả đã khắc họa được nhân vật có hành đợng thúc đẩy tiến trình
của lịch sử và những nhân vật có hành đợng ngược lại với xu thế phát triển
của thời đại [20, tr.47-48].
Phong Sương trong Lời bạt về bộ tiểu thuyết lịch sử “Bão táp triều
Trần”, đã ca ngợi tài năng chỉ huy nhân vật của Hoàng Quốc Hải: “nhà văn
luôn là một vị tổng chỉ huy nhân vật của mình, lại là nhân vật lịch sử, hẳn
nhiên vị tổng chỉ huy phải rất cao tay” [20, tr.77].
Như vậy, chúng ta có thể thấy “Thăng Long nổi giận” là tác phẩm còn
khá mới mẻ với cơng chúng. Chính vì vậy, nghiên cứu “Thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết lịch sử Thăng Long nổi giận”, có thể đem đến cho chúng ta


4

cái nhìn mới về sự phát triển thể loại tiểu thuyết lịch sử đồng thời thấy được
những đóng góp có giá trị về mặt thể loại của tác phẩm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Thế giới nhân vật, và những biểu hiện của thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết lịch sử “Thăng Long nổi giận” của Hoàng Quốc Hải.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết lịch sử “Thăng Long nổi giận” của nhà văn Hoàng Quốc Hải
(Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội 2011).
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử dụng trong đề tài:
- Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu bối cảnh xã hợi và văn hóa mà trong tác

phẩm đã đề cập cùng các tài liệu lịch sử đáng tin cậy, từ đó đối chiếu để tìm ra
được những điều xảy ra trong quá khứ mà nhà văn tái tạo trong tác phẩm.
- Phương pháp loại hình, phương pháp thống kê được chúng tôi vận dụng để
tổng hợp khái quát quá trình hình thành với những thành tựu nổi bật của tiểu
thuyết lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được vận dụng nhằm lý giải, chứng
minh sự đa dạng của các loại hình nhân vật. Qua đó khái quát đặc điểm của
thế giới nhân vật.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu để thấy được phong cách riêng của nhà văn
Hoàng Quốc Hải với các cây bút khác, đồng thời trong quá trình nghiên cứu có
tiến hành so sánh đối chiếu “Thăng Long nổi giận” với một số tác phẩm khác ở
từng vấn đề có liên quan để thấy được những nét tương đồng và dị biệt.


5

5. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nợi dung của khóa luận chia thành ba
chương:
Chương 1. Tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
Chương 2. Sự đa dạng của thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử
“Thăng Long nổi giận”
Chương 3. Một số phương thức thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết lịch
sử “Thăng Long nổi giận”


6

NỘI DUNG
Chương 1.

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
CỦA HOÀNG QUỐC HẢI
1.1. Khái quát về thể loại tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử
1.1.1. Tiểu thuyết – tiểu thuyết lịch sử
* Đặc trưng thể loại tiểu thuyết
Thứ nhất, tiểu thuyết miêu tả cuộc sống “hiện tại” không ngừng biến
đổi, sinh thành trên cơ sở kinh nghiệm của các nhân vật. Trong tiểu thuyết, sự
xóa bỏ khoảng cách giữa người kể và nhân vật trong cảm nhận và miêu tả con
người hiện tại cho phép nhà văn dùng kinh nghiệm cá nhân của mình để lý
giải nhân vật, nhìn ngắm nhân vật một cách gần gũi, suồng sã.
Nét tiêu biểu thứ hai của tiểu thuyết nằm ở chất văn xi. Tiểu thút,
hấp thụ vào bản thân mình mọi ́u tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời, bao
gồm cả bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Chất văn xuôi đã mở ra một vùng “tiếp
xúc tối đa” với thời hiện tại đang sinh thành làm cho tiểu thuyết không bị giới
hạn nào trong nội dung phản ánh.
Thứ ba, nhân vật trong tiểu thuyết là những con người “nếm trải”, tư
duy, chịu khổ đau, dằn vặt của cuộc đời, khác với nhân vật của sử thi, kịch,
nhân vật truyện trung cổ là kiểu nhân vật hành động. Tiểu thuyết miêu tả nhân
vật như con người đang biến đổi trong hoàn cảnh, con người trưởng thành do
cuộc đời dạy bảo.
Thứ tư, ngoài hệ thống sự kiến biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu
thuyết miêu tả suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ
các diễn biến tình cảm, trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết
về quan hệ giữa người và người, về đồ vật và môi trường, và nói chung về
toàn bợ tồn tại của con người …


7

Thứ năm, tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội

dung trần thuật. Tiểu thuyết hướng về miêu tả hiện thực như cái hiện tại
đương thời của người trần thuật, cho phép người trần thuật tiếp xúc, nhìn
nhận các nhân vật mợt cách gần gũi như những người bình thường, thường
tình, có thể hiểu họ bằng kinh nghiệm. Chính đặc điểm này đã làm cho tiểu
thuyết trở thành một thể loại dân chủ cho phép người trần thuật có thái đợ
thân mật, gần gũi đối với nhân vật của mình.
Từ những đặc trưng ấy, chúng tơi xin đưa ra cách hiểu về tiểu thuyết
như sau: Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực
đời sống ở mọi giới hạn về khơng gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phả n
ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội,
miêu tả các điều kiện sinh hoạt xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai
cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng.
* Mợt số khái niệm về tiểu thuyết lịch sử
Là một thể loại của tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử xuất hiện khá sớm,
song cho đến nay vẫn chưa có mợt khái niệm nào được các nhà nghiên cứu
thống nhất khi bàn về thể loại này. Ở đây, chúng tôi xin đưa ra một số khái
niệm tiêu biểu để phục vụ cho đề tài của luận văn.
Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi, chủ biên) đưa ra quan niệm về tiểu thuyết lịch sử như sau: “Các tác phẩm
viết về đề tài lịch sử này có chứa đựng các nhân vật và các chi tiết hư cấu, tuy
nhiên nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng tạo trên các sử liệu xác
thực trong lịch sử, tơn trọng lời ăn tiếng nói, trang phục, phong tục, tập quán
phù hợp với giai đoạn lịch sử ấy. Tác phẩm văn học lịch sử thường mượn
chuyện xưa nói chuyện đời nay, hấp thu những bài học của quá khứ, bày tỏ sự
đồng cảm với những con người và thời đại đã qua, song khơng vì thế mà hiện
đại hóa người xưa phá vỡ tính chân thực lịch sử của thể loại này” [8; tr.30].


8


Đây có thể xem là mợt định nghĩa “cổ điển” về tiểu thuyết lịch sử. Tuy nhiên
cùng với thời gian tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng có
những cách tân, phát triển mới và dĩ nhiên trong định nghĩa cũng cần có
những yếu tố bổ sung. Từ điển văn học, bộ mới (Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu
Tá, chủ biên) đưa ra khái niệm tiểu thuyết lịch sử có tính toàn diện hơn: “Tác
phẩm tự sự hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nợi dung chính. Lịch sử trong ý nghĩa
khái quát, là quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội. Các khoa học xã hội
(cũng được gọi là khoa học lịch sử) đều nghiên cứu quá khứ của loài người
trong tính cụ thể và đa dạng của nó. Tuy vậy, những tiêu điểm chú ý của các
sử gia cũng như các nhà văn quan tâm đến đề tài lịch sử, thường đều là sự
hình thành, hưng thịnh, diệt vong của các nhà nước, những biến cố lớn trong
đời sống xã hội của cộng đồng quốc gia, trong quan hệ giữa các quốc gia như
chiến tranh, cách mạng… cuộc sống và sự nghiệp của các nhân vật có ảnh
hưởng đến tiến trình lịch sử” [3, tr.1725]. Như vậy chúng ta có thể thấy đề tài
lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử là những vấn đề trọng đại của quốc gia dân
tộc, liên quan đến sự hình thành, hưng thịnh, diệt vong của quốc gia dân tợc
ấy. Các nhà tiểu thút lịch sử có qùn lựa chọn một giai đoạn lịch sử của
một quốc gia dân tộc làm tiêu điểm để phản ánh. Các nhân vật lịch sử trong
giai đoạn ấy có thể được nhà văn hư cấu, tưởng tượng tuy nhiên vẫn phải dựa
trên những sử liệu xác thực để tơn trọng tính chân thực của thể loại.
Hoàng Quốc Hải trong bài trả lời phỏng vấn của tiến sĩ Nguyễn Thị
Minh Thái đã đưa ra quan niệm về tiểu thuyết lịch sử như sau: “Tiểu thuyết
lịch sử trước hết phải giúp người đọc nhân biết được gương mặt lịch sử của
thời đại mà tác giả phản ánh, nhưng những gì mà tác phẩm đó tái tạo đều
khơng được trái với lịch sử. Có thể có những quan điểm của tác giả văn học
đợc lập, thậm chí trái ngược với quan điểm của các sử gia, song nó phải đạt
tới tính chân thực lịch sử mà người đọc đương đại chấp nhận”.[20, tr.69]


9


Đồng quan điểm với Hoàng Quốc Hải, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị
Tuyết Minh đưa ra sự so sánh rất đáng chú ý giữa tiểu thuyết và lịch sử: “Tiểu
thuyết vốn đề cao tính chất hư cấu sáng tạo chủ quan, cịn lịch sử lại địi hỏi
sự chính xác, khách quan khi lưu giữ những tài liệu liên quan đến số phận của
mợt dân tợc” [14, tr.56].
Trong khi đó, G.Lukacs nhà tiểu thuyết lịc h sử người Hunggary đã
khẳng định: “Tiểu thút lịch sử về ngun tắc khơng khác gì tiểu thuyết
thông thường nhưng phải thể hiện sự vĩ đại của con người trong lịch sử với
những khả năng của tiểu thút nói chung” [22, tr.29]. Nhận định này địi hỏi
tiểu thuyết phải thể hiện được tầm vóc của con người lịch sử, đồng thời phải
giữ được những đặc trưng của tiểu thút qua khả năng phản ánh c̣c sống
của nó.
Từ các khái niệm của các nhà nghiên cứu chúng tôi xin rút ra ý kiến cơ
bản để phục vụ cho đề tài này: tiểu thuyết lịch sử là tiểu thuyết lấy sự kiện,
nhân vật lịch sử là đề tài, tác giả có thể hư cấu một số nhân vật, tình tiết phụ,
nhưng chủ yếu phải tôn trọng sự thật lịch sử.
1.1.2. Sự phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ truyền thống đến
hiện đại
Trên chặng đường phát triển của nền văn học dân tộc không thể phủ
nhận những đóng góp tích cực của thể loại tiểu thút trong đó có tiểu thuyết
lịch sử. Được manh nha từ các cuốn gia phả lịch sử viết bằng chữ Hán vào
cuối thế kỷ XVII, trải qua nhiều thăng trầm cho đến nay tiểu thuyết lịch sử
khẳng định được tầm vóc, vị trí của mình trên thi đàn văn học với những
thành tựu đáng ghi nhận.
Trong giai đoạn các tác phẩm văn học Việt Nam còn được ghi chép
bằng chữ Hán (khoảng thế kỷ XVIII), tiểu thuyết lịch sử đã xuất hiện với các
tác phẩm: Nam triều cơng nghiệp diễn chí, Thiên Nam liệt truyện, Hoàng Lê



10

nhất thống chí, Hồng Việt long hưng chí, Việt Lam tiểu sử, Trùng Quang
tâm sử. Mặc dù vẫn chịu ảnh hưởng từ tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc,
song các tác phẩm giai đoạn này là bước đi đầu tiên, đặt nền móng cho thể
loại tiểu thuyết lịch sử ở nước ta. Đặc biệt, tác phẩm Hồng Lê nhất thống chí
được đánh giá là đỉnh cao của thể loại tiểu thuyết lịch sử Việt Nam viết bằng
chữ Hán. Các tác giả của cuốn tiểu thuyết đã dụng công lựa chọn, sắp xếp,
nhào nặn và xâu chuỗi lại các sự kiện lịch sử để đem đến cho người đọc mợt
cái nhìn mới, bao gồm cả thái độ với lịch sử. Đây là một cách viết rất gần với
cách viết của các nhà văn hiện đại. Người viết đã vượt qua cách viết kiểu
“thuật nhi bất tác” truyền thống để hướng đến cách viết hiện đại hơn, kết hợp
giữa miêu tả sự kiện theo logic thông thường với việc thuật lại sự kiện bằng
hồi tưởng. Cách viết này khiến các sự kiện hiện lên khơng theo trật tự tún
tính trước sau mà theo một logic khác hẳn. Các nhân vật xuất hiện trong tác
phẩm đã mang dáng dấp của nhân vật văn học chứ khơng theo kiểu nhân vật
lịch sử. Cá tính và tính cách của các nhân vật được nhà văn xây dựng thành
công khiến nhiều nhân vật đã mang dáng dấp của hình tượng văn học. Với
những đợt phá bất ngờ và táo bạo của các tác giả, Hoàng Lê nhất thống chí
được đánh giá đã vượt qua cả các tác phẩm ra đời sau đó. Những tác phẩm ra
đời sau như: Hồng Việt long hưng chí hay Việt Lam tiểu sử vẫn nghiêng về
mô tả sự kiện. Người viết lại tiếp tục đưa tác phẩm của mình quay về với kiểu
ghi chép biên niên. Hơn thế nữa, các tác giả còn cố gắng uốn nắn lại lịch sử
theo cách nghĩ chủ quan, dùng lịch sử để biện minh cho thực tại khiến tác
phẩm mất hẳn tính chân thực nghệ thuật.
Tiếp nối tiểu thuyết chữ Hán, tiểu thuyết lịch sử viết bằng chữ Quốc
ngữ đã kế thừa thành công những thành tựu trước đó. Quá trình hiện đại hoá
nền văn học nửa đầu thế kỷ XX cũng kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của tiểu
thuyết lịch sử với mong muốn dùng quá khứ vẻ vang của cha ông để nuôi



11

dưỡng, khơi dậy lịng tự hào dân tợc: Trùng Quang tâm sử (Phan Bợi Châu),
Đêm hội Long Trì, Bà Chúa Chè, An Tư (Nguyễn Huy Tưởng), Tiếng sấm
đêm đông, Đinh Tiên Hồng, Vua Bố Cái (Nguyễn Tử Siêu), Phan Đình
Phùng (Đào Trinh Nhất)… Về cơ bản, người viết văn trung thành tụt đối
với chính sử, chưa có ai đặt vấn đề xem lại những nhân vật lịch sử như Đinh
Tiên Hoàng, Phan Đình Phùng… hay nghi ngờ mợt sự kiện đã được chính sử
ghi chép. Lịch sử là cái mặc định, mang gương mặt “khách quan tại ngoại”
duy nhất, không thể nghi ngờ. Sức hấp dẫn của thể loại chủ ́u do nó thắp
sáng niềm tự hào dân tợc, xua bớt mặc cảm nô lệ ngoại bang. Tuyến nhân vật
hư cấu đã xuất hiện, dù chỉ là tuyến phụ nhưng cũng đã góp phần làm cho
gương mặt lịch sử sinh đợng hơn. Điều đó cho thấy tiểu thút lịch sử đang
trên đà bước vào quá trình hiện đại hóa góp mợt tiếng nói khơng nhỏ cho quá
trình hiện đại hóa của văn học dân tộc.
Tuy nhiên suốt 45 năm đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết lịch sử tuy đã trở
thành mợt thể loại thu hút nhiều người viết và có đông công chúng quan tâm
nhưng đa phần vẫn dùng văn làm phương tiện truyền tải sử. Chặng đường từ
1945 đến 1975, quan niệm về thể loại hầu như không thay đổi. Quận He khởi
nghĩa, Bóng nước Hồ Gươm, Tổ quốc kêu gọi… đều đề cao những tấm gương
yêu nước, nghĩa khí, tinh thần bất khuất trước kẻ thù. Có cảm giác nhà văn
luôn bị ám ảnh bởi trách nhiệm của nhà sử học khi cầm bút. Họ không một
lần tỏ ra hoài nghi cái “lịch sử tại ngoại” để thử thay đổi cách nhìn, cách nghĩ
về những điều mặc định. Lịch sử giống như ngôi đền thiêng bất khả xâm
phạm mà họ chỉ có thể chiêm ngưỡng và ca ngợi với thái đợ thành kính.
Tiểu thút lịch sử từ sau 1975 không xa rời truyền thống, nhưng ý
thức đổi mới, làm khác với truyền thống đã và đang trở thành khát vọng, nhu
cầu mạnh mẽ của hầu hết người viết. Tuy vẫn có những thiếu sót, mợt số cái
nhìn hoài nghi nhưng không thể phủ nhận được rằng những nổ lực đổi mới



12

tiểu thuyết trong thời gian này đã tạo ra không ít tác phẩm có giá trị. Bên cạnh
sự đơng đúc của đội ngũ tác giả, sự dồi dào về số lượng tác phẩm là sự đa
dạng về bút pháp, sự phong phú về đề tài và chủ đề. Có thể thấy rằng quá
trình đổi mới tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 diễn ra một cách toàn
diện, sâu rộng. Những tác phẩm trong thời gian này đã dần đi theo một quan
niệm mới, coi lịch sử là chất liệu vay mượn của văn học, nhà văn có quyền
nhào nặn lại, biến nó thành phương tiện cho những mục đích nghệ thuật khác.
Cơng c̣c đổi mới năm 1986 có thể được coi là mợt thời điểm đánh
dấu sự chuyển mình của văn học dân tợc nói chung và thể loại tiểu thuyết lịch
sử nói riêng. Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này đạt được nhiều thành tựu cả về
số lượng và chất lượng. Từ năm 1986 đến nay, tiểu thuyết lịch sử đã đóng góp
cho văn học dân tợc trên 150 tác phẩm, khơng ít tác phẩm đã đạt giải thưởng
cao của hội Nhà văn Việt Nam và để lại nhiều dư âm trong lịng đợc giả. Điều
đó cho thấy bước nhảy vọt của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời đổi mới.
Những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lịng đợc giả phải kể đến như:
Người đẹp ngậm oan, Tuyên Phi họ Đặng (Ngô Văn Phú), Bão táp cung đình,
Huyền Trân cơng chúa, Thăng Long nổi giận, Vương triều sụp đổ…(Hoàng
Quốc Hải); Đàn đáy (Trần Thu Hằng); Hồ Qúy Ly, Mẫu thượng ngàn
(Nguyễn Xuân Khánh); Giàn Thiêu (Võ Thị Hảo); Sông Côn mùa lũ (Nguyễn
Mộng Giác); Đất trời, Gió lửa (Nam Dao)… Gần đây nhất, tác phẩm Hội thề
của nhà văn Nguyễn Quang Thân đã đạt giải A trong cuộc thi viết tiểu thuyết
(2006 – 2009) của Hợi Nhà văn Việt Nam. Điều đó cho thấy tiểu thút lịch
sử Việt Nam đã có những “trái chín” và dần đạt được chỗ đứng vững chãi
trong nền văn học dân tợc.
Như vậy chúng ta có thể thấy tiểu thút lịch sử có sự phát triển liên
tục qua các giai đoạn văn học và ở mỗi thời kì đều có những thành tựu đáng

ghi nhận. Những thành tựu của tiểu thút lịch sử cũng là mợt tiếng nói đóng


13

góp vào sự phát triển của văn xi nước nhà. Trong những năm gần đây, tiểu
thuyết lịch sử phát triển trở lại thể hiện những khám phá và tìm tịi mới.
Khơng ít tác phẩm đã đạt những giải cao và được sự chú ý đón nhận của đọc
giả cũng như các nhà nghiên cứu.
1.1.3. Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử
Để làm được cái cơng việc đầy thách thức, khó khăn nhưng đầy tự hào
là “phục sinh quá khứ”, nhà tiểu thuyết lịch sử trao sứ mệnh cho nhân vật, mà
chủ yếu là hình tượng con người trong tác phẩm.
Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử thường tồn tại dưới hai dạng: những
nhân vật có thật trong lịch sử và nhân vật hư cấu. Kiểu nhân vật thứ nhất là tất
yếu đối với một tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử, kiểu nhân vật thứ hai là tất
yếu đối với tiểu thuyết. Tuy nhiên, ngay cả đối với kiểu nhân vật có thật, nhà
văn vẫn phải sử dụng hư cấu tưởng tượng để cấp cho nhân vật một tâm hồn,
mợt tính cách, mợt số phận, mợt gương mặt đời. Bởi nhà tiểu thuyết không
phải là người viết lại lịch sử. Anh ta không phải là người bê nguyên xi hình
ảnh những anh hùng dân tợc, những danh nhân lịch sử vào trong tác phẩm.
Nhà tiểu thuyết chỉ mượn lịch sử, viết về các nhân vật lịch sử để gửi gắm bức
thơng điệp của mình, có thể là mợt lời nhắn gửi, dự báo, bày tỏ thái độ với
quá khứ, hiện tại hoặc tương lai của con người. Đặc biệt, nhà tiểu thuyết có
quyền và bằng tài năng thổi hồn vào lịch sử, thổi hồn vào nhân vật để sáng tạo
“lịch sử thứ hai” theo ý đồ nghệ thuật của mình. Ở góc đợ này, nhân vật lịch
sử hiện lên vừa mang tính chân thực của lịch sử vừa mang tính chủ quan của
người nghệ sĩ. Bằng việc huy đợng tối đa năng lực tưởng tượng, nhà văn xóa
mờ lớp bụi của thời gian để nhân vật hiện lên sinh đợng với những hành đợng,
ngơn ngữ, và thậm chí cả những suy nghĩ, tâm trạng cá nhân. Thơng qua hình

tượng nhân vật, nhà văn đưa ra lý giải của riêng mình về những điều cịn nghi
vấn, và cả những điều cha ông nhắn gửi tới hậu thế.


14

Xây dựng nhân vật tiểu thuyết lịch sử đòi hỏi nhà văn phải tôn trọng
đặc trưng của thể loại. Tiểu thuyết lịch sử cho phép nhà tiểu thuyết có quyền
hư cấu nhưng cũng địi hỏi họ tơn trọng tính chân thực của lịch sử. Và như đã
nói ở trên, trong tiểu thuyết lịch sử chúng ta thường thấy có hai tún nhân
vật chính: những nhân vật có thực trong lịch sử và nhân vật hư cấu. Cho dù
đặt nhân vật vào tuyến nhân vật nào, nhà văn vẫn phải sử dụng hư cấu tưởng
tượng để cấp cho nhân vật một tâm hồn, mợt tính cách, mợt số phận bởi điều
quan trọng nhất, trước khi là nhân vật của tiểu thuyết lịch sử, đó phải là nhân
vật của tiểu thuyết.
1.2. Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
1.2.1. Tiểu thuyết lịch sử Hồng Quốc Hải trong dịng chảy tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam đương đại.
Văn học Việt Nam đương đại đã và đang chứng kiến sự lên ngôi của
thể loại tiểu thuyết lịch sử. Cùng với sự xuất hiện của những bợ tiểu thút
lịch sử có tiếng vang, số lượng tác giả viết tiểu thuyết lịch sử cũng không
ngừng tăng thêm, trong đó có rất nhiều cây bút xuất sắc với quan điểm cách
nhìn mới làm cho thể loại này trở nên phong phú hơn bao giờ hết. Nhìn mợt
cách tổng thể, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại có ba xu hướng chủ
yếu, đó là tiểu thuyết lịch sử chương hồi khách quan, tiểu thuyết lịch sử giáo
huấn và tiểu thuyết lịch sử luận giải.
Tiểu thuyết lịch sử chương hồi nước ta ban đầu chịu ảnh hưởng từ tiểu
thuyết chương hồi Trung Quốc. Đến nay một số nhà văn đương đại vẫn viết
tiểu thuyết theo kiểu này. Tất nhiên hiện nay tiểu thuyết dạng này không giữ
nguyên kiểu viết, cũng như cấu trúc của tiểu thuyết chương hồi trước đó mà

đã được các nhà văn thay đổi ít nhiều. Chẳng hạn các tác giả không đặt ra các
“hồi” mà gọi là “chương”, cũng không sử dụng các câu mở đầu đối ngẫu và
các mẫu lời dẫn và lời kết mở như tiểu thuyết chương hồi cổ điển. Tuy vậy


15

chúng ta vẫn nhận ra đặc chưng của tiểu thuyết chương hồi qua lối kể chuyện
và cách dẫn dắt, sắp xếp các sự việc, hiện tượng. Nhà văn tiêu biểu cho xu
hướng này là Ngô Văn Phú, tác giả của những cuốn tiểu thuyết lịch sử như:
Ngôi vua và những chuyện tình, Người đẹp ngậm oan, Tuyên phi họ Đặng,
Gươm thần vạn kiếp… Trong các tác phẩm của Ngô Văn Phú, người đọc dễ
nhận ra lối kể chuyện mang phong cách tiểu thuyết chương hồi cổ điển. Các
sự việc và hiện tượng lịch sử được tác giả tuần tự tái hiện mợt cách khách
quan, rất ít sự kiện có sự can thiệp của người viết. Một tác giả khác tuân thủ
khá nghiêm ngặt mơ hình tiểu thút chương hồi là nhà tiểu thút Lê Đình
Danh. Bợ tiểu thút Tây Sơn bi hùng truyện của ông mặc dù cũng chỉ đặt ra
các “chương” chứ không gọi là “hồi” nhưng ở đầu mỗi chương, tác giả vẫn
đặt hai câu văn đối ngẫu như tiểu thuyết chương hồi cổ điển. Vẫn sử dụng lối
chuyển đoạn của tiểu thuyết chương hổi, tuy nhiên thay vì dùng các câu quen
tḥc như “lại nói…”, “mợt hơm…” để chuyển “hồi”, tác giả đã thay đổi
bằng những câu khác cho có sắc thái riêng. Chẳng hạn, tác giả thường sử
dụng cụm từ mào đầu: “nói về…”, “mợt hơm…” để chuyển tiếp sang sự kiện
khác. Tìm hiểu các tác phẩm theo xu hướng này có thể thấy, hư cấu không
phải là trọng tâm của người viết. Các tác giả theo xu hướng này cố gắng tái
hiện tuần tự các sự kiện lịch sử một cách khách quan. Các sự kiện và nhân vật
vì vậy sẽ được tác giả để cho tự thể hiện tinh thần, ý nghĩa lịch sử qua cách
miêu tả, bối cảnh và diễn biến tuyến tính của các sự kiện lịch sử. Toàn bộ
cuốn tiểu thuyết hiện lên qua giọng văn kể chuyện ở ngôi thứ ba và những lời
đối thoại giữa các nhân vật. Điều này có điểm mạnh là khiến cho các sự kiện và

hành động của nhân vật hiện lên rõ nét và sống đợng qua trí tưởng tượng của
bạn đọc. Tuy nhiên, những cuốn tiểu thuyết theo xu hướng này dễ gây nhàm
chán cho bạn đọc bởi thiếu không gian cho bạn đọc tham gia chiêm nghiệm và
luận bàn về con người và các vấn đề lịch sử được đặt ra trong tác phẩm.


16

Trong xu hướng tiểu thuyết lịch sử luận giải, các nhà văn thường cố
gắng lựa chọn các giai đoạn, sự kiện, nhân vật “có vấn đề” trong lịch sử để
khai thác và luận giải. Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Nam
Dao… là các đại diện tiêu biểu của xu hướng này.
Ở tiểu thuyết Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Quý Ly là nhân
vật “có vấn đề” trong lịch sử dân tộc ta. Ngay cả với giới sử học hiện vẫn có
những ý kiến trái chiều về nhân vật này. Nguyễn Xuân Khánh lựa chọn nhân
vật này để luận giải hàng loạt các vấn đề của thế sự như: vấn đề ý nghĩa thời
thế của con người lịch sử; vấn đề đổi mới hay bảo thủ để phát triển; vấn đề
đạo đức, tri thức của kẻ sĩ… Để phù hợp với chủ trương luận giải lịch sử
Nguyễn Xuân Khánh đã thực hiện việc triển khai tác phẩm bằng thời gian đa
chiều, hiện tại đan xen quá khứ. Bằng cách đó, vấn đề cần luận giải được nhìn
nhận từ nhiều góc đợ và cung bậc khác nhau. Mợt điểm đáng chú ý nữa là về
nhân vật kể chuyện. Lần đầu tiên chúng ta thấy xuất hiện người kể chuyện ở
ngôi thứ nhất trong tiểu thuyết lịch sử. Tác giả nhập vào nhân vật Hồ Nguyên
Trừng và xưng ở ngôi thứ nhất - xưng “tơi”. Việc nhập vai này có tác dụng
giúp tác giả nói được những điều cần nói mà vẫn tự nhiên, không gượng ép.
Nếu như Nguyễn Xuân Khánh lựa chọn Hồ Quý Ly làm đối tượng để luận
giải thì Nguyễn Quang Thân lại lựa chọn Nguyễn Trãi để viết Hội thề. Vấn đề
chính mà Nguyễn Quang Thân muốn đưa ra để luận giải cùng bạn đọc chính
là mối quan hệ xung đột giữa quyền lực võ biền với trí thức mà đại diện là
Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi được đặt trong vô vàn các mối quan hệ để từ đó tài

năng và trí ṭ của ơng tỏa sáng. Trong các mối quan hệ đó mâu thuẫn giữa
Nguyễn Trãi với chủ tướng Lê Lợi và các võ tướng Lam Sơn được đẩy lên
hàng chính yếu. Tiểu thuyết Hội thề được Nguyễn Quang Thân chọn cách
dựng truyện giống như một cuốn phim với các chương mang chủ đề khác
nhau, các hành động nhân vật đan xen làm nổi bật chủ đề của chương.


17

Nằm trong dòng chảy của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, tiểu
thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải nổi bật lên như là đại diện tiêu biểu cho
xu hướng tiểu thuyết thuyết lịch sử giáo huấn. Có thể thấy trong bộ sáu tiểu
thuyết Bão táp triều Trần và bộ tứ tiểu thuyết Tám triều vua Lý, Hoàng Quốc
Hải dành khá nhiều đoạn để bợc bạch những lời có tính giáo huấn về nhân
tình, thế thái, về nhân cách, về đạo làm người, đạo nhân nghĩa và về vai trị
lịch sử của dân tợc. Ơng đặt vào miệng những nhân vật lịch sử rất nhiều lời
giáo huấn như thể ông đang cố gắng gửi gắm chính những tâm tư, suy ngẫm
của mình. Trong Thăng Long nổi giận, trong khi cố gắng xây dựng mợt hình
ảnh Thiết chế quốc cơng Trần Quốc Tuấn kiệt hiệt văn võ toàn tài, Hoàng
Quốc Hải đã để cho nhân vật nói lên những điều tâm huyết. Đó là những lời
dạy bảo, khuyên nhủ, thậm chí đó cịn là lời nhún nhường đầy vẻ trầm mặc:
“Người làm tướng, không phải như thiên lôi chỉ đâu đánh đấy. Người làm
tướng –Đại Vương nhấn thêm – không phải chỉ biết đánh, mà phải biết thắng
một cách nhàn hạ, không nhọc sức quân, không hao tổn máu xương sĩ tốt”. [6,
tr.13], hay “… Quan hệ giữa hai nước lúc này mỏng manh như một sợi dây
tơ. Xin thượng hoàng cùng quan gia và thái sư liệu bề khu xử cho tế vi. Phải
nén lịng. Dù có phải dùng tới mạt kế như Hàn Tín, Câu Tiễn để tránh quốc
gia khỏi rơi vào nạn binh hỏa vẫn còn hơn. Can qua lúc này là bất lợi cho ta
nhiều lắm” [6, tr.47]. Tương tự khi xây dựng hình ảnh mợt vua Trần Nhân
Tông như là một đấng minh quân mẫu mực trong Huyền Trần công chúa ,

ông đặt vào miệng nhà vua những lời giáo huấn đầy suy tư, trăn trở: “Ta
không chấp nhận việc tiến về phương Nam! Ngươi thử nghĩ xem, nếu bây giờ
nhà Nguyên cũng đặt chuyện tiến xuống phía Nam, tiến vào Đại Việt thì sao?
Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân. Người nhân nghĩa không thể vô cớ cất quân đi
xâm lấn bờ cõi người khác” [7, tr150], hay “… Các ngươi phải nhớ điều ta
dặn: “Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ


18

khác…”. [7, tr.167]. Những đoạn giáo huấn như vậy xuất hiện rất nhiều trong
tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải.
Tất nhiên, với chủ trương giáo huấn, tiểu thuyết lịch sử của Hoàng
Quốc Hải ít nhiều thiên về lý trí, chính thế nên những băn khoăn day dứt
trong tâm lý nhân vật đơi khi bị đơn giản hóa. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc tiểu thuyết lịch sử giáo huấn vẫn chưa có sự bứt phá về nghệ thuật. Dẫu
vậy, chúng ta khơng thể phủ nhận những đóng góp to lớn của nhà văn họ
Hoàng cho sự phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại. Bởi đơn
giản, tiểu thuyết lịch sử của ông đã tái hiện những giai đoạn lịch sử dài của
dân tộc, truyền đạt được cái “tinh thần của lịch sử” như lời của nhà thơ Hữu
Thỉnh, chủ tịch hội nhà văn Việt Nam từng phát biểu. Có thể nói, tiểu thuyết
lịch sử của Hoàng Quốc Hải đến với bạn đọc như những bộ phim lịch sử hấp
dẫn cho đại chúng nhân dân. Đó chính là thành công của một nhà văn đầy tâm
huyết với lịch sử dân tộc.
1.2.2. Một số đặc điểm về nhân vật và sự kiện trong tiểu thuyết lịch sử của
Hoàng Quốc Hải
Tiểu thuyết lịch sử là tiểu thuyết lấy sự kiện, nhân vật lịch sử làm đề
tài, điều này đồng nghĩa với việc nhân vật và sự kiện lịch sử ln đóng vai trị
nịng cốt. Xuất phát từ quan điểm tơn trọng sự thật lịch sử, tiểu thuyết lịch sử
của Hoàng Quốc Hải mơ tả sự kiện theo trình tự thời gian tún tính gắn liền

với mợt thế giới nhân vật lịch sử. Đây cũng là chính đặc điểm nổi bật về nhân
vật và sự kiện trong các tác phẩm của nhà văn họ Hoàng.
Với một tiểu thuyết lịch sử nhân vật thường tồn tại dưới hai dạng:
những nhân vật có thật trong lịch sử và nhân vật hư cấu. Đối với tuyến nhân
vật lịch sử Hoàng Quốc Hải xây dựng theo xu hướng tái hiện khá chính xác
những sự kiện lịch sử trong mối quan hệ với nhân vật lịch sử. Có nghĩa là
nhân vật trung thành với sử liệu, tái hiện nhân vật lịch sử bằng những gì mà


19

người Việt đã biết về họ. Hoàng Quốc Hải giữ lại hình ảnh quen tḥc của
các nhân vật lịch sử trong tâm thức người Việt. Chẳng hạn Trần Quốc Toản là
mợt vị tướng trẻ u nước, có chí khí cao, có tấm lịng đầy nhiệt hút. Hình
ảnh Trần Quốc Toản bóp nát quả cam khi khơng được vào tham dự hợi nghị
Bình Than nổi tiếng trong lịch sử cả dân gian đều biết. Còn Trần Quốc Tuấn
vẫn được tái hiện lại với đầy đủ những phẩm chất, những chiến công lẫy lừng
của người anh hùng dân tộc. Trong khi Trần Ích Tắc vẫn được biết đến là con
người tài hoa nhưng mang vết nhơ lịch sử. Yết Kiêu với tài bơi lặn, Trần
Quang Khải văn võ song toàn… Tuy nhiên, Hoàng Quốc Hải không phải là
người kể chuyện danh nhân lịch sử mà là nhà viết tiểu thuyết lịch sử nên nhân
vật lịch sử vẫn được ông hư cấu sáng tạo rất nhiều.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải từng quan niệm: “ Hư cấu là thủ pháp nghệ
thuật của tiểu thuyết nói chung; tiểu thuyết lịch sử phải càng hư cấu. Phải hư
cấu đến mức độ chân thực” [19, tr.68]. Cũng bởi vậy, nhân vật trong tiểu
thuyết lịch sử của ông là mợt thế giới nhân vật có thực trong lịch sử nhưng
được hư cấu một cách tinh tế. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra để cùng vui,
cùng buồn, cùng tự hào và đau khổ với những số phận của các nhân vật lịch
sử quen thuộc: Trần Cảnh, Lý Chiêu Hoàng, Trần Thủ Độ, Trần Nhân Trông,
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải,

Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản, cơng chúa
Hùn Trân với mối tình xa xứ, nỗi khắc khoải của tri thức Chu Văn An,
niềm âu lo của quan đại thần Trần Nguyên Đán,… tất cả họ đều là những
nhân vật có thực làm nên diện mạo chính sự trong sử sách triều đại nhà Trần
nhưng lại được miêu tả dưới góc đợ văn chương với những suy nghĩ, hành
động và cách ứng xử như những cá thể sinh đợng thậm chí phức tạp, phản ảnh
được tinh thần thời đại.


20

G.Lukacs từng nói: “Các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử phải sinh
đợng hơn các nhân vật lịch sử, vì các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử được
trao cho sự sống, cịn các nhân vật lịch sử thì đang sống” [22, tr.131]. Tiểu
thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải đã làm được điều đó. Nhà văn đã phối hợp
khá nhuần nhuyễn tính chính xác sử liệu và hư cấu tưởng tượng. Cũng như
Alếchxây Tônxtôi, Hoàng Quốc Hải cho rằng hư cấu phải hợp lý chứ không
thể bịa đặt vô ngun tắc. Hư cấu nhưng khơng vo trịn, bóp méo lịch sử, đó
là quan điểm thẩm mỹ xuyên suốt toàn bợ tác phẩm của Hoàng Quốc Hải. Vì
thế, những ấn tượng về các nhân vật lịch sử tiêu biểu trong tư tưởng tình cảm
của người đọc khơng bị phá vỡ, gây ra cơn sốc tâm lý, kiểu như là “giải thiêng
thần tượng”, mà ngược lại, càng củng cố thêm sự ngưỡng mợ, lịng biết ơn với
các bậc tiền nhân. Nói cách khác, cái gọi là hư cấu trong thi pháp tiểu thuyết
lịch sử của Hoàng Quốc Hải là tạo ra một trạng thái tâm hồn dưới dạng thức
suy tư của những nhân vật lịch sử từng được định hình trong tâm thức dân tộc.
Tiểu thuyết An Tư của Nguyễn Huy Tưởng in lần đầu trên tạp chí Tri
Tân năm 1944 là tác phẩm hấp dẫn. Song hay đến mấy vẫn khó tránh khỏi gót
chân Asin khi nhà văn tài ba đã thêm thắt sự kiện: “Thoát Hoan đòi cống An
Tư, nếu không sẽ giết 10 vạn quân đang bị bắt giữ”. Có thể tin được khơng
khi qn đợi của mợt vương triều hiển hách như triều đại Đông A, ở thời vận

đi lên lại bị bắt nhiều đến thế?
Với An Tư, Hoàng Quốc Hải vẫn trung thành với những sự kiện dính
dáng đến nàng mà Đại Việt sử ký toàn thư đã đưa ra, mặt khác ông hư cấu
thêm Trần Ích Tắc, con người tài hoa vẽ bức tranh An Tư, vơ tình để rơi vào
tay sứ giả của Ngun – Mông là Sài Thung, để hắn dâng tranh cho Thoát
Hoan. Cho nên, Thốt Hoan địi phía Đại Việt phải cống nạp người đẹp. Vấn
đề này chưa rõ ràng, sử sách cịn để trống chưa ghi thì sự hư cấu của Hoàng
Quốc Hải chỉ là sự bù vào chỗ bỏ ngỏ, cho “có da có thịt” hấp dẫn hơn. Nó


21

khơng có hại gì mà có lý theo cách suy diễn thông thường. Việc ông hư cấu
Huyền Trân công chúa (trong Huyền Trân Công Chúa) học tiếng Chăm, học
ca múa trong thời gian mấy năm chờ đợi hôn lễ cũng vậy. Việc này gắn với
Trần Nhật Duật, người giỏi ngoại ngữ nhất nước ta sống tới tận hồi ấy là có
cớ, có thể chấp nhận. Hoàng Quốc Hải nghiên cứu kỹ những nơi cư trú của
người Chăm nước ta, tìm hiểu công phu lễ nhạc, phong tục của người Chăm,
các cống vật, các đồ trang sức của phụ nữ, tình hình vùng đất làm vật sính lễ,
cảnh sắc dịng sơng mà Huyền Trân đặt tên là sông Hương… khiến những
trang ông viết về Huyền Trân rất sống động.
Cũng có một số nhân vật được Hoàng Quốc Hải hư cấu hoàn toàn như
Yến Ly. Nhưng sự xuất hiện của Yến Ly lại là một sự bổ sung cần thiết cho
nhân vật có thật là An Tư, là cầu nối với nhân vật có thật nữa là Đỗ Vĩ, người
Đại Việt sang hoạt đợng tình báo ở hậu phương của địch. Trên cơ sở các sách
đã có sẵn (như ở c̣c kháng chiến chống Nguyên Mông thế kỷ XIII của Hà
Văn Tấn dẫn tư liệu trong nguyên sử - An Nam truyện nói về quân Nguyên
giao chiến với quân ta ở Khả Ly… bắt được hai viên tướng là Đỗ Vĩ và Đỗ
Hựu…, Hoặc sách An Nam cho biết: “quân Nguyên bắt được bọn gián điệp
Đỗ Vĩ”…) mà Hoàng Quốc Hải dựng lên những hoạt động của Đỗ Vĩ trên

nước Trung Hoa, giúp đỡ Yến Ly gặp lại gia đình, chi phối hoạt động của Sài
Thung ngay trong hang ổ của giặc, làm cho các sự kiện được nối tiếp, dễ chấp
nhận, tình tiết ly kỳ, quyến rũ người đọc hơn.
Ngoài đặc điểm về nhân vật, cách xây dựng sự kiện lịch sử theo trình tự
tút tính cũng là mợt đặc điểm nổi bật trong tiểu thuyết lịch sử của Hoàng
Quốc Hải. Trong cả hai bộ tiểu thuyết tâm huyết Bão táp triều Trần (gồm:
Bão Táp cung đình, Thăng Long nổi giận, Huyền Trân công chúa, Vương
triều sụp đổ), và Vương triều vua Lý (gồm: Thiền sư dựng nước, Con ngựa
nhà phật, Bình Bắc dẹp Nam, Con đường định mệnh). Hoàng Quốc Hải không


22

dùng lối viết biên niên ghi chép tất cả các sự kiện lịch sử một cách dàn trải mà
chỉ xoáy sâu vào những sự kiện quan trọng nhất làm nên diện mạo, linh hồn
của một triều đại.
Với tư cách là tiểu thuyết, Tám triều vua Lý và Bão táp triều Trần bao
quát cả một giai đoạn lịch sử dài 400 năm, tương ứng với khoảng thời gian từ
năm Kỷ Dậu (1009), Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế và kết thúc lúc Hồ Quý
Ly giết Thuận Tông và đoạt ngôi vua từ đứa cháu ngoại mới có 5 tuổi vào
năm Canh thìn (1400), lập ra nhà Hồ. Thời gian của hai bợ tiểu thút là
tún tính, phù hợp với các đặc trưng thi pháp của loại hình tự sự truyền
thống nhưng lại khơng lạnh lùng, vơ cảm như những dịng nhật lịch của các
sử gia quan phương, mà ở đây, nó được phát triển trên cái nền của những sự
kiện lịch sử có chọn lọc, những nhát cắt lịch sử, những thời điểm lịch sử có
nhiều vấn đề.
Chẳng hạn, trong Bão táp cung đình, tác giả tái hiện lại thời kỳ đầu tiên
của nhà Trần, thời kỳ chuyển giáo ngai vàng từ nhà Lý sang nhà Trần, sự kiện
lịch sử này gắn liền với vai trò quan trọng của thái sư Trần Thủ Độ.
Trong khi Thăng Long nổi giận, viết về cuộc xâm lược của đế quốc

Nguyên - Mông lần thứ 2 đối với nước ta. Đây là giai đoạn gay cấn nhất trong
toàn bộ lịch sử 175 năm của nhà Trần, và cũng là trong lịch sử Đại Việt…
Huyền Trân công chúa ca ngợi sự kiện định trong đường lối hịa bình
của thượng hoàng Trần Nhân Tơng, đồng thời ca ngợi Huyền Trân công chúa
như một nữ anh hùng dám hy sinh vì nước, gác tình riêng để hoàn thành việc
chung. Sự kiện trong cuốn Huyền Trần công chúa gắn với giai đoạn lịch sử:
kể từ sau khi Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con, rồi vào hẳn Yên Tử coi
sóc trực tiếp dịng Thiền Trúc Lâm do ơng sáng lập, và kết thúc ở cái chết của
quốc vương Champa: Chế Mân (1300-1307).


23

Cuối cùng “Vương triều sụp đổ" viết về giai đoạn suy thoái triền miên
suốt 60 năm cuối của nhà Trần (1340-1400). Ở tác phẩm này Hoàng Quốc
Hải chỉ ra cái xấu, cái ác, cái ngu muội, mưu mô đen tối của vua và quan lại
nhà Trần. Từ đó, nhà văn âm thầm lặng lẽ đưa ra những bài học lịch sử mà
hậu thế khơng được phép lãng qn….
Như vậy, có thể thấy mỗi một cuốn tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc
Hải phản ánh mợt giai đoạn lịch sử, nó mang tính đợc lập tương đối. Nhưng nếu
tập hợp lại lại cho ta mợt khái niệm mang tính liên tục, và do đó ta có mợt bức
tranh tổng thể về lịch sử của mỗi triều đại mà tác giả phản ánh. Bởi nó bao quát
hết những sự kiện chính, những nhân vật chủ chốt làm nên diện mạo lịch sử.


24

Chương 2.
SỰ ĐA DẠNG CỦA THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG
TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ “THĂNG LONG NỔI GIẬN”

2.1. Hình tượng các danh tướng nhà Trần
Là một triều đại kinh qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
oanh liệt trong lịch sử, vương triều nhà Trần đã sản sinh ra khơng ít các vị
tướng tài ba, kiệt hiệt. Đó là những con người tài giỏi, mưu lược, nghĩa khí tạo
nên những chiến công vang dội cho công cuộc bảo vệ giang sơn, xã tắc. Hầu
hết họ tḥc dịng dõi nhà Trần như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần
Nhật Duật, Trần Khánh Dư… nhưng vẫn có những người sinh trưởng trong
dân gian như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu. Đi vào trang tiểu thuyết của
Hoàng Quốc Hải, họ mang những nét đẹp của người anh hùng trong chính sử,
bên cạnh cái kiểu tính cách gần gũi, đời thường của các nhân vật tiểu thuyết.
Trong số các danh tướng nhà Trần được nhà văn Hoàng Quốc Hải dày
công xây dựng ở tác phẩm “Thăng Long nổi giận”, người đọc đặc biệt chú ý
đến nhân vật Tiết chế Quốc công Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Quốc
Tuấn là một vị tướng kiệt xuất của nhà Trần, người nắm quyền chỉ huy toàn
quân đội đưa nhà Trần vượt qua thách thức của thế lực ngoại xâm. Với ngòi
bút đầy tâm huyết nhà văn họ Hoàng đã dựng lại được chân dung vị tướng tài
ba trong lịch sử dân tộc.
Từ trang sử bước vào trang văn, Trần Hưng Đạo vẫn giữ nguyên cốt
cách của mợt vị tướng anh hùng. Đó là mợt con người có tướng mạo hùng vĩ,
thơng minh hơn người, học rợng hiểu biết nhiều, đủ tài văn võ: “Ơng có bợ
râu năm chịm dài, rậm như râu Quan cơng, và khn mặt vng chữ điền.
Mắt to sáng. Đơi trịng con ngươi sóng sánh như phát hào quang, cặp lơng
mày lưỡi mác rậm hơi xếch, mỗi bên đều có năm sợi dài vuốt cong lên. Tồn
bợ con người ơng, gương mặt ơng, và dáng đi đứng của ông toát lên một


25

phong thái uy nghi đường bệ” [6, tr.112]. Là một vị tướng thống lĩnh toàn
quân sự, Hưng Đạo luôn luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tợc lên lợi ích của nhà,

luôn vun trồng khối đại đoàn kết trong tôn tộc nhà Trần để tạo thế nước vững
mạnh nhằm chống quân xâm lược.
Trước khi chiến tranh nổ ra, Hưng Đạo đã ngày đêm suy ngẫm làm sao
để cho dân giàu nước mạnh, rồi Quốc công và kẻ sĩ đã cùng nghị bàn ra kế
sách “Phú quốc cường binh” cho ấp An Sinh của mình làm mẫu trước khi
dâng hai vua nhân rợng mơ hình ở các vương hầu khác. Kế sách tuy có đợng
chạm tới qùn lợi ấp An Sinh của ơng cũng như các vương hầu nhưng vì lợi
ích dân tộc Hưng Đạo vẫn quyết tâm thực hiện. “Nếu kế sách làm được điều
ta mong mỏi, thì dù có chia nửa thái ấp của ta cho dân chúng, và giải tỏa hết
đám nông nô, ta cũng sẵn sàng” [6, tr.117]. Trong khi, để xóa bỏ mối hiềm
khích giữa hai dịng trưởng, thứ nhằm khơi phục tình thần nợi tợc, Hưng Đạo
đã có những cử chỉ khiến nhiều người cảm đợng. Đó là phút xúc đợng rơi lệ
nắm chặt tay Thánh tơng dặn dị: “Em hiểu cho lịng ta. Phải lấy nước làm
trọng. Sự mất còn là đây”. [6, tr.165]. Đó là hành đợng có mợt khơng hai
trong lịch sử khi Quốc công tắm cho thượng tướng Trần Quang Khải: “Và
ông kỳ cọ cho Quang Khải thật tỉ mỉ, từ đường sống lưng, hai cánh tay, bắp
đùi và những chỗ kín của cơ thể thượng tướng. Cử chỉ ơng vừa chăm bẵm,
vừa thân tình” [6, tr.344].
Khi bước vào c̣c chiến, bản lĩnh của Trần Quốc Tuấn thể hiện ở
quyết tâm tiêu diệt địch và thắng địch khơng gì lay chuyển. Ngay những lúc
gian nan nguy hiểm nhất, Quốc công vẫn tin vào thắng lợi, giữ vững lòng
quân, lòng dân. Câu nói bất hủ: “Nếu bệ hạ muốn hàng, trước hết xin hãy
chém đầu thần. Đầu thần nếu còn, xã tắc cũng cịn. Xin bệ hạ đừng lo, thần đã
có kế sách đánh bại giặc” [6, tr.409], cho thấy ý chí, quyết tâm vì giang sơn
xã tắc của Hưng Đạo. Về tài quân sự, cái tài của Trần Quốc Tuấn là biến


×