Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ HỌC PHẦN LSQHQT (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.8 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Tên đề tài: TRẬT TỰ VIENNE 1815 - 1871

Nhóm ngành : Quốc tế học
Tên sinh viên : Trần Gia Ngọc
Mã số sinh viên :4501608110
Lớp :QTHA
Khóa :45
Khoa : Lịch sử
Giảng viên hướng dẫn : Thầy Lê Phụng Hoàng

1


Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 11 năm 2020

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................2
2. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu....................................................3
3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu....................................................3
4. Bố cục của đề tài...............................................................................................3
Chương 1 Q TRÌNH HÌNH THÀNH TRẬT TỰ VIENNE............................4
1. Tình hình thế giới đầu thế kỷ XIX................................................................4
1.1

Tình hình chính trị...................................................................................4

1.2



Tình hình kinh tế.....................................................................................5

2. Chiến tranh Napoleon (1804 - 1815)...............................................................6
2.1 Tiểu sử của Naponeon Bonapac.................................................................6
2.2. Những cuộc chiến tranh xâm lược châu Âu của Napoleon....................7
3. Hội nghị Vienne (1/11/1814 - 9/6/1815)..........................................................9
3.1

Bối cảnh....................................................................................................9

3.2

Mục đích của các nước chiến thắng trong Hội nghị Vienne................9

3.3 Mâu thuẫn và thỏa hiệp giữa các nước lớn trong hội nghị Vienne.......10
CHƯƠNG 2 SỰ DUY TRÌ CỦA TRẬT TỰ VIENNE.......................................13
1. Tổ chức Đồng minh Thần thánh...................................................................13
2. Đồng minh Tứ cường...................................................................................13
3. Sự can thiệp của đồng minh thần thánh đối với phong trào cách mạng ở
châu Âu................................................................................................................14
3.1. Giai đoạn 1815-1830.................................................................................14
3.2. Giai đoạn 1830-1848.................................................................................15
CHƯƠNG 3 SỰ SỤP ĐỔ CỦA TRẬT TỰ VIENNE.........................................19
1.Phong trào cách mạng tư sản.........................................................................19
2 Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa...........................................20
KẾT LUẬN............................................................................................................23
2



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................24

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khoảng một phần tư thế kỷ (1789-1815), tình hình châu Âu hết sức sơi
động bởi thắng lợi của cách mạng tư sản Pháp và ảnh hưởng của Pháp đối với các
nước châu Âu. Trục chính của mối quan hệ quốc tế xoay quanh mâu thuẫn giữa các
nước quân chủ phong kiến châu Âu cùng nước Anh tư bản chủ nghĩa chống lại
nước Pháp cách mạng. Khi Napoleon mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược các nước
châu Âu, các liên minh chống Pháp được hình thành nhưng khơng ngăn chặn được
bước tiến quân của Napoleon. Phải đến sau khi thất bại trên chiến trường nước Nga
năm 1812, Đế chế của Napoleon I mới đi vào thoái trào và thất bại hoàn toàn tại
chiến trận waterloo ở Bỉ (tháng 6 - 1815).
Sự sụp đổ của đế chế Napoleon đã chấm dứt cả một thời kỳ chiến tranh liên
miên cướp đi 7 triệu sinh mạng. Đó là cuộc chiến tranh mang tính chất xâm lược,
làm lung lay nền tảng của chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến ở nhiều nước
châu Âu. Sự thất bại của Napoleon trên chiến trường nước Nga đã đưa lịch sử châu
Âu bước sang một thời kỳ mới với sự hình thành trật tự thế giới đầu tiên trong Lịch
sử đó chính là trật tự Vienne.
Theo từ điển Tiếng Việt “trật tự” được định nghĩa là “Sự sắp xếp theo một thứ
tự, một quy tắc nhất định”, là “tình trạng ổn định, có tổ chức kỷ luật”[15, tr1020].
Trật tự thế giới “Thể hiện một kiểu so sánh phân bổ sức mạnh tổng hợp (chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hóa,...) giữa các cường quốc và là dạng thức hoạt động hay
dàn xếp (chính thức và khơng chính thức) của các quốc gia có chủ quyền nhằm duy
trì mối quan hệ giữa họ với nhau theo những luật chơi chung (hay tiêu chuẩn
chung về hành vi) vì mục tiêu, lợi ích cử từng nước và của cả hệ thống”[6,tr 25].
Trật tự Vienne gắn liền với Hội nghị tại Vienne sau cuộc chiến tranh chống
Napoleon. Đó là một hệ thống đa cực hòa hợp quyền lực ở châu Âu giữa các cường
quốc châu Âu là Anh, Nga, Đức, Pháp. Trong suốt khoảng một thế kỷ, châu Âu đã
luôn thích thú với mục tiêu thống trị tồn cầu. Các quốc gia lãnh đạo châu Âu mở

rộng sự kiểm soát của mình đối với hầu hết các khu vực trên thế giới, đạt được sự
thống trị về kinh tế và công nghệ và phát triển lực lượng quân sự mạnh nhất.
3


2. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về trật tự Vienne từ năm 1815 đến năm 1871.
2.2 Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về sự hình thành trật tự Vienne, sự duy trì và sự phá sản của
trật tự Vienne đến năm 1871.
2.3 Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề trong phạm vi toàn châu Âu.
Thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu sự hình thành, duy trì và sự phá sản của trật
tự Vienne (1815-1871).

3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu sách, báo, tạp chí, giáo trình bằng tiếng việt. Nguồn tư liệu dịch
từ nước ngoài.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
Với đặc trưng của nghiên cứu khoa học lịch sử, tôi chủ yếu sử dụng hai
phương pháp: Phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngồi ra, trong q trình
xử lí tài liệu tơi đã sử dụng một số phương pháp khác có tác dụng bổ trợ như: đối
chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp, thẩm định nguồn tài liệu, nhằm trình bày một
cách khoa học và có hệ thống về sự hình thành, duy trì cũng như sự phá sản của
trật tự Vienne từ năm 1815 đến năm 1871

4. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương

Chương 1: Quá trình hình thành trật tự Vienne.
Chương 2: Sự duy trì của trật tự Vienne.
Chương 3: Sự phá sản của trật tự Vienne.

4


NỘI DUNG
Chương 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TRẬT TỰ VIENNE
1. Tình hình thế giới đầu thế kỷ XIX
1.1 Tình hình chính trị
Sau khi cuộc chiến tranh Napoleon kết thúc, tình hình chính trị nói chung ở
châu Âu bước vào thời kỳ phản động. Thế lực phong kiến phục hồi và ra sức củng
cố lại địa vị đã phần nào bị lung lay do ảnh hưởng của cách mạng tư sản.
Ở Pháp, triều đại Buocbong trở về, âm mưu lập lại chế độ phong kiến quân
chủ (thời kỳ Trung Hưng) nhưng khơng thể thực hiện được hồn tồn. Cơ sở kinh
tế tư bản chủ nghĩa và chế độ ruộng đất ban bố dưới thời Giacobanh vẫn được duy
trì, quyền hành của vua Lui XVIII (tiếp sau Saclo X) bị hạn chế.
Ở Nga, trong nửa đầu thế kỷ XIX, chế độ phong kiến - nơng nơ ở Nga đang ở
trong q trình khủng hoảng và tan rã, Nga là một nước phong kiến lạc hậu so với
các nước tư bản Tây Â, những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển rất
chậm chạp và khó khăn. Đế quốc Nga là nước quân chủ lớn duy nhất ở châu Âu
lục địa không chịu sự tác động của cơn bão táp cách mạng những năm 1848 1849. Đến đầu thập niên 60 của thế kỷ XIX, chính sự lạc hậu về kinh tế của nước
Nga, sự chống đối mạnh mẽ nông dân, cũng như vị thế thấp kém của Nga trên
trường quốc tế đã buộc Sa hoàng Alechxangdro II phải tiến hành cải cách nhằm
duy trì sự thống trị của vương triều và dòng họ.
Ở Anh, vào giữa thế kỷ XVII đã diễn ra cuộc cách mạng tư sản do tầng lớp
quý tộc mới và giai cấp tư sản lãnh đạo để lật đổ ách thống trị của chế độ phong
kiến bảo thủ, lạc hậu mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Sau cuộc biến
động chính trị này một thể chế nhà nước mới đã được thiết lập ở Anh - thể chế

quân chủ lập hiến. Với thể chế này, vua tuy vẫn là người đứng đầu bộ máy nhà
nước nhưng trên thực tế tính chuyên chế của nhà vua đã khơng cịn mà mọi quyền
hành lại tập trung trong tay Quốc hội.
Ở các nước khác, thế lực phong kiến cũng tìm cách gạt bỏ những cải cách có
tính chất tư sản, lập lại chế độ thống trị độc đoán. Tuy nhiên, trong đà đi lên của
lịch sử, phong trào cách mạng tư sản vẫn diễn ra trong những năm 20, 30 và 40 của
thế kỷ XIX ở Châu Âu, tiêu biểu là: Cuộc cách mạng ở Tây Ban Nha (1820 1813), Bỉ và cách mạng tư sản Pháp (1830),...
Nhìn chung, trong giai đoạn đầu thế kỷ XIX ở châu Âu vẫn tồn tại chế độ
phong kiến, nhưng chế độ đó đã lỗi thời, lạc hậu. Theo quy luật đi lên của lịch sử
5


thì những cái lỗi thời sẽ bị triệt tiêu và nhường chỗ cho những cái mới tiến bộ hơn
đó chính là xu thế phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
1.2

Tình hình kinh tế

Sau khi cách mạng tư sản Anh giữa thế kỷ XVII thành công, nước Anh đã có
những chuyển biến căn bản về mặt kinh tế cũng như chính trị. Trong suốt thế kỉ
XVIII và 30 năn đầu thế kỷ XIX ở Anh đã diễn ra một q trình cách mạng, tuy
khơng sơi nổi như những ngày nội chiến, nhưng đánh dấu một bước ngoặt trong sự
phát triển sản xuất. Đó là cuộc cách mạng công nghiệp tư bản chủ nghĩa đầu tiên
trong lịch sử. Cuộc cách mạng công nghiệp nước Anh thành công đã lan rộng ra
nhiều nước châu Âu khác, xây dựng cơ sở vật chất cho sự thắng lợi và phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng công nghiệp Anh mở đầu cho việc cơng nghiệp
hóa tư bản chủ nghĩa. Cách mạng công nghiệp thực hiện bước quá độ từ công
trường thủ cơng đến cơng nghiệp máy móc; điều này đồng nghĩa với việc kỹ thuật
sản xuất thay đổi về căn bản và máy móc chính là cơ sở kỹ thuật vật chất của sự
thay đổi đó. Với cơng nghiệp lớn sản xuất bằng máy móc, chủ nghĩa tư bản có

bước phát triển nhảy vọt.
Từ nửa sau thế kỷ XVII, một cuộc tấn cơng chế độ phong kiến có quy mơ lớn
đã mở rộng ở châu Âu. Sự khởi đầu của cuộc cách mạng công nghiệp Anh, cùng
với sự thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII đã mở ra thời
kỳ của chủ nghĩa tư bản thắng lợi và được xác lập trước hết ở các nước tiên tiến
châu Âu. Trong khi phong trào cách mạng tư sản khơng ngừng tiếp diễn thì kinh tế
tư bản chủ nghĩa đã có những bước tiến quan trọng.
Nước Anh vẫn chiếm địa vị hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Từ năm 1830,
tốc độ phát triển công nghiệp ngày càng tăng, việc sử dụng máy móc ngày càng
nhiều. Ngành luyện kim và cơ khí phát triển rất nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu trang
bị kĩ thuật toàn bộ nền công nghiệp. Đồng thời, đường sắt tăng lên 7 nhanh chóng,
năm 1830 đường xe lửa đầu tiên nối liền Manchester và Liverpool được khánh
thành. Điều đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường trong nước và tăng cường mối
liên hệ kinh tế giữa các trung tâm công nghiệp.
Nước Pháp đứng hàng thứ hai trong nền kinh tế thế giới cuộc cách mạng công
nghiệp đang trên đà phát triển. Số lượng máy hơi nước được sử dụng tăng lên
nhanh chóng. Năm 1820 có 65 cái, đến năm 1830 là 616 cái. Sản lượng các ngành
công nghiệp nặng cũng tiến bộ rõ rệt. Những tiến bộ đó đã làm cho trên tồn lục
địa châu Âu, cơng nghiệp Pháp đã trở thành nền công nghiệp phát triển hơn hết.
6


Nhiều nước châu Âu tuy chưa tiến hành cách mạng tư sản nhưng nhân tố tư
bản chủ nghĩa cũng đã nảy nở trong nền kinh tế mỗi nước, mặc dầu quan hệ phong
kiến còn chiếm địa vị thống trị, nước Đức cũng có sự chuyển biến nhất định. Tuy
cịn chậm chạp hơn so với Anh và Pháp, quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh
mẽ nhất ở vùng sông Ranh và Vetxphalen vì ở đó nhân dân được giải phóng một
phần nào khỏi chế độ phong kiến (do ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp) và có
nhiều nguyên liệu hơn cả Beclin (thủ đô của Phổ).
Nước Italia: kinh tế chủ yếu là nơng nghiệp chỉ có ở miền bắc nhất là

Lombacđia và Piemonte xuất hiện công trường thủ công dệt vải. Đến những năm
40 việc sử dụng máy móc mới bắt đầu tiến hành.
Đế quốc Áo: Là đế quốc phong kiến đa dân tộc, những yếu tố tư bản chủ
nghĩa xuất hiện khá sớm nhưng phát triển chậm chạp.
Chủ nghĩa tư bản không chỉ dừng lại trong công thương nghiệp mà đã bắt đầu
xâm nhập vào nông nghiệp, việc kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa với kỹ thuật
mới được áp dụng trong nhiều nước làm tăng sản lượng và chất lượng nông phẩm.
Như vậy, trong nửa đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp tiếp tục phát
triển trong các nước đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lên mức cao ở những nước
khác nhau, tuy chưa tiến hành cách mạng tư sản, kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng
bước đầu giành được những thành tựu đáng kể. Tình hình đó tạo nên nguồn
của cải vật chất phong phú và mở ra khả năng sản xuất to lớn. Chính điều đó ảnh
hưởng đến sự phát triển của mâu thuẫn xã hội. Bên cạnh mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
tư bản với chế độ phong kiến đã xuất hiện mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vơ sản. Điều đó đã tác động đến trật tự thế giới đặc biệt là trật tự Vienne 18151871.

2. Chiến tranh Napoleon (1804 - 1815)
2.1 Tiểu sử của Naponeon Bonapac
Napoleon Bonapac sinh năm 1769 tại đảo Cooc. Đảo này vốn thuộc Italia,
nhưng ba tháng trước khi Napoleon ra đời thuộc về Pháp. Cha ông là luật sư, vốn
là một quý tộc bị phá sản. Năm 15 tuổi, Napoleon vào học trường quân sự Pari và
tốt nghiệp loại ưu. Năm 1795, ông trở thành quân nhân chuyên nghiệp. Năm 1793
ông dùng lực lượng pháo binh đánh tan quân Anh chiếm đóng ở Tu-lơng, giải
phóng thành phố. Vì chiến cơng này, Quốc hội đã phong tướng cho viên sĩ quan tài
năng 24 tuổi. Năm 1795, Napoleon lại dùng trọng pháo dẹp tan bọn bảo hồng nổi
loạn ở Pari. Sau đó, ơng được cử chỉ huy quân đoàn Pháp tiến vào Bắc Italia, đánh
7


quân Áo. Napoleon đã xây dựng kế hoạch chiếm toàn bộ châu Âu và phương

Đơng. Ơng chọn Italia làm điểm khởi đầu cho kế hoạch này.
Tháng 11 năm 1799, Napoleon lên nắm quyền ở Pháp, ơng tìm cách tập trung
quyền lực vào chính quyền trung ương, cải tổ nền hành chính và tư pháp, mở mang
trường học, khuyến khích phát triển công nghệ, thống nhất đơn vị đo lường và chế
độ thuế... Chính quyền Napoleon củng cố các thành quả cơ bản của cách mạng tư
sản Pháp, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Năm 1804 Ơng lên ngơi hồng đế, thiết lập đế chế thứ hai (1804-1815). Sau
khi trở thành hoàng đế, Napoleon ra sức thực hiện tham vọng bá chủ của mình đẩy
mạnh xâm lược tồn châu Âu mà đối thủ chính là Nga, Áo, Anh.
Trong cuộc chiến tranh phiêu lưu của mình, Napoleon đã gặp phải sự kháng
cự quyết liệt của nhân dân châu Âu và cuối cùng Napoleon phải nhận lấy sự thất
bại thảm hại. Napoleon buộc phải thoái vị, nhường lại ngai vàng cho con trai của
mình, và bị đày ra đảo Elbe ở Địa Trung Hải, với 1000 quân lính phục dịch. Một
thời gian ngắn sau đó, họ Buocbong khôi phục được quyền lực cũ với sự trợ giúp
của các thế lực phong kiến phản động châu Âu, do Lui XVIII đứng đầu.
Ngày 30 tháng 5 năm 1814, hiệp ước Pari lần thứ nhất được ký, quy định
Pháp phải trả những vùng đất đã chiếm và trở lại đường biên giới như hồi trước
cách mạng. Do những hành động trả thù và khủng bố nhân dân của bọn quý tộc,
việc chúng đòi lại số đất đai từng bị cách mạng tịch thu trước đó, mà một bộ phận
tư sản và quần chúng lại ủng hộ Napoleon trở lại nắm quyền. Napoleon từ đảo Elbe
trở về được đông đảo quần chúng nhân dân Pháp chào đón (thậm chí, ngay cả đội
quân mà Lui XVIII cử đi đánh Napoleon cũng đã quay sang ủng hộ ông). Ngày 30
tháng 3 năm 1815, Napoleon cùng những người ủng hộ mình tiến vào Pari, khiến
cho Lui XVIII phải bỏ trốn.
Sau khi trở lại cầm quyền được 100 ngày, Napoleon đã bị liên quân Anh - Phổ
đánh một trận đại bại tại Waterloo vào ngày 18 tháng 6 năm 1815. Bị thua trong
trận đánh lớn cuối cùng, Napoleon bị đày ra tận đảo Saint Helena xa xôi ở Đại Tây
Dương và qua đời vào năm 1821.
2.2. Những cuộc chiến tranh xâm lược châu Âu của Napoleon
Trong thời kỳ chiến tranh cách mạng bảo vệ nước cộng hòa, chống liên minh

phong kiến, quân đội Pháp chiếm một số vùng lãnh thổ ở Tây Âu và tác động đến
tinh thần đấu tranh giải phóng nơng dân khỏi ách phong kiến địa phương.

8


Điều này có ý nghĩa tiến bộ, nhưng khi napoleon Bonapac tiến hành chiến tranh ở
Châu Âu thì cuộc chiến tranh mang tính chất xâm lược.
Sau khi chiếm được Italia, Napoleon tiến sát đến biên giới Áo, đánh tan quân
đội Áo và ký với nước này Hòa ước 1797. Theo đó, Áo cơng nhận vùng tả ngạn
sơng Ranh thuộc về Pháp. Thụy Sĩ, Hà Lan cũng sáp nhập vào Pháp.
Nước Anh không chịu nhượng bộ. Napoleon chuyển sang đánh nước Anh.
Ông quyết định hành quân sang Ấn Độ để cướp thuộc địa giàu có này của Anh.
Bước đầu, ơng tiến quân đánh chiếm Ai Cập và Xiri, song không thành công.
Tháng 10 năm 1799, Napoleon trở về Pari.
Sau cuộc đảo chính tháng sương mù (11-1799), Napoleon nắm chính quyền ở
Pháp, đến năm 1804 lên ngơi Hồng đế, thiết lập nền Đế chế thứ nhất (1804 1815). Lên cầm quyền, Napoleon tìm cách tập trung quyền lực vào chính quyền
trung ương, cải tổ nền hành chính và tư pháp, mở mang trường học, khuyến
khích phát triển cơng nghệ, thống nhất đơn vị đo lường...Chính quyền Napoleon
củng cố các thành quả cơ bản của cách mạng tư sản Pháp, tạo điều kiện cho sự phát
triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Mùa thu năm 1805, Napoleon tập trung 2.300 tàu chiến để tiến hành cuộc đổ
bộ lên nước Anh, nhưng bị hải quân Anh, do Đô đốc Nen-xơn chỉ huy, đánh bại
trong cuộc thủy chiến lớn ở mũi Tơ-ra-phan-ga (gần Tây Ban Nha). Năm 1806,
Napoleon đánh bại quân Áo, rồi quân Phổ và tiến vào Beclin. Năm 1807, sau một
vài trận chiến đẫm máu với quân Nga, Napoleon kí Hiệp ước Tin-dít với Nga và
Phổ.
Tháng 6 năm 1812, khơng tun chiến, Napoleon đích thân chỉ huy 64 vạn
quân, gồm binh lính nhiều dân tộc ở châu Âu, tiến đánh nước Nga.
Trái với dự tính của Napoleon, qn Nga do Cu-tu-dốp chỉ huy, khơng

nghênh chiến, sử dụng chiến thuật dụ địch vào sâu lãnh thổ Nga. Ngày 7/9/1812,
trận Bô-rô-đi-nô diễn ra rất ác liệt giữa khoảng 13 vạn quân Nga với 13.5 vạn quân
Napoleon: hơn 4 vạn quân Nga hi sinh, gần 6 vạn quân Pháp tử trận.
Để bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài, Cu-tu-dốp quyết định rút khỏi
Matxcova. Quân Pháp vào chiếm đóng thành phố đang cháy lớn, khơng có
người ở, khơng có lương thực. Napoleon dự định đánh chiếm vùng giàu có phía
nam, nhưng đến đâu cũng gặp qn Nga và sức kháng cự mạnh liệt của nhân dân
Nga. Cuối cùng, không thể tiếp tục chiếm nước Nga, quân Napoleong phải rút về
nước. Sau 12 ngày đêm vất vả, Napoleon mới về đến Pari.
9


Thất bại của Napoleon ở Nga có ảnh hưởng quyết định đến số phận của Đế
chế Pháp và Napoleon. Quân đội Napoleon lần lượt bị thất bại trên các chiến
trường ở châu Âu. Ngày 18/6/1815, trong trận đánh lớn cuối cùng ở Waterloo, gần
Brúcxen (Bỉ), quân đội Napoleon bị tiêu diệt. Napoleon bị bắt làm tù binh và bị
đầy ra đảo Saint Helena, rồi chết ở đây (năm 1821).
Sự sụp đổ của đế chế Napoleon do nhiều nguyên nhân tác động. Trước hết,
chính quyền Napoleon I gặp khủng hoảng, vì không được đông đảo quần chúng
nhân dân ủng hộ, cơ sở xã hội của chính quyền này cũng bị thu hẹp. Nơng dân
khơng cịn ủng hộ Napoleon như lúc đầu, vì họ ngày càng phải chịu nhiều thứ thuế
nặng, hứng chịu những tổn thất do chiến tranh đem lại, đời sống suy giảm. Giai cấp
tư sản Pháp cũng không gắn bó với Napoleon như trước, vì chiến tranh kéo
dài làm thiệt hại đến việc kinh doanh, buôn bán. Từ năm 1810 đến năm 1811, do bị
bao vây kinh tế, thiếu nguyên liệu sản xuất, một cuộc khủng hoảng kinh tế đã nổ
ra tại Pháp; nhiều cơng xưởng bị đóng cửa khiến các nhà tư sản phải chịu thiệt
hại nặng, mà vẫn phải đóng thuế.
Ở bên ngồi, phong trào đấu tranh chống Pháp xâm lược nhằm giải phóng dân
tộc của nhân dân các nước châu Âu, đã đánh mạnh vào lực lượng quân sự của
Napoleon, làm cho suy yếu dần. Nổi bật là cuộc đấu tranh của nhân dân Tây Ban

Nha (1808) và chiến tranh vệ quốc của nhân dân Nga (1812).
Thất bại của Napoleon trên chiến trường Nga tạo điều kiện cho liên minh
chống Napoleon chiến thắng hoàn toàn, nền quân chủ của dòng họ Buocbong được
phục hồi ở Pháp.

3. Hội nghị Vienne (1/11/1814 - 9/6/1815)
3.1
Bối cảnh
Ngay sau khi đánh bại Napoleon Bonapac vào cuối tháng 3 năm 1814, các
nước đồng minh thắng Pháp đã khẩn trương họp một cuộc Hội nghị ngoại giao lớn
nhất và quan trọng nhất từ trước tới nay tại thủ đô Vienne của Áo để phân chia
chiến lợi phẩm, thanh toán những hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài hơn 20
năm, đã làm đảo lộn toàn bộ trật tự châu Âu. Đây là hội nghị lớn chưa từng có
trước đó, 216 đại biểu hầu hết các nước châu Âu tham dự, trừ Thổ Nhĩ Kỳ. Vai trị
chính và quyết định trong hội nghị thuộc về những nước mạnh nhất đã chiến thắng
Napoleon là Nga, Anh và Áo.
3.2 Mục đích của các nước chiến thắng trong Hội nghị Vienne

10


Mục đích đầu tiên của những nước tham gia Hội nghị là đàn áp
những phong trào dân chủ và dân tộc ở châu Âu, khôi phục lại trật tự
phong kiến chuyên chế cũ ở các nước đã từng bị Napoleon chinh phục.
Mục đích thứ hai là củng cố thắng lợi, ngăn cản không cho nước pháp quay
trở lại chế độ Napoleon. Muốn vậy, cần phải mở rộng và tăng cường thế lực các
nước có đường biên giới chung với Pháp, biến các nước này thành hàng rào
chống Pháp. Mục đích thứ ba là nhằm thỏa mãn tham vọng xâm chiếm đất đai,
phân chia lãnh thổ các nước châu Âu mà không đếm xỉa đến nguyện vọng dân tộc
và biên giới các nước.

3.3 Mâu thuẫn và thỏa hiệp giữa các nước lớn trong hội nghị Vienne
Nguyên nhân mâu thuẫn
Do mỗi nước trong liên minh Phong kiến đều có tham vọng riêng, khi bị
Napoleon đánh những tham vọng đó chìm đi, cho đến khi kẻ thù chung bị bại thì
mâu thuẫn trong nội bộ đồng minh lại nổi lên. Các nước chưa thỏa thuận được với
nhau về vấn đề chia cắt Ba Lan và cải tổ Đức.
Biểu hiện của mâu thuẫn:
Mâu thuẫn Nga - Áo - Phổ: Nga chủ trương duy trì 2 nước mạnh Áo - Phổ để
tránh sự đe dọa của Pháp. Nhưng cũng không muốn Pháp quá yếu làm mất đi khả
năng thu hút lực lượng của các quốc gia Đức về phía Tây. Nga muốn chiếm cơng
quốc Vacxacva đây vốn là nơi tranh chấp của Áo - Phổ.
Áo - Phổ chống lại âm mưu của Nga Hoàng, hai nước này muốn chiếm giữ Ba
Lan.
Chính phủ Áo chủ trương kiềm chế thế lực của Phổ và Nga, duy trì sự phân
tán của Đức để đảm bảo ưu thế của Áo ở đây.
Mâu thuẫn giữa Anh - Pháp - Nga: Anh muốn chiếm giữ độc quyền về công
thương nghiệp, thuộc địa nên chủ trương làm suy yếu Pháp địi khơi phục triều đại
Buocbong ở Pháp. Anh đã chống lại kế hoạch của Nga Hoàng sợ ảnh hưởng của
Nga Hoàng tăng lên ở châu Âu nên chủ trương thu hẹp tối thiểu vùng đất Ba Lan
cắt cho Nga.
Mâu thuẫn Pháp - Phổ: Phổ muốn duy trì chế độ chuyên chế ở Phổ và muốn
chiếm vùng Xacxonhi và những vùng đất giàu có ở sơng Ranh để uy hiếp Pháp.

11


Pháp xem Phổ là đối thủ nguy hiểm và sợ thế lực của Phổ được tăng cường
khi xác lập Xacxonhi nên chống lại Phổ.
Thỏa hiệp giữa các nước:
Vấn đề Xacxonhi:

Phổ phải đồng ý nhận 1 phần Bắc Xacxonhi cho phía nam Xacxonhi được độc
lập.
Nga phải từ bỏ xác nhập toàn bộ công quốc Vacxava.
Đối với Ba Lan tiếp tục bị chia cắt bởi Nga - - Phổ vì các bên thỏa thuận
lập ra nước Cộng hòa Ba Lan cam kết cùng nhau đàn áp phong trào dân tộc ở Ba
Lan.
Trước nguy cơ phục hồi của Đế chế Napoleon, các nước tham dự hội nghị tạm
gác bất đồng thành lập liên minh mới chống Napoleon đó là liên minh
chống pháp lần thứ 7 (1815).
Nội dung cơ bản của Hiệp định Vienne:
Ngày 9/6/1815, trước thất bại của Napoleon ở Waterloo không lâu, văn
bản cuối cùng của Hội nghị Vienne (gồm 121 điều khoản và 17 điều phụ) đã được
ký kết với hy vọng tạo lập một trật tự mới tư tưởng là vững chắc. Trên thực tế,
người ta đã khơng tính đến sự xuất hiện của quan hệ sản xuất mới, đến cơn giông
tố chiến tranh kéo dài 15 năm làm rung chuyển nền tảng của chế độ phong kiến và
chế độ chuyên chế ở châu Âu. Nội dung chính gồm 3 vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất, nước Pháp phải thu lại biên giới như hồi trước cách mạng và phải
bồi thường chiến phí 700 triệu phơ-răng, phải để cho 15 vạn quân Đồng minh vào
chiếm đóng trong 3 năm.
Thứ hai, thiết lập một chiến lũy phòng thủ chống Pháp ở châu Âu: Sáp nhập
miền sông Ranh và Vetxphalen vào Đức; sáp nhập Bỉ và Hà Lan thành vương quốc
Hà Lan; công quốc Lucxambua cũng thuộc về Hà Lan; phục hồi nền trung lập của
Thụy Sĩ, khôi phục vương quốc Xacđenha. Những quốc gia trên đều trở thành căn
cứ quân sự chống Pháp.
Thứ ba, phân chia châu Âu và thuộc địa giữa các nước chiến thắng, chia lại
bản đồ châu Âu trên cơ sở tham vọng của các nước lớn, thiết lập chính quyền quý
tộc phong kiến phản động với những triều đại già cỗi. Nhiều quốc gia vẫn nằm
trong tình trạng bị chia sẻ, nhiều dân tộc vẫn chịu ách thống trị của các đế quốc
12



phong kiến lớn. Trong Hội nghị Vienne, các dân tộc bị mua đi bán lại, chia ra rồi
lập lại chỉ xuất phát từ chỗ đáp ứng được nhiều hơn những quyền lợi và những
tham vọng của các nhà cầm quyền.[11,tr 53].
Kết quả của Hội nghị Vienne:
Theo quyết định của Hội nghị viên thì bản đồ châu Âu đã được vẽ lại theo
yêu cầu của các nước thắng trận.
Nước Nga được phần lớn đất đai của Ba Lan, giữ được Phần Lan và
Betxarabi đã sáp nhập từ trước.
Anh được đảo
Manta và những thuộc địa của Hà Lan và của Pháp, quan trọng nhất là thuộc
địa Cáp ở Nam phi và đảo Xaylan. Đây là những vị trí có ý nghĩa chiến lược để mở
rộng việc xâm chiếm Ấn Độ.
Phục hồi quyền thống trị của Áo ở đông bắc Ý gồm Lombacdia và Venexia,
duy trì sự phân tán của Ý và khơi phục chế độ phong kiến của các tiểu vương quốc
Ý.
Đất đai của Phổ và Áo được mở rộng. Phổ trở thành nước có vai trị chủ yếu
trong “liên minh của chế độ Rô Ma”.
Italia vẫn bị chia thành nhiều lãnh thổ khác nhau.
Pháp quay về biên giới cũ trước cách mạng và phải bồi thường chiến phí 700
triệu phơ-răng chiến phí.
Đức bị chia thành 34 cơng quốc và 4 thành phố tự do.
Ngồi ra cịn xác định biên giới của các quốc gia Nauy thuộc Đan Mạch buộc
phải sáp nhập với Thụy Điển...
Tiểu kết chương 1
Hội nghị Vienne được nhìn nhận bởi người đương thời là: “một cuộc họp mặt
để nhảy múa, tiệc tùng, săn bắn, vui chơi”, chỉ có các nước lớn mới quyết định mọi
việc nhằm thực hiện âm mưu thay đổi bản đồ châu Âu mà không đếm xỉa gì đến
quyền lợi của nhân dân các nước. Hơn nữa những vấn đề được quyết định trong
Hội nghị bị chi phối bởi các nước lớn đó Anh, Áo, Nga.


13


Thực chất, đây là Hội nghị phân chia thắng lợi giữa các nước thắng trận trong
cuộc chiến tranh chống Napoleon. Hội nghị đã chà đạp lên quyền lợi các nước nhỏ
yếu và nhân dân lao động, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân các nước châu
Âu, vì đã khơi phục lại các vương triều đã bị đánh đổ. Hội nghị này cũng đưa các
dân tộc được giải phóng khỏi ách thống trị của Napoleon trở lại sự áp bức của các
nước chiến thắng.
Vì thế, Hội nghị Vienne được coi là: Sự giãy chết của chế độ phong kiến
trước cách mạng tư sản đang lên.

CHƯƠNG 2 SỰ DUY TRÌ CỦA TRẬT TỰ VIENNE
1. Tổ chức Đồng minh Thần thánh
Để củng cố và thực hiện những nghị quyết của hội nghị Vienne, bảo vệ chế độ
chuyên chế, giáo hội và các nền tảng khác của thế lực phong kiến phản động ở
châu Âu, Alechxan I đã đề nghị với người đứng đầu các nước thành lập cái gọi là
Đồng minh Thần thánh mà văn bản do chính ơng ta soạn thảo. Nga Hoàng muốn
mang tinh thần Thiên chúa giáo vào tổ chức này nhằm loại trừ sự tham gia của
Thổ, để sau này Nga có thể tiến hành chiến tranh chống Thổ. Năm 1815 văn bảo
được hầu hết các nước quân chủ châu Âu ký. Chính phủ Anh do sợ sự thiếu nhất trí
trong nghị viện đã khơng ký chính thức nhưng tỏ ý tán đồng. Đóng vai trị chính
trong Đồng minh là Nga và Áo.
Ngày 26/9/1815, “ Đồng minh Thần thánh” gồm 3 nước Nga, Áo, Phổ ra đời,
nó kêu gọi tất cả các nước theo đạo thiên chúa ủng hộ lẫn nhau, coi nhau như con
một nhà, bảo vệ tôn giáo như bảo vệ vương quyền.
Tổ chức Đồng minh Thần thánh được thiết lập nhằm mục đích đấu tranh
chống lại mọi biểu hiện tiến bộ về mặt chính trị và về mặt tự do tôn giáo.
Đồng thời, đàn áp phong trào cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc ở

châu Âu như các cuộc cách mạng của nhân dân Tây Ban Nha, Bỉ, Ba Lan,...
Thực chất đây là một liên minh gồm hầu hết các nước quân chủ phản động ở
châu Âu nhằm chống lại phong trào cách mạng của quần chúng.
2. Đồng minh Tứ cường
Theo đề nghị của Anh, ngày 20 tháng 11 năm 1815, sau khi ký Hiệp ước Pari
thứ hai, Anh đã ký kết một bản thỏa thuận bí mật thành lập “Đồng minh bốn nước”
14


gồm Nga, Anh, Áo, Phổ nhằm ngăn chặn sự phục hồi của triều đại Bonapac ở
Pháp.
Đồng minh tứ cường ra đời nhằm bảo vệ biên giới của các nước thắng trận:
Bốn cường quốc cam kết ủng hộ Hiệp ước Pari thứ hai; khẳng định nếu một trong
4 nước bị Pháp tấn cơng thì các nước khác sẽ đem 6 vạn quân tới giúp.
Những người đứng đầu 4 cường quốc sẽ họp hội nghị thường xuyên để bàn về
lợi ích chung và thảo lụận những biện pháp có hiệu quả nhắt để cho châu Âu được
hường hòa binh. Bốn nước tuyên bố là liên minh của họ vẫn duy trì lực lượng ngay
cà khi quân đội của họ rút khỏi Pháp và sẽ triệu tập cặc hội nghị thường kì để xem
xét những biện pháp chung nhằm bảo vệ hệ thống “cân bằng chính trị”[12,tr53] ờ
châu Âu vã những trật tự nhà nước dọ họ thiết lập ra. Như vậy, hiệp ước Đồng
minh
Thần
thánh

hiệp
ước
Đồng
minh
Tứ
cường

là cở sở cho nhũng hoạt động của các hội nghị ngoại giao từ năm 1818 -1822.

3. Sự can thiệp của đồng minh thần thánh đối với phong trào cách
mạng ở châu Âu
3.1. Giai đoạn 1815-1830
Trong khoảng thời gian 15 năm (1815 - 1830), về mặt chính trị, trật tự
phong kiến cũ đã được khôi phục lại ở hầu hết các nước châu Âu lục địa. Tuy
nhiên, đây chì là bước tạm lùi của chủ nghĩa tư bản, bởi lẽ cuộc đấu tranh chồng
các thế lực phân động của giai cấp tư sản và quần chúng nhân dân vẫn nộ ra lẻ tẻ
ở châu Âu. Do vây, họ đã phải tồ chức các hội nghị nhằm giải quyết các vấn đề
ở châu Âu như:
Vấn đề Pháp và Hội nghị Akhen (1818): Năm 1818, sau khi Pháp trả số tiền
bồi thường chiến tranh, Đồng minh Thần thánh bao gồm 4 nước Nga, Áo, Phổ
và Pháp đã triệu tập Hội nghị Akhen quyết định rút quân trước thời hạn và cho
phép Pháp tham dự Hội nghị với tư cách là một bên tham gia có đầy đủ quyền
hành. Pháp có nghĩa vụ ủng hộ và tuân thủ các hiệp ước năm 1815.
Phong trào dân tộc, dân chủ ở Đức. Hội nghị Cacxbat và Hội nghị Vienne
(1819-1820): Hội nghị đã bàn về kề hoạch chống lại phong trào cách mạng ở Đức.
Các cuộc khởi nghĩa ở Italia. Hội nghị Toropau và Laybac (1820-1821):
Đây là hội nghị đối phó với phong trào cách mạng đang lên ở Italia. Tháng 7
năm 1820, một trung đồn ở Napoli đứng dậy khởi nghĩa địi thực hiện Hiến
pháp tư sản. Cuộc khởi nghĩa lan tràn nhanh chóng và đến tháng 1 năm 1821
15


ngọn lửa cách mạng nổ ra ở Pỉemong, nhưng Đồng minh Thần thánh đã phải Áo
sang can thiệp và dập tắt phong trào.

Cách mạng Tây Ban Nha. Hội nghị Verona (1822): Nám 1822, cách mạng tư
sản Tây Ban Nha bùng nồ, bước đầu giành thắng lợi. Tuy nhiên, cách mạng Tây

Ban Nha vẫn bị các thế lực phong kiến châu Âu coi là một tấm gương nguy hiểm
nên họ đã tổ chức Hội nghị Verona nhằm can thiệp vũ trang vào Tây Ban Nha.
Trong thực tế, từ sau Hội nghị Vienne năm 1815, chính phủ phản động
châu Âu đã sử dụng tổ chức Đồng minh Tử cường nhằm đối phó với phong trào
cách mạng dân chủ và phong trào giải phóng dân tộc của các nước. Chính vì vậy,
về cơ bản trật tự Vienne vẫn được duy trì và glữ vững.
3.2. Giai đoạn 1830-1848
Ở Pháp, cách mạng tháng 7/1830 đã lật đồ triều đại Buocbong, đây là một
đòn giáng mạnh vào nguyên tắc “ chính thống” của đồng minh thần thánh, nền
quân chủ tháng bảy được thiết lập dưới sự trị vì của vua Lui Philip. Để củng cố
địa vị quồc tế của minh, Lui Philip tỉm cách nhân nhượng Anh. Chính phủ Anh
cõng nhận triều đại Lui Philip nhầm chống Nga và buộc Pháp phải nhượng bộ.
Sự gần gũi Anh-Pháp đã làm cho ý đồ cùa Nga can thiệp vào cách mạng Pháp bị
chôn vùi. Khi cách mạng năm 1830 nồ ra ờ Pháp, Nicolai I tích cực thúc đẩy sự
can thiệp của các nước châu Âu, nhưng việc hiệp thương với Aỏ và Phổ đã
không thành. Các triều đại ở và Phồ đã khơng dám chấp nhận đề nghị cùa
Nga vi sợ sự can thiệp vào cách mạng Pháp cỏ thể gây ra những trấn động xã hội
nghiêm trọng ờ trong nước, đồng thời cũng không muốn Nga tăng cường thế lực
và ảnh hường trong công việc châu Âu. Bị cô lập, Nicolai l buộc phải thừa nhận
vua Lui Philip nhằm giữ vững lợi ích cho giai cáp tư sản.
Cách mạng tháng Bay không chấm dứt nen quan chù, nhưng đem lại cho
nước Pháp một chế độ mới, củng cố địa vị của giới tư sản công nghiệp và tài
chính. Dưới nền quân chủ tháng Bảy, các cuộc bạo loạn vãn tiếp tục nó đe dọa
đến sự tồn tại của trật tự phong kiến. Cách mạng tháng Bày cũng mở đàu cho
một số cuộc nồi dậy khác ở châu Âụ ngay trong những năm 1830,1831. Liên
minh Thần thánh đã can thiệp và trấn àp nhiều vụ nồi dậy ở châu Âu.
Do những điều kiện lịch sử nhất định nên năm 1848 Pháp phải làm một
cuộc cách mạng mới. Đây là một cuộc cách mạng tiến hành trong điều kiện cách
mạng tư sân đã hoàn thành vào cuối thế kỷ XVIII. Nhiệm vụ của cách mạng làn
này không phải là lật đồ chế độ phong kiến nữa, mà là việc lật đồ sự thống trị

16


chật hẹp cùa tư sản tài chính để mở rộng quyền chính trị cho tầng lớp tư sản
cõng nghiệp.
Năm 1848 ở Pháp đã cỏ những biến đồi khá lớn về kinh tế. Tuy nhiên, chưa
phải là một nước tư bản giàu mạnh nhưng Pháp đã đi sâu vào con đường cơng
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa. Quyền thống trị bấy giờ nằm trong tay tư sản tài
chính, đại diện cho các chủ ngân hàng ở Pháp. Các tầng lớp khác của giai cấp tư
sản, đặc biệt là tư sản công nghiệp, là tầng lớp có thế lực kinh tề rất lởn, nhưng
khơng có thế lực về chính trị. Do đó, u cầu của tư sản cơng nghiệp là mở rộng
chính quyền để các tầng lớp tư sản tham gia một cách rộng rãi. Bên cạnh sự
chống đồi của tư sản là sự chống đối của quần chúng nhân dân đối với chính
quyền của vua Lui Philip. Đời sống của nóng dân, thợ thủ cơng võ cùng khồn
kho, vì thế họ đã đứng lên lật đỏ chính quyền. Quần chúng nhân dân đã kéo
xuồng đường, những cuộc xung đột vũ trang đã nồ ra giữa quần chúng nhân dân
và quân chính phủ. Sau 3 ngày đấu tranh anh dũng, quần chúng nhân dân ở pháp
đã giành được thắng lợi. Sáng ngày 24/2 quân khởi nghĩa đã chiếm được trại
lính và các kho vũ khí ở thủ đơ, Lui Philip trốn khỏi nước Pháp.
Kết quả cách mạng: tư sản đã giành lấy thành quả cách mạng của quần
chúng nhân dân và lập nên một chính phủ lâm thời. Dưới ấp lực của quằn chủng
nhân dân, chính quyền tun bố nền Cộng Hịa II (24/2/1848).
Chính phủ lâm thời thực chát là một chính phủ thỏa hiệp giữ’a những giai
cấp, nhũng tầng lớp làm cách mạng có quyền lợi đối địch nhau. Do đó q trình
tồn tại của chính phủ lâm thời cũng là quá trình đấu tranh giai cấp phức tạp, đi
từ hợp tác giai cấp đến đối kháng giai cấp. Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh tổ
chức Công xưởng quốc gia và lập ra ủy ban lao động để giải quyết vấn đề lao
động cho nhân dân. Thực ra, hai cơ quan này khơng hoạt động được vì khơng có
kinh phí, thậm chí nó cịn tạo ra sự chia rẽ giữ-a cơng nhân và nóng dân vì tư sản
đã đánh thuế vào nơng dân để chi phí cho hoạt động của Cóng xưởng quốc gia.

Những việc làm của chính phủ lâm thời dằn dần làm tiêu tan những ảo
tưởng ban đầu của quằn chúng nhân dân đồi với chế độ mới.
Nội chiến tháng sáu và sự thất bại của cách mạng: Quốc hội lập hiến khai
mạc ngày 4-5-1848, đa sồ đại biểu là nhũng người Cộng Hịa ơn hịa, cơng nhân
chì có 18/880 ghế. Chính phủ lâm thời từ chức. Quốc hội lập hiến thành lập một
chính phủ mới gọi là ủy ban chấp hành, chiếm đa số trong ủy ban là nhũng
người Cộng Hịa ơn hịa liên hệ chặt chẽ với đại tư sản.
17


Những hoạt động của Quốc hội lập hiền ngày càng tỏ rõ bản chát giai cấp tư
sản. Chính phủ bác bỏ đề nghị thành lập Bộ Lao động, quyền tự do báo chí bị
hạn chế gây ra những bất mãn trong nhân dân. Ngay cả chính sách ngoại giao
cũng làm nhân dân bất bình. Quốc hội thi hành chính sách ngọai giao phản dân
chủ, giúp đỡ cho Nga Hoàng đàn áp phong trào cách mạng ở Ba Lan ...
Trước bản chất phản động của Quốc hội, quần chúng nhân dân đã đứng lên
tổ chức các cuộc biểu tình, tuyên bố giải tán Quốc hội và địi thành lập một^
chính phủ mới với những đề nghị tiền bộ như: đánh thuế vào người giàu, tổ chức
lao động, giúp đỡ phong trào cách mạng Ba Lan... Cuộc biểu tình của quần
chúng nhân dân nhanh chóng bị đàn áp, các lãnh tụ phong trào bị bắt. Cuộc khởi
nghĩa bị dìm trong biển máu.
Thối trào cách mạng: sau khi tiêu diệt khởi nghĩa tháng 6, giai cấp tư sản
đã thiết lập một chế độ chính trị phản động với những cuộc khủng bố gắt gao.
Ngày 10/12/1848, họ đã tổ chức bầu cư tong thống. Bầu cử kết thúc vơi thắng cử
của Lui Napoleon Bonapac. Chính sách thống trị của Lui Napoleon Bonapac làm
mất hết những quyền tự do dân chủ của người dân. Khi mà nguỵ cơ cách mạng đã
giảm, mâu thuẫn trong nội bộ giũa phe Trật tự và Tồng Thống bắt đau nổi lên.
Giai cấp tư sản bên ngoài Quốc hội thấy rằng cuộc xung đột giữa Tồng Thống và
Quốc hội không có lợi cho họ, họ cần có một chính quyền mạnh, vì thế, họ ủng hộ
Louis Napoleon Bonapac để ơng tiếp tục cai trị một cách độc đoán. Louis

Napoleon Bonapac làm một cuộc đảo chính: vào ngày 2/12/1851. Một năm sau
ngày đảo chính, Louis Napoleon Bonapac lên ngịi hồng đế, lấy danh hiệu là
Napoleon III, lập ra Đế chế thử II. Nền Cộng Hòa II của Pháp chấm dứt.
Cách mạng thất bại vì sự phản bội của tư sản. Họ sẵn sàng đầu hàng thế lực
của Louis Napoleon Bonapac. Bản thân giai cấp cơng nhân chưa có một chính
đảng, chưa đủ sức giáo dục nông dân đe thiết lặp một liên minh cơng nơng vững
chắc, họ vẫn cịn ảo tưởng về nền Cộng Hòa, đến tháng 6/1848, ảo tưởng này
mới chấm dứt.
Cuộc cách mạng 1848 có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, nó tỏ rõ sự đối kháng giai
cấp trong xã hội lúc bấy giờ: tư sản - võ sản, đồng thời nó cũng vạch rõ sự phản
bội của giai cấp tư sản và chì rõ những thắng lợi mà giai cấp vó sản giành được
trong nhu’ng ngày tháng Sáu, do đó Mác viết: “Cách mạng đã chết, nhưng Cách
mạng muôn năm” [9,tr20].
Ở Italia, trong những nâm đầu thế kỷ XIX, nhân dân Italia bị đặt dưới sự
thống trị của phong kiến trong nước và phong kiến nước ngoài (Áo). Điều này
18


đã gây cho nhân dân Italia nhiều đau khổ. Vì vậy, một phong trào phản kháng
chính quyền của nhân dân do giai cáp tư sản liên minh với tầng lớp quí tộc mới,
đã phát triển trong nhũng năm 20 của thế kỷ XIX ở Italia.
Cách mạng bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa quân sự năm 1820 với sự tham gia
bí mật của những người Carbonarie. Tồ chức Carbonarie gồm những quí tộc, sĩ
quan, tư sản, trí thức cách mạng... Họ chủ trương giải phóng Italia thốt khỏi
Áo, thành lập một nước Italia thống nhất theo chính thể quân chủ lặp hiến, thực
hiện một số cài cách tư sản.
Cuộc đấu tranh của những người Carbonade tuy dũng cảm, những đã bị
Liên minh Thần thánh đàn áp. Nghĩa quân bị đánh tan vào cuối tháng 3 năm
1831, chế độ chuyên chế được lập lại ở Italia. Cuộc cách mạng 1821 ở Italia thất
bại khơng phải chì do sự can thiệp của liên minh Thần Thánh, mà còn do sự yếu

kém của bản thân phong trào, không liên kết được với quần chúng nhân dân.
Bước sang năm 1848, Italia bị chia cắt thành 7 nước lớn nhỏ khác nhau.
Trong số 7 vương quốc này, có hai bộ phận chịu sự thống trị trực tiếp của Áo,
số còn lai chịu ảnh hưởng gián tiếp của Áo. Ách áp bức nặng nề của phong kiến và
phong kiến Italia cùng với sự chia cắt đất nước làm cho nền kinh tế Italia chậm
phát triển. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XIX nền kinh tế Italia có những thay đổi lớn.

19


CHƯƠNG 3 SỰ SỤP ĐỔ CỦA TRẬT TỰ VIENNE
1.Phong trào cách mạng tư sản
Trong thời gian 1820-1823, cách mạng diễn ra ở Tây Ban Nha, đòi thực hiện
hiến pháp 1812 là bản hiến pháp mang tính chất tư sản ra đời trong cuộc cách
mạng lần thứ nhất (1808-1814). Tầng lớp tư sản tiến bộ, nơng dân và bình dân
thành thị là động lực của cuộc cách mạng. Đóng vai trị quan trọng là lực lượng
quân đội. Đại tá Saphaen Riêgô là lãnh tụ dũng cảm của phong trào. Trước cao trào
cách mạng, vua Phecđinăng VII phải thừa nhận hiến pháp 1812 và do đó một số cải
cách tư sản được tiến hành. Nhưng đến tháng 11-1823, quân Pháp theo lệnh của
Đồng minh thần thánh tiến vào đàn áp, Riêgô bị xử tử. Lãnh đạo phong trào là
những phần tử quý tộc sĩ quan cao cấp, họ không muốn thực sự tiến hành cải cách
dân chủ tư sản, không dám đi theo con đường cách mạng, không liên hệ với nhân
dân và khơng có khả năng lãnh đạo quần chúng. Đồng thời thế lực phản động trong
nước và sự can thiệp của Pháp đã dập tắt cuộc cách mạng.
Những sự kiện Tây Ban Nha đã kích thích phong trào cách mạng ở Ý. Dẫn
đầu phong trào là “Hội Cácbônari” - một tổ chức bao gồm tư sản, quý tộc tự do và
trí thức tiến bộ có chi nhánh ở hầu khắp nước Ý. Tháng 7 năm 1820, một trung
đồn ở Napơli đứng dậy khởi nghĩa đòi thực hiện hiến pháp tư sản. Cuộc khởi
nghĩa lan tràn nhanh chóng và đến tháng 1-1821 ngọn lửa cách mạng nổ ra ở
Piêmông. Nhưng Đồng minh thần thánh đã phái quân Áo sang can thiệp và dập tắt

phong trào. Sự thiếu liên hệ với quần chúng, tính chất cơ độc hẹp hịi là ngun
nhân chủ quan làm cho cuộc cách mạng yếu ớt, không thể đứng vững được.
Năm 1825, bộ phận quý tộc và sĩ quan tiến bộ ở Nga tập hợp trong “Đảng
Tháng chạp” tiến hành khởi nghĩa ở Pêtecbua và miền Nam nước Nga nhằm lật đổ
chính thể chun chế, địi xóa bỏ chế độ nông nô và thiết lập nền quân chủ lập
hiến. Nhưng vì thiếu tổ chức chặt chẽ và thiếu liên hệ với quần chúng, phong trào
chỉ thu hẹp trong phạm vi hoạt động bạo lực của một nhóm quân nhân nên bị chính
phủ đàn áp ngay.
Năm 1830, một cuộc cách mạng tư sản lại bùng nổ ở Pháp nhằm lật đổ nền
thống trị của triều đại Buôcbông. Thay thế vào đó là chính quyền qn chủ tháng
Bảy do Luy Philip làm vua, đại diện cho lợi ích của bộ phận đại tư sản ngân hàng
thuộc dòng quý tộc Ooclêăng. Đó chưa phải là chính phủ chung của giai cấp tư sản
mà mới ở trong tay một nhóm nhỏ những nhà quý tộc tài chính. Cho nên mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản nói chung với bộ phận tư sản cầm quyền là điều không
thể tránh khỏi và sẽ dẫn đến một cuộc cách mạng mới.
20


Cuộc cách mạng năm 1830 ở Pháp có tiếng vang lớn ở châu Âu. Phong trào
đấu tranh đòi độc lập và dân chủ bùng lên rất sôi nổi. Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa
dân tộc ở Ba Lan nhằm chống ách thống trị của nước Nga Sa hoàng được dư luận
rộng rãi trên thế giới ủng hộ nhưng cuối cùng cũng bị thất bại.
Cùng trong những năm 10 - 20 đầu thế kỷ XIX, phong trào chiến tranh giành
độc lập đã dâng lên ở các nước châu Mỹ la tinh. Nhân dân các dân tộc châu Mỹ latinh liên tiếp đấu tranh chống ách thống trị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Anh, dẫn
đến việc thành lập một số quốc gia độc lập như Achentina, Mêhicô, Braxin,
Côlômbia, Chilê. Các nước châu Âu và Đồng minh thần thánh âm mưu can thiệp
đàn áp phong trào cách mạng nhưng không thực hiện được. Sau khi được giải
phóng, các nước châu Mỹ la-tinh cịn duy trì nhiều tàn tích phong kiến lạc hậu làm
cho chủ nghĩa tư bản phát triển rất chậm chạp và trở thành miếng mồi ngon cho
bọn xâm lược nước ngoài. Tư bản Bắc Mỹ đặc biệt quan tâm đến khu vực này. Để

ngăn cản các nước ở châu Âu đặt chân vào vùng này và giữ độc quyền trong việc
xâm lược ở đây, năm 1823, tổng thống Mỹ Mơnrô đưa ra cái gọi là “Học thuyết
Mơnrô”. Nội dung chủ yếu được tóm tắt trong khẩu hiệu “châu Mỹ của người châu
Mỹ”. Nhưng thực ra, theo đuổi chính sách xâm lược và bành trướng, giai cấp tư
sản Mỹ âm mưu biến “châu Mỹ thành của nước Mỹ”. Thực tế hoạt động của đế
quốc Mỹ ở khu vực này càng bộc lộ dã tâm đó.
2 Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
Trong khi phong trào cách mạng tư sản khơng ngừng tiếp diễn thì kinh tế tư
bản chủ nghĩa đã có những bước tiến quan trọng. Nước Anh vẫn chiếm địa vị hàng
đầu trong nền kinh tế thế giới. Từ năm 1830, tốc độ phát triển cơng nghiệp ngày
càng tăng, việc sử dụng máy móc vào sản xuất ngày càng nhiều. Ngành luyện kim
và cơ khí phát triển rất nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu trang bị kỹ thuật tồn bộ nền
cơng nghiệp. Đồng thời, đường sắt tăng lên nhanh chóng: năm 1830 đường xe lửa
đầu tiên nối liền Mantretxtơ và Livơpun được khánh thành và đến năm 1850, nước
Anh đã có tới 10 ngàn km. Điều đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường trong
nước và tăng cường mối liên hệ kinh tế giữa các trung tâm công nghiệp. Tuy nhiên,
ngay trong thời kỳ phát triển, nền công thương nghiệp nước Anh cũng không tránh
khỏi khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn đầu tiên nổ ra vào năm 1825 và
tiếp đó theo chu kỳ 10 năm, những cuộc khủng hoảng khác đã xảy ra vào năm
1837 và 1847, gây ảnh hưởng tai hại tới tình hình kinh tế chung của các nước châu
Âu.
Nước Pháp đứng hàng thứ hai trong nền kinh tế thế giới. Cuộc cách mạng
công nghiệp đang trên đà phát triển. Số lượng máy hơi nước được sử dụng tăng lên
21


nhanh chóng: năm 1820 - 65 cái, 1830 - 616 cái, 1848 - 4853 cái. Sản lượng các
ngành công nghiệp nặng cũng tiến bộ rõ rệt: than năm 1832 là 225 nghìn tấn, đến
1846 lên 586 nghìn tấn; sắt và thép năm 1832 là 148 nghìn tấn và đến 1846 lên 373
nghìn tấn. Việc xây dựng đường sắt được đẩy mạnh: từ năm 1831-1841 dài 38 573 km, đến năm 1845-1847 dài 880 - 1832 km. Những tiến bộ đó làm cho trên

tồn lục địa châu Âu, cơng nghiệp Pháp là nền công nghiệp phát đạt hơn hết.
Nhưng tốc độ phát triển cịn chậm chạp, quy mơ cịn nhỏ bé vì sự tồn tại phổ biến
của chế độ tiểu nơng làm cho thị trường trong nước bị thu hẹp, nguồn cơng nhân
hạn chế, ngun liệu ít ỏi. Sự thống trị của chính quyền Luy Philip cũng là một trở
ngại lớn vì bọn q tộc tài chính chỉ chăm lo làm giàu bằng con đường biển lận, và
cho vay chứ không phải bằng cách phát triển sản xuất. Nước Pháp, theo quy luật
của chủ nghĩa tư bản cũng không tránh khỏi nạn khủng hoảng kinh tế và nhất là vụ
khủng hoảng năm 1847 đã gây nhiều tác hại nặng nề.
Nước Mỹ đã tiến hành xong cuộc chiến tranh giành độc lập từ giữa thế kỷ
XVIII nên có những điều kiện thuận lợi cho sự phát, triển kinh tế tư bản. Đặc điểm
của Mỹ là có sự khác biệt giữa ba vùng kinh tế. Ở miền Nam, chế độ đồn điền dựa
trên sức lao động nô lệ da đen được áp dụng rộng rãi. Ở miền Đông Bắc, chủ nghĩa
tư bản hầu như không gặp một trở ngại nào nên phát triển nhanh chóng. Cịn ở
miền Tây thì kinh tế trại chủ chiếm địa vị chủ yếu. Cuộc cách mạng công nghiệp
bắt đầu tiến hành đầu thế kỷ XIX từ ngành dệt rồi lan sang các ngành luyện kim,
công nghiệp nặng và đường sắt. Trong khoảng 1830-1837, lượng gang tăng 51%,
than tăng 266%. Trong khoảng 1830-1850, chiều dài đường sắt tăng từ 23 dặm đến
9.000 dặm. Tuy nhiên trong những năm 30 - 50 thế kỷ XIX, Mỹ vẫn là một nước
nông nghiệp, là thị trường cung cấp nguyên liệu cây công nghiệp cho châu Âu, chủ
yếu là cho Anh. Trong một thời gian dài, nền kinh tế Mỹ vẫn đóng vai trò “thuộc
địa của châu Âu”. Nguồn gốc chủ yếu của tình trạng đó là sự tồn tại của chế độ nô
lệ trong các đồn điền ở miền Nam. Bọn chủ nơ chiếm ưu thế trong chính quyền ít
quan tâm đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà lại gắn liền việc sản xuất với
thị trường nước Anh để bán bông và các nông sản khác. Sau cuộc khủng hoảng chu
kỳ đầu tiên 1837-1842, công nghiệp Mỹ mới phát triển mạnh mẽ. Việc phát hiện ra
mỏ vàng ở Caliphoócnia càng thúc đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa ở đó.
Trong nhiều nước khác ở châu Âu, tuy chưa tiến hành cách mạng tư sản,
nhưng nhân tố tư bản chủ nghĩa cũng đã nảy nở trong nền kinh tế mỗi nước. Mặc
dầu quan hệ phong kiến còn chiếm địa vị thống trị, nước Đức cũng đã có một số
chuyển biến nhất định tuy còn chậm chạp so với các nước trên. Quan hệ tư bản chủ

nghĩa phát triển mạnh mẽ nhất ở vùng sơng Ranh và Vétxphalen vì ở đó, nhân dân
22


được giải phóng một phần nào khỏi chế độ phong kiến (do ảnh hưởng của cách
mạng tư sản Pháp) và có nhiều ngun liệu hơn cả Beclin, thủ đơ của Phổ. Nó trở
thành một trung tâm cơng thương nghiệp của nước Đức, tập trung 1/3 sản xuất cơ
khí,và vải hoa của cả nước. Tuy nhiên, đến cuối những năm 40, hình thức cơng
nghiệp phổ biến vẫn là cơng trường thủ cơng, các cơng xưởng lớn cịn hiếm hoi. Sự
tiến bộ kỹ thuật thể hiện rõ rệt trong ngành vận tải, tầu thủy chạy bằng hơi nước
xuất hiện từ năm 1824 ở sông Ranh và con đường xe lửa đầu tiên được xây dựng
năm 1835. Sự tồn tại của chính quyền phong kiến và tình trạng phân cắt đất nước
là nguyên nhân chủ yếu cản trở bước tiến của chủ nghĩa tư bản ở Đức.
Nước Ý cũng có đặc điểm giống như Đức là chưa tiến hành cách mạng tư sản,
quan hệ phong kiến còn chiếm địa vị thống trị, đất nước bị chia cắt. Hơn thế nữa,
một bộ phận nước Ý còn bị Áo thống trị. Kinh tế Ý chủ yếu là nơng nghiệp. Chỉ có
ở miền Bắc, nhất là Lôngbacđia và Piêmông xuất hiện những công xưởng dệt vải.
Đến những năm 40, việc sử dụng máy móc mới bắt đầu được tiến hành.
Trong đế quốc Áo phong kiến, đa dân tộc, những yếu tố tư bản chủ nghĩa xuất
hiện khá sớm nhưng phát triển rất chậm chạp.
Chủ nghĩa tư bản không chỉ dừng lại trong công thương nghiệp mà đã bắt đầu
xâm nhập vào nông nghiệp. Việc kinh doanh ruộng đất theo lối tư bản chủ nghĩa
với kỹ thuật mới được áp dụng trong nhiều nước làm tăng sản lượng và chất lượng
nông phẩm.
Như vậy, trong nửa đầu thế kỷ XIX, nhất là trong khoảng 1815-1848, cuộc
cách mạng công nghiệp tiếp tục phát triển trong các nước lớn, đẩy nền kinh tế lên
một mức cao. Ở những nước khác, tuy chưa tiến hành cách mạng tư sản, kinh tế tư
bản chủ nghĩa cũng đã bước đầu giành được những thành tựu đáng kể. Tình hình
đó đã tạo nên một nguồn của cải vật chất phong phú và mở ra khả năng sản xuất to
lớn. Đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của mâu thuẫn xã hội. Bên

cạnh mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chế độ phong kiến, đã xuất hiện mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vơ sản. Điều đó tác động quan trọng đến sự
diễn biến của phong trào cách mạng trong phững năm giữa thế kỷ XIX.

23


KẾT LUẬN
Đại hội Vienne là một hội nghị với sự tham gia của đại sứ tất cả các quốc gia
châu Âu dưới sự chủ trì của chính khách người Áo và diễn ra tại Vienna từ tháng
11 năm 1814 đến tháng 6 năm 1815, mặc dù các đại biểu đã có mặt đầy đủ và bắt
đầu q trình đàm phán ngay từ cuối tháng 9 năm 1814. Mục tiêu của Đại hội là
tìm cách lập lại một nền hịa bình lâu dài cho châu Âu bằng cách giải quyết những
vấn đề phát sinh từ Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoleon. Mục
tiêu không chỉ đơn giản là khôi phục lại cương giới cũ mà còn thay đổi lãnh địa
của các cường quốc để tạo thế cân bằng và duy trì hịa bình. Các nhà lãnh đạo bảo
thủ khơng ủng hộ chủ nghĩa cộng hòa hay cách mạng, những thứ đang gây ra mối
đe dọa đối với trật tự phong kiến châu Âu. Pháp mất tất cả những lãnh thổ họ chinh
phạt được trong những năm gần đó, trong khi Áo, Phổ và Nga giành được nhiều
vùng đất béo bở. Phổ giành được những thành bang nhỏ hơn ở miền tây,
Pomerania thuộc Thụy Điển và 40% Vương quốc Saxony; Áo giành lại Venice và
phần lớn miền bắc Ý. Nga chiếm được một phần của Ba Lan. Vương quốc Hà Lan
mới được thành lập mấy tháng trước, bao gồm một số lãnh địa cũ của Áo mà năm
1830 trở thành Bỉ.
Tình hình trước mắt là Đế quốc Pháp của Napoleon bị đánh bại rồi đầu hàng
vào tháng 5 năm 1814, kết thúc 20 năm chiến tranh liên miên. Cuộc đàm phán vẫn
tiếp tục bất chấp việc Napoleon trốn thoát khỏi nơi lưu đày và nắm lại quyền lực ở
Pháp, tức Vương triều 100 ngày từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1815. Đạo luật cuối
cùng của Đại hội được ký 9 ngày trước khi ơng ta bị đánh bại hồn toàn tại
Waterloo ngày 18 tháng 6 năm 1815.

Hội nghị thường bị chỉ trích vì gây ra làn sóng đàn áp phong trào quốc gia và
phong trào tự do và nó được xem là một phong trào phản động phục vụ cho lợi ích
của chế độ quân chủ. Tuy nhiên, nhiều người khen ngợi nó vì nó tạo ra một thời kì
ổn định, hịa bình tương đối lâu dài cho phần lớn châu Âu.
Theo nghĩa chuyên môn, "Hội nghị Vienna" không hẳn là một hội nghị: nó
khơng bao giờ họp trong một phiên họp toàn thể và hầu hết các cuộc thảo luận diễn
ra khơng chính thức, mặt đối mặt, hội nghị giữa các cường quốc Áo, Anh, Pháp,
Nga và đôi khi có Phổ, hạn chế hoặc khơng có sự tham gia của các đại biểu khác.
Mặt khác, đây là lần đầu tiên trong lịch sử trên quy mô lục địa, đại diện các quốc
gia hội họp với nhau để đi đến một quyết nghị thay vì chủ yếu dựa vào thư tín từ
các thủ đơ. Đại hội Vienna đã hình thành nên khn khổ cho trật tự chính trị châu

24


Âu cho đến trước khi Đại chiến thế giới thứ nhất nổ ra năm 1914 dù có nhiều thay
đổi sau đó.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban, P.V. Quan hệ quốc tế nửa đầu thế kỷ XIX.
Lê Thị Thảo. (2016). Trật tự Vienne 1815-1871
Ninh, V.D. & Hồng, N.V. Phong trào cách mạng tư sản và sự phát triển của
chủ nghiac tư bản. Lịch sử thế giới cận đại. Nxb Giáo dục.
Thành, Đ.T. (2010). Lịch sử thế giới cận đại, tập 1. Nhà xuất bản Đại học sư
phạm.
Xương, L.T. (2002). Lịch sử thế giới, tập 3. Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
Vũ và nnk. (2010). Lịch sử quan hệ quốc tế (từ thời đầu cận đại đến kết thúc
thế chiến thứ hai). Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
Đại hội Viên. (2020). Wikipedia bách khoa toàn thư mở. Truy cập 10/11/2020
từ

/>%C3%AAn
Lịch sử thế giới cận đại, tập 1(2011). Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.

25


×