Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Về cách giải nghĩa từ tiếng việt (qua quyển từ điển đại nam quốc âm tự vị của huỳnh tịnh của)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG UYÊN

VỀ CÁCH GIẢI NGHĨA TỪ TIẾNG VIỆT (QUA QUYỂN
TỪ ĐIỂN ĐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ VỊ CỦA HUỲNH
TỊNH CỦA)
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGHÀNH: NGÔN NGỮ HỌC

MÃ SỐ: 60.22.01
NHDKH: TS. ĐỖ THỊ BÍCH LÀI

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012


MỤC LỤC
DẪN NHẬP

Trang
………………………………………………………………… 3

1. Đối tượng nghiên cứu, lí do lựa chọn đề tài ………………………………..3
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài ………………………………………………5
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài ……………………9
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiển ……………………………………………..11
5. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………...11
6. Bố cục luận văn ……………………………………………………………13
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ
1. Khái niệm từ điển, từ điển học, phân loại từ điển …………………………..14


1.1. Từ điển ……………………………………………………………14
1.2. Từ điển học ………………………………………………………..18
2. Khái niệm từ, ngữ. Phân loại từ xét về mục đích cấu tạo …………………..20
2.1. Khái niệm Từ, phân loại từ ………………………………………...20
2.2. Khái niệm Ngữ ……………………………………………………..22
2.3. Khái niệm về Câu …………………………………………………...24
2.4. Khái niệm về Thành ngữ …………………………………………...24
3. Nghĩa của từ và phương pháp miêu tả nghĩa của từ …………………………25
3.1. Nghĩa của từ

…………………………………………………….25

3.2. Phương pháp miêu tả nghĩa của Từ. ……………………………..26
4. Đôi điều giới thiệu về tác giả Huỳnh Tịnh Của và hoàn cảnh ra …………...27
đời của tác phẩm Đại Nam Quốc Âm Tự Vị.
4.1. Giới thiệu về Huỳnh Tịnh Của …………………………………...27
4.2. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Đại Nam quấc âm tự vị ………...28
TIỂU KẾT ………………………………………………………………32
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC VÀ CẤU TẠO CỦA CÁC
MỤC TỪ TRONG QUYỂN TỪ ĐIỂN ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ


1. Tổng quan về cấu trúc của quyển từ điển …………………………………33
1.1. Đối tượng và tính chất của quyển từ điển …………………………..36
1.2. Cấu trúc của quyển từ điển ………………………………………….38
2. Cấu tạo của các mục từ có trong quyển từ điển …………………………...40
2.1. Phạm vi mục từ ………………………………………………………40
2.2. Các loại mục từ ………………………………………………………42
2.2.1. Mục từ là từ đơn …………………………………………...44
2.2.2. Mục từ là một từ ghép ……………………………………..48

2.2.3. mục từ là láy ………………………………………………..49
2.2.4. Mục từ là một từ ngẫu hợp …………………………………49
2.2.5. Mục từ là một ngữ ………………………………………....50
2.3. Chính tả ………………………………………………………………….52
Tiểu kết
CHƯƠNG III: CÁCH GIẢI NGHĨA TỪ TIẾNG VIỆT TRONG QUYỂN
TỪ ĐIỂN ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ
1. Nguyên tắc giải nghĩa chung của quyển từ điển …………………………..62
1.1.

Giải nghĩa bằng một từ ……………………………………………..62

1.2.

Giải nghĩa bằng một ngữ ……………………………………………65

1.3.

Giải nghĩa bằng một câu …………………………………………….70

2. Cách giải nghĩa các nhóm từ cụ thể trong đại nam quốc âm tự vị ………….75
2.1. Nhóm từ cổ ……………………………………………………………78
2.2. Nhóm từ đã có sự biến đổi so với hiện tại ……………………………..80
2.3. Giải nghĩa các thành ngữ - tục ngữ …………………………………..83
3. Nhận xét chung về cách giải nghĩa từ tiếng việt ở giai đoạn cuối ……………93
thế kỷ XIX qua cách giải nghĩa của Đại Nam quấc âm tự vị.

TIỂU KẾT



KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


3

DẪN NHẬP
1. Lí do lựa chọn đề tài
Cũng giống như tôn giáo, ngôn ngữ là một dạng kiến trúc thượng tầng tồn tại
bền vững, trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngơn ngữ
là phương tiện hoàn hảo, đáp ứng được tất cả các nhu cầu truyền tải thông tin của con
người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ giao tiếp vạn năng như vậy là vì nó song
hành cùng con người, từ lúc mới xuất hiện cho đến tận ngày nay và chưa bao giờ đánh
mất vai trị của mình. Phương tiện giao tiếp này được bổ sung và hoàn thiện dần theo
lịch sử tiến hoá của nhân loại, theo những trào lưu và xu hướng tiếp xúc văn hoá có từ
cổ xưa đến tận ngày nay. Ngơn ngữ cũng cần có sự phát triển và khơng thể tồn tại lằm
ngồi quy luật phát triển, sự biến đổi của ngơn ngữ diễn ra tuần tự dần dần và chịu sự
ảnh hưởng từ sự biến đổi xã hội. Tiếng việt không nằm ngoài quy luật biến đổi ấy, bắt
đầu từ thời kỳ ngàn năm bắc thuộc,Việt Nam chịu ảnh hưởng nền văn hóa Trung Hoa,
tư tưởng Nho gia nên chữ viết của người Việt lúc bấy giờ là chữ Hán và đến sau
khoảng thế kỷ thứ 10 thì xuất hiện thêm chữ Nơm, một dạng chữ tượng hình dễ viết dễ
nhớ hơn chữ hán. Tuy có nhiều ưu điểm hơn nhưng chữ Nôm vẫn chỉ sử dụng giới hạn
trong một bộ phận nhất định và không được các học giả tri thức yêu chuộng, chữ Nôm
tồn tài song song với chữ Hán nhưng vẫn không thể chiếm ưu thế hơn chữ Hán. Đến
thế kỷ 16 khi các giáo sĩ Tây phương đầu tiên đến Việt Nam và giao tiếp với ngôn ngữ
Việt, rồi vì nhu cầu mà bắt đầu ghi lại tiếng Việt dưới dạng chữ La tinh. Từ những mẫu
tự La Tinh đầu tiên đã tạo tiền đề để sau một thế kỷ chữ quốc ngữ đã ra đời phát triển
rực rở dưới sự đón nhận rộng rãi từ mọi tầng lớp nhân dân đánh bật chữ Hán và chữ
Nôm trở thành ngơn ngữ chính thức mà ngày nay ta hay gọi là chữ quốc ngữ. Cũng
giống như mọi ngôn ngữ, chữ quốc ngữ đi từ thô sơ ban đầu đến sự hoàn thiện như

ngày nay là cả một quá trình,tìm hiểu về cách giải nghĩa của từ tiếng việt giai đoạn đầu
chính là cách ta nhìn nhận rỏ hơn về quá trình phát triển của tiếng Việt


4

Trong buổi bình minh của nền văn học chữ Quốc Ngữ, khi mà chữ Hán – Nôm
vẫn chiếm vị thế tộc tơn trên văn đàn, chữ Quốc Ngữ cịn bị khoát áo ngoại xâm, bị
giới tri thức Nho gia thời bấy giờ đồng loạt bài trừ, những ai có ý định tiếp nhận hay sử
dụng chữ Quốc Ngữ đều bị cho là có xu hướng thân Tây, bán nước. Trong hoàn cảnh
ấy Huỳnh Tịnh Của cùng với Trương Vĩnh Ký hai học giả tiếp nhận nền giáo dục Tây
phương hiện đại nhận thức rỏ sử tiến bộ và ưu việt của chữ Quốc Ngữ đã dũng cảm
đứng lên làm ngọn cờ tiên phong đưa chữ Quốc Ngữ tiếp cận gần hơn với người Việt
bản địa, đóng góp rất nhiều cơng lao trong việc phổ biến chữ Quốc Ngữ vào quảng đại
quần chúng. Khơng nhìn nhận sự việc theo quan điểm chính trị, chúng ta phải khẳng
định Huỳnh Tịnh Của và Trương Vĩnh Ký thật sự là hai người có cơng rất lớn đối với
sự ra đời và thông dụng của chữ Quốc Ngữ ngày nay. Vậy mà trong khi học giả
Trương Vĩnh Ký được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và nhận định khá đầy đủ, số
lượng sách báo nói về nhà văn Ki- Tơ giáo này cũng nhiều thì Huỳnh Tịnh Của được
nhắc đến ít hơn, sơ sài hơn và cho đến hiện giờ số lượng những bài nghiên cứu tường
tận về cuộc đời và sự nghiệp biên khảo của ơng cũng cịn rất hạn chế. Do đó cơng lao
của ơng cho văn hóa dân tộc cịn chưa được tơn vinh đúng mức.
Huỳnh Tịnh Của đóng góp rất nhiều tác phẩm hay cho nền văn học đầu thế kỷ
XIX, đáng kể nhất chính là bộ tự điển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị tác phẩm đưa tên tuổi
của ông trở thành bất tử. Đại Nam Quốc Âm Tự Vị ra đời vào năm 1898 những năm
cuối cùng của thế kỷ XIX nên có rất nhiều học giả đã xếp bộ tự điển này vào giai đoạn
đầu thế kỷ XX để tiện bề so sánh với các bộ tự điển ra đời cùng thời kỳ này cách nhau
chỉ đỗ vài thập kỷ. Tuy nhiên là tác phẩm tự điển giải nghĩa tiếng Việt bằng tiếng Việt
đầu tiên của Việt Nam, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị có cái nhìn hướng nghiên cứu xác
hơn, gần hơn với ngôn ngữ tiếng Việt những năm cuối thế kỷ XIX và những năm đầu

của thế kỷ XX so với các tác phẩm cùng thời, đặc biệt là vốn phương ngữ Nam Bộ và
thành ngữ - tục ngữ phong phú được sử dụng trong tác phẩm là một kho tàng vô giá
cho những học giả muốn nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ thời kỳ đầu.


5

Tiếng Việt là ngơn ngữ mn hình vạn trạng, sự kỳ diệu và phức tạp của tiếng
Việt thể hiện qua cách biến hóa của 26 chữ cái. Sự hình thành phát triển của các từ ngữ
thật kỳ diệu, có những chữ ra đời ngay từ ngày đầu trải qua ba thế kỷ vẫn khơng hề có
sự thay đổi về cả cách viết lẫn ý nghĩa ban đầu của nó và cũng có rất nhiều chữ tiếng
Việt ngày nay ta sử dụng ý nghĩa hiện tại của nó đã xa rời hồn tồn với nghĩa ban đầu,
có rất nhiều từ ngữ xưa mà ngày nay ta khơng cịn dùng đến nữa hay những từ mà đơi
lúc ta tưởng là mới hóa ra ơng cha ta đã dùng nó từ rất lâu. Sự kỳ diệu khi nghiên cứu
lịch sữ của ngôn ngữ, từ sự hình thành, ra đời, phát triển và biến đổi của ngôn ngữ cho
đến việc vay mượn, sự đồng hóa ngơn ngữ ngoại lai. Tất cả những yếu tố đó như
những mãnh ghép đa dạng ghép thành một bức tranh ngôn ngữ hiện đại đầy màu sắc
mà ở đây chúng tơi chỉ có thể đi vào tìm hiểu sơ lược về những mãnh ghép đầu tiên về
sự hình thành và biến đổi của tiếng việt ở giai đoạn cuôi thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
thông qua việc khảo sát bộ tự điển mà theo chúng tôi là đại diện tiêu biểu nhất cho hình
ảnh ngơn ngữ thời kỳ này, bộ Đại Nam Quốc Âm Tự Vị.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu từ điển nói chung và từ điển xuất bản ở Việt Nam nói riêng đã
được giới ngôn ngữ học quan tâm đến rất nhiều, việc khảo sát, nghiên cứu, nhận xét về
một quyển từ điển nào đó hầu như là một cơng việc ln đi sát theo sau khi có một
quyển từ điển được ấn hành. Có rất nhiều tác giả lớn, nhiều quyển từ điển có giá trị về
mặt nghiên cứu lịch sữ cũng như ứng dụng thực tế như cuối thế kỷ XIX đến nữa đầu
thế kỷ XX thì ta có những nhà từ điển lớn : J.Bonnet, M.Genibrel, Huỳnh Tịnh Của,
Đào Văn Tập, Thanh Nghị, Văn Tân, Hội Khai Trí Tiến Đức…giai đoạn nữa sau thế
kỷ XX đến hiện nay thì có: Hồng Phê, Vương Lộc, Đỗ Hữu Châu, Hồng Văn Hành,

Chu Bích Thu, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Ngọc Trâm, Đào Thản, Bùi Khắc Việt,
Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Đức Tồn, Lê Khả Kế, Phạm Hùng Việt, Nguyễn Văn Tu,
Nguyễn Nhã Bản…đã có nhiều cơng trình nghiên cứu bàn luận về các tác phẩm từ điển
ra đời ở Việt Nam.


6

Đại Nam Quốc Âm Tự Vị là tác phẩm từ điển giải thích tiếng Việt đầu tiên ra
đời vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi mà phong trào sử dụng chữ quốc ngữ đang
được cổ súy và phát triển rầm rộ. Trước khi có bộ từ điển này thì ta chỉ có một vài
quyển từ điển đối dịch tiếng Việt như: Dictionnarie Annamitico – Tatium ( 1899) của
J.Bonnet, Dictionnarie Annamite – Francais ( 1896) của M.Genibrel và Annam –
Lusitan – Latin xuất bản ở Roma năm 1651 ( thường gọi là từ điển Việt – Bồ - La), đây
là quyển từ điển đối dịch tiếng Việt cổ nhất thường do các cố đạo Tây Ban Nha sử
dụng trong việc truyền giáo ở Việt Nam ngày trước.
Trong giai đoạn nữa đầu thế kỷ XX, cùng thời với quyển Đại Nam Quốc Âm Tự
Vị của Huỳnh Tịnh Của còn có bốn quyển từ điển tiêu biểu là: Việt Nam Tự Điển (
1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức; Tự Điển Việt Nam Phổ Thông (1951) của Đào Văn
Tập; Tự Điển Việt Nam của Lê Văn Đức; Việt Nam Tân Từ Điển( 1952) của Thanh
Nghị;. Những quyển từ điển này đều mắc nhiều lỗi khác nhau và chưa đạt đến trình độ
là một quyển từ điển giải thích nghĩa tiếng Việt hồn chỉnh tuy nhiên nó cũng có những
đóng góp to lớn tích cực cho cơng cuộc xây dựng và biên soạn bộ từ điển tiếng Việt
hoàn chỉnh về sau.
1.Từ Điển Tiếng Việt đây là cơng trình của một nhóm nghiên cứu do Văn Tân
chủ biên, xuất bản đầu tiên năm 1967 và tái bản có bổ sung và chỉnh lý vào năm 1994.
2. Tự Điển Việt Nam của Lê Văn Đức, xuất bản năm 1970
3. Từ Điển Tiếng Việt của Viện nghiên cứu ngôn ngữ học, quyển này được biên
soạn dưới sự chỉ đạo của GS Hoàng Phê, xuất bản năm 1988 và sau đó tái bản có
chỉnh lý nhiều lần. Đây được xem là quyển từ điển có uy tín nhất trong giai đoạn hiện

nay.
Giai đoạn từ nữa cuối thế kỷ XX đến hiện nay, ngành từ điển học phát triển rầm
rộ, số lượng các tác phẩm từ điển ra đời ngày một nhiều và phong phú trên tất cả các
lĩnh vực không chỉ đáp ứng nhu cầu tra cứu mà góp phần trong cơng tác hướng dẫn,
giảng dạy. Các nhà biên soạn từ điển đương đại đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu của đại đa


7

số đọc giả và người nghiên cứu từ điển. Tuy nhiên do sự hạn chế về dung lượng nên
trong luận văn này chúng tôi chỉ xin dẫn ra ba quyển từ điển giải thích mà chúng tơi
cho là hồn chỉnh nhất hiện nay.
Còn về các bài nghiên cứu của các tác giả đương đại luận văn xin liệt kê ra đây
một số tác phẩm tiêu biểu sau:
1. Hoàng Phê, Nguyễn Ngọc Trâm, Một số vấn đề về từ điển học ( Qua việc biên
soạn Từ điển tiếng Việt) Tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1993.
2. Vương Lộc, Một vài nhận xét về từ điển giải thích của ta, Tạp chí Ngơn ngữ số
3, năm 1993.
3. Đỗ Hữu Châu, Một số ý kiến về việc giải nghĩa từ trong Từ điển tiếng Việt, Tạp
chí Ngơn ngữ số 2, năm 1969.
4. Đọc Từ điển tiếng Việt phổ thông Tập I, Tạp chí Ngơn ngữ số 3 năm 1991.
5. Đại từ điển tiếng Việt, Một cơng trình nghiêm túc và thiết thực, Báo Nhân dân
19/3/1999.
6. Nguyễn Văn Tình, Từ điển tiếng Việt năm 2000, những thành tựu đáng ghi
nhận, Báo Nhân dân ngày 12/12/2000.
7. Nguyễn Ngọc Trâm, Một vài nhận xét về cấu trúc vĩ mơ của Từ điển giải thích
tiếng Việt ,( trong Một số vần đề về từ điển học), Nxb KHXH HN, 1997.
8. Chu Bích Thu, Một số nét về cấu trúc vĩ mơ của Từ điển giải thích trong Một số
vấn đề về từ điển học, Nxb KHXH HN, 1997.
9. Đào Thản, Hệ thống các kiểu chú trong Từ điện tiếng Việt, (trong Một số vần đề

về từ điển học), Nxb KHXH HN, 1997.
10. Bùi Khắc Việt, Vấn đề thu thập và giải thích thuật ngữ trong từ điển (trong Một
số vấn đề về từ điển học), NXb KHXH HN. 1997.
11. Nguyễn Đức Tồn , Về phương pháp biên soạn Từ điển đồng nghĩa tiếng Việt
(trong Một số vần đề về từ điển học), Nxb KHXH HN , 1997.


8

12. Lê Khả Kế, Một vài suy nghĩ về Từ điển song ngữ, (trong Một số vấn đề về từ
điển học), Nxb KHXH HN , 1997.
13. Nguyễn Văn Tu, Về việc giải thích từ nhiều nghĩa trong Từ điển tiếng Việt, Tạp
chí Ngơn ngữ số 2 , 1969.
14. Hồng Văn Hành ( Chủ biên)
-

Từ điển Từ Láy tiếng Việt, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1994.

-

Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Nxb KHXH HN, 1994.

15. Hồng Phê, Phân tích ngữ nghĩa, Tạp chí Ngơn ngữ số 5, 1975.
16. Phạm Hùng Việt, Về việc biên soạn từ điển cở lớn trên cơ sở ứng dụng thông
tin để xây dựng ngân hàng dữ liệu và hổ trợ cho công tác biên soạn, Tạp chí
Ngơn ngữ số 15, 2002.
17. Nguyễn Nhã Bản, Từ điển phương ngữ - một dạng thức đối chiếu đặc biệt, Tạp
chí Ngơn ngữ số 5, năm 2000.
18. Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Tâm, Từ điển Trung – Việt, Tạp chí Ngơn ngữ
số 4, 1992.

Ngồi ra cũng phải kể đến một số luận án, luận văn đi sâu nghiên cứu về Từ điển
như:
1. Phạm Xuân Chương, Nhận xét về cấu tạo và cách đối dịch trong quyển Từ
điển giải thích thuật ngữ Công nghệ thông tin Anh – Anh – Việt, Luận văn thạc sĩ,
trường Đại học KHXH&NV, 2006.
2. Nguyễn Bích Vân, Khảo sát về cấu tạo và cách giải nghĩa của quyển Từ điển
Y học Anh – Việt, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học KHXH&NV, 2004.
3. Nguyễn Thị Thanh Thúy, Trường từ vựng - ngữ nghĩa và cách đối dịch trong
quyển Từ điển Máy tính Anh – Anh – Việt, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học
KHXH&NV, 2007.
4. Đặng Thái Minh, Từ điển Điện tử tần số tiếng Việt, với các tiện ích phục vụ
ngơn ngữ học so sánh, Luận án tiến sĩ, trường Đại Học KHXH&NV, 1999.


9

5. Trương Thùy Hương, Khảo sát về cấu tạo và cách đối dịch của quyển Từ điển
Danh từ từ thư viện thông tin Anh – Việt, Luận văn thạc sĩ, trường

Đại Học

KHXH&NV, 2006.
6. Lê Thị Diệu Anh, Xây dựng Từ điển Ẩn dụ tiếng Việt, Luận văn thạc sị, trường
Đại Học KHXH&NV, TPHCM, 2009.
7. Lê Thị Minh Nghuyệt, Cấu trúc vị mô và cấu trức vi mô của Từ điển song ngữ,
chuyên nghành Y học, Luận văn thạc sĩ, trường Đại Học KHXH&NV-TPHCM, 2004.
8. Nguyễn Thị Hường, Về vấn đề xây dựng Từ điển đối chiếu thuật ngữ Y học Anh
- Việt và Việt - Anh, Luận văn thạc sĩ, trường Đại Học KHXH&NV TPHCM, 2003.
Riêng về các tác phẩm nghiên cứu về Huỳnh Tịnh Của và đại Nam Quốc Âm Tự
Vị thì cho đến nay ngồi cơng trình nghiên cứu; Huỳnh Tịnh Của và cơng trình biên

soạn bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Nguyễn Văn Y ra thì chỉ cịn một số bài viết hay
một số tác phẩm khái quát chung chung về cuộc đời, sự nghiệp và một số tác phẩm tiêu
biểu của ông chứ chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề Cấu tạo và cách
giải nghĩa của các từ trong quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Vì vậy có thể nói
luận văn của chúng tơi là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về đối tượng này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1 . Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Để đánh giá đúng về một quyển từ điển nào đó ta phải xem xét nó trên nhiều
yếu tố khác nhau, có nhiều học giả, tác giả, nhà biên soạn từ điển đã đưa ra nhiều tiêu
chí để đánh giá khác nhau. Luận văn xin trích ra đây quan điểm đánh giá của tác giả
Chu Bích Thuỷ, trong 12 tiêu chí chung nhất mà tác giả đưa ra chúng tơi đã thu thập và
trình bày một cách ngắn gọn thành 6 tiêu chí sau đây:
1. Có bảng từ đầy đủ nhất theo yêu cầu của người dùng
2. Có những thơng tin bách khoa cung cấp kiến thức chung cho người dùng
3. Có cách giải thích dễ hiểu, có ví dụ minh hoạ cách sử dụng trong ngữ lưu
4. Có các thơng tin về chính tả, cách phát âm, về phong cách sử dụng


10

5. Có các giải thích về ngữ cố định ( Thành ngữ, Tục ngữ)
6. Có các thơng tin về ngữ pháp như từ loại, về các phụ lục cần thiết như đơn vị
đo lường, dụng cụ phương tiện.
Xuất phát từ quan điểm đánh giá như vậy về đối tượng nghiên cứu, luận văn của
chúng tơi hướng đến những mục đích và nhiệm vụ chính sau đây:
1. Khảo sát, phân tích, nhận xét về phương diện cấu tạo của quyển từ điển, cụ
thể là: khảo sát, phân tích, nhận xét các loại mục từ, số lượng mục từ, chính tả của
quyển từ điển.
2. Khảo sát, phân tích, nhận xét và thơng qua đó hướng tới mục đích làm sáng tỏ
về cách giải nghĩa của quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cụ thể là xem xét vấn

đề này trên phương diện cách thức giải nghĩa.
3. Từ kết quả nhận xét trên, đưa ra nhận định về cách giải nghĩa chung cho từ
tiêng vIệT cuối thế kỷ XIX.
Từ ba nhiệm vụ trên đây luận văn của chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện thêm một
nhiệm vụ nữa, đó chính là từ những nghiên cứu của mình chúng tơi sẽ đi đến nhận định
về công lao của soạn giả Huỳnh Tịnh Của trong hoạt động làm phong phú hơn cho vốn
từ vựng nước nhà. Tuy nhiên do sự giới hạn về dung lượng cơng trình và thời gian
thực hiện cũng như hạn chế về mặt năng lục của người thực hiện nên nhiệm vụ này chỉ
có tính chất bước đầu.
3.2 . Phạm vi nghiên cứu
Khi bàn về cách giải nghĩa của từ tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
thông qua quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, luận văn chủ
yếu muốn hướng đến việc xây dựng cách giải nghĩa của từ tiếng Việt nữa cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX trên cơ sở nghiên cứu quyển Từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự
Vị của Huỳnh Tịnh Của. Trong quá trình nghiên, cứu luận văn cịn nghiên cứu tổng
quan về cấu trúc của quyển từ điển và cấu tạo của các mục từ có trong quyển từ điển
trên.


11

Tuy nhiên, muốn nhận định đúng mức giá trị của bộ từ điển này, luận văn sẽ đặt
nó vào vị trí thời gian và khơng gian khi nó xuất hiện, nếu trong q trình nghiên cứu
chúng tơi có so sánh nó với một vài bộ từ điển ra đời sau này thì cũng chỉ là muốn làm
cho mọi người hiểu rỏ nghĩa của một số từ cổ, từ lạ mà ngày nay gần như khơng cịn
dùng đến hoặc nghĩa của nó đã biến đổi nhiều và cũng muốn nhận rỏ cái tài làm tự điển
của nhà văn biên khảo Huỳnh Tịnh Của chứ không bao giờ nên căn cứ vào đó mà phê
phán giá trị tác phẩm.
Để giúp mọi người có một cái nhìn tương đối đầy đủ, chính xác mà không phải
mất qua nhiều thời gian, mỗi điểm nhận xét về cấu tạo hay cách giải nghĩa của tác

phẩm chúng tôi chỉ đưa ra một số dẫn chứng tiêu biểu vừa đủ, không quá dài để mọi
người hiểu rỏ hơn về cách cấu tạo và cách giải nghĩa từ tiếng Việt mà tác giả sử dụng
trong quyển từ điển này.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiển
Việc nghiên cứu về cách giải nghĩa của từ tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX thông qua quyển từ điển Việt Nam Quấc Âm Tự Vị có những ý nghĩa lí luận
và thực tiển sau:
4.1. Ý nghĩa lí luận
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần khẳng định thêm lý thuyết
xây dựng từ điển, các công việc và nhiệm vụ cần thiết nhất cho việc biên soạn một tác
phẩm từ điển.
4.2. Ý nghĩa thực tiển
Qua kết quả khảo sát, phân tích và nhận xét của cơng trình này, có thể có những
điều bỏ ích cho việc sửa chữa, bổ sung về hai phương diện cấu tạo và cách giải nghĩa
của quyển từ điển đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tơi có sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. phương pháp thống kê


12

Trong luận văn này chúng tôi sủ dụng phương pháp thống kê đối với các nhiệm
vụ: thống kê mục từ, thống kê các loại mục từ xét về mặt cấu tạo, về cách giải nghĩa.
Từ các con số thống kê có tính định lượng sẽ đưa ra những nhận xét có tính định chất
về vấn đề được đặt ra.
5.2. phương pháp miêu tả phân tích cấu trúc ngữ pháp
Một trong những nhiệm vụ của luận văn là khảo sát mặt cấu tạo của quyển từ
điển, vì vậy ngữ liệu của quyển từ điển cũng được xử lý từ góc độ cấu tạo, cấu trúc ngữ
pháp cho nên luận văn của chúng tôi đã vận dụng phương pháp miêu tả, phân tích cấu

trúc ngữ pháp.
5.3. phương pháp phân tích ngữ nghĩa
Muốn khảo sát, phân tích, nhận xét về các vấn đề giải nghĩa, cách thức giải
nghĩa trong quyển từ điển nói trên chúng tơi cịn vận dụng phương pháp phân tích ngữ
nghĩa trong q trình xử lý tư liệu từ đó đưa ra kết luận về đối tượng.
5.4. phương pháp so sánh đối chiếu
Đề tài nghiên cứu mà luận văn chúng tôi hướng đến là cách giải nghĩa của tiếng
Việt cuối thế kỷ XIX thông qua quyển từ điển Đại Nam Quốc Âm Từ Vị. Tuy rằng đây
là một quyển từ điển giải thích đơn ngữ nhưng do tác phẩm này ra đời vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX nên từ ngữ và cách giải nghĩa trong quyển từ điển này cịn có
nhiều từ rất lạ và hiện nay có khi khơng cịn dùng đến hay một số nét nghĩa đã phai
nhạt ít nhiều vì vậy luận văn sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu ngữ nghĩa với
một vài từ điện hiện đại nhằm mục đích giúp người đọc hiểu rỏ hơn nghĩa của các từ cổ
và cách thấy được sử chuyển biến của ngôn từ.
Một trong những ngun tắc cơ bản trong nghiên cứu đó chính là khơng bao giờ
suy diễn bất kỳ điều gì mà khơng căn cứ trên những dữ kiện xác thực, trình bày thành
thực những gì mình tim hiểu được, nêu ra những quan điểm nghiên cứu của bản thân
trên cơ sở tìm hiểu, tiếp thu kiến thức giáo khoa và thông tin có sẳn.
6. Bố cục của luận văn


13

Luận văn của chúng tơi gồm 120 trang, ngồi phần dẫn nhập và phần kết luận ra
luận văn có ba chương chính như sau:
Chương I có tiêu đề là: “Một số vần đề chung về lý thuyết cơ sở”. Trong đó
chúng tơi trình bày một số khái niệm chung về từ, cách giải nghĩa của từ, khái niệm về
từ điển, từ điển học và giới thiệu sơ lược về quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị.
Chương II có tiêu đề: “Tổng quan về cấu trúc của quyển từ điển Đại Nam
Quấc Âm Tự Vị Và cấu tạo của các mục từ trong quyển từ điển đó”. Trong đó

chúng tơi trình bày các vấn đề về bẳng từ, mục từ, chính tả, về cấu tạo của quyển từ
điển và các trường từ vựng ngữ nghĩa có trong quyển từ điển.
Chương III có tiêu đề là: “Cách giải nghĩa từ tiếng Việt qua quyển từ điển
Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của”. Trong đó, chúng tơi trình bày các
phương pháp giải nghĩa theo nghĩa chung của quyển từ điển, giải nghĩa các trường hợp
từ cổ, từ địa phương, các thành ngữ tục ngữ có trong quyển từ điển. Nêu ra một số
đánh giá mang tính cá nhân về cách cấu tạo và cách giải nghĩa của bộ tự điển.


14

CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ
1. KHÁI NIỆM VỀ TỪ ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HỌC VÀ PHÂN LOẠI TỪ ĐIỂN
Để thực hiện đề tài này, chúng tơi đã lựa chọn và nhất chí với quan điểm của tác
giả Nguyễn Thiện Giáp trình bày trong quyển Cơ sở ngơn ngữ học đại cương (2008),
Nxb KHXH, ngồi ra cũng tham khảo thêm ý kiến của các tác giả; Mai Ngọc Trừ, Vũ
Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến đã trình bày trong quyển Cơ sở ngơn ngữ học và
tiếng Việt (2006), Nxb Giáo Dục, về các khái niệm sau đây: Từ, Ngữ, Câu, Thuật ngữ,
Từ điển giải thích, Từ điển đối chiếu.
1.1 Từ Điển
1.1.1. Định nghĩa
Theo tác giả Phạm Hùng Việt (trong chuyên đề Một số vấn đề về từ điển và từ
điển học, giảng dạy tại lớp Cao học chun nghành Ngơn ngữ học), trên thế giới có rất
nhiều định nghĩa về từ điển, có thể dẫn ra đây một vài định nghĩa sau:
- Từ điển là loại sách xử lí từng đơn vị từ vựng của một ngơn ngữ (hoặc đặc
trưng nào đó của một số từ ngữ), được sắp xếp theo một trật tự nhất định để dễ tra tìm,
thường là trật tự chữ cái, mơ tả từ ngữ về chữ viết, phát âm, nguồn gốc và lịch sử, hoặc
một mặt nào đó. Ở những từ điển loại lớn, ngồi thơng tin được cung cấp cịn kèm theo

ví dụ trích dẫn văn học.
- Từ điển là một tập hợp các đơn vị từ vựng của ngôn ngữ hoặc một lĩnh vực
hoạt động của con người, được sắp xếp theo trật tự chữ cái, mỗi đơn vị được cung cấp
một lượng thơng tin nào đó về ý nghĩa, đồng thời cung cấp cách sử dụng phổ biến
- Từ điển là sách tra cứu của các từ (hoặc hình vị, tổ hợp, kết hợp cố định…)
được sắp xếp theo một trật tự nhất định (với các loại từ điển khác nhau), giải thích ý


15

nghĩa các đơn vị, cung cấp các thông tin khác về chúng, dịch chúng sang ngôn ngữ
khác hoặc cung cấp thông tin về đối tượng mà chúng biểu thị.
- Quyển sách giải thích và liệt kê các từ của một ngơn ngữ hoặc dịch các từ đó
ra một hoặc nhiều ngôn ngữ khác và thường sắp xếp theo thứ tự a, b, c.
Ở Việt Nam, nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về từ điển như:
Từ điển là sách tra cứu các từ ngữ, xếp theo thứ tự nhất định.
(Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nguyễn Như Ý Chủ biên, Nxb Giáo Dục, tái
bản lần thứ 4, 2005.)
Trong luận văn này, chúng tơi nhất trí với định nghĩa của tác giả Hoàng Phê
trong quyển Từ điển tiếng Việt
(Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển, 2005)
Từ điển là sách tra cứu tập hợp các đơn vị ngôn ngữ (thường là đơn vị từ vựng)
và sắp xếp theo một thứ tự nhất định, cung cấp một số kiến thức cần thiết đối với từng
đơn vị.
1.1.2. Phân loại từ điển
Từ điển thường được chia làm nhiều loại, nhưng có hai loại từ điển phổ biến là
từ điển giải thích và từ điển đối chiếu.
Từ điển giải thích: hay cịn gọi là từ điển một ngơn ngữ. Nhiệm vụ của từ điển
này là giải thích ngữ nghĩa, cách sử dụng các từ trong một ngôn ngữ, ví dụ như từ điển
giải thích tiếng Việt, từ điển giải thích tiếng Anh, từ điển giải thích tiếng Nga, v.v…

Từ điển đối chiếu: đây là loại từ điển đối chiếu các từ của một ngơn ngữ nào đó
với một hoặc nhiều ngôn ngữ khác. Từ điển đối chiếu hai ngôn ngữ gọi là từ điển song
ngữ, từ điển đối chiếu ba ngôn ngữ gọi là từ điển tam ngữ, từ điển đối chiếu nhiều ngôn
ngữ gọi là từ điển đa ngữ. Ngồi ra từ điển đối chiếu cịn có thể đối chiếu từ tồn dân
với từ địa phương, v.v…
1.1.3. Đặc điểm của từ điển


16

Các định nghĩa trên đây có cách trình bày, diễn đạt, phân tích khác nhau, nhưng
đều tập trung phản ánh một số đặc điểm của từ điển. Cũng theo tác giả Phạm Hùng
Việt, từ điển có những đặc điểm chính sau đây:
a). Đặc điểm về mục đích sử dụng:
Từ điển là sách tra cứu hoặc cịn gọi là sách cơng cụ. Nếu ở các sách thơng
thường nội dung được trình bày từ đầu đến cuối, các chương, phần liên kết với nhau
theo trật tự logic, thì trong từ điển mỗi mục từ được xử lý riêng biệt và độc lập tương
đối. Người sử dụng không đọc từ điẻn từ đầu đén cuối mà chỉ cần tìm tịi lời giải thích
cho chính điều cụ thể đang đặt ra. Để phục vụ tra cứu, các đơn vị trong từ điển được
sắp xếp thao một trật tự nhất định, thường là trật tự hình thức để người đọc dễ tìm
kiếm.
b). Đặc điểm về tính khách quan, chuẩn mực của thơng tin:
Thơng tin trong từ điển – một loại sách tra cứu, phải có tính khách quan, tính
tiêu chuẩn. Từ điển khơng phải là một cơng trình sáng tác, các thơng tin trong từ điển
không phải là những kiến giải, những luận chứng, ý kiến cá nhân mà là sự đúc kết hiểu
biết từ tri thức truyền thống của nhân loại, từ thực tế sử dụng ngôn ngữ, từ thành quả
và kết quả nghiên cứu ngơn ngữ hiện thời. Nói cách khác, thơng tin trong từ điển có
tính chất giáo khoa, tính điển chế.
c). Đặc điểm về cung cấp thông tin:
Đơn vị được cung cấp thơng tin trong từ điển là kí hiệu ngơn ngữ như từ, hình

vị, tổ hợp từ cố định,… có nghĩa là từ điển cung cấp thông tin về ký hiệu. Tuy nhiên, từ
ln gắn với sự vật mà nó hiển thị. Nghĩa của từ được hình thành trong nhận thức của
người nói qua sự liên tưởng giữa vỏ ngữ âm của từ với khái niệm và sự vật mà nó biểu
thị. Do đó trong từ điển vừa có những thơng tin về ký hiệu, vừa có những thơng tin về
sự vật. Điều này thể hiện rỏ nhất trong từ điển giải thích, từ điển song ngữ. Loại từ điển
chỉ cung cấp thơng tin về kí hiệu là từ điển chính tả, từ điển viết tắc, từ điển ngữ
pháp… và chỉ cung cấp thông tin về sự vật là từ điển bách khoa, từ điển chuyên môn…


17

d). Đặc điểm về cấu trúc:
Từ điển là một công trình cấu trúc đơi. Bên trái cuốn từ điển, xét theo chiều dọc,
là bảng kê danh mục từ ngữ được xếp theo một trật tự nhất định. Danh mục này được
chọn lựa theo yêu cầu, mục đích tính chất của quyển từ điển và tạo thành cấu trúc chặt
chẽ trong toàn bộ quyển từ điển, gọi là cấu trúc vĩ mô. Cấu trúc vĩ mô của từ điển là
một chỉnh thể nghiêm ngặc, mỗi đơn vị tồn tại trong đó đều có lí do quan hệ với những
đơn vị khác. Bên phải cuốn từ điển là khối ngữ liệu được cắt ngang với một đoạn văn
bản độc lập, tạo thành cấu trúc vi mô. Cấu trúc vi mô biểu thị tồn bộ hệ thống thơng
tin khác nhau, và những hệ thống này được lấp đầy bởi những thông tin cụ thể trong
mỗi từ cụ thể..
Có những sách tra cứu mà lý do nào đó tính chất điển chế bị hạn chế, tính hệ
thống trong cấu trúc cịn tùy tiện, lỏng lẻo, thì người ta khơng gọi là từ điển (sổ tay
dùng từ, sổ tay phương ngữ,…). Ngược lại có những tác phẩm không mang tên từ điển,
không sắp xếp theo trật tự hình thức, nhưng lại là từ điển đích thực chẳng hạn; Nhĩ Nhã
của Trung Quốc biên soạn cách đây hơn 3000 năm, sắp xếp theo đề tài, là quyển từ
điển ý niệm xưa nhất thế giới; Cũng được sắp xếp theo đề tài, Vân đài loại ngữ của Lê
Quý Đôn là từ điển bách khoa đầu tiên của Việt Nam.
1.1.4. Cơng dụng của từ điển
Trên thế giới có nhiều người gọi từ điển là thầy giáo không dùng lời. gọi là thầy

giáo vì từ điển dạy con người nhiều điều, cho ta kiến thức, hiểu biết trong suốt cả đời.
Những tri thức, thông tin mà từ điển cung cấp thể hiện cụ thể ở mấy dạng sau:
a). Cung cấp thông tin liên quan đến các mặt từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp, chử
viết, phát âm… Giúp người đọc nắm chắc và nhuần nhuyễn phương pháp biểu đạt của
ngôn ngữ, nâng cao trình độ ngữ văn. Đó là cơng dụng của từ điển một thứ tiếng (từ
điển đơn ngữ).


18

b). Cung cấp kiến thức để sử dụng một ngôn ngữ khác (trong đó có mức độ:
đọc hiểu được, dịch xuôi, giao tiếp, dịch ngược hoặc viết bằng ngôn ngữ khác). Đó là
cơng dụng của từ điển song ngữ.
c). Cung cấp hiểu biết sâu sắc về một lĩnh vực, đó là công dụng của từ điển bách
khoa.
d). Cung cấp hiểu biết về thuật ngữ chuyên môn, từ ngữ khoa học kỹ thuật trên
cơ sở nắm vững tiếng mẹ đẽ. Đó là công dụng của từ điển chuyên môn.
Trong số những từ điển ngơn ngữ, loại từ điển giải thích chuẩn có vai trị quan
trọng trong việc tiêu chuẩn hóa ngơn ngữ. Tính tiêu chuẩn hóa của loại từ điển này thể
hiện ở mọi thông tin được cung cấp: Các đơn vị được chuẩn hóa về chử viết phát âm,
về nguồn gốc từ nguyên, về đặc điểm ngữ pháp và lời giải thích nghĩa.
1.2 Từ Điển Học
1.2.1 Định nghĩa
Từ điển học là một bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu về lí luận và kĩ thuật biên
soạn các loại từ điển. (Một số vần đề về từ điển và từ điển học)
Đây là một nghành học quan trọng của ngôn ngữ học ứng dụng. Mặt dù trên thế
giới, từ điển đã tồn tại trải qua mấy ngàn năm và ngày càng phát triển phong phú đa
dạng, nhưng lí luận về từ điển học mới chỉ hình thành hơn nữa thế kỷ nay gắn với tên
tuổi L.Sherba, Kacaret, L.Zgusta…
Lí luận từ điển học tập trung nghiên cứu và giải quyết vấn đề cơ bản là:

Loại hình của từ điển và các loại từ điển
Nghiên cứu về cấu trúc vĩ mô của từ điển
Nghiên cứu về cấu trúc vi mơ của từ điển
Ngồi ra gần đây các nhà ngơn ngữ học cịn tập trung nghiên cứu về các vấn đề
lịch sữ từ điển và nhất là vấn đề công nghệ biên soạn từ điển, tức là việc áp dụng
những phương pháp của công nghê thơng tin vào cơng tác từ điển.
1.2.2. Vị trí của từ điển học


19

Là một môn ứng dụng quang trọng của ngôn ngữ học, từ điển học có vị trí đặt
biệt.
a). Từ điển học có quan hệ chặt chẽ với từ vựng học. Đơn vị của cấu trúc vĩ mô
từ điển (nhất là từ điển ngôn ngữ) chủ yếu là đơn vị từ vựng ngôn ngữ. Để cung cấp
thông tin cho mục từ, cần khảo sát toàn diện đặc điểm từ vựng, đặc biệt là về ý nghĩa từ
vựng. Cho nên nhiều chuyên luận về từ vựng học có những chương về từ điển học,
ngược lại một số cơng trình từ điển học cũng có phần đầu hay phần cuối bàn về từ
vựng học. Từ thực tế đó, nhiều người coi từ điển là bộ phận của từ vựng học.
b). Tuy nhiên trong cấu trúc vi mơ của từ điển khơng chỉ có những thơng tin về
từ vựng, mà cịn có những thơng tin về ngữ pháp, ngữ dụng, tu từ,… Tức là nhà từ điển
phải quan tâm và áp dụng thành quả nghiên cứu của nhiều bộ môn khác nhau của ngôn
ngữ. Mặt khác, trong quá trình xây dựng và phát triển, từ điển học đã hình thành hệ lí
thuyết và phương pháp của mình. Chẳng hạn, nguyên tắc xây dựng cấu trúc vĩ mơ, cấu
trúc vi mơ, vai trị của dữ liệu từ điển, các kiểu giải thích từ điển, phương pháp trình
bày, cách chuyển chú,… Những thành quả trong nghiên cứu và phát triển từ điển học
cũng có tác động trở lại, thúc đẩy sự nghiên cứu của bình diện ngôn ngữ khác, như từ
vựng học, ngữ pháp học, ngữ nghĩa học… Nhấn mạnh đặc trung này, nhiều người cho
rằng từ điển học là một bộ môn của ngôn ngữ học.
c). Là một bộ môn của ngôn ngữ học ứng dụng. Từ điển học có mối quan hệ

trực tiếp với sự phát triển của sự nghiệp văn hóa giáo dục. Từ điển phản ánh những tri
thức xã hội, những kiến thức khoa học hiện đại dưới dạng cô đọng hoặc dầy đủ. Lúc
này những vấn đề của từ điển học đã vượt ra khỏi phạm vi của ngôn ngữ học. Hơn nữa,
từ điển học là một trong những bộ môn của ngơn ngữ học có điều kiện ứng dụng khoa
học kĩ thuật hiện đại, đặc biệt là phương pháp và thành quả của công nghệ thông tin.
Việc xây dựng ngân hàng dữ liệu trên máy tính với hệ thống tra cứu nhanh, đa diện đã
thay thế những kho phiếu tư liệu khổng lồ. Chương trình biên soạn từ điển trên máy
tính, cơng tác mã hóa từ điển, những phương tiện multi-media… đang thu hút nhiều


20

chun gia tin học và ngơn ngữ học. Có thể nói, từ điển học hiện đại cịn mang tính
chất một công nghệ.
Như vậy, tuy là một bộ môn thuộc ngôn ngữ học, nhưng từ điển là một lĩnh vực
nghiên cứu đặc thù có nhiệm vụ và phương pháp của một bộ môn độc lập.
5. KHÁI NIỆM TỪ- NGỮ -CÂU, PHÂN LOẠI TỪ XÉT VỀ MỤC ĐÍCH CẤU
TẠO
2.1. Khái niệm Từ, Phân loại Từ
5.1.1. Khái niệm từ
Trong luận văn này như đã nêu ở trên chúng tôi đồng ý với khái niệm về từ
được nêu ra trong tác phầm Cơ sở ngôn ngữ học đại đương của tác giả Nguyễn Thiệt
Giáp. Tuy rằng trong ngơn ngữ học có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về từ
nhưng chung quy lại tất cả đều thống nhất với nhau về những đặc điểm nhất định như:
-

Là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa

-


Có khả năng vận dụng độc lập

-

Có thể tái hiện tự do trong lời nói

Như vậy, ta có thể đi đến một định nghĩa chung về từ:
Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hồn chỉnh, có
chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu.
5.1.2. Phân loại từ xét về mục đích cấu tạo
Chúng tôi chấp nhận quan điểm cho rằng xét về mặt cấu tạo thì trong tiếng Việt
có thể phân loại từ như sau:
a) Từ đơn: Là từ được cấu tạo bằng một tiếng.
Vi dụ: nhà, xe, cây, hoa ,tôi, bạn, anh,chị, gió, mây, mưa, trời, đất, vui, buồn …
b) Từ ghép: Là những từ có hai hay nhiều tiếng được ghép lại với nhau, giữa các
tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa.
Vi dụ: Anh em, Ông bà, Cha mẹ, Non sông, Hoa lá, Tươi sáng, Thanh bạch,
May vá, Nấu nướng, Công ty, Nhà văn…


21

Từ ghép gồm có: Từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ
Từ ghép đẳng lập: Chợ búa, Chân tay, Xinh đẹp, Đầu đuôi, Sống chết, Vui
buồn, Sáng tối…
Từ ghép chính phụ: Máy may, Máy bay , Làm việc, Vùng biển, Xe lửa, Nhà
thơ, Vui mắt, Xanh lè, …
c) Từ láy: Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, và các yếu tố cấu tạo
nên chúng có thành phần ngữ âm được lặp lại.
Kết hợp tiêu chí số lượng tiếng với các bộ phận giống nhau trong từ, có thể phân

từ láy thành các loại sau:
* Từ láy đơi: Là từ láy gồm có 2 tiếng. Có các dạng cấu tạo láy đơi sau:
- Từ láy bộ phận: Thường giống nhau ở phần vần hoặc phần phụ âm đầu. Giống
nhau ở phần phụ âm đầu gọi là láy âm, giống ở phần vần gọi là từ láy vần.
Ví dụ:
Tứ láy âm: Xinh xắn, Đẹp đẽ, dễ dàng, đơng đúc, tươi tắn, thanh thốt, mềm
mại…
Từ láy vần: Chói lọi, khéo léo, co ro, lanh chanh, lu bù, lao xao, mảnh khảnh,
lều khều…
- Từ láy hoàn toàn: Ngoài trừ các từ láy bộ phận, còn lại là các từ láy hoàn toàn.
Cụ thể gồm các dạng:
Giống cả phần vần, phụ âm đầu và thanh điệu.
Ví dụ: Xanh xanh, đỏ đỏ, đùng đùng, lù lù, cười cười, hiền hiền…
Giống phụ âm đầu, phần vần, khác nhau về thanh điệu
Ví dụ : đu đủ, cỏn con, đo đỏ, tim tím…
Giống nhau ở phụ âm đầu và âm chính, khác nhau ở thanh điệu và âm cuối do
sự chi phối của quy luận dị hóa.
Ví dụ: đèm đẹp, bàn bạt, sành sạch, tôn tốt, …
* Từ láy ba và láy tư


22

Từ láy ba thường dựa trên cớ chế láy hoàn tồn. Ví dụ: Sạch sành sanh, cỏn cịn
con, nhũn nhùn nhun, khít khìn kịt, xốp xồm xộp, sát sàn sạt…
Láy tư: Hăm hăm hở hở, vội vội vàng vàng, lảm nhản làm nhàm, bồi hổi bồi
hồi…
d) Từ ngẫu hợp: Các tiếng tổ hợp với nhau một cách ngẫu nhiên. Lớp từ này có
thể bao gồm những từ gốc thuần Việt, những từ vay mượn gốc Hán, những từ vay
mượn gốc Ấn - Âu ….

Ví dụ: Cà phê, a xít, xà phịng, a pha tít, cổ hũ, mè nhèo, ba láp, ba hoa, bồ
hóng, xi măng…
2.2. Khái niệm về Ngữ:(Đoạn ngữ)
Một nhóm các từ có liên hệ trực tiếp với nhau ở trong câu goi là tổ hợp từ, xét
theo mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành tổ hợp từ, người ta phân biệt tổ hợp từ
thành 3 loại: tổ hợp từ có quan hệ chủ vị, tổ hợp từ có quan hệ bình đẳng, tổ hợp từ có
quan hệ chính phụ. Loại tổ hợp từ thứ ba này được gọi là một đoạn ngữ.
Theo Nguyễn Thiện Giáp: Ngữ là cụm từ sẳn có trong ngơn ngữ, có giá trị
tương đương với từ, có nhiều đặc điểm giống từ;
- Chúng có thể tái hiện trong lời nói như các từ
- Về mặt ngữ pháp chúng cũng có thể làm thành phần câu, chúng cũng có thể là
cơ sở để cấu tạo nên các từ mới.
- Về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu hiện những hiện tượng của thực tế khách
quan gắn với những kiểu hoạt động khác nhau của con người.
Trong ngơn ngữ biến hình hay ngơn ngữ đơn lập thì ngữ danh từ, ngữ động từ,
ngữ tính từ là ba loại quan trong nhất. Cấu tạo chung của chúng là bao gồm một thành
tố chính( head) và một thành tố phụ ( modifucation). Nếu thành tố chính là danh từ , ta
có ngữ danh từ, nếu thành tố chính là động từ thì ta có ngữ động từ, nếu thành tố chính
là tính từ thì ta có ngữ tính từ.


23

Thuộc tính cơ bản nhất thường thấy ở các loại ngữ đoạn dù ở bất kỳ mơ hình
cấu trúc nào cũng đều có hai loại: mang tính thành ngữ (idiomatic) và một đơn vị kết
hợp khơng mang tính thành ngữ (non-idiomatic). Do vậy, dựa trên bình diện ngữ nghĩa
và cấu trúc bên ngồi, có thể xác định hai thể loại ngữ đoạn chủ yếu là ngữ chức năng
(functional expressions) hay còn gọi là ngữ cố định và ngữ kết hợp (composite units)
còn gọi là ngữ tự do.
Ngữ kết hợp ( ngữ tự do) là cấu trúc cú pháp, thể hiện sự kết hợp về mặt thành

tố cấu trúc của các đơn vị cấu thành (constituent structure). Việc nhận diện và phân
tích thể loại cấu trúc này thường đơn giản hơn so với thành ngữ chức năng. Người học
có thể dựa trên qui tắc cấu trúc cụm từ, cấu trúc thành tố (phrase structure rules) để
phân tích. Ngữ đoạn ở thể loại này có thể được chia thành hai nhóm dựa trên phạm trù
ngữ pháp và phạm trù từ vựng (grammatical and lexical categories).
Ngữ chức năng: là những ngữ đoạn cố định thường rất dễ nhận ra trong ngơn
bản bởi tính ổn định (stable) và thuộc tính thành ngữ (idiomatic) trong cấu trúc khơng
thể phá vỡ được của nó. Đó là các cơng cụ diễn đạt có sẵn của ngơn bản (discoursestructuring device. Ngữ cố định trong tiếng Việt có thể được hiểu là một nhóm từ ngữ
(các đơn vị “tiếng”) đi liền kề nhau được cố định hóa, mang tính chất chặt chẽ, sẵn có,
bắt buộc …VD: “Chờ hết nước hết cái” (theo Giáo sư Đỗ Hữu Châu) là một ngữ cố
định. Nghĩa của nó khơng phải nghĩa từng đơn vị “tiếng” cộng lại như thường thấy
trong tiếng Việt. Do tính cố định hóa, do tính chặt chẽ mà các “ngữ cố định” ít hay
nhiều đều có tính thành ngữ (idiom).Ngữ cố định là một lọai phương tiện, một biện
pháp mà bất cứ ngơn ngữ nào cũng có nhằm khác phục một phần nào tính hữu hạn của
từ (hay” tiếng” trong tiếng Việt), tính khơng hàm súc, khơng cơ đọng trong lời nói. Vì
thế, để xác định được nghĩa các “ngữ cố định”, ta cần đối chiếm nó với các nhóm từ,
các từ tự do khác về phương diện ngữ nghĩa. Có đối chiếu như thế, ta thấy hầu như tất
cả các ngữ cố định đều có cấu trúc ngữ nghĩa của một nhóm từ tự do. Đây chính là đặc
trưng cơ bản của ‘ngữ cố định”.


×