Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SKKN giúp học sinh lớp 1 viết đúng, viết nhanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.17 KB, 18 trang )

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I - THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Giúp học sinh lớp 1 viết đúng, viết nhanh”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục và Đào tạo.
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Hằng

Giới tính: Nữ

Ngày, tháng, năm sinh: 01/8/1974
Trình độ chun mơn : Đại học Sư phạm
Chức vụ: Giáo viên lớp 1
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Vân Trường
Điện thoại: 0934352255

Email:

Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến:

100%

4. Đồng tác giả (nếu có):
Họ và tên:

Giới tính:

Ngày, tháng, năm sinh:
Trình độ chun mơn:
Chức vụ:
Đơn vị cơng tác:
Điện thoại:



Email:

Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến:

%

5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến (nếu có):
Tên đơn vị:
Địa chỉ:
Điện thoại:
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Vân Trường
Địa chỉ: Thơn Qn Bác Đồi, xã Vân Trường, huyện Tiền Hải
Điện thoại: 0227 686 901
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 9/2018 đến tháng 12/2020.
1


II - BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Giúp học sinh lớp 1 viết đúng, viết nhanh.”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục và Đào tạo.
3. Mơ tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Như chúng ta đã biết, một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là
được đến trường, được học đọc, học viết. Biết đọc, biết viết thì cả một thế giới
mới rộng lớn mênh mông sẽ mở ra trước mắt các em. Tiểu học là bậc học nền
tảng, dạy Tiếng Việt và tập viết là chúng ta đã trao cho các em chìa khóa để mở
ra những cánh cửa bước vào tương lai, là công cụ để các em vận dụng suốt đời.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của

nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn
luyện cho học sinh tính cẩn thận, tính kỷ luật, lịng tự trọng đối với mình cũng
như đối với thầy cơ và bạn mình”.
Học chữ chính là cơng việc đầu tiên khi các em đến trường. Tập viết là một
phân mơn có tầm phần quan trọng đặc biệt ở tiểu học , nhất là đối với các em
lớp 1. Học vần, tập đọc giúp cho học sinh đọc thông viết thạo. Viết đúng, đẹp,
nhanh, rõ ràng học sinh có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các môn học tốt
hơn. Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cơ giáo đã
trăn trở, góp cơng, góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp
dạy học chữ viết. Tuy vậy, nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm, điều
đó ảnh hưởng khơng nhỏ tới các mơn học khác. Ngồi ra Tập Viết cịn góp phần
quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như:
Tính cẩn thận bền bỉ, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mỹ bởi người xưa nói: “Nét
chữ, nết người”.
Qua thực tế giảng dạy lớp 1, qua tìm hiểu học sinh tơi thấy:
- Học sinh lớp 1 viết chính tả nhìn chung đảm bảo tốc độ viết chữ theo
qui định.
- Có nhiều học sinh viết bài sạch sẽ, trình bày đẹp. chất lượng về vở sạch
chữ đẹp đều đạt kết quả cao trong các đợt kiểm tra.

2


Song bên cạnh đó, giáo viên và học sinh cịn gặp rất nhiều khó khăn trong
giờ học chính tả, luyện viết. Cụ thể:
- Học sinh còn viết sai nhiều về độ cao các con chữ (đặc biệt là ở những
bài chính tả đầu tiên), nét chữ chưa chuẩn, sai cách ghi dấu thanh.
- Một số học sinh còn ngọng: l- n, ch - tr, s - x… nên khi viết chính tả hay
mắc lỗi.
- Một số học sinh chưa nắm chắc qui tắc chính tả: ng-ngh, g-gh, c-k nên

khi gặp bài chính tả nghe-viết, học sinh dễ viết sai.
- Trong các buổi học, học sinh thường viết chính tả đẹp và đúng hơn khi
làm bài kiểm tra trong các đợt kiểm tra định kì.
- Học sinh khơng biết cách trình bày một bài viết chính tả (đoạn văn, đoạn
thơ hay bài thơ). Đặc biệt với bài thơ viết theo thể lục bát hoặc viết chính tả tập
chép, học sinh nhìn bài “mẫu” của giáo viên để chép và khi thấy giáo viên
xuống dịng ở đâu ( ở chữ nào) thì học sinh cũng xuống dịng ở chữ đó ( vì học
sinh không hiểu bản chất của vấn đề).
- Tư thế ngồi, cách cầm bút sai đa số các em ngồi cúi mặt với vở, người
cong vẹo, vai thấp , vai cao rất nhiều em cầm bút bằng 4 ngón, có em cầm bút
bằng 5 ngón có em cầm bút ngả về phía trước, cán bút vng góc với mặt vở.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với ý thức và lương tâm, trách nhiệm
nghề nghiệp của giáo viên, bản thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở. Trong giảng
dạy, tôi đã khơng ngừng tích lũy kinh nghiệm về chữ viết để sớm giúp các em
lớp 1 viết chữ đẹp, viết nhanh, ln tìm ra phương pháp dạy học thích hợp để
học sinh viết đúng, viết nhanh, góp phần giúp học sinh thuận lợi hơn khi học các
lớp trên, cấp học trên.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
- Mục đích của giải pháp:
Đề ra những biện pháp mới của cá nhân dựa trên quan điểm kế thừa ,
phát huy, cải tiến những biện pháp đã có và đề xuất thêm những biện pháp
mới, những biện pháp này khắc phục những hạn chế của giáo viên và học
sinh, phối hợp trong việc viết chữ chưa đẹp, chưa nhanh đồng thời với việc
nâng cao ý thức của giáo viên và học sinh, phối hợp việc giáo dục ở cả nhà
trường và gia đình.
3


- Nội dung giải pháp:
+ Khảo sát trình độ nhận biết mặt chữ, cách viết chữ của học sinh

Đây là một vấn đề quan trọng bởi vì trong thực tế chúng ta muốn tiếp cận
đối tượng của mình một cách thuận lợi thì trước hết phải hiểu được đối tượng
mà mình muốn tiếp cận. Mặc dù mới vào lớp 1 nhưng cũng có 1 số em đã được
học ở mẫu giáo, trong hè, các lớp luyện chữ….Qua khảo sát này giáo viên phân
loại được đối tượng để rèn luyện vì nếu các em đã biết viết mà viết sai thì rất
khó sửa chữa.
+ Nắm vững yêu cầu cơ bản của dạy tập viết, chính tả của lớp 1
Muốn năng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, người giáo viên cần
nắm vững các yêu cầu cơ bản của dạy tập viết ở lớp 1.
Kiến thức: Giúp học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ,
độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách
giữa các chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh và chữ số.
Kỹ năng: Viết đúng quy trình - nét, viết chữ cái và liên kết các chữ cái tạo
thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dịng
kẻ. Ngồi ra học sinh cịn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi viết, cách
cầm bút, để vở… bài kiểm tra cuối năm là bài tập chép một đoạn trong bài tập
đọc (không mắc quá 5 lỗi chính tả)
+ Đổi mới phương pháp giảng dạy
Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần hiểu rõ ý đồ của vở
tập viết. Cấu trúc mỗi bài gồm phần tập viết chữ cái và từ ứng dụng.
Ở vở tập viết lớp 1 thì cứ sau bài học vần có một bài tập viết thêm để học
sinh rèn luyện cách viết các chữ vừa học.
Các ký hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc, như: đường
kẻ ngang, quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên của chữ,
ký hiệu luyện viết ở nhà.
Ngay từ đầu năm học giáo viên cần quy định mẫu vở (5 ơ li),mẫu bảng 6
dịng kẻ, loại bút chì (2B). Tổ chức phân cơng cho học sinh ngồi theo đôi bạn
cùng tiến,em viết chữ đẹp, cẩn thận ngồi cạnh em viết chữ chưa đẹp, cẩu thả.
Các em này có thể quan tâm giúp đỡ nhau để cùng nhau tiến bộ hoặc có ảnh
hưởng theo chiều hướng tích cực trong học tập.

4


Thường xuyên kiểm tra đánh giá sửa chữa kịp thời.Việc đánh giá có hệ
thống và thường xuyên giúp giáo viên điều chỉnh chữ viết của học sinh, làm cho
các em thấy mình đã lĩnh hội những điều vừa học đến mức độ nào, các nét nào,
con chữ nào viết đẹp và chưa đẹp để phát huy và khắc phục. Giáo viên cần phải
luôn quan tâm đến đối tượng viết xấu, viết chưa đẹp, chưa nhanh, viết đẹp
nhưng chưa nhanh, viết nhanh nhưng chưa đẹp, chưa đúng mẫu, tìm hiểu
nguyên nhân ở các đối tượng này để có biện pháp giúp đỡ kịp thời giúp các em
tiến bộ. Giáo viên tuyệt đối khơng nóng vội khi rèn chữ viết, cần luyện viết ở
mức độ vừa phải, không nên luyện viết quá nhiều trong thời gian buổi học vì
như thế sẽ làm các em mỏi tay, chữ viết sẽ xấu đi.
Ví dụ : Theo chương trình có 2 tiết tập viết trong cùng 1 buổi, giáo viên
cần chia ra dạy một tiết vào tiết 1 và một tiết vào khoảng tiết 3. Trong q trình
dạy tập viết cần có những trị chơi thư giãn giúp các em thoải mái, cần “đi tận
chỗ, chỉ tận tay” để kịp thời động viên, khích lệ các em và phát hiện, điều chỉnh
kịp thời những lối sai sót.
Trong giờ dạy Tiếng Việt giáo viên cần ln luôn sử dụng bộ mẫu chữ
trong bộ chữ Tiếng việt làm đồ dùng trực quan cho học sinh quan sát. Phần viết
bảng của giáo viên phải luôn luôn chuẩn mực: cách đặt dấu thanh , khoảng cách
các tiếng trong từ , viết liền nét, cách trình bày bảng giáo viên ln cần phải chú
trọng về tính cẩn thận, thẩm mỹ vì điều đó ảnh hưởng rất lớn đến học sinh.
+ Rèn tư thế ngồi viết cho học sinh, kỹ thuật lia tay, viết trên không.
Ngay từ đầu năm học phải rèn cho các em ngồi học đúng tư thế, thoải
mái, tránh gị bó. Hướng dẫn kĩ càng và cho học sinh nắm chắc cầm bút, kĩ thuật
viết nét nối, rê bút, viết liền mạch (Là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược
laị với nét chữ vừa viết. Trong trường hợp này cần viết nhẹ tay, nếu viết nặng
tay nét chữ sẽ viết nhòe ra ), lia bút. (Kĩ thuật lia bút là thao tác đưa bút trên
không , được dùng khi viết một chữ cái hay viết nối các chữ cái với nhau để đảm

bảo tốc độ trong quá trình viết , nét bút vẫn thể hiện liên tục nhưng không chạm
vào giấy hoặc bảng)
+ Hướng dẫn học sinh nắm chắc quy ước , kí hiệu của giáo viên trong việc
dạy tập viết, chính tả.
Để xác định tọa độ dịng kẻ ơ li để khi dạy học giáo viên sẽ dễ dạy và
học sinh dễ tiếp thu. Với bản thân tôi quy định như sau; Với vở 5 ô li mỗi đơn
5


vị ơ li lớn có 6 dịng kẻ, vở tập viết có 5 dịng kẻ. Dịng kẻ dưới cùng là dòng kẻ
thứ nhất, các dòng kẻ khác là 2,3,4,5,6 theo thứ tự tiếp theo. Tương tự cũng quy
định với đường kẻ dọc như vậy, đường kẻ thứ nhất là đường kẻ đậm , các đường
kẻ dọc tương tự được tính như vậy. Ở giữa 2 dòng kể ( đường kẻ) là 1 ơ li được
tính theo chiều cao ( chiều rộng) và đơn vị gọi là ô li nhỏ. Cách xác định tọa độ
phải dựa vào đường kẻ dọc, dòng kẻ ngang, các ô li làm định hướng. Đây là
trong những điều kiện để dạy chữ viết thành một quá trình được thực hiện lần
lượt bởi các thao tác mà hành vi ngòi bút đi qua. Qua quy ước này giáo viên
phân tích cách viết để viết các con chữ, hướng dẫn các em xác định điểm đặt bút
(điểm bắt đầu), xác định điểm kết thúc, độ cao, rộng của các con chữ.
Ví dụ: Hướng dẫn viết nét khuyết trên được hướng dẫn như sau: Điểm đặt
bút( điểm bắt đầu) từ dòng kẻ ngang thứ hai, trước đường kẻ dọc thứ nhất nửa ơ
li nhỏ, đưa bút lên dịng kẻ ngang thứ ba (ngay tại vị trí dịng kẻ ngang thứ ba
cắt với đường kẻ dọc thứ nhất) đi qua rộng 1 ơ li lên đến dịng kẻ ngang thứ ba
cắt với đường kẻ dọc thứ nhất và kéo xuống theo đường kẻ dọc thứ nhất đến
điểm kết thúc là dòng kẻ ngang thứ nhất.
Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Nét khuyết trên cao mấy ô li và rộng
mấy ô? (cao 5 ô và rộng 1 ô). Lưu ý: Cần lưu ý ở đây là tất cả các con chữ có nét
móc hoặc nét xiên chiều rộng của nó khơng tính vào nhằm để học sinh xác định
được chiều rộng ô li một cách dễ dàng.
+ Dạy học sinh luyện chữ theo nhóm chữ có chung cấu tạo về nét, độ cao.

Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mỗi quan hệ về cách viết các chữ, sau
khi học xong các âm (chữ cái) giáo viên cần phải phân nhóm chung để luyện
tập cho học sinh
Nhóm 1: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x.
Trọng tâm rèn luyện là nét cong . Đây là nhóm chữ khó viết đẹp vì rất dễ méo,
khó trịn, trên to dưới nhỏ.Trong nhóm chữ này cần xác định tọa độ dựa vào
đường kẻ, điểm giữa của lưng nét cong phải đặt cân bằng chính giữa đường kẻ
(tức là điểm gặp dịng kẻ ngang thứ hai và cần cho học sinh nắm chắc chiều rộng
của các nét cong là 5 ô li (tức là 1 ơ li rưỡi).
Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc:
a, ă, d, đ, g

6


Trong nhóm này giáo viên cần lưu ý kế thừa luyện tập từ nhóm 1và luyện
tập nét móc ngược (Ở nét móc ngược này giáo viên có thể tách thành nét sổ
thẳng và nét hất nếu có học sinh viết chưa thẳng ở nét móc)
Nhóm 3: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, ư, p, m, n
Trong nhóm này cần luuw ý nét móc nhọn phía trước 1,5 ơ li.
Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong
phối hợp với nét móc): l, h, k, b, y, g. Với nhóm chưa cái này nét khuyết trên
đều có chiều rộng 1 ô li và lưu ý điểm gặp nhau ngay tại vị trí dịng kẻ ngang
thứ ba cắt với đường kẻ dọc .
Nhóm 5: Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét thắt:r,v,s . Đây là
nhóm chữ khó viết đẹp nhất , đặc biệt là chữ s và r. Giáo viên cần lưu ý 2 con
chữ này có độ cao là 2 ơ li rưỡi và sau nét thắt con chữ r là nét xuôi hơi ngang
đưa ra còn sau nét thắt cong chữ s là nét xuôi xuống đưa vào.
Trong dạy học bản thân tôi thấy về độ cao các con chữ các em rất dễ nắm
bắt nhưng về chiều rộng các em viết chưa đẹp vì thế khi dạy cần về chiều rộng

với các em.
Khi qua phần bài học vần, tiếng, giáo viên cần lưu ý các em cách viết liền
nét. Ở nét liền này cần kéo dài khoảng 1,5 ô li, nếu kéo dài quá nét chữ sẽ gây
phản cảm. Qua đến phần tiếng, từ cần lưu ý khoảng cách giữa các tiếng trong từ
là một vịng trịn khép kín ( hay là 1,5 ô).
+ Dạy học sinh kỹ thuật viết nhanh.
Để viết nhanh, trước hết học sinh cần nhớ mặt chữ, hình dáng, cấu tạo các
con chữ, vị trí ghi dấu thanh trên mỗi chữ tức là các em cần đọc tốt, tưởng tượng
tốt. Vì thế tơi cần chú ý đến việc rèn đọc và các biện pháp nâng cao chất lượng
đọc của mỗi học sinh.
Song song với việc rèn đọc, tôi chú ý rèn học sinh cách cầm bút đúng, tư
thế ngồi đúng. Để học sinh ngồi viết đúng tư thế, tôi cho các em đọc và làm theo
nội dung sau:
“Lưng thẳng, đầu hơi cúi, ngực khơng tì vào bàn,.
Tay phải cầm bút, tay trái giữ vở, hai chân để song song thoải mái.”
7


Để học sinh viết nhanh, tôi hướng dẫn học sinh cách lia bút, viết liền mạch, các
nét nối giữa các con chữ.
Ví dụ: Để viết con chữ

a, học sinh viết con chữ o sau đó khơng nhấc

bút mà viết ln nét móc ngược.
Ví dụ: Để viết

ng,

học sinh viết con chữ n không dừng bút, nhấc bút


để viết g mà đẩy tiếp và viết nét cong trái tạo nét cong kín, tiếp đến mới nhấc
bút để viết nét khuyết dưới..
Ví dụ: Để viết chữ

ngang, học sinh viết con chữ n không dừng

bút, nhấc bút để viết g mà đẩy tiếp và viết nét cong trái tạo nét cong kín, tiếp đến
mới nhấc bút để viết nét khuyết dưới để tạo con chữ g, cũng không nhấc bút mà
lia bút lên để tạo nét cong trịn khép kín của con chữ a, tiếp tục không nhấc bút,
viết tiếp con chữ n, nối con chữ g. Cách viết không nhấc bút, viết liền mạch
khơng chỉ giúp học sinh viết nhanh mà cịn tạo ra các nét đậm của các nét bút
đưa xuống, nét cong trái trong một số con chữ trong chữ vì các nét cong đó được
viết hai lần.
+ Các phương pháp giảngdạy:
Trong q trình dạy học bản thân tơi đã áp dụng những phương pháp dạy học sau:
- Phương pháp trực quan:
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường:
kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân
tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác
nhau của chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh
tương đồng.
Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều
kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn,
chữ phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu hắt, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp
chữ mẫu… Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúng mẫu quy định, rõ ràng
và đẹp.
8



Chữ mẫu có tác dụng:
+ Chữ mẫu phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu sẽ giúp học sinh dễ
quan sát, từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ
bản, cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học.
+ Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự
các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo
yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh.
+ Chữ của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được quan sát như một
loại chữ mẫu, vì thế giáo viên cần ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng.
Ngoài ra, để việc dạy chữ không đơn điệu, giáo viên cần coi trọng việc xử
lý quan hệ giữa âm và chữ, tức là giữa đọc và viết. Do đó trong tiến trình dạy tập
viết, nhất là những âm mà địa phương hay lẫn, giáo viên cần đọc mẫu. Việc viết
đúng củng cố việc đọc đúng và đọc đúng đóng góp vai trị quan trọng để đảm
bảo viết đúng.
- Phương pháp đàm thoại gợi mở:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo
viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ
việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so sánh nét
giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ cái đã phân tích.
Ví dụ: Khi dạy chữ a, giáo viên có thể đặt câu hỏi: chữ a gồm có bao
nhiêu nét? là những nét nào? chữ a cao mấy ô? độ rộng của chữ là bao nhiêu?…
Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các em.
Vai trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích cấu
tạo chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau.
- Phương pháp luyện tập:
Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc
hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh dễ tiếp
thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước các cỡ chữ, sau đó
là viết đúng dịng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải
được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở

các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác. Cần lưu ý các hình
thức luyện tập cơ bản sau:
9


*Tập viết chữ vào bảng con của học sinh
Hình thức tập viết trên bảng có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết và bức
đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này dùng để kiểm tra bài
cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Từ đó,
giáo viên phát hiện những chỗ sai của học sinh để uốn nắn (sai về kích cỡ, hình
dáng, thứ tự các nét viết).
* Luyện viết trong vở:
Luyện viết trong vở tập viết: Muốn cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập
viết, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng viết của từng
bài (chữ mẫu, các dấu chỉ khoảng cách giữa các chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự
viết nét…) giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết.
Luyện viết trong vở ô li: Giáo viên cần viết mẫu cho toàn bộ học sinh
trong vở cho đến khi học hết phần âm ( chữ cái). Sau khi chuyển sang phần học
vần , tiếng, từ giáo viên có thể chọn 1 số em viết chưa đẹp để viết mẫu( nếu lớp
quá đông)
Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp:
Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng ở tất cả các môn học là cần
thiết. Có như thế, việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ và thường
xuyên. Việc làm này yêu cầu người giáo viên ngồi những hiểu biết về chun
mơn cịn cần có sự kiên trì, cẩn thận và lịng yêu nghề - mến trẻ.
* Đổi mới phương pháp dạy học:
Muốn cải tiến quy trình dạy tập viết, điều khơng thể thiếu được là phải đổi
mới phương pháp dạy học, tiết tập viết càng cần phải tạo điều kiện để học sinh
chủ động tiếp nhận kiến thức (tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập
và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

Có thể thực hiện những yêu cầu trên theo quy trình tiết tập viết như sau:
A. Khởi động:
- Trong phần khởi động của giờ tập viết, học sinh viết bảng con (1 - 2 em
viết bảng lớp) chữ cái và từ ứng dụng ngắn gọn ở bài trước. Giáo viên hướng
dẫn chữa bài trên bảng (dùng phấn màu sửa chữ viết sai hoặc chưa đúng mẫu),
sau đó gợi ý để học sinh tự sửa chữ đã viết trên bảng con và giơ bảng cho giáo

10


viên kiểm tra, uốn nắn thêm (chú ý động viên kịp thời những học sinh viết đẹp
tiến bộ.
B. Bài mới:
1- Giới thiệu bài: - Nêu nội dung và yêu cầu tiết dạy.
2- Hướng dẫn học sinh viết chữ:
- Giáo viên đưa chữ mẫu cho học sinh quan sát.
- Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận biết, so sánh: Chữ gì? Gồm mấy nét?
Nét nào đã học, giống chữ nào đã học, phần nào khác?… (Có thể cho học sinh
chỉ vào chữ mẫu trên bảng)
- Giáo viên hướng dẫn quy trình viết chữ:
+ Sử dụng chữ mẫu để học sinh quan sát.
+ Viết mẫu trên khung chữ thật thong thả cho học sinh theo dõi (ghi nhớ
thứ tự các nét).
+ Viết mẫu trên dòng kẻ ở bảng lớp (hoặc trên bảng con) để học sinh nắm
vững quy trình viết chữ c. Giáo viên viết mẫu sau đó dùng que chỉ lại để mơ tả
quy trình.
- Học sinh tập viết trên bảng con, giơ bảng để giáo viên kiểm tra uốn nắn,
nhận xét kết quả (chú ý về hình dáng, quy trình).
3- Hướng dẫn học sinh viết ứng dụng:
- Giáo viên giới thiệu nội dung viết ứng dụng và viết nội dung từ ứng

dụng; sau đó gợi ý học sinh hiểu ý nghĩa từ ứng dụng sẽ viết.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét về cách viết ứng
dụng (chú ý đến các điểm quan trọng: độ cao các chữ cái, quy trình viết liền
mạch - nối chữ, khoảng cách giữa các chữ cái, đặt dấu ghi thanh…).
- Giáo viên viết mẫu minh họa cách nối chữ (do giáo viên xác định trọng
tâm ở bài dạy), học sinh theo dõi.
- Học sinh tập viết theo trọng tâm nối chữ do giáo viên chọn (chữ ghi
tiếng - từ có thao tác nối). Giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn và nhận xét.
4- Học sinh thực hành luyện viết trong vở tập viết:

11


- Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung luyện viết trong vở (viết chữ gì? viết
mấy dịng? cần lưu ý về điểm đặt bút ra sao? viết từ ứng dụng mấy dòng? cần
lưu ý về cách nối chữ và đặt dấu thanh, khoảng cách giữa các chữ ra sao?…)
- Học sinh luyện viết trong vở. Giáo viên theo dõi uốn nắn về cả cách viết
và tư thế ngồi viết (chú ý giúp đỡ học sinh yếu kém).
5- Chấm bài tập viết của học sinh:
- Giáo viên chấm bài cho học sinh đã viết xong ở lớp (số còn lại thu về
nhà chấm).
- Nhận xét kết quả chấm bài, khen ngợi những bài đạt kết quả tốt. Nếu bài
học dài, giáo viên có thể chọn dạy một nội dung tiêu biểu và học sinh luyện tập
theo nội dung tương ứng.
C. Củng cố dặn dò:
- Nhắc lại nét trọng tâm vừa học
- Viết vở rèn chữ viết ( mẫu in sẵn)
Bên cạnh những biện pháp tơi nêu trên, trong q trình rèn học sinh viết
đúng, viết đẹp tơi cịn chú ý một số thủ thuật nhỏ nhưng mang lại hiệu quả lớn
như sau:

Thay đổi giọng đọc.
Học sinh lớp 1, khi viết chính tả học sinh chủ yếu là tập chép. nhưng mỗi
lần kiểm tra định kì (trong học kì II) học sinh đều phải nghe viết. Hơn nữa, trong
các buổi học, đặc biệt giờ chính tả học sinh chỉ quen nghe giọng đọc của giáo
viên chủ nhiệm, do đó trong các đợt kiểm tra định kì, giáo viên khác vào lớp đọc
chính tả cho các em, các em khơng quen giọng đọc đó , do vậy các em sẽ mắc
lỗi chính tả nhiều hơn. Để khắc phục tình trạng nay, tơi đã có hình thức tổ chức
dạy học như sau:
+ Đến giờ chính tả nghe – viết, chủ yếu là giờ luyện tiếng việt tôi cùng với
giáo viên trong khối, tổ đổi lớp cho nhau để đọc chính tả cho học sinh viết, học
sinh viết song chính tả giáo viên trở về lớp của mình.
+ Cũng trong một số giờ học tiếng việt, giáo viên đưa ra một số từ, câu.
Sau đó, giáo viên gọi một học sinh có kỹ năng đọc tốt lên đọc cho cả lớp viết.

12


Với hình thức như vậy, học sinh được nghe nhiều giọng đọc khác nhau,
học sinh làm quen với các giọng đọc, lúc đó học sinh sẽ khơng bỡ ngỡ với
những giọng đọc không quen.
Tổ chức “Đôi bạn giúp nhau tiến bộ” .
Ngồi ra, trong giờ học tơi cịn tổ chức cho học sinh “đôi bạn giúp nhau
tiến bộ” đối với học sinh của lớp. cụ thể:
+ Những học sinh đọc – viết đúng l- n hoặc ch – tr,…sẽ giúp đỡ bạn còn
đọc, viết sai ( nếu ở gần nhà nhau càng tốt ).
+ Học sinh viết chữ đẹp sẽ giúp bạn cịn viết sai nét, sai chính tả.
Để việc thực hiện có hiệu quả, giáo viên chủ động xếp học sinh ngồi gần
sinh ngồi gần nhau để học sinh tự sửa khi nói, khi viết cho nhau và cả khi trị
chuyện cùng nhau hay lúc ra chơi. Xưa có câu “Học thày không tày học bạn”
và “Thua thày một vạn khơng bằng thua bạn một ly”. Chính vì vậy, khi giáo

viên giúp học sinh hiểu rõ điều này trong học tập thì việc tổ chức cho học sinh
cùng nhau học hỏi, cùng nhau thi đua, rèn luyện đó là việc làm tốt, nên làm. sau
từng tuần, từng tháng, giáo viên tổng kết, tuyên dương từng em, từng “đôi bạn”.
Nhận xét mang tính khuyến khích, động viên các em là chính.
*Tư thế ngồi của học sinh.
Nhiều GV chỉ mải hướng dẫn, chú ý đến chữ của học sinh mà quên đi tư
thế ngồi của học sinh mình. Để mặc học sinh ngồi tự do như ngồi lệch người,
đầu cúi sát vở, ngả nghiêng người,... Trước khi viết giáo viên chỉ cần nhắc học
sinh đọc tư thế ngồi viết : ( đã nêu ở trên).
* Cách cầm bút, tay viết.
Cầm bút bằng 3 ngón tay. Ngón tay giữa ở phía dưới, ngón trỏ ở phía trên,
và ngón cái giữ bút ở phía ngồi cho ngón tay cái thẳng với cánh tay. Bàn tay để
lên trang vở, cổ tay thẳng thoải mái. Bút nghiêng về phía cánh tay khoảng 45 độ
so với mặt giấy và song song mép dọc của trang vở. Ngịi bút úp xuống mặt
giấy. GV khơng chú ý có những học sinh cầm bút bằng 4 ngón tay để khuỳnh ra
rất khó viết khi lên lớp trên sửa lại cho các em thật khó.
* Phương pháp nêu gương.
Một trong các phương pháp giúp trẻ học tốt đó chính là phương pháp nêu
gương. Học sinh lớp 1 rất thích được khen, vì vậy khi học sinh đạt được thành
13


tích gì dù là nhỏ nhưng giáo viên cũng phải biết để động viên, khuyến khích học
sinh kịp thời. Khi viết chính tả cũng vậy, nếu thấy học sinh nào đó có tiến bộ, có
những thành tích về chữ viết dù là chút ít tơi cũng thường tun dương các em
trước lớp trong giờ học đó hoặc trong giờ sinh họat đó.
Ngồi ra tơi cịn kể cho học sinh nghe gương rèn chữ của ông Cao Bá
Quát ngày xưa, gương vượt khó học tập của anh Nguyễn Ngọc Ký hay gương
rèn chữ của các anh chị năm trước, đã đạt được thành tích cao trong các cuộc thi
tỉnh, huyện và các cuộc thi trong toàn quốc rồi cho học sinh xem vở rèn chữ của

cô, của những học sinh tiêu biểu. Từ đó giúp học sinh thêm quyết tâm say mê
rèn chữ viết của mình.
Đề cao sự gương mẫu của giáo viên.
Học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 1, các em ln lấy thầy cơ của
mình làm chuẩn mực. Vì vậy, để rèn chữ viết của học sinh đạt kết quả cao thì
trước hết giáo viên phải rèn chữ viết của mình. Chữ viết của giáo viên khi giảng
bài, chấm chữa bài…cần phải chân phương mẫu mực. Lời nhận xét của giáo
viên ln mang tính động viên, khuyến khích học sinh.
Tổ chức cho học sinh: “Học mà vui - Vui mà học”.
Học sinh lớp 1 còn rất nhỏ tuổi, các em còn mải chơi chưa xác định được
nhiệm vụ học tập của mình. Vì vậy, giáo viên phải là người hướng học sinh vào
quá trình học tập để các em chủ động tìm tịi, khám phá và chiếm lĩnh tri thức.
Muốn vậy giáo viên cần tổ chức cho học sinh: “học mà vui – vui mà học” qua
các hình thức và phương pháp khác nhau.
Đối với học sinh lớp 1, việc viết bài chính tả là một việc làm căng thẳng
đối với các em. Các em phải tập trung, chú ý nhiều giác quan để viết liền mạch
bài viết. Để gây hứng thú cho học sinh, để học sinh thấy thoải mái, thích thú, tiết
học sơi nổi, đạt hiệu quả cao, trong các giờ học tôi luôn tổ chức các cuộc thi, các
trò chơi giúp các em hứng thú học tập, qua đó các em ghi nhớ kiến thức một
cách chủ động có hiệu quả.
Giáo dục tính cẩn thận.
“Viết ngoáy”, là viết nhanh một cách cẩu thả, khơng thể chấp nhận được với
bất kì lớp nào, nhất là lớp 1. Với học sinh lớp 1, giáo viên cần phải giáo dục học
sinh tính tỉ mỉ, cẩn thận, giáo dục qua các bài học, qua các gương trong thực tế
ngay từ thời gian đầu để học sinh không có thói quen viết ngốy. Nếu có, giáo
14


viên phải giúp học sinh dần dần khắc phục nhược điẻm này, để khắc phục được
lỗi trên, nhìn chung giáo viên phải ân cần, dịu dàng uốn nắn, kể cả lỗi do vụng

về mà để vở bị dây bẩn hay quăn mép. riêng với lỗi viết ngốy giáo viên có thể
nghiêm khắc hơn để đưa học sinh vào nề nếp. Giáo viên luôn nhắc nhở học sinh:
các con luôn phải ghi nhớ dịng chữ ghi ngay góc mỗi trang vở: “Nắn nét chữ,
rèn nết người” từ đó, để các em ln có tính tự giác nhưng giáo viên ln lưu ý,
đối với học sinh lớp 1 thì giáo viên phải “ Vừa dạy, vừa dỗ”.
Rèn thói quen đọc lại bài sau khi viết.
Trước khi cho học sinh viết bài, giáo viên ln cho học sinh đọc vần từ
hay bài chính tả trước rồi mới viết. Khi viết xong, giáo viên cần nhắc nhở học
sinh tự đọc bài, những gì mình đã biết (vần, từ, bài chính tả), để qua đó thấy
mình sai gì sẽ tự sửa, tự khắc phục. Đặc biệt trong giờ chính tả, khi học sinh
chép xong hoặc nghe – viết xong bài chính tả thì giáo viên cần đọc chậm lại nội
dung bài viết và nhắc nhở học sinh theo vào bài viết của mình để tự sốt lỗi
chính tả (có thể đổi chéo vở – kiểm tra lẫn nhau).Yêu cầu: giáo viên đọc đúng,
phát âm chuẩn.
Học sinh phải thật chú ý: tai nghe – mắt nhìn và suy nghĩ để sửa chính tả
cho đúng.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:
- Giáo viên dạy lớp 1
- Học sinh học lớp 1
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải
pháp:
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, kết quả giữ vở và rèn
viết chữ đẹp của tập thể lớp 1A đã đạt được những kết quả cao như sau:
- Học sinh rất chăm và có ý thức trong việc rèn chữ viết và trình bày vở
sạch đẹp, chữ viết của các em có tiến bộ hơn hẳn so bới đầu năm học.
- Đa số các em nắm được cấu tạo chữ, mẫu chữ và kĩ thuật viết chữ.
- Học sinh viết chữ thành thạo, đẹp, chữ viết đúng quy định, chữ đứng nét
đều, viết nhanh hơn khi chưa áp dụng những biện pháp nêu trên.
-Theo dõi các em được áp dụng phương pháp dạy học sinh viết nhanh thì
lên lớp trên các em phát huy tốt, viết nhanh mà vẫn đẹp..

15


- Học sinh cịn biết tự mình thể hiện bài viết sáng tạo như bài viết chữ
nghiêng, có nét thanh, nét đậm.
- 100% học sinh giữ vở sạch sẽ.
- Năm học 2018-2019 trong hội thi triển lãm “Vở sạch chữ đẹp” do Phòng
GD&ĐT Tiền Hải tổ chức, khối lớp 1 của tôi được xếp thứ nhất.
3.5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):

TT

Họ và tên

1 Phạm Nhật Ruật
2 Nguyễn Thị Hằng
3 Nguyễn Thị Mến
4

Đồn Thị Lý

5 Lê Thị Nhiên

Năm
sinh

Nơi cơng tác

196
0

197
4
197
6
196
7
196
5

TH & THCS
Vân Trường
TH & THCS
Vân Trường
TH & THCS
Vân Trường
TH & THCS
Vân Trường
TH & THCS
Vân Trường

Chức
vụ

Trình độ
chun
mơn

Nội dung cơng
việc hỗ trợ


PH
T

ĐHSP

Dự giờ, tư vấn

GV

ĐHSP

GV

ĐHSP

GV

CĐSP

GV

CĐSP

Thực nghiệm
và khảo sát
Thực nghiệm
và khảo sát
Thực nghiệm
và khảo sát
Thực nghiệm

và khảo sát

3.6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
* Về phía giáo viên:
+ Nắm vững tầm quan trọng của môn học và nắm chắc kiến thức trọng
tâm cần truyền thụ cho học sinh trong từng bài.
+ Giáo viên cần phải có sự chuẩn bị chu đáo: nghiên cứu kĩ từng bài, có
đủ tài liệu và đồ dùng khi lên lớp.
+ Lựa chọn và kết hợp các phương pháp phù hợp để học sinh được luyện
tập thực hành nhiều, tự chiếm lĩnh kiến thức.
+ Cần phải tính đến điều kiện cụ thể cho phép như thời gian cho từng tiết
học, điều kiện học sinh lớp mình để lựa chọn nội dung – phương pháp dạy học
sao cho phù hợp.
+ Dạy học phải đảm bảo tính hệ thống, tính khoa học, tính vững chắc, tính
vừa sức với đối tượng học sinh lớp mình.
+ Giáo viên phải tự rèn chữ viết cho mình ln có ý thức viết chữ và trình
bày bảng khoa học.

16


+ Giáo viên chủ nhiệm phải đi sâu, đi sát lớp, chấm chữa bài thường xuyên,
nắm được đối tượng học sinh lớp mình và nắm được chất lượng chữ viết của học
sinh trong từng giai đoạn viết chữ để có hướng khắc phục và đề ra phương pháp
giáo dục tốt nhất đối với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy
và học.
+ Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh trong việc giáo dục học sinh
nói chung và rèn chính tả cho học sinh nói riêng.
+ Giáo viên khơng ngừng học hỏi nâng cao trình độ chun mơn của mình.
phải ln cải tiến phương pháp dạy học.

+ Ngay từ đầu năm giáo viên cùng phụ huynh học sinh thống nhất đồ dùng
sách vở cho học sinh: cùng một loại vở và bìa bọc, cùng viết bút mực là bút máy
và viết cùng loại mực.
+ Phát động phong trào vở sạch chữ đẹp trong nội bộ lớp trường. thường
xuyên khen thưởng, động viên học sinh có thành tích cao hay có tiến bộ trong
phong trào vở sạch - chữ đẹp.
Phối kết hợp rèn chữ viết trong tất cả các môn học.
+ Một trong những điều quan trọng để dạy chính tả đạt hiệu quả là giáo
viên cần phải giúp học sinh hiểu tác dụng của việc rèn chính tả. Từ đó học sinh
chủ động, tự giác trong việc rèn chính tả.
* Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh nghiệm
để nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp của trường của từng khối lớp.
- Duy trì các phong trào thi đua “ Giữ vở sạch- viết chữ đẹp”. Hội thi viết
chữ đẹp cấp trường.
- Trưng bày các bài viết đẹp , tập vở sạch cho học sinh toàn trường tham khảo.
- Đưa tiêu chuẩn “Giữ vở sạch- viết chữ đẹp” vào đánh giá thi đua của
thầy và trò.
- Nhà trường tạo điều kiện về thiết bị dạy học: như chuẩn bị bảng dành
cho giờ học Tập Viết có kẻ ô đúng theo quy định.
- Cung cấp mẫu chữ viết Tập Viết đầy đủ trên mỗi giáo viên.
17


* Đối với học sinh:
- Có ý thức tự giác, tích cực trong học tập. Biết lắng nghe những nhận xét
của cô, của bạn để tự sửa chữa, khắc phục nhược điểm của mình.Mạnh dạn góp
ý, sửa sai, giúp đỡ bạn trong học tập cũng như khi vui chơi.
* Đối với phụ huynh học sinh:
- Phụ huynh cần quan tâm hơn nữa đến việc học tập của con em mình. cần

đảm bảo góc học tập của các em phù hợp theo độ tuổi, đảm bảo đủ ánh sáng …
tạo cho các em ngồi học thoải mái.
- Kết hợp với nhà trường cụ thể là giáo viên chủ nhiệm để rèn kỹ năng
viết chính tả cũng như các kỹ năng khác cho con em mình.
4. Cam kết khơng sao chép hoặc vi phạm bản quyền
Tôi xin cam đoan báo cáo sáng kiến là do bản thân tôi đúc kết kinh nghiệm
trong q trình giảng dạy khơng sao chép từ của ai. Tôi xin chịu trách nhiệm về
báo cáo sáng kiến của mình.
Phần trình bày nội dung sáng kiến khơng tránh khỏi khiếm khuyết. Kính
mong Hội đồng xét duyệt thi đua PGD - ĐT quan tâm góp ý để bản thân tơi
ngày càng hoàn thiện hơn.
CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Vân Trường, ngày 08 tháng 01năm 2020
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Hằng

18



×