Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Học thuyết giá trị lao động mới (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.39 KB, 10 trang )

HỌC THUYẾT “GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG” MỚI!
(tiếp theo)
Đàm Văn Vĩ

Theo triết học của Marx: thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Vì vậy chúng ta hãy nhìn vào thực tiễn để đánh giá lý luận của Marx, cũng như
xây dựng lý luận mới. Chúng ta sẽ bắt đầu từ nền kinh tế sản xuất hàng hoá giản đơn, nền sản xuất mà ở đó có sự trao đổi trực tiếp các loại hàng hoá
với nhau theo phương thức hàng đổi hàng. Đó là trường hợp trao đổi hàng hố của một người nông dân và một người thợ rèn theo tỷ lệ: 2 cân gạo = 1
con dao. Tại sao hai hàng hoá khác nhau với số lượng khác nhau lại có thể trao đổi được với nhau? Câu trả lời là hai loại hàng hố này có cùng một lượng
giá trị hay công sức (sức lao động) mà mỗi người bỏ ra để sản xuất hàng hoá của họ là giống nhau. Thời gian lao động - lượng giá trị của hàng hoá - để
làm ra hàng hoá là một đại lượng tương đối, hay đó là một sự "trừu tượng hoá".

Như Marx đã viết: "Việc quy như thế là một sự trừu tượng hố, nhưng đó là sự trừu tượng hoá diễn ra hàng ngày trong quá trình sản xuất xã
hội. Việc quy mọi hàng hố thành thời gian lao động không phải là một sự trừu tượng hố lớn hơn, đồng thời nó cũng khơng phải là một sự trừu tượng
hoá kém hiện thực hơn việc quy mọi thể hữu cơ thành khơng khí. Thực ra lao động được đo bằng thời gian như thế không thể hiện ra như là lao động của
những chủ thể khác nhau, mà ngược lại, những cá nhân lao động khác nhau thể hiện ra là những khí quan giản đơn của lao động đó. Nói cách khác, lao
động như nó biểu hiện ra trong các giá trị trao đổi, có thể gọi là lao động chung của con người. Sự trừu tượng hố đó của lao động nói chung của con
người tồn tại trong thứ lao động trung bình mà mỗi cá nhân trung bình của xã hội nhất định có thể thực hiện được, đó là sự chi phí sản xuất nhất định về
bắp thịt, thần kinh, óc… của con người. Đó là thứ lao động giản đơn mà mỗi cá nhân trung bình có thể học được và phải được thực hiện dưới một hình
thức này hay hình thức khác. Bản thân tính chất của thứ lao động trung bình đó thay đổi tuỳ theo các nước và các thời đại văn minh, nhưng trong mỗi xã
hội đang tồn tại thì nó thể hiện ra như là cái đã được xác định. Lao động đơn giản là bộ phận lớn hơn cả trong toàn khối lượng lao động của xã hội tư sản,
như người ta có thể tham khảo bất kỳ thống kê nào. A sản xuất Sắt trong 6 giờ và Vải trong 6 giờ, và B cũng sản xuất Sắt trong 6 giờ và Vải trong 6 giờ,
hay A sản xuất Sắt trong 12 giờ và B sản xuất Vải trong 12 giờ, thì đấy rõ ràng chỉ là cách sử dụng khác nhau của cùng một thời gian lao động giống
nhau mà thôi" và "Việc quy định giá trị trao đổi bằng thời gian lao động còn giả định một lượng lao động ngang nhau, đã được vật hoá trong một hàng
hoá nhất định, ví dụ một tấn Sắt, khơng kể là lao động của A hay của B, hoặc là những cá nhân khác nhau dùng một số lượng thời gian lao động bằng
nhau để sản xuất ra cùng một giá trị sử dụng nhất định giống nhau về lượng và chất. Nói cách khác, người ta giả định là thời gian lao động chứa đựng
trong một hàng hoá là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hố đó, nghĩa là thời gian lao động cần có để sản xuất ra cùng một loại hàng hoá giống
như thế trong các điều kiện sản xuất chung đó"[30]. Những luận điểm này là hồn tồn đúng trong nền kinh tế hàng hố giản đơn, và lượng giá trị của
hàng hoá đúng bằng thời gian để sản xuất ra hàng hố đó. Người nơng dân và người thợ cơ khí thủ cơng sản xuất ra hàng hố bằng các cơng cụ sản
xuất giản đơn, họ đem ra chợ trong làng, xã của mình để trao đổi và việc trao đổi là hợp lý với họ khi họ nhận thấy rằng giá trị của hàng hoá (sức lao
động, hay thời gian lao động mà họ đã bỏ ra để làm nó) của 2 kg gạo bằng giá trị của 1 con dao. Họ thực hiện việc trao đổi này như là việc tất yếu, đã có
từ trước do thế hệ cha ơng để lại. Nhưng vấn đề chủ yếu là họ chưa phải suy nghĩ về thị trường tiêu thụ, về vấn đề lưu thông.



Nền kinh tế hàng hố hiện nay thì khơng phải hồn tồn như vậy. Trao đổi khơng chỉ diễn ra giữa từng cá nhân tự mình sản xuất, tự mình trao đổi trực
tiếp hàng lấy hàng trong một không gian hẹp của làng xã nữa mà sự phân công lao động cùng với việc mở rộng không gian trao đổi đã làm cho nền kinh
tế hàng hoá hiện nay khác hẳn về bản chất với nền sản xuất hàng hoá giản đơn. Trong nền sản xuất hàng hoá, để cho ra đời một loại hàng hố và bán
được nó (thực hiện được giá trị của hàng hố), thì nhà tư bản phải trả lời hàng loạt câu hỏi như: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế nào?
vận chuyển và tiêu thụ ra sao? … Đó việc tìm ra loại hàng hố nào để sản xuất, sản xuất cho đối tượng tiêu dùng nào, sản xuất như thế nào (thành lập
công ty, xây dựng nhà xưởng, mua máy móc, chọn cơng nghệ, tuyển dụng lao động, xây dựng hệ thống quản trị và quản lý hệ thống đó…), tiêu thụ
hàng hố đó như thế nào, vận chuyển ra sao, cạnh tranh như thế nào… Trong khi nền kinh tế hàng hố giản đơn thì thời gian lao động sản xuất trực tiếp
là yếu tố duy nhất để tạo nên và đóng góp vào giá trị của hàng hố (vì các lao động khác như lưu thơng hay nhà tư bản chưa hề phải tính tới và do đó
khơng được tính vào giá trị của hàng hố) cịn trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay, sản xuất trực tiếp (lao động của công nhân) chỉ là một bộ phận trong
hệ thống các bộ phận khác nhau đóng góp sức lao động của mình để làm ra và thực hiện được giá trị của hàng hố. Ngồi cơng nhân sản xuất trực tiếp
ra chúng ta cịn có sự đóng góp sức lao động của các bộ phận khác như là đội ngũ quản lý, kỹ thuật, kế toán, nhân sự, kinh doanh, vận chuyển, bảo vệ,
bán hàng, giám đốc… và cả chủ sở hữu, tức là nhà tư bản nữa. Khơng có sự đóng góp sức lao động của tất cả các bộ phận khác nhau trong một công ty


thì khơng bao giờ cho ra đời được hàng hố chứ chưa nói đến thực hiện giá trị của nó. Nếu chỉ riêng có bộ phận sản xuất trực tiếp mà khơng có các bộ
phận khác cùng bỏ sức lao động, thì khơng thể sản xuất ra hàng hố hoặc có sản xuất một sản phẩm nào đó thì cũng khơng thể thực tiêu thụ được nó
tức là khơng thể biến sản phẩm đó thành hàng hố, mà một sản phẩm khơng trở thành hàng hố, khơng trao đổi được thì lấy đâu ra giá trị của hàng hố
đó, hay lao động của người sản xuất trực tiếp không tạo ra được hàng hoá và lao động của riêng những người sản xuất trực tiếp không tạo ra giá trị.
Không sản xuất ra được hàng hố và khơng thực hiện được giá trị của nó thì nền kinh tế hàng hố sẽ khơng tồn tại được chứ chưa nói gì đền nền kinh tế
hàng hoá tư bản chủ nghĩa, hay lý luận giá trị của Marx trở thành vô giá trị.

Hơn thế nữa học thuyết của Marx là rất phiến diện, khơng đầy đủ khi nó đã khơng tính đến hàng hố cơng cộng và lao động tạo ra giá trị trong
lĩnh vực hàng hố cơng cộng. Bản thân hàng hoá tư nhân (hàng hoá do doanh nghiệp tư nhân làm ra) và bản thân doanh nghiệp tư nhân chưa đủ để tạo
nên nền kinh tế hàng hoá tư bản. Tự bản thân mình, các doanh nghiệp tư nhân khơng thể làm nên được điều gì cả, các doanh nghiệp tư nhân và hàng
hoá tư nhân chỉ là điều kiện cần cho sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tư bản. Các doanh nghiệp tư nhân (hiểu theo nghĩa là có một hoặc một vài chủ
sở hữu nhưng khơng phải là sở hữu tồn xã hội như doanh nghiệp nhà nước) đã và đang tồn tại trong một hệ thống Nhà nước nhất định, trong một thể
chế nhất định. Khơng có hệ thống Nhà nước với các luật lệ, các điều kiện cơ sở vật chất, xã hội được Nhà nước nhất định cung cấp thì khơng thể có hàng
hố tư nhân và doanh nghiệp tư nhân (tức là khơng tồn tại Chính phủ với các luật lệ, các cơ sở vật chất xã hội do Chính phủ cung cấp). Mà khơng có
doanh nghiệp tư nhân và hàng hố tư nhân, khơng có sự trao đổi tự do trong một hệ thống luật lệ nhất định thì cũng khơng có nền kinh tế hàng hố hiện

nay. Nhà nước, thể chế xã hội là điều kiện đủ để có nền kinh tế hàng hố tư bản. Như vậy, ngồi những lao động trong doanh nghiệp tư nhân (cả lao
động trực tiếp và gián tiếp trong doanh nghiệp sản xuất hàng hố và dịch vụ) đóng góp sức lao động vào giá trị của hàng hố thì những lao động trong
lĩnh vực hành chính cơng như nhà làm luật, nhà quản lý xã hội, ngân hàng, bác sĩ công, giáo viên cơng, nhà khoa học… cũng đóng góp sức lao động của
mình vào giá trị của hàng hố. Mỗi cơng chức, viên chức trong các lĩnh vực làm việc của mình sẽ đóng góp sức lao động vào một khâu, một công đoạn
nhất định để vận hành nền kinh tế thị trường và qua đó đóng góp vào giá trị của hàng hố, tất nhiên sự đóng góp này là gián tiếp. Từ việc đảm bảo An
ninh, Quốc phòng, luật lệ, cung cấp sức khỏe thể chất, tinh thần, kiến thức cho người lao động, khoa học kỹ thuật công nghệ cho sản xuất đến việc xây
dựng cơ sở hạ tầng cho việc sản xuất và trao đổi hàng hoá. Sức lao động của họ đóng góp cho giá trị của hàng hố sẽ được tính gián tiếp vào chi phí
thành lập và hoạt động của doanh nghiệp tư nhân liên quan đến lĩnh vực hành chính cơng, đóng góp cho sức khỏe thể chất, tinh thần và kiến thức của
người lao động… Và giá trị do họ đóng góp vào giá trị của hàng hoá sẽ được họ nhận lại bằng tiền lương từ các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm,… mà doanh
nghiệp tư nhân phải trả và đóng góp cho Chính phủ. Marx cho rằng chỉ lao động trực tiếp mới đóng góp sức lao động vào giá trị của hàng hoá và các bộ
phận khác chỉ nhận phần giá trị được phân phối lại do bộ phận sản xuất tạo ra. Nhưng nếu nhìn một cách hệ thống, tổng thể như ở trên thì lao động của
những người được hưởng lương (cả tư nhân và chính phủ) và nhà tư bản đều đóng góp sức lao động vào giá trị của hàng hoá.

Việc Marx hiểu một cách khơng đầy đủ về hàng hố và việc xây dựng khái niệm giá trị của hàng hoá trên khái niệm hàng hố khơng đầy đủ, việc áp
dụng lý luận giá trị trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn cho nền kinh tế hàng hoá tư bản đã dẫn đến sai lầm, theo logic, cho khái niệm giá trị thặng dư
và lợi nhuận. Để hiểu được lý luận về giá trị thặng dư của Marx chúng ta cần bắt đầu từ công thức chung của tư bản. Tiền tệ trong nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa sẽ vân động theo cơng thức:

- H … Sx … H’ - T’

Như Ơng đã viết: “Q trình tuần hồn của tư bản trải qua ba giai đoạn; căn cứ vào sự trình bày ở tập thứ nhất, thì các giai đoạn ấy hình thành nên chuỗi
sau đây:

Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản, với tư cách là người mua, xuất hiện trên thị trường hàng hoá và thị trường lao động; tiền của hắn chuyển hố thành hàng
hố, hay thơng qua hành vi lưu thông T – H.

Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản tiêu dùng một cách sản xuất những hàng hoá mà hắn đã mua. Hắn hoạt động với tư cách là người sản xuất hàng hoá tư
bản chủ nghĩa; tư bản của hắn thực hiện quá trình sản xuất. Kết quả là có một hàng hố có giá trị lớn hơn giá trị của các yếu tố sản xuất ra hàng hố đó.

Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán; hàng hoá của hắn chuyển hoá thành tiền, hay thực hiện hành vi lưu thơng H – T.


Do đó, cơng thức có thể ứng dụng cho tuần hồn của tư bản tiền tệ là:


T – H … Sx – H’ … T’, đường chấm chỉ ra rằng q trình lưu thơng bị đứt quãng, còn H’ và T’ là H và T đã tăng thêm giá trị thặng dư”[31]. Với T là số tiền
– tư bản (với tư bản được hiểu là giá trị đem lại giá trị thặng dư bị nhà tư bản bóc lột) ban đầu được dùng vào việc thành lập công ty, thuê đất đai, xây
nhà xưởng, mua máy móc, nguyên vật liệu, mua sức lao động của người làm thuê… (tất cả các hàng hoá này đều là H). Sau đó nhà tư bản sẽ sản xuất ra
hàng hoá mới là H’. Khi nhà tư bản bán được hàng hoá H’ và thu được số tiền mới là T’, và lợi nhuận là: P = T’ – T. Và P là số tiền dôi ra so với số tiền ban
đầu nhà tư bản đã đầu tư, và Marx gọi đó là giá trị thặng dư. Nếu tính trên quy mơ tồn xã hội và nếu giá trị của hàng hố bằng với giá cả của nó thì lợi
nhuận P cũng chính là giá trị thặng dư m, hay P = m. Karl Marx đã viết: “Giá trị thặng dư được quan điểm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang
hình thái chuyển hố là lợi nhuận”[32].

Từ lý luận giá trị và giá trị thặng dư của mình, Marx đã đưa ra cơng thức về lượng giá trị của hàng hoá:

W = C + V + m (1) [33]

Với W là lượng giá trị của hàng hoá.

C là tư bản bất biến, là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển hoá vào sản phẩm, tức là giá trị không
biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất.

V là tư bản khả biến, là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động của những người làm thuê. Những người làm thuê được Marx hiểu là những
người làm việc trong lĩnh vực sản xuất trực tiếp (chủ yếu là công nhân) chứ không phải là những người làm việc trong lĩnh vực ngồi sản xuất trực tiếp
như là lưu thơng… và những người làm việc trong lĩnh vực hành chính cơng thì càng khơng được tính.

Cịn m là giá trị thặng dư của người cơng nhân và nó bị nhà tư bản chiếm không, hay m là lượng giá trị dơi ra mà nhà tư bản đã bóc lột từ người công
nhân.

Bây giờ chúng ta sẽ làm rõ hơn những hạn chế trong lý luận của Marx về giá trị và giá trị thặng dư. Trong khái niệm giá trị của hàng hoá, Marx cho rằng
chỉ lao động tham gia vào quá trình sản xuất mới tạo ra giá trị của hàng hố, nên Ơng cho rằng các lao động khác không tạo ra giá trị, hay giá trị thặng

dư chỉ là lượng giá trị lao động dôi ra trong lĩnh vực sản xuất; hay giá trị thặng dư không nảy sinh trong q trình lưu thơng mà nảy sinh trong quá trình
sản xuất. Marx viết: “nếu chúng ta so sánh quá trình tạo ra giá trị với quá trình làm tăng giá trị, thì chúng ta sẽ thấy rằng, quá trình làm tăng giá trị
chẳng qua cũng là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá một thời điểm nào đó mà thơi. Nếu q trình tạo ra giá trị kéo dài đến thời điểm ở đó giá trị
sức lao động do tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới thì đó là q trình giản đơn tạo ra giá trị. Cịn nếu như quá trình tạo ra giá trị vẫn
tiếp diễn quá thời điểm đó, thì nó trở thành một q trình làm tăng giá trị”[34]. Và nguyên nhân cơ bản của việc tăng giá trị là do hàng hoá sức lao động
có một thuộc tính cơ bản là khi được đưa vào tiêu dùng thì nó có thể tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn lượng giá trị ban đầu được mua. Marx lập luận
rằng: “Các giá trị chỉ có thể tăng lên nhờ giá trị nào đó xuất hiện, có nghĩa là được tạo ra trội thêm ngồi vật ngang giá” và “Giá trị thặng dư – xét chung
đó là giá trị trội thêm ngồi vật ngang giá.

Xét theo đúng định nghĩa thì vật ngang giá chỉ đồng nghĩa với chính nó. Vì vậy giá trị thặng dư khơng bao giờ có thể xuất hiện từ vật ngang
giá; có nghĩa là giá trị thặng dư thoạt đầu khơng thể xuất hiện từ lưu thơng được; nó phải xuất hiện từ chính q trình sản xuất của tư bản”[35]. Suy luận
của Marx ở đoạn trích này có vấn đề về mặt logic, đó là sự lẫn lộn vấn đề trao đổi trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn với vấn đề lưu thơng trong nền
kinh tế hàng hố tư bản chủ nghĩa. Đúng là các giá trị chỉ có thể tăng lên nhờ giá trị nào đó xuất hiện, đó là sự bảo tồn giá trị của hàng hố, chẳng có gì
tự nhiên sinh ra cũng chẳng có gì tự nhiên mất đi - một quan điểm duy vật biện chứng. Và giá trị thặng dư chẳng bao giờ có thể xuất hiện từ vật ngang
giá được, bởi vì vật ngang giá chỉ là một hàng hố biểu hiện giá trị của một hàng hoá khác - hàng hố mang hình thái tương đối của giá trị. Nó chỉ là
chính nó. Và khi trao đổi ngang giá thì chẳng bao giờ có chuyện giá trị tự tăng lên được, khi một anh được lợi thì tất có anh bị thiệt nhưng tính tổng giá trị
thì nó vẫn thế. Đó là lý do giải thích tại sao giá trị thặng dư không xuất hiện từ trao đổi. Nhưng trao đổi hàng hố khơng phải là lưu thơng hàng hố, trao
đổi chỉ là một hành vi trong quá trình lưu thơng hàng hố của nền kinh tế hàng hố tư bản chủ nghĩa mà thơi. Vì vậy Marx kết luận theo kiểu suy diễn
“có nghĩa là giá trị thặng dư thoạt đầu không thể xuất hiện từ lưu thông được; nó phải xuất hiện từ chính q trình sản xuất tư bản” là sai. Kết luận đúng
phải như thế này: có nghĩa là giá trị thặng dư thoạt đầu khơng thể xuất hiện từ trao đổi được; nó phải xuất hiện trước q trình trao đổi hàng hố. Và
trước q trình trao đổi hàng hố trong nền kinh tế hàng hố tư bản chủ nghĩa là q trình sản xuất cộng với q trình lưu thơng, nhưng q trình lưu


thơng ở đây chỉ tính đến thời điểm trao đổi hàng hoá. Sản xuất hàng hoá giản đơn hay sản xuất hàng hố tư bản ở đây khơng phải là vấn đề có ý nghĩa
quyết định. Vấn đề quyết định ở đây là hàng hoá và trao đổi hàng hoá là cơ sở của nền kinh tế hàng hoá chứ không phải chỉ là cơ sở của nền kinh tế
hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Phạm trù hàng hoá, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, giá trị của hàng hoá và giá trị thặng dư là phạm trù của
nền kinh tế hàng hố chứ khơng phải là phạm trù của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Chỉ có phạm trù Tư bản là phạm trù của
riêng nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, với mối quan hệ đặc trưng tư bản – lao động mà thôi. Giá trị thặng dư đơn giản là do lao động
thặng dư tạo ra ngoài lao động cần thiết. Giá trị thặng dư là do lao động vượt quá thời gian lao động cần thiết. Khi hàng hoá được trao đổi với nhau, và
giá trị của hàng hoá được thực hiện, thì giá trị của hàng hố đó chứa đựng cả giá trị thặng dư. Như ở trên đã phân tích về lao động của người nơng dân

khơng có lao động làm thuê, họ vẫn làm ra giá trị thặng dư và tự mình nhận một phần giá trị thặng dư đó thơng qua trao đổi hàng hố. Và rõ ràng việc
trao đổi đó là ngang giá, trao đổi với đúng giá trị của nó. Luận điểm này cũng khơng làm thay đổi khái niệm bóc lột của Marx, mà nó củng cố thêm khái
niệm bóc lột của Marx, đó là việc nhà tư bản mua sức lao động của người làm thuê với đúng đúng giá trị của nó, nhưng hàng hố sức lao động lại có một
giá trị sử dụng rất đặc biệt đó là: nó sản sinh ra một lượng giá trị lớn hơn bản thân nó trong q trình lao động. Nhà tư bản mua nó và bắt nó tạo ra một
giá trị lớn hơn giá trị được trả và chỉ trả cho nó giá trị sau khi giá trị sức lao động đã được vật hoá vào sản phẩm nhất định (lĩnh lương sau khi làm việc),
và sản phẩm đó là những hàng hoá trong tương lai. Khi hàng hoá được bán, nhà tư bản bán hàng hoá đúng với giá trị của nó và phần giá trị dơi ra của
lao động làm thuê, là giá trị thặng dư – cái sinh ra do thời gian lao động thặng dư của người làm thuê - bị nhà tư bản chiếm không (tất nhiên là cịn tính
đến vấn đề nộp thuế và chia chác nữa nhưng để cho đơn giản hơn tạm thời chúng ta chưa tính đến). Trong nền kinh tế hàng hố tư bản chủ nghĩa, lưu
thơng là cả một q trình gồm nhiều cơng đoạn và có nhiều người lao động tham gia, còn việc trao đổi chỉ là sự việc kết thúc của q trình lưu thơng sau
sản xuất (q trình tiêu thụ hàng hố hay là q trình thực hiện giá trị của hàng hoá). Trước việc trao đổi hàng hố là q trình lao động trong các lĩnh
vực khác của lưu thông để thực hiện được hành vi trao đổi – hành vi thực hiện giá trị của hàng hố. Các lao động đó đều đóng góp vào giá trị của hàng
hố. Nếu lưu thơng ở đây chỉ là đơn thuần là trao đổi trực tiếp hàng hoá lấy hàng hoá như trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn thì khơng bao giờ giá trị
thặng dư có thể xuất hiện từ lưu thông được. Nhưng trong nền kinh tế hàng hố tư bản thì lưu thơng là một q trình có sự đóng góp sức lao động của
nhiều người lao động. Khơng có sự đóng góp sức lao động của họ thì hàng hố khơng thể thực hiện được giá trị. Họ “tạo ra” giá trị và “làm tăng” giá trị
như lao động trong lĩnh vực sản xuất vậy. Trong lưu thơng giá trị của hàng hố sẽ tăng lên chứ khơng phải là sự bảo tồn giá trị của hàng hố như trong
lưu thơng của nền sản xuất hàng hoá giản đơn – khi mà lưu thơng khơng có gì khác hơn là việc trao đổi trực tiếp hàng hố – hàng hố, hành động khơng
cần đóng góp của lao động nào khác ngồi người trực tiếp sản xuất hàng hố đó (trao đổi của người nông dân và người thợ rèn). Với lưu thông ở đây
được hiểu là quá trình chuẩn bị sản xuất T – H và q trình tiêu thụ hàng hố H’ – T’. Marx đã liên tiếp mắc phải sai lầm khi Ông viết: “Giá trị thặng dư
mà nhà tư bản có được vào giai đoạn cuối của q trình sản xuất, - là giá trị thặng dư, với tư cách là giá cả đã tăng lên của sản phẩm, chỉ được thực hiện
trong lưu thông, song chỉ được thực hiện như kiểu tất cả các giá cả đã được thực hiện trong lưu thơng chỉ vì lý do những giá cả ấy đã có trước lưu thơng
trên ý niệm, đã được quyết định từ trước khi chúng được ném vào lưu thông”[36]. Marx đã không hiểu bản chất của vấn đề khi cho rằng giá trị thặng dư
mà nhà tư bản thu được là ở cuối giai đoạn sản xuất. Ở cuối giai đoạn sản xuất, một sản phẩm chưa trở thành hàng hoá, tức là chúng chưa thực hiện
được giá trị (chưa được bán đi); một sản phẩm mà chưa được bán thì lấy đâu ra giá trị của nó, chứ chưa nói đến giá trị thặng dư. Marx đã nhìn vào hiện
tượng mà chưa hiểu bản chất của vấn đề, việc “giá cả đã có từ trước lưu thông trên ý niệm” và “được quyết định từ trước khi chúng được ném vào lưu
thông” (trước khi đưa vào tiêu thụ) không đồng nghĩa với việc lưu thông không đóng góp vào q trình “tạo ra” và “làm tăng” giá trị. Tất cả những người
hiểu biết về kinh tế thị trường ngày nay đều biết rằng, khi hàng hoá được sản xuất và tiêu thụ thì nhà tư bản đã tính tốn được trong đầu của mình là họ
sẽ sản xuất và tiêu thụ như thế nào, và khi đưa ra giá cả của hàng hố thì nhà tư bản đã tính tốn được tất cả các chi phí từ giai đoạn chuẩn bị sản xuất
(T – H giai đoạn lưu thông trước sản xuất), giai đoạn sản xuất và giai đoạn tiêu thụ (H’- T’ giai đoạn lưu thơng sau sản xuất). Những chi phí được tính đó
chính là giá trị sức lao động của các bộ phận khác nhau đã đóng góp vào giá trị của hàng hố. Nếu lao động trong lưu thơng khơng tạo ra giá trị thì nhà
tư bản chẳng khi nào chịu trả lương cho những lao động khơng đóng góp vào giá trị của hàng hố của ơng ta sở hữu, mặt khác giá trị là do lao động tạo

ra thì chẳng có lý do nào mà lao động trong lưu thơng lại không tạo ra giá trị (và chẳng khi nào nhà tư bản lại phải chịu bỏ tiền ra để mua các hàng hố
dịch vụ trong lĩnh vực lưu thơng như ví dụ dưới đây mà tơi sẽ chỉ ra). Lao động trong lưu thơng “tạo ra” giá trị thì theo suy luận logic lao động trong lưu
thông cũng “làm tăng” giá trị, hay lao động này cũng đóng góp vào giá trị thặng dư. Như vậy cả lý luận lẫn thực tiễn của nền kinh tế hàng hoá tư bản
chủ nghĩa đã chỉ ra rằng lý luận của Marx là khơng chính xác.

Bây giờ chúng ta hãy đến với một vài ví dụ để xem xét q trình lưu thơng của hàng hố trong nền kinh tế hàng hố tư bản chủ nghĩa và để thấy lao
động trong lĩnh vực lưu thơng đóng góp vào giá trị của hàng hoá. Tất nhiên là phải sử dụng các khái niệm mới mà tơi đã trình bày trong bài viết này, chứ


không được sử dụng các khái niệm của Marx mà tơi đã phê phán và mở rộng. Ví dụ thứ nhất là giai đoạn lưu thông trước sản xuất: T- H (quá trình chuẩn
bị sản xuất). Trước khi đi vào giai đoạn sản xuất, một công ty phải tuyển dụng lao động. Họ sẽ phải mất tiền để đăng thông tin tuyển dụng trên mạng,
chẳng hạn qua Vietnamworks.com. Họ phải mất tiền để mua hàng hố dịch vụ đó. Người lập ra trang Web Vietnamworks.com đã tạo ra được một hàng
hố dịch vụ là kết nối thơng tin giữa nhà tư bản và người lao động. Họ làm ra hàng hố dịch vụ đó và thực hiện được giá trị của hàng hố dịch vụ đó, và
khi trao đổi thì họ nhận được giá trị của hàng hố đó - tiền mà nhà tư bản cần lao động trả cho họ. Hàng hố dịch vụ đó có giá trị sử dụng của nó đó là
cung cấp thơng tin tới người lao động, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của nhà tư bản. Giá trị của hàng hoá dịch vụ đó là do sức lao động của các lao
động tại Vietnamworks.com tạo ra thông qua lao động của họ. Tại sao doanh nghiệp lại khơng tự làm ra hàng hố dịch vụ đó để khỏi phải bỏ tiền ra mua
hàng hoá dịch vụ của Vietnamworks.com? Câu trả lời là họ hoặc khơng thể làm ra hàng hố dịch vụ đó, hoặc họ có làm ra hàng hố dịch vụ đó đi nữa thì
họ cũng khơng thực hiện được giá trị của nó, hoặc nữa nếu thực hiện được giá trị của nó đi nữa thì giá trị hàng hố dịch vụ do họ tạo ra sẽ cao hơn giá trị
hàng hố dịch vụ của Vietnamworks.com. Ví dụ thứ hai là q trình lưu thơng sau sản xuất: H’ – T’ (q trình tiêu thụ hàng hố). FPT phân phối điện
thoại di động cho Nokia. Nếu Nokia bán trực tiếp cho người tiêu dùng thì giá trị của điên thoại là x, nếu phân phối thơng qua FPT thì giá trị của nó sẽ là x∆. Và từ trước đến giờ theo lý thuyết của Marx thì chúng ta vẫn hiểu ∆ là phần cắt ra từ giá trị thặng dư từ giai đoạn sản xuất của Nokia. Nhưng theo lý
luận mới của tơi thì ∆ là do sức lao động của FPT tạo ra thông qua lao động phân phối của họ. FPT tạo ra hàng hoá dịch vụ phân phối, hàng hố dịch vụ
này có giá trị sử dụng là tiêu thụ hàng hoá của Nokia, đưa hàng hoá của Nokia đến với người tiêu dùng cá nhân, nó đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ hàng
hoá của Nokia và Nokia phải chịu mất đi khoản tiền ∆ để mua hàng hố đó. Đó là sự trao đổi hàng hoá hàng hoá dịch vụ phân phối giữa Nokia và FPT. Tại
sao Nokia không bán trực tiếp cho người tiêu dùng cá nhân mà lại chịu mất đi một khoản tiền ∆ để mua dịch vụ đó của FPT. Câu trả lời cũng như trường
hợp thứ nhất. Đó là Nokia hoặc khơng thể làm ra hàng hố dịch vụ đó, hoặc Nokia có làm ra hàng hố dịch vụ đó đi nữa thì họ cũng khơng thực hiện
được giá trị của nó, hoặc nữa nếu thực hiện được giá trị của nó đi nữa thì giá trị hàng hố dịch vụ do họ tạo ra sẽ cao hơn giá trị hàng hố dịch vụ của
FPT. Ngồi ra cịn rất nhiều hàng hố dịch vụ khác trong q trình lưu thơng, điều đó nói nên rằng lao động trong lĩnh vực lưu thơng có tạo ra giá trị, chứ
khơng như Marx nghĩ. Cịn lập luận vì sao lại như vậy thì tôi đã chỉ ra logic của vấn đề ở đoạn phân tích bên trên.

Những sai lầm của Marx đã chỉ ra ở trên đây là chưa đủ, Ơng cịn những sai lầm quan trọng hơn, mà những sai lầm này xuất phát từ sự thiếu hiểu biết

của Ông về các khái niệm cơ bản của mình và bản thân sự vận động của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Quá trình: T - H … Sx … H’ - T’ khơng
phải là một q trình tự thân vận động, nó cần những lao động khác ngồi những lao động trong các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào, đó là lao động
trực tiếp của nhà tư bản trong doanh nghiệp của họ cùng toàn bộ hệ thống Nhà nước hỗ trợ gián tiếp cho quá trình vận động này được thực hiện và lặp
lại trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Như đã chỉ ra ở trên, nếu khơng có hệ thống Nhà nước, hàng hố cơng cộng thì khơng có nền kinh tế
hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Những lao động trong lĩnh vực hàng hố cơng cộng là những lao động đóng góp gián tiếp cho giá trị của hàng hố, được thể
hiện qua việc đảm bảo An ninh, Quốc phòng, luật lệ, cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật công nghệ, là giáo dục, y tế, văn hoá cho người lao động… Những
đóng góp này được tính vào các chi phí thành lập cơng ty, lệ phí, thuế, và các chi phí khác liên quan đến lĩnh vực hành chính, chi phí cho sức khoẻ thể
chất và tinh thần, kiến thức của người lao động, chi phí đến cơ sở hạ tầng cho hoạt động sản xuất kinh doanh… Và các chi phí này được tính vào trong
tổng giá trị của hàng hoá mà nhà tư bản đã cho ra thị trường. Những chi phí này được tính vào chi phí sản xuất K = C + V (K là chi phí để sản xuất ra
một loại hàng hố nào đó, cụ thể sau này chi phí cho hàng hố cơng cộng sẽ được tính vào C với khái niệm C đã được mở rộng hơn so với lý thuyết của
Marx). Đồng thời những chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra như thuế nhà đất, thuế thu nhập… lệ phí về xuất nhập khẩu, cơ sở hạ tầng… bảo hiểm cho người
lao động…sẽ được dùng để trả lương cho cơng chức, viên chức trong bộ máy hành chính; trả cho giá trị sức lao động mà công chức, viên chức đóng góp
vào giá trị của hàng hố. Marx cho rằng đó chỉ là sự phân phối lại giá trị của người sản xuất trực tiếp; nhưng thực ra đó là việc trả cho giá trị sức lao
động mà họ đã bỏ ra, một sự đóng góp vào giá trị của hàng hố mang tính gián tiếp, nhưng thực sự cần thiết cho quá trình vận động của hàng hoá trong
nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa hiện nay. Tóm lại về vấn đề hàng hố cơng cộng chúng ta cần lưu ý:

Thứ nhất: Hàng hoá là một phạm trù lịch sử. Hiện nay các dịch vụ cơng cộng đã trở thành hàng hố, những hàng hố mà chúng ta gọi là hàng hố cơng
cộng.

Thứ hai: Lao động cụ thể tạo ra giá trị của hàng hoá và lao động trừu tượng của con người tạo ra giá trị của hàng hoá và lao động trong lĩnh vực công
cộng cũng tạo ra giá trị sử dụng và giá trị của các hàng hố cơng cộng.


Thứ ba: Karl Marx cho rằng phải là hai tác nhân (cá thể hoặc tập thể) bình đẳng, tự do, độc lập với nhau làm ra các sản phẩm và các sản phẩm đó được
trao đổi với nhau trên nguyên tắc đồng thuận, bình đẳng và trao đổi ngang giá, trên thị trường tự do thì mới gọi là hàng hoá. Nếu vậy, chúng ta hãy giả
sử rằng, nếu tư nhân tham gia và việc tạo ra các dịch vụ cơng cộng đó và trao đổi các dịch vụ đó thì chúng được coi là các hàng hố. Và việc tạo ra các
dịch vụ đó thơng qua lao động của mình thì tạo ra giá trị của các hàng hố đó. Và thực tế thì nhiều dịch vụ cơng cộng đã chuyển cho tư nhân làm và
chúng đã trở thành hàng hố. Nhưng khi tư nhân khơng thể làm nổi, mà phải nhờ đến một tập thể đại diện – Nhà nước, thì chúng ta lại phủ nhận đó là
hàng hoá và cho rằng sức lao động trong lĩnh vực công cộng không tạo ra giá trị của các hàng hố đó. Đó là một mâu thuẫn khơng thể nào chấp nhận
được.


Thứ tư: Thuế và lệ phí hành chính khác là do một tập thể đại diện - Nhà nước đặt ra cho các tác nhân khác để trao đổi lấy hàng hố cơng cộng. Sự trao
đổi này khơng thể giống như trên thị trường tự do giữa các cá thể độc lập với nhau được. Có nhiều tác nhân khác nhau cùng sản xuất một loại hàng hoá
trên thị trường tự do, vì vậy có thể so sánh lượng giá trị của một loại hàng hố nào đó bằng thời gian lao động xã hội trung bình để làm ra hàng hố đó,
và do đó có thể tự do và bình đẳng trao đổi ngang giá trên thị trường tự do. Nhưng hàng hố cơng cộng thì khơng thể như thế được, vì nó chỉ do duy
nhất một tác nhân làm ra đó là Nhà nước. Như thế phải chăng Nhà nước có thể trao đổi khơng tự do, bình đẳng và khơng ngang giá hàng hố cơng cộng
với các tác nhân khác? Câu trả lời là không. Bởi vì Nhà nước là đại diện của nhân dân thơng qua bầu cử - qua sự đồng thuận của xã hội. Nhà nước quyết
định chính sách thuế dựa trên một quyết định tập thể, có tính đến ý kiến của các tác nhân khác khi trao đổi hàng hố cơng cộng. Khơng thể nói đó là sự
áp đặt hồn tồn, nhưng cũng chẳng thể bình đẳng, tự do như là trao đổi trên thị trường tự do, bởi nó là một hàng hố đặc biệt, nhiều người dùng nhưng
chỉ có Nhà nước cung cấp. Thuế không thể quá cao cũng không thể quá thấp (trừ một vài trường hợp đặc biệt), nó phải được tính dựa trên sự đồng thuận
và có tính tốn tới giá trị của hàng hố cơng cộng do sức lao động của lao động trong lĩnh vực công cộng tạo ra. Cũng như giá trị của hàng hoá trên thị
trường tự do là một sự trừu tượng hố, thì hàng hố cơng cộng trao đổi trên thị trường hành chính cũng thế mà thơi!

Chúng ta cần phải phân biệt lao động trong lĩnh vực tư nhân và lao động trong lĩnh vực công cộng về mặt giá trị thặng dư. Lao động trong lĩnh vực hành
chính cơng thì khơng có sự bóc lột về giá trị thặng dư. Bởi vì, sức lao động được bỏ ra được đo bằng giá trị các hàng hoá do họ tạo ra, được xã hội đồng
thuận đánh giá – đó là một sự trừu tượng hoá nhưng là sự trừu tượng hố trong thực tiễn mà chúng ta khơng cần phải thêm hay bớt nó. Mức lương trả
cho giá trị sức lao động được toàn xã hội (hay đại diện cho toàn xã hội) quy định bằng luật. Hơn nữa họ khơng có một ơng chủ thực sự của mình, khơng
có sự theo đuổi lợi nhuận của nhà tư bản, nên họ khơng hề bị bóc lột. Chỉ có những người lao động trong lĩnh vực tư nhân là thực sự bị bóc lột, trong đó
cơng nhân (mà trong xã hội tư bản thì ln có dư thừa lao động - một xã hội khơng bao giờ có tồn dụng lao động) là bị bóc lột nhiều nhất.

Todd G. Buchholdz trong “Ý tưởng mới từ các nhà kinh tế tiền bối” đã viết: “Marx đã bỏ qun điều gì? Ơng đã bỏ quên một khả năng sáng tạo và tài
kinh doanh” và “Tại sao người Nga sống dưới chế độ cộng sản lại phải xin những chiếc quần bò mà người Mỹ làm ra? Khơng phải vì Liên Xơ thiếu bông
hay thiếu công nhân để sản xuất quần áo chất lượng cao, mà bởi vì họ thiếu sáng tạo, thiếu động lực làm việc và thiếu kỷ luật”[37]. Học thuyết kinh tế
chính trị của Marx đã bỏ qua vai trị của nhà tư bản - chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân. Khơng có họ thì sẽ khơng có nền kinh tế hàng hoá tư bản.
Động lực theo đuổi lợi nhuận đã thúc đẩy họ làm việc để cho ra đời hàng hoá và thực hiện giá trị của hàng hố và lao động của họ đã khơng được Marx
tính vào giá trị của hàng hố, trong khi đáng ra lao động của họ phải được tính vào giá trị của hàng hoá. Khả năng quản lý kinh doanh của họ đã giúp
cho doanh nghiệp ra đời cũng như cho ra đời các loại hàng hố. Đó là việc lao động ở tầm bao quát, chiến lược. Cụ thể là họ phải suy nghĩ và làm việc
để: huy động vốn, xây dựng cơ sở vật chất cho sản xuất (th đất đai, xây nhà xưởng, chọn máy móc cơng nghệ…) hiện thực hoá ý tưởng sản xuất kinh
doanh của họ (tuyển lao động, tìm ra cơ chế hoạt động của cơng ty và hiện thực hố cơ chế đó…) giải quyết quá trình thực hiện giá trị của hàng hố
(vận chuyển, tiêu thụ như thế nào, tìm ra đối tượng tiêu thụ, tác động tới việc cải tiến chất lượng, mẫu mã, giá thành… để cạnh tranh, tác động tới việc

hình thành sản phẩm mới…). Việc quản lý tất cả các mặt của sản xuất và lưu thông không phải là làm việc, là lao động thì là gì? Họ phải bỏ cơng sức,
phải suy nghĩ, tính tốn để cho ra đời hàng hố, đó khơng phải là lao động thì là gì? Lao động tạo ra giá trị của hàng hố thì tại sao lao động của họ lại
khơng được tính vào giá trị của hàng hố. Thành ngữ Việt Nam có câu “Một người lo bằng một kho người làm” để nói lên rằng cơng sức và giá trị sức lao
động của họ bỏ ra là rất lớn so với những người làm thuê. Đó là thực tiễn, Marx luôn coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, thế nhưng Ông lại bỏ qua giá
trị sức lao động của nhà tư bản đóng góp vào giá trị của hàng hố, đó là điều đáng chê trách của Marx.


Như vậy, từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng tất cả mọi lao động hưởng lương, dù là lao động trong lĩnh vực tư nhân hay cơng cộng, và
nhà tư bản đều đóng góp giá trị sức lao động của mình vào giá trị của hàng hố. Do đó chúng ta cần xây dựng lại cơng thức về lượng giá trị của hàng
hố.

Lao động trong lĩnh vực cơng cộng đóng góp gián tiếp vào giá trị của hàng hố; đó là các chi phí về thuế, lệ phí, bảo hiểm… và vốn con người (sức khoẻ,
trí tuệ của người lao động) của một xã hội nhất định. Lao động trong lĩnh vực tư nhân (gồm người làm thuê và nhà tư bản) đóng góp trực tiếp vào giá trị
của hàng hoá. Nếu gọi C là tư bản bất biến, là khoản tư bản đóng góp một lượng nhất định, không tăng lên về lượng trong q trình vận động của hàng
hố thì C khơng chỉ là tư liệu sản xuất như trong lý luận của Karl Marx nữa, mà C bao gồm tư liệu sản xuất, chi phí cho hành chính cơng (thuế, lệ phí…),
chi phí giao dịch, chi phí kinh doanh, marketing, quảng cáo… hay C là tất cả các chi phí của một cơng ty, ngồi chi phí trả lương cho người lao động. Còn
V là tư bản khả biến, là phần tư bản sẽ tạo ra sự tăng thêm về lượng giá trị của hàng hố trong q trình vận động của hàng hố; hiểu một cách đơn
giản thì V là tiền lương và phụ cấp khác cho người làm thuê, với người làm thuê là tất cả những người làm việc trong cơng ty ngồi nhà tư bản - chủ sở
hữu. Còn m là giá trị thặng dư của người làm th chứ khơng phải chỉ có cơng nhân. Ngồi ra còn một đại lượng nữa cần được bổ sung vào cơng thức (1)
của Marx, đó là E (Entrepreneurship). E là giá trị sức lao động của nhà tư bản đóng góp vào giá trị của hàng hố. E bao gồm E 1 và E2 với E1 là những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để nhà tư bản sống và làm việc (lao động cần thiết của nhà tư bản) nó tương đương với V của người làm thuê và E 2 là giá trị lao
động tăng thêm ngoài những tư liệu sinh hoạt cần thiết của nhà tư bản E1, đó là lao động thặng dư của nhà tư bản và nó tương đương với m của người
làm thuê (giá trị thặng dư của nhà tư bản không liên quan đến khái niệm bóc lột như của Marx).

Tóm lại với những lập luận ở trên chúng ta sẽ đưa ra khái niệm mới về lượng giá trị của hàng hoá:

Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng của những người trực tiếp và gián tiếp tham gia vào q trình vận động của hàng hố kết
tinh trong hàng hố.

Cơng thức về lượng giá trị của hàng hố có thể viết lại theo khái niệm mới này là:


W = C + V + E + m (2)

Trong đó quá trình vận động của hàng hố bao gồm cả q trình sản xuất và lưu thơng.

Một vấn đề mà chúng ta cần phải lưu tâm khi sử dụng khái niệm: thời gian lao động xã hội cần thiết. Các nhà Marxist Việt Nam vẫn hiểu rằng: “Trong
thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời gian lao
động để sản xuất ra hàng hố là khơng giống nhau, tức là hao phí lao động cá biệt khác nhau. Thế nhưng lượng giá trị của một hàng hố khơng phải tính
bằng thời gian lao động cá biệt, mà chúng ta tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần
thiết để sản xuất ra một loại hàng hố nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ thành thạo trung bình và với một
cường độ lao động trung bình trong xã hội”[38]. Sai lầm này của các nhà Marxist Việt Nam cũng là sai lầm của Marx. Vì chính Karl Marx đã viết: “Như
vậy, chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị
của giá trị sử dụng ấy”[39]. Nhưng nếu hiểu theo khái niệm lao động cần thiết và lao động thặng dư mà tơi đã trình bày ở trên thì lao động xã hội cần
thiết là thời gian lao động tạo ra giá trị của phần sản phẩm cần thiết để nuôi sống bản thân người lao động và gia đình họ, tất nhiên là ở một thời điểm
nhất định, với điều kiện sản xuất nhất định, năng suất và cường độ lao động nhất định. Cái mà chúng ta cần tính tốn khi xác định giá trị của hàng hoá
trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa là lao động trừu tượng với thời gian lao động xã hội trung bình chứ khơng phải là thời gian lao động xã hội
cần thiết. Vì vậy lượng giá trị của hàng hố là thời gian lao động xã hội trung bình để làm ra hàng đó. Thời gian lao động xã hội trung
bình bao gồm thời gian lao động xã hội cần thiết và thời gian lao động xã hội thặng dư. Đúng như khẳng định của Marx: “Với tư cách là những
giá trị thì tất cả mọi hàng hố đều chỉ là những lượng thời gian lao động nhất định đã kết đọng lại”[40]. Tất nhiên chúng ta phải tính ở một thời điểm
nhất định, với điều kiện sản xuất nhất định, với sức sản xuất của lao động nhất định. Và hơn nữa lao động không chỉ là lao động hiện tại mà còn là lao
động quá khứ, cũng như khơng chỉ là lao động trực tiếp mà cịn có lao động gián tiếp - những lao động trực tiếp và gián tiếp tham gia vào quá trình vận
động của hàng hoá.


Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu vì sao Karl Marx lại không đưa đại lượng E vào công thức (1) và vì sao Ơng lại cho rằng số tiền tăng lên so với tư bản ban
đầu chỉ là giá trị thặng dư?
Karl Marx đưa ra giả thuyết: "Nếu ban đầu tư bản bằng 100 ta-le thì nó vẫn tiếp tục bằng 100 ta-le, mặc dù trong quá trình sản xuất 100 ta-le ấy đã tồn
tại dưới hình thức 50 ta-le bông, 40 ta-le tiền công, 10 ta-le máy kéo sợi, cịn giờ đây tồn tại dưới hình thức sợi bông trị giá 100 ta-le. Sự tái sản xuất ấy
ra 100 ta-le chỉ là việc 100 ta-le ấy duy trì sự ngang bằng với bản thân, chỉ với một sự khác biệt là sự duy trì ấy ở đấy phải thơng qua khâu trung gian là
q trình sản xuất vật chất"[41]. Và Ơng viết tiếp: "Khi người ta nói rằng chi phí sản xuất, hay giá cả tất yếu của hàng hố, bằng 110 thì tính tốn được

thực hiện như sau: tư bản ban đầu 100 (như vậy, thí dụ nguyên liệu bằng 50, lao động bằng 40, công cụ lao động bằng 10) + 5% (lợi tức) + 5% (lợi
nhuận). Có nghĩa là, chi phí sản xuất bằng 110; chứ khơng phi bằng 100; do đó chi phí sản xuất lớn hơn giá thành"[42]. Và Marx, cũng như chúng ta vẫn
coi rằng 10 ta-le tăng thêm đó chỉ là giá trị thặng dư của người công nhân sản xuất tạo ra. Thực ra, việc chuyển 100 ta-le tư bản ban đầu thành 100 ta-le
bơng chỉ là sự tính tốn ở trong đầu nhà tư bản và 100 ta-le cũng khơng thể coi là "giá thành sản xuất". Bởi vì "giá thành sản xuất" không phải chỉ là 100
ta-le tư bản ban đầu cũng như không phải chỉ qua "khâu trung gian là quá trình sản xuất vật chất" thì hàng hoá đã thực hiện được giá trị mà giá thành
sản xuất còn bao gồm sức lao động của nhà tư bản bỏ ra (tơi gọi nó là E1) và còn phải trải qua khâu vận chuyển, tiêu thụ nữa chứ khơng phải chỉ có khâu
"sản xuất vật chất". Như vậy giá thành của sản xuất phải lớn hơn 100 ta-le nhưng nó cũng khơng thể bằng 110 ta-le được. Và 10 ta-le tăng thêm cũng
khơng thể lý giải đó là 5% lợi tức + 5% lợi nhuận. Thực chất, 10 ta-le tăng thêm bao gồm: chi phí sản xuất tăng thêm ngồi tư bản ban đầu, chi phí tăng
này bao gồm sức lao động của nhà tư bản E1 và sức lao động của khâu vận chuyển tiêu thụ (tơi gọi là V 2, cịn V trong (2) được gọi là V1 và từ bây giờ trở
đi chúng ta thống nhất với nhau V = V1 + V2); giá trị thặng dư do nhà tư bản tạo ra E2 (vì nhà tư bản cũng là một người lao động, có sức lao động và sức
lao động thì có đặc điểm khi tiêu dùng thì tạo ra giá trị lớn hơn giá trị ban đầu – giá trị của những tư liệu cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao
động E1); giá trị thặng dư của người làm th m; cùng với đó là các chi phí cho hàng hố cơng cộng G. Hay G + E 1 + E2 + V2 + m = 10 hay G + E + V2 +
m = 10. Trên đây là những lập luận theo cách đặt vấn đề của Mác. Còn trên thực tế ngày nay, V đã bao gồm tiền công ở tất cả các khâu sản xuất, vận
chuyển, tiêu thụ; và G cùng những chi phí khác đã được tính vào C. Do vậy, 10 ta-le dư ra so với tư bản ban đầu, về thực chất chỉ là: E + m.
Marx đặt ra vấn đề: "người ta có thể nói rằng nhà tư bản phải được trả công lao động, lao động ấy thể hiện ở chỗ là nó ném 100 ta-le, với tư cách là tư
bản, vào q trình sản xuất, chứ khơng phải ăn tiêu vào số tiền đó. Nhưng lấy đâu ra nguồn trả công cho hắn"[43]. Nhưng trên thực tế, lao động của nhà
tư bản đâu chỉ là "bỏ ra 100 ta-le" và "khơng ăn tiêu số tiền đó" mà lao động của nhà tư bản là lao động thực sự như ở phần trên đã phân tích. Cịn
nguồn trả cho nhà tư bản chính là một phần trong 10 ta-le tăng thêm sau khi giá trị của hàng hoá được thực hiện. Thực vậy, bây giờ chúng ta sẽ đặt ra
câu hỏi, thế nguồn trả cho công nhân là từ đâu? Câu trả lời là từ tư bản ban đầu 100 ta- le. Thế 100 ta-le đó ở đâu ra? Câu trả lời là do tích luỹ, do dư
thừa. Hay chính là tiền (giá trị) do sức lao động của con người tạo ra. Như vậy lao động tạo ra giá trị, hay hiển nhiên nhà tư bản bỏ sức lao động để tạo
ra giá trị và phải được hưởng nó!
Ơng viết tiếp: "Và lao động của hắn liệu có tỏ ra là hồn tồn vơ ích khơng, bởi vì tư bản bao gồm tiền cơng, và do đó cơng nhân có thể sống nhờ vào tái
sản xuất giản đơn ra số chi phí sản xuất, mà điều này thì nhà tư bản không thể làm được. Như vậy, nhà tư bản được ghi ở cột những hư phí của sản
xuất”[44]. Đúng vậy, người công nhân là những người vô sản, phải bán sức lao động để lấy tiền kiếm sống. Nhưng nhà tư bản thì khơng, họ khơng phải
là vơ sản, họ có tiền riêng để sống và số tiền này không nằm trong tư bản ban đầu. Và số tiền này được lấy lại sau khi giá trị của hàng hố được thực
hiện – nó chính là E1. Cịn việc Marx nói lao động của nhà tư bản thuộc vào "những hư phí của sản xuất" là khơng đúng. Bởi vì, một lao động mà khơng
đóng góp vào giá trị của hàng hố chỉ khi lao động ấy khơng tạo ra giá trị sử dụng hoặc giá trị của hàng hố khơng thực hiện được, cịn nếu hàng hố
thực hiện được giá trị thì mọi lao động tham gia vào q trình vận động của hàng hố đều đóng góp vào giá trị của hàng hố. Cho nên, lao động của nhà
tư bản có đóng góp vào giá trị của hàng hố.
Tiếp đến, Ơng viết: "Và cho dù nhà tư bản có những cơng lao như thế nào đi nữa thì tái sản xuất vẫn có thể được thực hiện khơng cần đến hắn ta, bởi vì

trong q trình sản xuất cơng nhân chỉ đưa vào đó cái giá trị mà họ rút ra từ quá trình ấy, nghĩa là cơng nhân hồn tồn khơng cần đến quan hệ tư bản
chủ nghĩa cũng có thể thường xuyên lặp lại quá trình sản xuất"[45]. Những suy nghĩ này của Mác là quá giản đơn và xa rời thực tế. Bởi vì, trên thực tế,
nếu một tổ chức, một hệ thống mà khơng có người lãnh đạo, quản lý thì tổ chức, hệ thống đó làm sao mà hoạt động được; còn nếu như Nhà nước hay
tập thể tự đứng lên để tổ chức quá trình sản xuất như trong nền kinh tế tập trung, bao cấp của chúng ta trước đây thì kết quả như thế nào có lẽ khơng
cần phải nói thêm nữa. Nếu cơng nhân khơng cần đến quan hệ tư bản chủ nghĩa mà vẫn có thể lặp lại thường xuyên quá trình sản xuất và tái sản xuất
thì q trình ấy cũng chỉ mang tính máy móc, dập khn. Mà một q trình sản xuất chỉ mang tính dập khn, máy móc thì trên thực tế sẽ không bao
giờ tồn tại được trong nền kinh tế thị trường luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. Lý luận của Marx trong trường hợp này trở lên khơng cịn là


lý luận về nên kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa nữa.
Tiếp theo, Marx cho rằng: "vả lại, ngoài ra, cũng khơng có một nguồn quỹ nào có thể rút từ đó ra để trả những đóng góp của nhà tư bản, bởi vì như thế
giá cả của hàng hố sẽ bằng chi phí sản xuất”[46]. Phải chăng, Marx viết "bởi vì như thế" là có ý nói tới việc nếu lấy 10 ta-le tăng thêm để trả công cho
nhà tư bản thì giá cả của hàng hố sẽ bằng chi phí sản xuất? Phải chăng Marx muốn nói chi phí sản xuất là: C + V + E? Quả thật, nếu cho rằng chi phí
sản xuất bằng giá cả của hàng hố thì khơng đúng. Bởi vì lượng giá trị của hàng hố (giá cả) bao gồm khơng chỉ chi phí sản xuất mà cịn có giá trị thặng
dư của nhà tư bản cộng với giá trị thặng dư của người làm thuê. Như chúng ta đã biết, lượng giá trị của hàng hoá là tổng giá trị ban đầu đã được
đưa vào trong hàng hóa (hay đầu vào phải bằng đầu ra đó chính làsự bảo tồn của lượng giá trị của hàng hóa), ở đây lượng giá trị của hàng
hoá bao gồm: tư bản bất biến C, với C hiểu theo nghĩa mới ở trên, nó bao gồm tất tư liệu sản xuất và tất cả các chi phí khác ngồi V; giá trị sức lao động
của người làm thuê (bao gồm phần được nhà tư bản mua V và phần giá trị thặng dư m); giá trị sức lao động của nhà tư bản E (bao gồm E 1 – những tư liệu
cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động của nhà tư bản và phần giá trị thặng dư của nhà tư bản E 2). Vì vậy, nếu Marx cho rằng công để trả
cho nhà tư bản là 10 ta-le trội thêm thì Mác đã sai và nếu Ơng cho rằng giá cả của hàng hố bằng chi phí sản xuất: W = C + V + E thì Ông lại càng sai.
Do đó những lập luận phủ định này của Mác trở lên vơ nghĩa, nó khơng giải thích được điều gì, cũng như nó chẳng phản bác được điều gì cả.
Cịn một điều nữa mà Marx đã nghĩ tới nhưng Ơng đã khơng thừa nhận nó (có lẽ là do định kiến, do căm hận bọn tư sản đến tận xương tủy vì mỗi đồng
tiền chúng kiếm được đều chứa đầy máu và nước mắt của người lao động, trong thời đại mà Ơng sống), đó là: Nhà tư bản vừa là người đối lập với người
lao động (vì đã chiếm hữu phần giá trị thặng dư của người lao động) đồng thời cũng là người lao động (vì ơng ta cũng lao động để thu được phần bỏ ra
E1 và phần giá trị thặng dư của mình E2). Ơng viết: "Nếu ta coi lao động của nhà tư bản là một thứ lao động đặc biệt bên cạnh lao động của cơng nhân và
ngồi lao động của cơng nhân, thí dụ là lao động giám sát v.v. , thì nhà tư bản sẽ nhận được – cũng như công nhân – một khoản tiền công nào đó, cũng
thuộc vào một phạm trù như cơng nhân, và nhà tư bản quan hệ với lao động tuyệt nhiên không phải với tư cách là nhà tư bản"[47]. Thật mâu thuẫn, như
ở trên đã phân tích, Marx cho rằng lao động của nông dân không thuê lao động làm thuê thì vừa được coi là nhà tư bản của chính mình và là người làm
th cho chính mình. Những người nơng dân đó với sức lao động của mình thông qua lao động tạo ra giá trị và giá trị thặng dư và tự mình hưởng một
phần giá trị thặng dư đó, nhưng với nhà tư bản thì Marx lại phủ định hoàn toàn lao động của nhà tư bản với tư cách là người lao động. Karl Marx là người

khai sinh ra logic học biện chứng, nhưng Ông lại khơng áp dụng nó cho thực tiễn này thì thật là một điều đáng trách. Chúng ta nghe tới điều này có vẻ
hơi lạ: nhà tư bản vừa là nhà tư bản lại không phải là nhà tư bản mà lại là người lao động. Nhưng trên thực tế, nếu chúng ta hiểu biết về Vật lý hiện đại
thì chúng ta sẽ thấy: một thực thể vừa là hạt nhưng lại cũng không phải là hạt mà lại là sóng, như photon chẳng hạn (lưỡng tính sóng – hạt của vật chất).
Và cuối cùng Marx khẳng định: "nhà tư bản cũng sẽ không làm giàu được, mà chỉ thu được một giá trị trao đổi mà hắn ta sẽ phải tiêu dùng thông qua lưu
thông"[48]. Điều khẳng định này của Marx là sai. Bởi vì, trên thực tế, khi hàng hố được bán nhà tư bản khơng chỉ thu được giá trị do mình tạo ra mà cịn
thu được cả giá trị thặng dư của người làm thuê, do đó mà ơng ta vẫn làm giàu được. Vì vậy mà quy luật giá trị thặng dư, với nội dung: Sản xuất ra giá trị
thặng dư tối đa bằng cách tăng quy mơ sản xuất và nâng cao trình độ bóc lột dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật, tăng năng suất lao
động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, vẫn là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản bởi vì nó phản ánh bản chất của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và nó phản ánh được động lực, mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Từ những lập luận ở trên, chúng ta sẽ xem lợi nhuận bao gồm những gì? Theo công thức chung của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa: T – H – T', nếu số tiền
bỏ ra ban đầu là T = K = C + V (chi phí sản xuất), thì số tiền thu được là: T' = C + V + E + m.
suy ra lợi nhuận là: P = T' – T = E + m
Như vậy lợi nhuận của nhà tư bản thu được (nếu giá cả của hàng hoá bằng giá trị của hàng hố) khơng phải chỉ là giá trị thặng dư m của người làm th
tạo ra mà cịn có cả giá trị do nhà tư bản tạo ra E.

III. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ HƯỚNG MỞ:
1. Giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của những người tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quá trình vận động của hàng hóa kết tinh trong hàng
hố.
Lượng giá trị của tổng số hàng hóa được sản xuất ra trong một khoảng thời gian là: W = C + V + E + m.
Với C là tư bản bất biến hiểu theo cách hiểu mới. V là tư bản khả biến hay chính là sức lao động của người làm th đóng góp vào giá trị của hàng hố. E
là sức lao động của nhà tư bản kết tinh vào hàng hoá, E = E1 + E2, với E1 là giá trị để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động của nhà tư bản (lao động


cần thiết), E2 là giá trị thặng dư (giá trị tăng thêm ngoài E1) của nhà tư bản tạo ra (lao động thặng dư). Còn m là giá trị thặng dư của những người làm
thuê.



×