Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.79 KB, 50 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

VAI TRỊ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

SVTH : Tống Thị Thùy Vân
GVHD: TS. Dương Đình Tùng
Lớp

: 13 SGC

Đà Nẵng, tháng 5 năm 2017
1


2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi trên cơ sở tham khảo
tài liệu có chọn lọc và đầu tư cẩn thận, dưới sự hướng dẫn của T.S Dương Đình Tùng và
chưa từng cơng bố trong bất kì cơng trình nào khác. Tơi xin chịu mọi trách nhiệm về nội
dung khoa học của cơng trình này.



Đà Nẵng, tháng 5 năm 2017
Tác giả

Tống Thị Thùy Vân

3


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình, em đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ nhiệt tình của q thầy cơ. Đầu tiên, em xin chân thành gửi lời
cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Dương Đình Tùng - người đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất
nhiều trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy
cơ khoa Giáo dục Chính trị của Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, khoa Lý luận chính
trị và khoa Kinh tế chính trị của Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng đã trang bị cho em
những kiến thức quý báu trong suốt bốn năm học để em hoàn thành đề tài này.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện khóa luận em cịn nhận được rất nhiều sự động
viên và giúp đỡ từ phía gia đình, bạn bè, các thầy cô giáo và các bạn trong lớp. Kết quả
của đề tài này là lời cảm ơn sâu sắc nhất của em gửi đến mọi người, là nguồn động lực để
em tự tin hơn trên bước đường học tập và nghiên cứu.
Với khả năng và điểu kiện của một sinh viên, khóa luận khơng tránh khỏi những hạn
chế và thiếu sót. Em kính mong nhận được những góp ý chân thành của q thầy cơ và
các bạn để đề tài khóa luận được hồn thiện hơn.

4


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 7

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 7
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 8
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 8
5. Bố cục đề tài ................................................................................................................... 8
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ........................................................................................ 9
B. NỘI DUNG .................................................................................................................. 11
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT.......................................... 11
1.1.

Một số khái niệm cơ bản .................................................................................... 11

1.1.1.

Pháp luật ...................................................................................................................................... 11

1.1.2.

Ý thức pháp luật ....................................................................................................................... 13

1.1.3.

Nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .................... 14

1.2.

Vai trò của ý thức pháp luật trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................................................................ 20
1.2.1.


Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ........................................................................................... 21
1.2.2.

Nâng cao ý thức về tính thượng tôn pháp luật của nhân dân ............................... 22

1.2.3.

Nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc kiểm soát quyền lực nhà

nước và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật ............................................................................................... 25
1.2.4.

Nâng cao ý thức của công dân về quyền con người và bảo đảm quyền của

công dân trong mối quan hệ với nhà nước và xã hội ................................................................ 28
Kết luận chương 1 ......................................................................................................... 32
Chương 2: NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI DÂN TRONG VIỆC
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ..... 33
2.1.

Thực trạng thực hiện ý thức pháp luật của người dân hiện nay ......................... 33

2.1.1.

Mặt tích cực ............................................................................................................................... 33

2.1.2.


Mặt hạn chế và nguyên nhân .............................................................................................. 34
5


2.2.

Giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của người dân góp phần xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam .............................................................. 36
2.2.1.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phổ biến, giáo dục,

nâng cao ý thức pháp luật...................................................................................................................... 36
2.2.2.

Tăng cường, đẩy mạnh công tác tổ chức thực hiện pháp luật ............................. 37

2.2.3.

Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách

đông đảo vào hoạt động xây dựng pháp luật ................................................................................ 38
2.2.4.

Kế thừa những giá trị pháp luật truyền thống, tiếp thu những giá trị pháp lý

của thời đại .................................................................................................................................................. 40
2.2.5.


Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ...

Kết luận chương 2 ......................................................................................................... 47
C. KẾT LUẬN .................................................................................................................. 48
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 49

6

42


VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một
trong những nhiệm vụ trên con đường đưa đất nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cơng
việc đó địi hỏi tồn Đảng, tồn dân cùng đồng lòng chung sức, quyết tâm thực hiện. Pháp
luật là một trong những yếu tố quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền và ý thức pháp
luật là nhân tố không thể thiếu trong đời sống pháp luật của xã hội ở tất cả các giai đoạn
phát triển.
Pháp luật đóng vai trị rất quan trọng nhằm đảm bảo thiết lập và duy trì trật tự xã
hội, đảm bảo cho mọi hoạt động đời sống người dân. Muốn phát huy được hiệu quả của
pháp luật thì ý thức pháp luật của người dân chính là nhân tố quan trọng hàng đầu. Để
pháp luật ngày càng trở thành phương tiện mà thơng qua đó Đảng lãnh đạo xã hội; trở
thành cơ sở pháp lý để bộ máy nhà nước tổ chức và hoạt động quản lý có hiệu quả các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, thì chúng ta cần phát huy vai trò ý thức pháp luật
của con người trong xã hội. Chính vì vậy, quan tâm, lựa chọn những giải pháp nhằm nâng
cao ý thức pháp luật cho nhân dân là một điều vừa cấp thiết, vừa mang tính thường xuyên,

liên tục, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với quốc tế hiện nay. Xây
dựng ý thức pháp luật không phải là công việc của riêng Nhà nước, của Đảng, của các cơ
quan cơng quyền, mà là của tồn dân, vừa là nhiệm vụ đối với Nhà nước, vừa là nhiệm vụ
tự thân mỗi cơng dân mang trên mình trách nhiệm cùng nhau xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiện nay, việc người dân thể hiện ý thức pháp luật của mình có nhiều bước chuyển
biến tích cực, đáp ứng nhu cầu của đời sống hiện nay, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những
bất cập hạn chế qua những hành vi của người dân mà nhu cầu phải có những giải pháp cụ
thể để có thể giải quyết được vấn đề này. Vì vậy, tơi chọn đề tài “Vai trò của ý thức pháp
7


luật trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Giáo dục chính trị.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Đề tài hướng đến việc nâng cao ý thức pháp luật của người
dân góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Chương 1: Nghiên cứu vấn đề lý luận chung về pháp luật, ý thức pháp luật trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Chương 2: Phân tích thực tiễn thực hành ý thức pháp luật của người dân và nêu
các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Ý thức pháp luật của người dân.
- Phạm vi nghiên cứu: Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về ý thức pháp luật
trong xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp tổng kết lý luận từ thực tiễn.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có hai
chương:
+ Chương 1: Lý luận chung về ý thức pháp luật
+ Chương 2: Nâng cao ý thức pháp luật của người dân trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
8


6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Ý thức pháp luật là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và thực hiện, bởi
nó đóng vai trị chủ đạo trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Nhiều cơng trình nghiên
cứu đã cho thấy rõ tầm quan trọng của ý thức pháp luật trong việc xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điển hình là những cơng trình sau:
Nguyễn Minh Đoan, Ý thức pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
Lê Đình Khiên, Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ hành chính nhà
nước ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, 1996.
Nguyễn Văn Năm, Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật,
Tạp chí Luật học, số 3/2011.
Nguyễn Lương Ngọc, Nâng cao ý thức pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2015.
Trần Thị Nguyệt, Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng và
thực hiện pháp luật, tạp chí nhà nước và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
8/2005. Bài viết tập trung luận giải về bản chất và vai trò của ý thức pháp luật ở 2 phương
diện: xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật.
Hoàng Thị Kim Quế, Bàn về ý thức pháp luật, Tạp chí triết học, số 1/2003.
Đào Duy Tấn, Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật của

người dân Việt nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, 2000.
Đào Trí Úc, Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật ở Việt nam, Tạp
chí nhà nước và pháp luật. Bài viết bàn về các vấn đề: bản chất, vị trí, vai trị của thực
hiện pháp luật trong hệ thống pháp luật, các hình thức thực hiện pháp luật, cơ chế thực
hiện pháp luật và những điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật.
Nghiên cứu về ý thức pháp luật trong tác phẩm triết học pháp luật của tác giả
Raymond Wacks, Phạm Kiều Tùng dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2011.

9


Các cơng trình nghiên cứu nói trên là những cơng trình nghiên cứu rất cơng phu,
nhìn chung các bài viết đều đề cập đến vấn đề ý thức pháp luật, việc thực hiện pháp luật
một cách sâu sắc. Những công trình đó đã góp phần làm sáng tỏ hơn về vai trò của ý thức
pháp luật, trong điều kiện hiện nay của Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp những cơng trình nghiên cứu và những bài viết,
bài báo, nay tôi cố gắng nghiên cứu và chỉ ra vai trò quan trọng của ý thức pháp luật của
người dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật của người dân góp phần làm cho nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hoàn thiện.

10


B. NỘI DUNG
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT
1.1.

Một số khái niệm cơ bản


1.1.1. Pháp luật
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận và được bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích giai cấp của
mình.
Trong lịch sử phát triển của xã hội lồi người đã có thời kỳ khơng có pháp luật đó
là giai đoạn cơng xã ngun thủy. Trong xã hội này, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo
lập trật tự, ổn định cho xã hội, người nguyên thủy sử dụng các quy phạm xã hội, đó là các
tập qn và tín điều tơn giáo. Các quy phạm xã hội trong chế độ cộng sản nguyên thủy có
những đặc điểm như: thể hiện ý chí chung của các thành viên trong xã hội, bảo vệ lợi ích
cho tất cả thành viên trong xã hội; là quy tắc xử sự chung của cộng đồng, là khuôn mẫu
của hành vi; được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, dựa trên tinh thần hợp tác giúp đỡ lẫn
nhau, mặc dù trong xã hội cộng sản nguyên thủy cũng đã tồn tại sự cưỡng chế nhưng
không phải do một bộ máy quyền lực đặc biệt tổ chức mà do cả cộng đồng tổ chức nên.
Những tập qn và tín điều tơn giáo lúc bấy giờ là những quy tắc xử sự phù hợp
để điều chỉnh các quan hệ xã hội, bởi vì nó phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của chế độ cộng sản nguyên thủy, phù hợp với tính chất khép kín của tổ chức thị tộc,
bào tộc, bộ lạc.
Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội phân chia thành giai cấp những quy phạm
xã hội đó trở nên khơng cịn phù hợp. Trong điều kiện xã hội mới xuất hiện chế độ tư hữu,
xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng, tính chất khép kín trong xã hội bị phá vỡ,
các quy phạm phản ánh ý chí và bảo vệ lợi ích chung khơng cịn phù hợp. Trong điều kiện
lịch sử mới xã hội địi hỏi phải có những quy tắc xã hội mới để thiết lập cho xã hội một
“trật tự”, loại quy phạm mới này phải thể hiện được ý chí của giai cấp thống trị và đáp
ứng nhu cầu đó pháp luật đã ra đời.
11


Bản chất của pháp luật cũng giống như bản chất nhà nước là tính giai cấp của nó,
khơng có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật khơng có tính giai cấp.

Tính giai cấp của pháp luật trước hết thể hiện ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà
nước của giai cấp thống trị, nội dung của ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt
vật chất của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị
đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung thống nhất,
hợp pháp hóa ý chí của nhà nước, được nhà nước bảo hộ thực hiện bằng sức mạnh của
nhà nước.
Tính giai cấp của pháp luật cịn thể hiện ở mục đích điều chỉnh của pháp luật.
Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các cấp, tầng lớp trong xã
hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm
hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một trật tự theo một trật tự phù hợp với ý chí của
giai cấp thống trị, bảo vệ củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật
chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Mặt khác, bản chất của pháp luật cịn thể hiện thơng qua tính xã hội của pháp
luật. Tính xã hội của pháp luật thể hiện thực tiễn pháp luật là kết quả của sự “chọn lọc tự
nhiên” trong xã hội. Các quy phạm pháp luật mặc dù cho các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tuy nhiên chỉ những quy phạm nào
phù hợp với thực hiện mới được thực tiễn giữ lại thơng qua nhà nước, đó là những quy
phạm “hợp lý”, “khách quan” được số đông trong xã hội chấp nhận, phù hợp với lợi ích
của đa số trong xã hội.
Giá trị xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ, quy phạm pháp luật vừa là thước
đo của hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các q trình, các hiện tượng xã
hội, là cơng cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng chú ý vận
động, phát triển phù hợp với các quy luật khách quan.
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng. Nó là cơng cụ
khơng thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và
của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật khơng chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu
12


mà cịn tạo mơi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hóa

đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới.
1.1.2. Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, là một trong những biểu hiện
của trình độ văn hóa xã hội. Có thể định nghĩa ý thức pháp luật là tổng thể những học
thuyết, tư tưởng, tình cảm của con người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng
hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn, về tính hợp pháp hay khơng hợp
pháp trong hoạt động của các chủ thể. Ý thức pháp luật là một trong những vấn đề cơ bản,
phức tạp của đời sống pháp luật; là điều kiện, tiền đề tư tưởng quan trọng, trực tiếp cho
việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; là cơ sở hình thành văn hoá pháp lý của
các chủ thể, tạo cho các chủ thể có khả năng, kỹ năng sử dụng hiệu quả cơ chế điều chỉnh
pháp luật để bảo vệ lợi ích cho bản thân, cho nhà nước và xã hội, xử sự đúng đắn, phù
hợp trong các mối quan hệ xã hội..
Từ định nghĩa trên có thể thấy rằng: về mặt nội dung, ý thức pháp luật được cấu
thành từ hai bộ phận: tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Tư tưởng pháp luật là tổng
thể những tư tưởng, quan điểm, phạm trù, khái niệm, học thuyết về pháp luật, về kiến trúc
thượng tầng pháp lý của xã hội. Tâm lý pháp luật được thể hiện qua thái độ, tình cảm, tâm
trạng, xúc cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, được hình thành một
cách tự phát thông qua giao tiếp và dưới tác động của các hiện tượng pháp lý, phản ứng
một cách tự nhiên của con người đối với các hiện tượng đó.
Ý thức pháp luật có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, với tính cách là một hình thái
ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội, nhưng nó có tính độc
lập tương đối. Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện ở một số khía
cạnh. Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội, thực tế cho thấy tồn tại xã hội cũ
đã mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp luật vẫn còn tồn tại dai dẳng
trong một thời gian dài. Những tàn dư của quá khứ được giữ lại, nhất là trong lĩnh vực
tâm lý pháp luật, nơi thói quen và truyền thống cịn đóng vai trị to lớn. Ví dụ những biểu
hiện của tâm lý pháp luật phong kiến như sự thờ ơ, phủ nhận đối với pháp luật hiện vẫn
tồn tại trong xã hội nước ta hiện nay. Tư tưởng pháp luật đặc biệt là tư tưởng pháp luật
13



khoa học lại có thể vượt lên trên sự phát triển của tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng pháp luật
mới có thể sinh ra trong lịng xã hội cũ.
Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội có tính kế thừa ý thức pháp luật của thời
đại trước đó, tất nhiên những yếu tố được kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ; ý
thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, nó có thể là động lực thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của các sự vật hiện tượng.
Thứ hai, ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp. Mỗi quốc gia chỉ có
một hệ thống pháp luật, nhưng tồn tại một số hình thái ý thức pháp luật: có ý thức pháp
luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của các giai cấp bị trị, của các tầng lớp trung
gian.
Ý thức pháp luật phản ánh sâu sắc đời sống pháp luật, trước hết là phản ánh quá
trình nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể và việc điều chỉnh hành vi
của con người nhằm duy trì trật tự kỷ cương theo pháp luật. Nó là một trong những nhân
tố có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam.
1.1.3. Nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
* Nhà nước pháp quyền
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã
hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng của thời cổ
đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN).
Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản sau này như
John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant
(1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới.
Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng vĩ đại
khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền như Tômát
Jepphecxơn (1743 - 1826 - tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776), Tômát Pên
(1737 - 1809), Jôn A đam (1735 - 1826)…

14



Tại Pháp cũng như Đức, từ đầu thế kỉ 20 Nhà nước pháp quyền được quan niệm
như một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước đặc biệt, đặt dưới một “chế độ luật pháp”:
trong nhà nước như thế, chính quyền chỉ được sử dụng những phương tiện được ban ra
bởi trật tự pháp lý hiện hành, trong khi đó các cá nhân được sử dụng những phương tiện
tư pháp để chống lại sự lạm quyền có thể có đến từ chính quyền. Trung tâm của học
thuyết nhà nước pháp quyền, là nguyên tắc theo đó các cơ quan nhà nước chỉ có thể hành
động dựa trên một tư cách pháp lý: Mọi hành vi sử dụng sức mạnh vật chất đều phải được
căn cứ dựa trên các quy phạm pháp luật. Việc thực thi quyền lực nhà nước được căn cứ
bởi thẩm quyền (Kompetenz), được thiết lập và đóng khung bằng luật pháp. Cơ quan nhà
nước có nghĩa vụ tuân thủ các quy phạm pháp luật. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi trước
tiên sự phục tùng pháp luật bởi chính quyền: Chính quyền phải tuân thủ các quy định vốn
tạo nên nền tảng, khuôn khổ và phạm vi hoạt động của chính quyền đó, sự tn thủ này
phải được đảm bảo bởi sự tồn tại của một cơ chế kiểm soát tư pháp độc lập, tức là hoặc
bởi các quan tịa bình thường (Justizstaat), hoặc bởi các tịa án đặc biệt (Sondergerichte).
Nhưng lý thuyết này cũng đòi hỏi sự lệ thuộc của luật vào Hiến pháp: Nghị viện phải thực
thi những quyền hạn của mình trong khn khổ đã được xác định bởi Hiến pháp, và hơn
thế, sự can thiệp của một quan tòa, ở đây là một tòa hiến pháp là điều cần thiết để đảm
bảo sự tôn trọng tính tối thượng của hiến pháp.
Nhà nước pháp quyền là vị thế pháp lý hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi người
đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công quyền.
Nhà nước pháp quyền như vậy liên hệ chặt chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ bậc của các
quy phạm, tôn trọng sự phân chia quyền lực và tôn trọng các quyền căn bản. Nhà nước
pháp quyền là nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách thơng qua phiếu bầu
phải có trách nhiệm với những luật lệ mà họ ban ra. Lý thuyết phân quyền
của Montesquieu vốn là nền tảng cho phần lớn Nhà nước phương Tây hiện đại khẳng định
sự phân chia ba quyền (lập pháp, hành pháp và tư pháp) và những giới hạn của ba thứ
quyền lực này. Ví dụ trong mơ hình dân chủ nghị viện, quyền lập pháp (Nghị viện) hạn
chế quyền lực của phía hành pháp (Chính phủ): Như vậy chính phủ khơng thể tự do hành

động theo sở thích của mình và phải ln có được sự hậu thuẫn của Nghị viện, nơi thể
hiện ý chí và nguyện vọng của dân chúng. Cũng như thế, tư pháp cho phép tạo ra sự đối
15


trọng đối với một số quyết định của chính phủ. Như vậy, Nhà nước pháp quyền đối lập
với các thể chế quân chủ tuyệt đối với thứ quyền lực thần thánh (Trong các chế độ trước,
hồng đế có quyền lực tối thượng, giống như Louis XIV đã từng nói: Ta chính là Nhà
nước) và cũng đối lập với các thể chế độc tài, nơi chính quyền hành động bất chấp các
quyền căn bản. Nhà nước pháp quyền cũng khơng địi hỏi tất cả luật pháp đều phải là luật
thành văn. Ví dụ như Hiến pháp Anh Quốc, dựa trên các tập quán là chủ yếu. Trong
trường hợp như thế, những người được giao phó quyền lực phải tuân thủ luật pháp
thep tập quán với sự tôn trọng các quyền căn bản tương tự như trong hệ thống luật thành
văn. Lý thuyết của Hans Kelsen: Nhà nước pháp quyền và trật tự các quy phạm. Theo
định nghĩa cổ xưa nhất thì Nhà nước pháp quyền là một hệ thống thể chế nơi quyền lực
công phục tùng pháp luật. Vào đầu thế kỷ XX, nhà luật học người Áo Hans Kelsen đã
định nghĩa lại khái niệm có nguồn gốc từ người Đức này (Rechtsstaat) như là một Nhà
nước trong đó các quy phạm pháp luật được sắp xếp có trật tự sao cho quyền lực phải
chịu sự giới hạn. Trong mơ hình này, mỗi quy phạm có được hiệu lực từ sự tuân thủ các
quy phạm cao hơn. Sự tồn tại một trật tự có thứ bậc các quy phạm tạo nên một trong
những đảm bảo quan trọng bậc nhất của Nhà nước pháp quyền. Trong khn mẫu đó,
thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước phải được xác định một cách rõ ràng và các quy
phạm mà những cơ quan này tạo ra chỉ có hiệu lực với điều kiện tuân thủ tồn bộ các quy
phạm có hiệu lực cao hơn. Cao nhất của hệ thống các quy phạm pháp luật là Hiến pháp.
Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa là bản
chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước. Mục tiêu của
nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính
trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình thơng qua dân chủ
trực tiếp; dân chủ đại diện.
Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và

pháp luật. Hiến pháp và pháp luật ln giữ vai trị điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt
động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi
hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có
16


Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ
pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi
lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội. Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính
pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự
tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho cơng dân thực hiện quyền
của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước
được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mơ hình quan
hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước
chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với cơng dân được làm tất cả trừ những điều
luật cấm.
Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện theo
các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm sốt quyền lực. Tính chất và cách
thức phân cơng, kiểm sốt quyền lực nhà nước rất đa dạng, tuỳ thuộc vào chính thể nhà
nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung là quyền lực nhà nước không thể
tập trung vào một người, vào một cơ quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp. Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các
cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy
nhà nước.
Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù
hợp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ
và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một

điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao
và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các
quốc gia có thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối
cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của
Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến
pháp, nhà nước pháp quyền ln địi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp
17


thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực
hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các
mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội. Trong mối quan hệ giữa Nhà
nước và kinh tế, vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước được xác định bởi tính
chất, trình độ của các mơ hình kinh tế thị trường, theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát
huy các quy luật khách quan của thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ
kinh tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường. Trong mối quan hệ
với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trị
và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã hội (các tổ chức xã hội, các cộng đồng xã
hội). Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy định và
chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước pháp quyền gắn
liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi Hiến pháp và pháp
luật.
* Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) đã đưa ra khái niệm "Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa". Tuy nhiên trên thực tế, khơng có sự giải thích rõ ràng về Nhà
nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa bằng văn bản. Khái niệm này lần đầu tiên được nhắc
đến do ông Đỗ Mười tại Hội nghị lần thứ II, Ban chấp hành Trung ương khóa VII, ngày
29-11-1991. Gần đây được bàn đến trong các cuộc họp cấp cao ở Việt nam. Điển hình là
trong bài diễn văn tại phiên khai mạc kỳ họp đầu tiên của QH khóa XII vào ngày

19/7/2007, ơng Nơng Đức Mạnh đã lần đầu tiên chính thức công bố nội dung của Học
thuyết Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Như lời Luật sư Lê Công Định, học
thuyết này là sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc vận dụng thuyết tam
quyền phân lập vào bối cảnh chính trị một đảng cầm quyền đặc biệt ở Việt Nam. Theo
quan điểm của GS.TS. Nguyễn Duy Quý, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu
nhà nước (giống như kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà
nước tư bản chủ nghĩa hay kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa) mà là một phương thức tổ

18


chức quyền lực nhà nước tiến bộ mà bất kì nhà nước nào, thể chế chính trị nào muốn đạt
đến trình độ văn minh đều phải hướng tới.
Theo ơng, sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nói riêng, đã được các đề tài của Chương trình KX.04 khái qt trên
những nét chính sau:
Một là, cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác
định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường
trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra
sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cơ sở chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chế độ dân
chủ nhất nguyên. Chế độ dân chủ nhất nguyên là điều kiện cơ bản để tạo ra một đời sống
dân chủ có tính thống nhất cao, một hệ thống chính trị thống nhất và là một địi hỏi có
tính nội tại của chế độ nhà nước và chế độ xã hội trong các điều kiện xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Do vậy, sự nhất nguyên chính trị phải ln là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ
nghĩa - một nhà nước địi hỏi tính thống nhất và tính tổ chức cao trong tổ chức cũng như

trong hoạt động của mọi cấu trúc nhà nước để có thể đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội.
Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo
của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất của một nền dân chủ không lệ
thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà lệ thuộc vào chỗ đảng cầm quyền đại
diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào những mục đích gì trên thực tế.
Vì vậy, điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền không thể là chế độ đa đảng hay chế
độ một đảng và khơng thể coi đó là căn cứ để đánh giá tính chất và trình độ của một nền
19


dân chủ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã
hội và đời sống nhà nước không những không trái với bản chất nhà nước pháp quyền nói
chung mà cịn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta.
Ba là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở
xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực
hành và phát huy dân chủ.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự
phân tầng xã hội theo hướng phân hóa giàu, nghèo nhưng có khả năng xử lý tốt hơn mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật,
chính sách và các cơng cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn
đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều
kiện để bảo đảm ổn định chính trị, đồn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung
của sự phát triển.
Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền tạo
ra khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân,
phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc thực hành và phát huy dân
chủ.
1.2.

Vai trò của ý thức pháp luật trong quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền và ý thức pháp luật vận động, phát triển gắn liền với nhau,
hỗ trợ nhau và thúc đẩy nhau. Một trong những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta là
20


quyền lực nhà nước là thống nhất trong đó có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là điểm đặc thù của việc xây
dựng Việt Nam trở thành nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa là sự lựa chọn đúng
đắn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể nước ta. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền
tảng, sự phân công, phối hợp và kiểm soát là phương thức để đạt được sự thống nhất của
quyền lực nhà nước.
Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới chỉ ra rằng, nếu nhà nước coi pháp luật chỉ
như công cụ phục vụ riêng cho giai cấp cầm quyền, tuỳ tiện sử dụng bất chấp quy luật xã
hội thì khơng những khơng giải quyết được những mâu thuẫn và xung đột xã hội, mà
ngược lại, làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn và xung đột đó. Trong nhà nước pháp
quyền, pháp luật có vị trí “tối thượng” và cũng đặt ra yêu cầu đối với pháp luật phải phù
hợp với quy luật khách quan, hợp lý, công bằng, nhân đạo; pháp luật thể hiện ở đây như
một sự cần thiết để kích thích tính tích cực sáng tạo, tính tự ý thức của con người và trách
nhiệm của họ.
1.2.1. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”,
nhân dân phải là người thực sự xây dựng nên nhà nước của mình, tham gia vào cơng việc
nhà nước và kiểm tra hoạt động của nhà nước trên cơ sở thực hiện tốt các quyền và nghĩa
vụ của mình do luật định.
Cơng dân cần phải nắm vững và thực hiện quyền làm chủ và nghĩa vụ công dân
của mình, hiểu được mọi quyền lực của Nhà nước đều do nhân dân giao cho, các cơ quan
nhà nước khơng tự có quyền lực. Quyền lực của dân được thể hiện qua việc bầu ra cơ
quan đại diện cho mình để xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật, giám sát hoạt động
của bộ máy nhà nước thông qua các bộ luật này. Điều này được chứng minh qua Điều 27:
“Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có
quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân”, Điều 28: “Cơng dân có quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các
vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”, Điều 29: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên
21


có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Bảo đảm sự tham gia của
nhân dân vào công việc quản lý nhà nuớc đã được ghi trong Hiến pháp, những bộ luật:
Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức
Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Phịng, chống tham nhũng, trong đó quy
định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào hoạt động
quản lý của Nhà nước như việc các đại biểu, các cơ quan nhà nước phải tiếp nhận và giải
quyết các đề xuất, kiến nghị, khiếu nại của người dân, tiếp thu các ý kiến đóng góp vào
các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội... Các luật về các tổ chức chính trị - xã hội như Luật Cơng đồn, Luật
Thanh niên, Luật Mặt trận Tổ quốc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về vai trị của các
tổ chức chính trị - xã hội tham gia công việc quản lý nhà nước. Điều này thể hiện tính dân
chủ, tính nhân văn của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – một nhà nước
mang tính nhân dân sâu sắc.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi
quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân dân có quyền tham gia xây dựng, quản lý và điều
hành nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhận thức rõ vai trị của mình đối với
việc xây dựng nhà nước thì cơng dân sẽ thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình hay nói
cách khác, ý thức pháp luật giúp nâng cao ý thức của người dân về quyền lợi và nghĩa vụ
của mình, hướng cơng dân đến việc sử dụng và bảo vệ quyền của mình, của người khác
đúng theo pháp luật, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật nước ta.
1.2.2. Nâng cao ý thức về tính thượng tơn pháp luật của nhân dân
Nhà nước quản lý, điều hành bằng pháp luật. Do đó, pháp luật chiếm vị trí tối
thượng trong hoạt động của Nhà nước và trong đời sống xã hội.
Hiến pháp quy định những điều luật nền tảng cho toàn bộ nền luật pháp của chế
độ xã hội; và những điều luật này vừa được thực hiện một cách trực tiếp, vừa có thể được
cụ thể hóa thành bộ luật hoặc luật để thực hiện tùy theo sự đòi hỏi của thực tế đời sống xã
hội. Nếu Hiến pháp không được thực hiện trực tiếp trong xã hội, và nếu Hiến pháp không
22


được liên thông với các bộ luật và luật của đất nước thì Hiến pháp rất khó được thực hiện
trực tiếp, và nền tảng luật pháp của đất nước bị hạn chế căn bản.
Hiến pháp quy định cấu trúc (khuôn mẫu) cho nền quản trị của luật trong xã hội.
Với vị trí, vai trị như vậy của Hiến pháp, nên quyền lập hiến phải trực tiếp thuộc về toàn
thể nhân dân, để thể hiện một cách căn bản tư tưởng “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân”. Chỉ với tính chất như vậy, Hiến pháp mới giữ vị trí tối cao trong hệ thống thể
chế pháp quyền.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp nói riêng và luật pháp nói
chung. Các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức và tổ chức, hoạt động của Nhà nước
phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; lắng
nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân (Điều 8 Hiến pháp năm 2013). Và mọi chủ
thể trong xã hội (Nhà nước, các tổ chức chính trị và xã hội, tập thể và cá nhân) đều phải
tuân thủ nền pháp trị hay quản trị của luật (luật pháp) mà Hiến pháp là bộ luật gốc và quy

định khuôn khổ cho nền luật pháp.
Với yêu cầu của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân thì yêu cầu quan trọng với mọi thành viên trong xã hội, bất kể ai từ già đến trẻ; và
mọi tổ chức, từ tổ chức chính trị cho đến các tổ chức chính trị- xã hội, nghề nghiệp, đặc
biệt những người cầm cân, nảy mực bảo vệ pháp luật phải tuyệt đối tuân theo Hiến pháp
và pháp luật. Bất kỳ đơn vị, cá nhân nào vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm
minh. Có như thế, xã hội mới thực sự ổn định, phát triển bền vững.
Tư tưởng thượng tôn pháp luật về thực chất là sự thừa nhận tính tối cao của pháp
luật. Theo đó, mọi người đều phải tn theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật, được
làm những việc mà pháp luật khơng cấm.
Trong tên gọi của nước Việt Nam, có các chữ “dân chủ”, “cộng hòa” (Việt Nam
dân chủ cộng hòa, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với ý nghĩa rằng Nhà nước Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân làm chủ, là Nhà nước pháp quyền; Nhà nước
đó thừa nhận mọi cơng dân bình đẳng trước pháp luật, đều được làm những việc mà pháp
luật khơng cấm; Nhà nước đó bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
23


của công dân. Như vậy, tên gọi của nước Việt Nam cũng đã thể hiện tư tưởng thượng tơn
pháp luật.
Trình độ hiểu biết pháp luật của người dân cũng là một trong những ngun nhân
ảnh hưởng đến tính thượng tơn của pháp luật. Một số người tuy nhận thức được pháp luật,
nhưng cố tình vi phạm pháp luật. Nhận thức yếu kém của một số người về pháp luật là
một nguyên nhân dẫn đến tư tưởng không thượng tôn pháp luật. Chính vì vậy, ý thức
pháp luật giúp nâng cao ý thức của người dân về tính thượng tơn pháp luật, để người dân
thừa nhận và tự giác thực hiện đúng với pháp luật của Nhà nước ban hành.
Một bộ máy nhà nước lành mạnh là một tổ chức trong đó các quyết sách phải
được thực thi một cách nghiêm minh, nhất quán từ trên xuống dưới mà không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của các cá nhân người cơng chức hay lãnh đạo. Đó cũng là một bộ
máy có những cơ chế kiểm sốt nội bộ và vận hành hiệu nghiệm để ngăn chặn được nạn

tham nhũng ngay từ bên trong.
Luật pháp chính là những mắt xích giúp cho cỗ máy nhà nước có thể hoạt động.
Người dân ở bất cứ xã hội nào cũng đều luôn luôn cần một môi trường luật pháp rành
mạch, công minh và vững chắc để được bảo vệ an toàn. Để pháp luật được thượng tơn thì
khơng chỉ những nhà cầm quyền phải nắm pháp luật mà những người dân cũng phải hiểu
biết về pháp luật. Có như vậy pháp luật mới được thực thi một cách nghiêm minh, dễ đi
vào đời sống. Người dân biết luật sẽ có nhiều cơ hội giám sát hoạt động của cơ quan
chính quyền hơn, họ sẽ nhận biết được điều gì là sai trái trong hoạt động của cơ quan
chính quyền hơn, họ sẽ nhận biết được điều gì là sai trái trong hoạt động của cơ quan nhà
nước.
Tinh thần thượng tôn pháp luật cùng với một hệ thống pháp luật hoàn thiện nhất
sẽ là một động cơ mạnh mẽ giúp cỗ máy nhà nước vận hành trơn tru từ đó có thể đưa đất
nước phát triển với tốc độ tối đa sánh vai cùng các cường quốc.

24


1.2.3. Nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc kiểm soát quyền lực nhà
nước và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”1; tổ chức và hoạt động của nó dựa
trên một trong những nguyên tắc nền tảng: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp ”2. So với Cương lĩnh năm 1991, lần này Cương lĩnh chẳng
những bổ sung thêm “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” mà còn đưa
một nội dung mới vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước là “Kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Trước hết, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân”. Quyền lực nhà nước khơng phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực của
nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Nhân dân không trực tiếp thực
hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại giao cho Nhà nước thay mình thực hiện, nên tất
yếu nảy sinh địi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt
khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực nhà nước lại thường vận động theo xu
hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ của nhân dân là
số đơng chuyển sang số ít của một nhóm người hoặc của một người). C.Mác gọi hiện
tượng này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là của nhân dân
giao cho các cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho những con người cụ thể thực thi.
Mà hành động của con người thì ln ln chịu sự tác động của các loại tình cảm và dục
vọng khiến cho lý tính đơi khi bị chìm khuất3. Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các
dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà
nước càng lớn. Với đặc điểm đó của con người, không thể khẳng định người được ủy
quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ những gì mà nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy, kiểm sốt
quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối
với người được ủy quyền là Nhà nước. Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước không phải là
25


×