Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Văn hóa pháp luật trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 67 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Đề tài:

VĂN HĨA PHÁP LUẬT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Chuyên ngành
Lớp

: TS. VƯƠNG THỊ BÍCH THỦY
: ĐẶNG THỊ NGỌC HUYỀN
: GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
: 13SGC

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2017
1


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Đề tài:

VĂN HĨA PHÁP LUẬT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM



2


Đà Nẵng, tháng 05 năm 2017

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, trên cơ sở của sự
tham khảo có chọn lọc và đầu tư cẩn thận được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS.
Vương Thị Bích Thủy và chưa từng cơng bố trong bất kì cơng trình nào khác. Tơi
xin chịu mọi trách nhiệm về nội dung khoa học của công trình này.
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2017
Tác giả

Đặng Thị Ngọc Huyền

3


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành đề tài khóa luận này, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô
giáo, những người đã trực tiếp giảng dạy và trau dồi kiến thức cho tơi trong
suốt q trình học tập tại trường Đại học sư phạm Đà Nẵng. Đặc biệt, tôi xin
dành những lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cơ giáo – TS. Vương Thị
Bích Thủy, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q
trình thực hiện khóa luận.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến sự giúp đỡ của quý thầy cô trong khoa
Giáo dục chính trị, các thầy cơ giáo ở thư viện trường Đại học sư phạm Đà
Nẵng, đã tạo điều kiện, giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện khóa luận.
Cuối cùng tơi xin cảm ơn tất cả bạn bè trong tập thể lớp 13 SGC đã giúp đỡ,

động viên và chia sẽ những tài liệu bổ ích giúp tơi hồn thành tốt khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng trong q trình nghiên cứu khơng thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
thầy, cơ giáo và các bạn để khóa luận được hồn thiện một cách tốt nhất.
Xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện

Đặng Thị Ngọc Huyền

4


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN

A.MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................... 7
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.................................................................................. 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 8
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................................... 9
5. Bố cục của đề tài......................................................................................................... 9
6. Tổng quan về tài liệu nghiên cứu ................................................................................. 9
B. NỘI DUNG .............................................................................................................. 12
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT VÀ VĂN
HÓA PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM.............................................................................. 12
1.1. Văn hóa pháp luật................................................................................................. 12
1.1.1. Quan niệm về văn hóa và văn hóa pháp luật......................................................... 12
1.1.2. Cấu trúc, chức năng của văn hóa pháp luật........................................................... 17

1.2. Đặc điểm văn hóa pháp luật Việt Nam ................................................................ 24
Kết luận chương 1........................................................................................................ 27
Chương 2. VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................... 28
2.1. Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và văn hóa pháp luật................................ 28
2.1.1. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam .. 28
2.1.2. Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và văn hóa pháp luật .................................... 33
2.2. Vai trị của văn hóa pháp luật trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ..................................................................................................... 39
2.3. Một số biện pháp góp phần xây dựng văn hóa pháp luật trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ....................................... 44
2.3.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật............................................. 44
2.3.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật cho các chủ
thể trong nền kinh tế ...................................................................................................... 48
5


2.3.3. Phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển kinh tế.................................................. 53
2.3.4. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa............................................................................................................. 56
Kết luận chương 2 ........................................................................................................ 60
C.KẾT LUẬN .............................................................................................................. 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 62
CÁC CƠNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI KHĨA LUẬN ĐÃ CƠNG BỐ

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng, khơng phải chỉ là công cụ để nhà nước
thực hiện chức năng quản lý xã hội, mà còn là phương tiện để giáo dục con người, tạo
môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành các quan hệ mới trong xã hội. Thực
tế đã chứng minh rằng, công cuộc đổi mới đất nước, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã
hội, xây dựng nhà nước pháp quyền phải đi đơi với q trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và nâng cao trình độ văn hóa pháp luật cho
nhân dân.
Việc xây dựng và nâng cao trình độ văn hóa nói chung và văn hóa pháp luật nói
riêng cho nhân dân giữ vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình đổi mới đất
nước. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay
đặt ra yêu cầu là người dân phải biết tôn trọng pháp luật và ứng xử có văn hóa. Cơ chế
thị trường địi hỏi cách làm ăn khơng chỉ có tình cảm mà phải có ngun tắc, đức trị
phải được duy trì trên cơ sở pháp trị. Nền kinh tế Việt Nam muốn phát triển phải hịa
mình vào hệ thống kinh tế quốc tế, tn theo những “thơng lệ quốc tế”. Với ý nghĩa
đó, việc xây dựng các chuẩn mực pháp lý, nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp
luật cho các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý
nghĩa quan trọng.
Từ khi đổi mới theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường đến nay, nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu về nhiều lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn hóa,…Thực tiễn
cho thấy, tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển, nhận thức về văn hóa của các
cấp, các ngành và tồn dân được nâng lên, cùng với đó trình độ văn hóa pháp luật của
nhân dân ta đã có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã tác động to lớn,
sâu sắc đến nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Văn hóa nói chung cịn nhiều hạn chế,
bất cập, nhiều giá trị truyền thống văn hố dân tộc bị xói mịn, đạo đức xã hội có
những mặt xuống cấp, cùng với đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay, ý thức pháp luật của một bộ phận nhân dân cịn hạn chế, tình trạng vi
7



phạm pháp luật cịn nhiều, có những diễn biến phức tạp như: tình trạng tham nhũng
lãng phí, tệ quan liêu, bệnh hình thức, nhiều vấn nạn xã hội có chiều hướng gia tăng…
Với mục tiêu xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tạo môi
trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, thể chất, tinh thần, trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật đề cao tinh thần yêu nước,
trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất
nước. Vì vậy, xây dựng và phát triển văn hóa, tăng cường giáo dục văn hóa pháp luật
cho các chủ thể nhằm hình thành nếp sống và làm việc tôn trọng pháp luật, tuân thủ
các qui định của pháp luật là một tất yếu khách quan đặc biệt là trong điều kiện xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
việc làm hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tơi chọn vấn đề: “Văn hóa pháp luật trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ” làm đề tài khóa luận
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích
Qua nghiên cứu và luận giải về vai trị của văn hóa pháp luật, đề tài hướng đến
việc tìm kiếm các giải pháp thích hợp nhằm góp phần xây dựng văn hóa pháp luật
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Thứ nhất, phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật và văn
hóa pháp luật Việt Nam.
- Thứ hai, phân tích, làm rõ bản chất, tác dụng của văn hóa pháp luật trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trị của văn hóa pháp luật trong nền kinh tế
thị trường.
* Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu lĩnh vực văn hóa pháp luật, văn hóa pháp luật trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
8


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản
Việt Nam về kinh tế thị trường, về xây dựng văn hóa pháp luật trong nền kinh tế thị
trường.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lơgic và
lịch sử, hệ thống hóa, phân tích và tổng hợp, so sánh, …
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương, 5 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật ở
Việt Nam.
Chương 2: Văn hóa pháp luật trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6. Tổng quan về tài liệu nghiên cứu
Hiện nay, văn hóa pháp luật, kinh tế thị trường và những vấn đề đặt ra trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang thu hút sự quan
tâm của các nhà khoa học, của các nhà nghiên cứu lý luận và cả những người làm công
tác quản lý kinh tế.
Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay đã được nghiên cứu, bình luận, trao
đổi dưới nhiều hình thức khác nhau. Về tổng quan có thể phân chia thành các hướng
nghiên cứu liên quan đến đề tài như sau:

Hướng nghiên cứu thứ nhất, bao gồm các công trình nghiên cứu về văn hóa pháp
luật nói chung và văn hóa pháp luật ở Viêt Nam. Cụ thể như một số bài nghiên cứu
dưới dạng tiểu luận, bài báo cũng khá phổ biến trong thời gian gần đây như: "Góp
phần tìm hiểu văn hóa pháp luật" của tác giả Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2008. Tác giả đã bàn về văn hóa pháp luật của một
quốc gia. Sau phần tranh luận về khái niệm văn hóa pháp luật và phạm vi ứng dụng
của khái niệm, tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa văn hóa pháp luật quốc gia trong
9


tương tác với khu vực và quốc tế, từng bước nhận diện những lát cắt và tiêu chí đánh
giá hay đo lường của văn hóa pháp luật của một quốc gia; “Văn hóa pháp lý Việt
Nam”, do Lê Đức Tiết (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005. Tác giả đã đề
cập những vấn đề rất cơ bản về văn hóa pháp lý nói chung của người Việt Nam, làm rõ
những khái niệm có liên quan như: văn hóa, văn hóa pháp lý… trên cơ sở đó, đưa ra
các quan điểm đánh giá văn hóa pháp lý ở Việt Nam; "Vấn đề văn hóa pháp luật ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay" của tác giả Lê Minh Tâm (1998), Tạp chí Luật
học. Bài viết đã đưa ra định nghĩa văn hoá pháp luật, đồng thời chỉ ra các bộ phận hợp
thành của văn hoá pháp luật; “ Văn hố pháp lý Việt Nam trong xu thế tồn cầu hố”
của Lê Vương Long (2007), Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 4. Ngoài việc đưa ra định
nghĩa về văn hoá pháp lý, trong bài viết này, tác giả cịn khẳng định Việt Nam có
truyền thống văn hố pháp lý lâu đời; “ Ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật’’ của
tác giả Nguyễn Thị Hồi năm 2008, bài viết trên đã nêu lên thực trạng văn hóa pháp
luật hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp luật trong nền
kinh tế thị trường.
Hướng nghiên cứu thứ hai, bao gồm các công trình nghiên cứu về văn hóa pháp
luật trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, hướng
nghiên cứu này vẫn chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, chủ
yếu là các bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí và trên Internet, cụ thể như sau:
“ Nhân tố văn hóa trong sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Thị Thường (chủ biên, 2009), đã đề cập đến nền tảng về văn hóa nói

chung và văn hóa pháp luật nói riêng trong điều kiện xã hội hiện nay... tác giả đã đưa
ra cách nhìn mới về vai trị của văn hóa, về văn hóa pháp luật trong sự tiến bộ của xã
hội Việt Nam trong điều kiện xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; “ văn hóa pháp luật trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Thị Nhường. Tác giả đã đề cập đến các quan niệm về văn hóa pháp luật,
đưa ra quan niệm về văn hóa pháp luật. Tác giả đề cập đến đặc điểm văn hóa pháp luật
ở Việt Nam, đó là nền văn hóa duy tình, trọng tình hơn là lý và những nguyên nhân
dẫn đến văn hóa trọng tình của người Việt. Bên cạnh đó là đề cập đến sự ảnh hưởng từ
bên trong và về việc du nhập văn hóa pháp luât nước ngồi vào Việt Nam, đây là điểm
mà ít nhà ngiên cứu đề cập đến.

10


Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã phân tích các khía cạnh cụ thể khác nhau
với những nội dung rất phong phú và đa dạng về các vấn đề văn hóa pháp luật và kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Song văn hóa pháp luật với tư cách là một
hình thái ý thức xã hội phản ánh sự biến đổi của tồn tại xã hội, luôn có những biến đổi
cùng với sự biến đổi của kinh tế thị trường. Do đó, việc phân tích, nghiên cứu thực
trạng văn hóa pháp luật, vai trị của văn hóa pháp luật trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là việc làm cần thiết. Trên cở sở đó có những nhận
định và đưa ra những phương hướng, giải pháp thích hợp nhằm nâng cao văn hóa pháp
luật đối với xã hội hiện tại như là một hướng mới mà người viết muốn tiếp tục nghiên
cứu trong cơng trình này.

11


B. NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT

VÀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
1.1. Văn hóa pháp luật
1.1.1. Quan niệm về văn hóa và văn hóa pháp luật
Vốn là một hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, đa cấp độ, văn hóa từng được nhìn
nhận theo nhiều cách thức khác nhau. Ở trình độ lý luận và yêu cầu của xã hội ngày
nay, văn hóa được coi là tất cả những gì liên quan đến con người, ít nhiều thể hiện
được sức mạnh bản chất của con người. Văn hóa ra đời cùng với sự xuất hiện của
xã hội loài người, từ giai đoạn khởi thủy cho đến giai đoạn phát triển thịnh vượng
sau này. Quá trình phát triển của văn hóa cũng là q trình lồi người tiến hóa, đi lên,
nắm bắt các quy luật tự nhiên và làm chủ thế giới. Có thể nói, sự phát triển của văn
hóa chính là q trình con người tự hồn thiện mình, hoàn thiện xã hội, xây dựng một
xã hội tiến bộ hơn, dân chủ hơn. Văn hóa đích thực là ánh sáng dẫn dắt đời sống nhân
loại đi tới những giá trị cao cả để đạt được sự toàn thiện, toàn mỹ. Bởi vậy, làm lành
mạnh mơi trường văn hóa, tạo điều kiện cho văn hóa phát triển cũng có ý nghĩa
tích cực đối với sự phát triển tiến bộ xã hội và hoàn thiện nhân cách mỗi cá nhân.
* Quan niệm về văn hóa
Văn hóa là khái niệm có nội hàm rộng lớn, có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Có nhiều định nghĩa về văn hóa đã được các học giả đề cập và phân tích
trong các cơng trình nghiên cứu của mình.
Theo EB. Taylor: “văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói
chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số
năng lực, thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên xã
hội”. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh bao gồm tất cả các lĩnh vực liên
quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp
luật,...[42].
Theo F. Boas định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất
và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người
vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của
họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các
12



thành viên này với nhau” [42]. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập
thể và môi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người.
Một định nghĩa khác về văn hóa mà A.L. Kroeber và Kluckhohn đưa ra là: “Văn
hóa là những mơ hình hành động minh thị và ám thị được truyền đạt dựa trên những
biểu trưng, là những yếu tố đặc trưng của từng nhóm người… Hệ thống văn hóa vừa
là kết quả hành vi vừa trở thành nguyên nhân tạo điều kiện cho hành vi tiếp theo”
[42].
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa”. [14].
Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm tồn bộ những gì do con người sáng tạo
và phát minh ra. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng
phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên nhiên mà có liên
quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, q trình con người làm
nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với
phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức
bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo
vệ mình và khơng ngừng lớn mạnh” [42]. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những
cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý
thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Riêng Nguyễn Đức Từ Chi xem hai góc độ. Góc độ thứ nhất là góc độ hẹp, mà
ơng gọi là “góc nhìn báo chí”. Theo góc nhìn này, văn hóa sẽ là kiến thức của con
người và xã hội. Nhưng, ơng khơng mặn mà với cách hiểu này vì hiểu như thế thì

người nơng dân cày ruộng giỏi nhưng khơng biết chữ vẫn bị xem là “khơng có văn
hóa” do tiêu chuẩn văn hóa ở đây là tiêu chuẩn kiến thức sách vở. Cịn góc nhìn thứ
hai là “góc nhìn dân tộc học” [5]. Với góc nhìn này, văn hóa được xem là tồn bộ cuộc
sống - cả vật chất, xã hội, tinh thần- của từng cộng đồng; và văn hóa của từng cộng
13


đồng tộc người sẽ khác nhau nếu nó được hình thành ở những tộc người khác nhau
trong những môi trường sống khác nhau. Văn hóa sẽ bị chi phối mạnh mẽ bởi sự kiểm
sốt của xã hội thơng qua gia đình và các tổ chức xã hội, trong đó có tơn giáo. Cách
định nghĩa văn hóa này là khá tồn diện, thể hiện được nguồn gốc, chức năng của văn
hóa, đồng thời cũng phản ánh tính kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, thời kỳ lịch
sử này sang thời kỳ lịch sử khác của văn hóa.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước
ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO
đưa ra vào năm 1994.
Theo định nghĩa của UNESCO thì: “ Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách
tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng)
đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại. Qua bao thế kỷ, nó
đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa
trên nó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình” [16].
Dưới góc độ xã hội học thì văn hóa là sản phẩm của con người, là cách
quan niệm cuộc sống, tổ chức cuộc sống và sống cuộc sống ấy. Văn hóa có thể được
xem xét như hệ thống "các giá trị, chân lý, các chuẩn mực và mục tiêu mà con người
cùng thống nhất với nhau trong quá trình tương tác và trải qua thời gian".
Nhìn chung, các định nghĩa hiện nay về văn hóa rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề
cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như định
nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành tựu mà
con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức,
ngôn ngữ…đến âm nhạc, pháp luật. Cịn định nghĩa của F.Bóa, Nguyễn Đức Từ Chi,

tổ chức UNESCO…thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con người trong cuộc
sống là văn hóa.
Qua việc nghiên cứu những quan niệm nói trên, chúng tơi cho rằng, văn hóa là
sản phẩm của con người được tạo ra trong quá trình lao động ( từ lao động trí óc đến
lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi trường tự nhiên và xã hội)
xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên
khác biệt so với các loài động vật khác; do được chi phối bởi mơi trường xung quanh
và tính cách các tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.

14


* Quan niệm về Văn hóa pháp luật
Pháp luật là một lĩnh vực thuộc về hoạt động xã hội, do đó nó ln địi hỏi phải
tính đến vai trị và vị trí của nhân tố văn hóa. Trong lĩnh vực pháp luật, trước hết văn
hóa được thể hiện như là phương thức quản lí xã hội vì con người, đảm bảo cuộc
sống hạnh phúc cho con người. Đồng thời, nó cũng thể hiện như là kết quả hoạt
động sáng tạo của con người trong việc xây dựng và thực thi pháp luật hướng tới
chân, thiện, mĩ.
Pháp luật là một trong những yếu tố thuộc về văn hóa và văn hóa pháp luật là
văn hóa chun ngành. Vì vậy để xây dựng được nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc thì tất yếu phải chú trọng phát triển văn hóa pháp luật. Điều
này khơng chỉ là xu hướng của riêng nước ta mà còn là phương hướng phát
triển chung của các nước trên thế giới. Bên cạnh việc phát triển văn hóa giao tiếp, văn
hóa du lịch, văn hóa chính trị… thì các quốc gia đều rất chú trọng đến việc phát triển
văn hóa pháp luật. Đây được coi là thước đo quan trọng của tiến trình xây dựng xã
hội dân chủ, văn minh. Hình thành văn hóa pháp luật là điều kiện để hồn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, trong giới khoa học pháp lý vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng về văn hóa
pháp luật. Ở mỗi một cách nhìn, mỗi người lại có một quan niệm riêng về định nghĩa

văn hóa pháp luật. Theo quan điểm của GS.TS Hồng Thị Kim Quế thì: Văn hóa
pháp luật là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần thuộc hệ thống tác động của
pháp luật được thể hiện trong ý chí và hành vi của con người…Văn hóa pháp luật thể
hiện ở trình độ cao của sự tơn trọng pháp luật, trình độ tri thức pháp luật của nhân dân;
thực trạng có chất lượng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật, các phương
thức hoạt động pháp luật đặc thù như của các cơ quan pháp luật, kiểm tra hiến
pháp…; kết quả của hoạt động pháp luật dưới dạng sản phẩm tinh thần và vật chất
do con người xây dựng như luật, hệ thống lập pháp, thực tiễn tư pháp và hành pháp
[30].
Một quan điểm khác của TS Phạm Duy Nghĩa thì "văn hóa pháp luật là một
cách nhìn về luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều với khoa học
hành vi, cách nghĩ, cách ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc tính nhân học của các
cộng đồng và tộc người" [25]. Theo Nguyễn Thị Thường thì: Văn hóa pháp luật là một
15


cách nhìn về luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều với khoa học
văn hóa, khoa học hành vi, cách tư duy, ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc tính nhân
học của các cộng đồng và tộc người [37].
Qua việc nghiên cứu những quan điểm nói trên, chúng tơi cho rằng, văn hóa
pháp luật là q trình thực thi pháp luật một cách có văn hóa bao gồm: ý thức pháp
luật, hệ thống pháp luật, hành vi pháp luật và sử dụng pháp luật. Văn hóa pháp luật
thể hiện ở ý thức pháp luật cao, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tiến bộ, hành vi thực
hiện pháp luật và sử dụng pháp luật một cách hợp pháp.
Là một bộ phận của văn hóa nói chung, văn hóa pháp luật có thể xem như một
lĩnh vực, một cấp độ thể hiện của văn hóa trong sự biến đổi khơng ngừng. Trình độ
văn hóa pháp luật của một quốc gia là nấc thang trong quá trình phát triển khơng
ngừng của văn hóa dân tộc, đánh dấu mức độ phát triển của dân chủ và văn minh
quốc gia.
* Văn hóa pháp luật trong mối tương quan với văn hóa

Văn hóa pháp luật là một bộ phận trọng yếu của đời sống tinh thần xã hội. Đời
sống tinh thần của con người phát triển đa dạng, phong phú chính là nhờ sự kết hợp
hài hịa và ngày càng hồn thiện các giá trị chân - thiện - mỹ. Văn hóa pháp luật là sự
định hướng hoạt động pháp luật tuân theo cái chân, củng cố và xác lập ý thức pháp
luật theo quy luật hướng thiện, từ đó mà vươn tới cái mỹ. Sự phát triển của văn hóa
pháp luật đánh dấu sự tiến bộ mang tính nhân văn trong đời sống của một cộng đồng
xã hội, một thời đại. Các thế hệ con người sinh ra và lớn lên, muốn thích ứng được với
đời sống cộng đồng, phải được giáo hóa bằng chính nền văn hóa của cộng đồng, của
dân tộc, trong đó có văn hóa pháp luật. Vậy nên giữa văn hóa pháp luật và văn hóa nói
chung ln có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Xét về mặt kết cấu, văn hóa pháp luật là bộ phận cấu thành của một nền văn hóa.
Nếu các đặc trưng văn hóa của một dân tộc được biểu hiện qua các sản phẩm vật chất,
các sản phẩm tinh thần, các thói quen trong lối sống và hành vi ứng xử, thì cũng có thể
nhận diện văn hóa pháp luật qua các phương diện biểu hiện cụ thể như: ý thức pháp
luật, hệ thống và các thiết chế pháp luật, lối sống và hành vi ứng xử với pháp luật.
Về quan hệ, văn hóa pháp luật vừa là một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa xã hội,
nhưng cũng đồng thời là sản phẩm của văn hóa xã hội, chịu sự tác động của các yếu tố
xã hội như phương thức sản xuất, các hệ tư tưởng, đạo đức, thói quen, lối sống, phong
16


tục tập qn… Sự hình thành văn hóa pháp luật của một quốc gia, do vậy, không thể
không bị chi phối bởi những đặc trưng văn hóa truyền thống. Nói cách khác, q trình
hình thành nên một nền văn hóa pháp luật của một cộng đồng có thể tìm thấy nguyên
nhân sâu xa trong tập quán sản xuất, nếp sống, phong tục và những thói quen sinh hoạt
của đời sống hàng ngày của cộng đồng ấy.
Bên cạnh đó, nếu văn hóa là mơi trường ni dưỡng con người lớn lên về tinh
thần, trí tuệ và nhân cách, thì văn hóa pháp luật đã và đang góp phần tạo dựng mơi
trường xã hội - pháp lý lành mạnh, mang tính nhân văn sâu sắc để các thế hệ dựa trên
công lý mà vươn tới hạnh phúc, tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Văn hóa

pháp luật củng cố và xác lập một hệ thống các giá trị pháp luật cho xã hội với các
khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực hành vi sao cho phù hợp với các nguyên tắc, quy định
của pháp luật. Trên cơ sở đó, văn hóa pháp luật định hướng cho các thành viên xã hội
vươn tới tiếp thu, vận dụng các giá trị đó vào cuộc sống; đồng thời, sáng tạo nên
những giá trị pháp luật mới, tiến bộ, phù hợp với thực tiễn các quan hệ xã hội.
Như vậy, Văn hoá pháp luật là một loại hình cụ thể của văn hố, thể hiện trình độ
phát triển cao của con người và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phát triển.
Văn hố nói chung, văn hố pháp luật nói riêng là một hoạt động sống có mục đích,
thể hiện xu hướng phát triển tiến bộ của xã hội và của chính bản thân con người. Cũng
như những bộ phận khác của nền văn hóa dân tộc, văn hóa pháp luật Việt Nam đang
trong q trình hồn thiện để vừa mang tính tiên tiến, vừa thể hiện bản sắc văn hóa dân
tộc, góp phần xây dựng mơi trường xã hội lành mạnh nhằm hướng con người đên
những giá trị tốt đẹp, tiến bộ.
1.1.2. Cấu trúc, chức năng của văn hóa pháp luật
1.1.2.1. Cấu trúc của văn hóa pháp luật
Văn hóa là một lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể của mỗi dân tộc, được thể hiện
qua ba yếu tố cốt lõi: các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ; các giá trị vật chất - kỹ
thuật do con người lao động, sáng tạo ra trong lĩnh vực đó; năng lực, cách thức sử
dụng các giá trị đã sáng tạo ra để đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của con
người. Các yếu tố này được giữ gìn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, phản
ánh bản sắc riêng của mỗi dân tộc trong từng lĩnh vực hoạt động. Theo các căn cứ trên,
văn hóa pháp luật được cấu thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật,
hành vi pháp luật và sử dụng pháp luật.(*)
17


Nhìn từ bên trong, văn hóa pháp luật bao gồm những bộ phận sau:
* Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức, thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của
con người. Có thể nói: Ý thức pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan

điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về pháp luật trên các phương diện,
tiêu chí cơ bản như: Về sự cần thiết (hay khơng cần thiết), về vai trò, chức năng của
pháp luật, về tính cơng bằng hay khơng cơng bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của
các quy định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp luật cần phải
có, về tính hợp pháp hay khơng hợp pháp trong hành vi của các cá nhân, nhà nước,
các tổ chức xã hội [1].
Ý thức pháp luật bao gồm hai bộ phận: tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật.
Tâm lý pháp luật là sự phản ánh những tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm đối
với pháp luật và các hiện tượng pháp lý cụ thể khác. Tâm lý pháp luật được hình thành
ở từng cá nhân, từng nhóm người, từng giai cấp hoặc cả xã hội dưới ảnh hưởng của
pháp luật và quá trình điều chỉnh pháp luật. Nó bao gồm tình cảm, tâm trạng, cảm xúc,
suy nghĩ của các chủ thể đối với pháp lệnh hiện hành, quá trình thực hiện và áp dụng
pháp luật, đối với pháp luật đã qua và pháp luật đã có[15]. Tâm lý pháp luật biểu hiện
cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật truyền thống, kinh
nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Ở cấp độ này, ý thức pháp luật mới chỉ thể
hiện sự thừa nhận, tiếp thu và xử sự theo sự thừa nhận, tiếp thu đó: điều hay, lẽ phải,
việc nên làm, điều nên tránh... theo tình cảm hướng thiện.
Hệ tư tưởng pháp luật gồm toàn bộ những tư tưởng, quan điểm và học thuyết
pháp luật, những tri thức pháp lý đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành học thuyết
về nhà nước và pháp luật[15]. Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao,
có hệ thống về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật.
Nó là cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật, phổ biến các tư tưởng, quan điểm pháp
luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội.
Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật là hai trình dộ, hai phương thức khác
nhau phản ảnh tồn tại xã hội của ý thức pháp luật, nhưng chúng có mối quan hệ chặt
chẽ và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Là thành tố cơ bản của văn hóa pháp luật, ý thức
pháp luật tích cực, tiến bộ là cơ sở, tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn
18



thiện hệ thống pháp luật; là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống
xã hội, đảm bảo cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật.
* Hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại
thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và
được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và
hình thức nhất định[15].
Hệ thống pháp luật giữ vai trò quyết định đối với quá trình hình thành và phát triển
của văn hóa pháp luật. Có thể nói, hệ thống pháp luật là sự biểu hiện cụ thể của văn hóa
pháp luật. Thơng qua hệ thống pháp luật người ta có thể có được những thơng tin cơ bản
nhất về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ lịch
sử.
Trong mối quan hệ với văn hóa pháp luật, hệ thống pháp luật vừa là đối tượng
để nhận thức cho quá trình hình thành và phát triển văn hóa pháp luật vừa là sự hiện
thực hóa của văn hóa pháp luật. Vì vậy, nếu văn hóa pháp luật là cơ sở, tiền đề, phản
ánh thực tiễn quy luật của đời sống và suy nghĩ, quan điểm của các tầng lớp nhân dân
để từ đó các cơ quan nhà nước ban hành các văn bản pháp luật đúng đắn và phù hợp
thì hệ thống pháp luật lại tác động mạnh mẽ tới quá trình hình thành và phát triển
văn hóa pháp luật. Khơng có sự hiểu biết, nhận thức sâu sắc về pháp luật thì
khơng thể có văn hóa pháp luật đúng đắn và đầy đủ. Tuy nhiên, hệ thống pháp
luật khi đó phải đạt tới trình độ phát triển cao, hồn thiện về mọi mặt với những tiêu
chí như: tính đồng bộ, tính tồn diện, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý cao.
* Hành vi thực hiện pháp luật và sử dụng pháp luật của các chủ thể
Hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật là thành tố thứ ba của văn hóa pháp
luật; thể hiện cách thức, khả năng và trình độ sử dụng các công cụ pháp luật của từng
cá nhân, cộng đồng xã hội và Nhà nước trong quá trình đấu tranh vì cơng lý, bình
đẳng và tiến bộ xã hội theo định hướng chân - thiện - mỹ.
Hành vi pháp luật là hành động có ý thức của con người diễn ra trong môi trường
điều chỉnh của pháp luật. Hành vi pháp luật có thể mang tính tích cực hay tiêu cực,
trong mọi trường hợp, nó chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc là hành vi bất hợp pháp.

Với tư cách yếu tố cấu thành hữu cơ của văn hóa pháp luật, hành vi pháp luật được
hiểu với nghĩa là hành vi xử sự tích cực đối với pháp luật, dựa trên cơ sở những tri
19


thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của
xã hội. Hành vi pháp luật tích cực (hành vi hợp pháp) có ý nghĩa xã hội và văn hóa rất
lớn. Nó, một mặt, nói lên mục đích, động cơ trong hành vi của chủ thể; mặt khác, phản
ánh nhu cầu của tiến bộ xã hội, nói lên sự hài hịa ở những mức độ khác nhau giữa lợi
ích xã hội (được phản ánh trong pháp luật) với lợi ích cá nhân, giữa nhu cầu của Nhà
nước và nhu cầu của công dân, góp phần giữ gìn sự ổn định, đồng thuận xã hội và tăng
cường ý thức tôn trọng pháp luật.
Lối sống theo pháp luật luôn gắn liền với hành vi pháp luật và là thành tố không
thể thiếu tạo nên văn hóa pháp luật. Lối sống là tổng hịa những nét cơ bản đặc trưng
cho phương thức hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của các giai cấp, các dân tộc, các
nhóm xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định. Lối sống theo pháp luật là một
loại hình của lối sống, trong đó, dựa trên nền tảng ý thức pháp luật tiên tiến, các cộng
đồng xã hội tổ chức các hoạt động sống, sản xuất, sinh hoạt sao cho phù hợp với các
giá trị, chuẩn mực pháp luật. Lối sống theo pháp luật là sự biểu hiện cao của lối sống
có văn hóa. Do mang tính cộng đồng nên lối sống theo pháp luật có tác dụng tạo ra
mơi trường tích cực cho q trình xã hội hóa hành vi pháp luật của các cá nhân, cơ
quan nhà nước và tổ chức xã hội. Sự tích lũy và phát triển các giá trị văn hóa là kết quả
bền vững nhất, mang tính nền tảng nhất của tiến bộ xã hội. Lối sống theo pháp luật
vừa có tác dụng đóng góp vào q trình sáng tạo ra các giá trị pháp luật, vừa là quá
trình tiếp nhận và phát huy các giá trị pháp luật trong thực tiễn cuộc sống của con
người, mà đỉnh cao của nó là “sống, làm việc theo pháp luật”. Xây dựng lối sống theo
pháp luật là mục tiêu và nhiệm vụ cấp bách của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay. Với tư cách
một bộ phận cấu thành văn hóa pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật
phải được thẩm thấu vào trong hành vi tự giác chấp hành pháp luật, trở thành thói

quen, lối sống của mỗi cơng dân.
Như vậy, nền văn hóa pháp luật được cấu thành bởi ba nội dung cơ bản là: ý thức
pháp luật, hệ thống pháp luật, hành vi thực hiện pháp luật và sử dụng pháp luật. Ba yếu
tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Yếu tố này tạo tiền đề cho
yếu tố kia xuất hiện. Ngược lại, yếu tố kia khẳng định sự thành công và tạo đà cho yếu
tố này phát triển tới đỉnh cao mới. Để đánh giá về tính chất và trình độ văn hóa pháp
luật một mặt phải xem xét đến tính chất và trình độ của mỗi yếu tố hợp thành nó, mặt
20


khác lại phải đặt chúng trong thể thống nhất và xem xét cụ thể những mối liên hệ và
sự tương hợp giữa chúng.
1.1.2.2. Chức năng của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật thực hiện những chức năng của văn hóa trong một lĩnh vực
đặc biệt - lĩnh vực pháp luật. Vì thế, văn hóa pháp luật cũng mang những chức năng
chung của văn hóa:
Chức năng nhận thức: Đây là chức năng không thể thiếu của bất kỳ hoạt động
nào trong lĩnh vực văn hóa, trong đó có văn hóa pháp luật. Với tư cách một sản phẩm
văn hóa pháp luật, trước khi có thể đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò, hiệu
lực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì phải được mọi người nhận thức, nắm
bắt nội dung, tinh thần của bộ luật, đạo luật đó.
Trước hết, các tác phẩm, cơng trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật cung cấp và
trang bị cho con người những tri thức, thông tin lý luận cần thiết, những hiểu biết đầy
đủ, cụ thể hơn về văn hóa pháp luật; tạo cơ sở khoa học để nhận thức văn hóa pháp
luật như là hệ thống các giá trị mà con người đã sáng tạo ra trong quá trình hoạt động
pháp luật, được kết tinh thành những giá trị pháp luật, thể hiện trong hệ thống các quy
phạm pháp luật được ban hành qua các thời kỳ lịch sử, trong các tư tưởng, quan điểm
pháp luật, trong các tác phẩm văn hóa pháp luật... Nghiên cứu văn hóa pháp luật địi
hỏi chúng ta phải ln đặt nó trong sự liên hệ với các lĩnh vực khác của văn hóa nói
chung, với từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội nói riêng. Sự phát triển của văn hóa

pháp luật cũng gắn bó mật thiết với trình độ, kỹ năng lập pháp. Trình độ lập pháp là
một biểu hiện của văn hóa pháp luật. Các chuẩn mực, quy phạm pháp luật quan trọng
chỉ có thể có được khi các nhà làm luật nhận thức sâu sắc các quy luật của đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội. Văn hóa pháp luật, với chức năng nhận thức, giúp các nhà
làm luật nhận thức, nắm bắt và biết cách xử lý tốt những tình huống mà thực tiễn cuộc
sống đặt ra.
Chức năng định hướng: Văn hóa nói chung và văn hóa pháp luật đều có mục tiêu
hướng con người đến những giá trị của chân - thiện - mỹ. Chính điều này đã làm
cho văn hóa pháp luật có chức năng định hướng những tư duy, suy nghĩ và hành vi
ứng xử của các chủ thể. Văn hóa pháp luật chính là những chuẩn mực hướng con
người ta đến những suy nghĩ tích cực và hành vi hợp pháp. Bên cạnh các phương tiện
điều chỉnh khác như đạo đức, phong tục tập quán, văn hóa pháp luật trở thành một
21


công cụ hữu hiệu giúp cho công tác quản lý của Nhà nước giữ gìn trật tự xã hội, xây
dựng một cuộc sống tốt đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh. Chuẩn mực văn hóa pháp
luật khơng những hướng con người ta tới những giá trị cao đẹp của pháp luật mà
cịn giúp hình thành và hồn thiện nhân cách con người.
Chức năng giáo dục: Văn hóa pháp luật là sản phẩm hoạt động pháp luật của con
người. Trong môi trường xã hội có sự điều chỉnh của pháp luật, toàn bộ các hành vi
của con người được thể hiện ra qua các tình huống ứng xử; ở đó, con người tiếp xúc
với nhau, tác động đến nhau, trao đổi với nhau, yêu cầu và tiếp nhận ở nhau một điều
gì đó trong khn khổ luật định. Văn hóa pháp luật định hướng cho các thành viên xã
hội lựa chọn cách xử sự hợp lý để tránh xung đột với các cá nhân khác, cách giải quyết
hài hòa các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mà không vi phạm pháp luật. Các cách xử
sự đó được chọn lọc, kiểm nghiệm qua thời gian và trở thành khuôn mẫu hành vi, thẩm
thấu vào ý thức pháp luật của mỗi người, biểu hiện ở tư tưởng, quan điểm về pháp luật,
ở thái độ, tình cảm đối với pháp luật. Như vậy, văn hóa pháp luật là mơi trường giáo
dục, ni dưỡng ý thức pháp luật của con người.

Nói đến chức năng giáo dục của văn hóa pháp luật là nói tới sự định hướng văn
hóa cho hành vi pháp luật của con người. văn hóa pháp luật giáo dục cách xử sự tích
cực đối với pháp luật dựa trên tri thức và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với các
giá trị văn hóa pháp luật. Bản thân mỗi cá nhân, theo quy luật hướng thiện, không
muốn thực hiện các hành vi vi phạm, phá vỡ các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực pháp
luật. Để đạt được điều này, bên cạnh ý thức tự giác, tích cực của mỗi người, còn cần
đến chức năng giáo dục. Định hướng giá trị văn hóa pháp luật là xu hướng con người
muốn vươn lên chiếm lĩnh hoặc tiếp cận với các giá trị đích thực của pháp luật; từ đó,
dần dần hồn thiện nhân cách của mình. Định hướng giá trị đó xác định thái độ lựa
chọn hành vi của con người trước mỗi sự kiện pháp lý, quy định hành vi pháp luật của
cá nhân, khuynh hướng và tính tích cực xã hội của nó.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, do những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
mình, đều có truyền thống văn hóa pháp luật riêng phù hợp với truyền thống văn hóa,
đạo đức, pháp luật, phong tục, tập qn của mình. Các cơng trình nghiên cứu văn hóa
pháp luật phải mang tính lịch sử, tính kế thừa, nghĩa là hướng vào các di sản văn hóa
pháp luật mà cha ơng ta đã sáng tạo ra qua các thời kỳ lịch sử; tìm tịi, tiếp thu những
giá trị văn hóa pháp luật và phát huy chúng trong xã hội hiện tại. Điều đó cho thấy,
22


văn hóa pháp luật góp phần quan trọng vào việc giáo dục lịng tự hào dân tộc, thái độ
tơn trọng, giữ gìn các giá trị văn hóa pháp luật của dân tộc.
Sức mạnh và hiệu quả giáo dục của văn hóa pháp luật thể hiện ở chỗ, nó huy
động được toàn bộ các năng lực tinh thần của con người. Ở nước ta hiện nay, trong
điều kiện nền kinh tế thị trường, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng đã đạt được,
còn nhiều vấn đề bức xúc đang đặt ra, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Đại hội X của
Đảng đã chỉ rõ: “Tình trạng suy thối, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ
nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, đặc biệt là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn
hóa còn nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa được
chú ý đầy đủ, còn nhiều khuyết điểm, bất cập” [10]. Bởi vậy, việc đề cao và phát huy

chức năng giáo dục của văn hóa pháp luật đang là một vấn đề cấp thiết. Trong các hoạt
động văn hóa pháp luật cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật một
cách sâu rộng trong các tầng lớp xã hội nhằm nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và
ý thức tơn trọng pháp luật, giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống có văn hóa trên cơ sở
các nguyên tắc, quy định của pháp luật.
Chức năng thực tiễn: Chức năng thực tiễn của văn hóa pháp luật thể hiện ở sự phản
ánh hiệu quả của pháp luật, tính đúng đắn và khả thi của của quy phạm pháp luật hiện
hành. Văn hóa pháp luật phản ánh thái độ, hành vi của chủ thể đối với pháp luật. Văn hóa
pháp luật tác động đến xây dựng chính sách pháp luật của Nhà nước, dưới tác động của
văn hóa pháp luật, việc hoạch định và xây dựng chính sách pháp luật đúng đắn là định
hướng quan trọng cho việc phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Văn hóa pháp luật
địi hỏi phải có sự phù hợp giữa nội dung hệ thống pháp luật thực định với những đòi hỏi
khách quan của thực tiễn đời sống xã hội trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế, trong tính thống nhất của hình thức văn bản pháp luật, trong
tính dân chủ và khoa học của quy trình soạn thảo và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật.
Chức năng thực tiễn của văn hóa pháp luật cịn thể hiện ở chỗ dự báo tình hình và
xu hướng phát triển của pháp luật. Khi văn hóa pháp luật đạt tới trình độ phát triển cao
và các nhà làm luật nêu ra được các chuẩn mực pháp luật cơ bản thì khả năng dự liệu
các quy tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh cũng sẽ đạt tới một trình độ
cao nhất định. Đến lượt mình, dự báo tình hình và xu hướng phát triển của pháp luật
lại là cơ sở để định hướng chính sách pháp luật.
23


1.2. Đặc điểm văn hóa pháp luật Việt Nam
Văn hố pháp luật là một loại hình cụ thể của văn hố, thể hiện trình độ phát triển
cao của con người và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phát triển. Văn hố
nói chung, văn hố pháp luật nói riêng là một hoạt động sống có mục đích, thể hiện xu
hướng phát triển tiến bộ của xã hội và của chính bản thân con người.

Nếu văn hố pháp luật là những giá trị tốt đẹp mà pháp luật tạo ra từ quá trình đấu
tranh sinh tồn và phát triển của con người và được chọn lọc qua thời gian. Ở Việt
Nam, văn hoá pháp luật gắn liền với với quá trình hình thành, phát triển và bảo tồn các
giá trị văn hoá truyền thống mang đặc sắc Việt nam. Nhìn chung, văn hóa pháp luật ở
Việt Nam có những đặc điểm như:
Thứ nhất, ý thức pháp luật chưa cao. Nhìn chung, ý thức tơn trọng pháp luật và
tính chủ động sử dụng pháp luật của người dân còn hạn chế: Ý thức tơn trọng pháp
luật và tính chủ động sử dụng pháp luật với tính cách là yếu tố của văn hố pháp luật
có vai trị cực kỳ quan trọng đối với cơ chế hành vi của các chủ thể. Mặc dù vậy, đây
lại là một điểm yếu lớn nhất được nhận thấy trong thực tiễn pháp luật ở nước ta hiện
nay. Ý thức tôn trọng pháp luật của một số cơ quan, cán bộ công chức và bộ phận nhân
dân chưa cao. Nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật khơng phải do kém hiểu biết mà
ngun nhân chính là coi thường pháp luật. Bên cạnh đó, một bộ phận nhân dân chưa
nhận thức được đầy đủ và đúng đắn tính tối thượng của pháp luật trong điều chỉnh các
quan hệ xã hội nên ít sử dụng quyền pháp luật hoặc chưa tự giác thi hành nghĩa vụ
pháp luật. Người dân với tâm lí ngại va chạm, ngại tố cáo, ngại đấu tranh với những
hiện tượng tiêu cực xảy ra với chính mình nên khơng có thói quen sử dụng pháp luật
mà thường bỏ qua cho nhau những lỗi lầm có thể gây ra sự thiệt hại cho cả cộng đồng,
thậm chí cho bản thân. Vậy nên, phần lớn người dân chưa ý thức về việc phải sử dụng
pháp luật như một biện pháp để bảo vệ mình, văn hóa pháp luật vì thế mà cịn hạn chế.
Thứ hai, văn hóa pháp luật ở Việt nam là văn hóa theo luân lý, theo lệ làng, nền “
văn hóa luật tục”, trọng tình hơn trọng lý.
Xuất phát từ truyền thống trọng tình, duy tình của người Việt Nam được tạo nên
từ lối sống, làm việc theo cảm tính, văn hóa trọng tình hơn là trọng lý. Người dân sống
theo cảm tính, hành xử và thói quen theo luật tục mà ít tuân theo quy định, quy chế cụ
thể của luật pháp. Đây cũng chính là một yếu tố có khả năng tác động xấu đến quá
trình thực hiện pháp luật. Người dân chỉ coi pháp luật là một giải pháp không thể tránh
24



được. Pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội một cách thống nhất nên nó rất
rành mạch. Vì vậy truyền thống duy tình làm cho ứng xử của con người dễ theo cảm
tính. Người dân có thể có nhiều cách ứng xử khác nhau trong cùng một hồn cảnh và
sẽ vơ hiệu hóa pháp luật ngay từ trong suy nghĩ của mỗi con người cụ thể đến dư luận
xã hội nói chung.
Thứ ba, tập quán sinh hoạt và lối sống tùy tiện, không theo nguyên tắc, thiếu tính
kỷ luật. Với nền kinh tế nơng nghiệp, người Việt thường tùy tiện trong cách làm ăn
cũng như lối ứng xử của con người. Các thói quen cổ hủ cũng được giữ lại, pháp luật
khó mà xâm nhập vào các công đồng dân cư, “phép vua thua lệ làng”. Người Việt tiếp
nhận pháp luật với một thái độ nghi ngờ và không tự giác một phần theo tập quán,
phần vì sự ngại đổi mới.
Như vậy, trong đời sống xã hội hiện đại nói chung, trong hoạt động thị trường nói
riêng, văn hóa pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng. Song, cần phải thừa nhận rằng,
về phương diện này, điểm thiếu hụt đáng kể của văn hóa truyền thống Việt Nam là
chưa có một nền văn hóa pháp luật thực sự phù hợp với yêu cầu của kinh tế tế thị
trường. Chúng ta đã quen sống trong một nền “Văn hóa luật tục” được chỉ dẫn bởi luân
lý, lệ làng. Di sản văn hóa pháp luật chỉ là những nếp hành xử cũ liên quan đến các
hiện tượng lập pháp. Trong khi “Văn hóa pháp luật là những thang giá trị, bao gồm chí
ít: luật trên giấy, luật trong hành xử thực tế, luật trong suy nghĩ và thái độ của các giai
tầng xã hội” [48]. Dù Việt Nam có một nền văn hóa riêng biệt đầy bản sắc, nhưng văn
hóa pháp luật truyền thống Việt Nam chưa định hình rõ nét.
Văn hóa pháp luật thường được xem như sự thống nhất giữa hiểu biết luật và chấp
hành luật. Trên thực tế, “hiểu biết luật” và “chấp hành luật” có một khoảng cách khơng
nhỏ do đạo đức xã hội chi phối. Với đặc trưng duy tình, tư duy linh hoạt, ứng xử mềm
dẻo, văn hóa truyền thống Việt Nam coi trọng sự định ước khơng chính thức, khơng
coi trọng xây dựng pháp quy chính thức và cơ chế thực hiện; pháp luật thành văn
chính thức có “tính khả biến” rất cao, có thể “sửa chữa” hoặc bỏ đi bất cứ lúc nào do
những nhu cầu đặc biệt. Luật pháp trong xã hội phong kiến Việt nam trước đây thể
hiện ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị, chủ yếu áp dụng cho thần dân và quan chức
nhỏ. Có câu “lễ khơng xuống đến thứ dân, hình khơng lên đến thượng thư”, nên người

dân có tâm lý phản kháng lại luật pháp, “phép vua thua lệ làng”. Trong lịch sử Việt
Nam cũng đã có những “bộ luật” được ban hành, nhung chưa được coi là những chuẩn
tác tối cao, nghiêm ngặt, không thể thay đổi. Nhiều nhất chúng chỉ có ý nghĩa luật trên
25


×