Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

van 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.78 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

CHIẾC THUYỀN NGOAØI XA



NGUYỄN MINH CHÂU
<b>Câu 1: Cho biết ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”</b>


Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa
cuộc đời và nghệ thuật. Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là khơng
gian sinh sống của gia đình người đàn bà hàng chài. Ở đó ngồi vợ chồng họ
cịn có cả một đàn con. Cuộc sống khó khăn đói kém, nơi ở chặt chội… làm
con người thay đổi tâm tính. Trước đây anh là một người hiền lành, lấy
chị-một người đàn bà xấu xí nhưng hết sức chăm lo cho cuộc sống gia đình; đơng
con, khó kiếm ăn, cuộc sống túng quẫn là nguyên nhân làm cho người chồng
trở nên cục cằn, thô lỗ và biến vợ thành đối tượng của những trận địn.
Những cảnh tượng đó, những thân phận đó, nếu nhìn từ xa thì sẽ khơng thấy
được.


Nhưng cũng chính ví ở ngồi xa nên con thuyền mới cơ đơn. Đó là sự
đơn độc của con thuyền nghệ thuật trên đại dương cuộc sống, đơn độc của
con người trong cuộc đời. Chính sự thiếu gần gũi, sẻ chia ấy là nguyên nhân
của bế tắc và lầm lạc. Phùng đã chụp được cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong
sương sớm-một vẻ đẹp thực đơn giản và tồn bích, một chân lí của sự tồn
<i>thiện. Chiếc thuyền là biểu tượng của sự toàn mĩ mà chiêm ngưỡng nó, anh</i>
thấy tâm hồn mình trong ngần .Nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ,
chứng kiến cảnh đánh đập vợ của người đàn ông kia, anh đã <i>kinh ngạc… và</i>
<i>vứt chiếc máy ảnh xuống đất. Anh nhận ra rằng, cái đẹp ngồi kia cũng ẩn</i>
chứa nhiều ối oăm, ngang trái và nghịch lí. Nếu khơng đến gần thì chẳng
bao giờ anh có thể phát hiện ra. Xa và gần, bên ngồi và thẳm sâu… đó
cũng là cách nhìn, cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính.


<b>Câu 2: Chủ đề</b>



Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua tác phẩm, Nguyễn
Minh Châu đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với những cảnh đời, thân phận
trớ trêu của con người và gửi gắm chiêm nghiêm sâu sắc của mình về nghệ
thuật. Nghệ thuật chân chính phải ln ln gắn với cuộc đời và vì cuộc đời;
người nghệ sĩ khơng thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận
cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nguyễn Minh Châu đã tạo được một tình huống truyện độc đáo,
“tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống,
chân lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những
ngang trái, nghịch lí của đời thường. Anh và chánh án Đẩu đã hiểu ra những
điều thật lớn lao, sâu sắc của cuộc sống con người kia khi đối diện và nghe
những lời giải bày của người đàn bà hàng chài. Tình huống ấy đã được kể,
được nhìn qua điểm nhìn nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng, một nhân vật trong
câu chuyện. Nhờ hình thức này, câu chuyện trở nên gần gũi, khách quan,
chân thực và giàu sức thuyết phục. Hơn nữa, nhà văn cịn có cách triển khai
cốt truyện sáng tạo, khắc họa nhân vật sắc sảo, giọng kể thủ thỉ, trầm tĩnh,
lời văn giản dị mà sâu sắc…. Tất cả làm nên vẻ đẹp của văn xi Nguyễn
Minh Châu.


<i>RỪNG XÀ NU </i>



NGUYỄN TRUNG THÀNH


<i><b>Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và nêu rõ</b></i>
<i><b>những ấn tượng sâu sắc của mình về cuộc sống và con người trong tác</b></i>
<i><b>phẩm.</b></i>


Nguyễn Trung Thành là một nhà văn gắn bó sâu sắc với Tây
Nguyên và các dân tộc vùng đất này. Cuộc chiến đấu anh hùng của nhân


nhân Tây Nguyên đã khới nguồn cho ông viết truyện ngắn “Rừng xà nu”.
Tác phẩm được viết vào mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ đổ quân ào ạt
vào miền Nam nước ta. Qua câu chuyện kể về cuộc đời Tnú và việc nổi dậy
của dân làng Xôman, nhà văn ca ngợi ý chí kiên cường, bất khuất và sức
mạnh của nhân dân Tây Nguyên đứng lên từ đau thương để chiến đấu vì độc
lập, tự do.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

xà nu đốt cháy mười ngón tay Tnú” ; “lửa xà nu soi rõ xác mười tên lính
giặc…”.


Cây xà nu còn thấm sâu vào nếp nghĩ và cảm xúc của dân làng Xôman.
Tnú đi lính trở về nhìn thấy cụ Mết “ngực căng như một cây xà nu lớn”. Cụ
Mết tự hào “khơng có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”.


Cây xà nu được miêu tả như một sinh vật có linh hơn, có tính cách và
được khắc họa trong sự tương ứng với những phẩm chất của dân làng
Xôman: Dân làng yêu tự do cũng như cây xà nu ham ánh sáng và khí trời.
Dân làng Xơman bị giắc giết cũng như cây xà nu bị đạn giặc tàn phá “Cả
rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào khơng bị thương”. Cây xà nu có
sức sống mãnh liệt “Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương
của chúng chóng lành trên một thân thể cường tráng”. Cây xà nu nối tiếp
nhau vươn tới cũng như các thế hệ dân làng Xôman kiên cường thay nhau
đứng lên chiến đấu.


Bên cạnh hình tượng cây xà nu thì các thế hệ dân làng Xơman Tnú, Dít,
cụ Mết, bé Heng là những hình tượng nhân vật anh hùng nổi bật trong
truyện. Mỗi nhân vật có một vẻ đẹp riêng và đều mang ý tưởng sâu sắc.
Trước hết là ở nhân vật Tnú. Tnú là người con anh hùng của dân làng
Xôman được khắc họa bằng những đường nét độc đáo giàu chất sử thi.Tnú là
người gan góc táo bạo, dũng cảm và trung thực. Từ nhỏ Tnú vào rừng cùng


Mai tiếp tế và liên lạc cho anh Quyết. Khi học chữ thua Mai anh lấy đá đập
vào đầu. Khi bị bắt, bị tra khảo thì chỉ tay vào bụng nói “cộng sản đây này”
khi đi đưa thư Tnú “xé rừng mà đi”, “chọn con thác dữ mà vượt” vì nghĩ
những chỗ đó giặc khơng ngờ tới. Bị giặc bắt tra tấn Tnú kiên quyết không
chịu khai. Giặc đốt mười đầu ngón tay thì cắn nát mơi mà khơng hề kêu van.
Tnú là người có ý chí, có nghị lực, biết vượt lên nỗi đau của gia đình và bi
kịch cá nhân để sống đẹp, sống đúng . Khi mới chỉ là một đứa trẻ Tnú đã
biết chọn cho mình một cuộc sống có ý nghĩa là theo cụ Mết, theo gương
những người dân làng Xôman yêu nước đi nuôi giấu cán bộ. Lúc Tnú bị giặc
bắt, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt cháy mười ngón tay “mười ngón tay trở
thành mười ngọn đuốc” nhưng Tnú khơng đầu hàng số phận, dù mỗi ngón
tay chỉ cịn hai đốt anh vẫn tình nguyện đi bộ đội để được cầm súng giết giặc
để trả thù cho quê hương và người thân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

giữa bầy lính để cứu lấy vợ con. Tình cảm của anh đối với gia đình và quê
hương thật đằm thắm và sâu nặng.


Tnú cịn là một người có tính kỉ luật cao. Tuy nhớ nhà nhớ quê hương
nhưng được cấp trên cho phép mới về và cũng về ở đúng một ngày như
trong giấy phép quy định.


Tóm lại Tnú là người anh hùng, là người con trung dũng là niềm tự hào
của dân làng Xôman. Tnú như là một cây xà nu mạnh mẽ nhất , đẹp nhất
của núi rừng Tây Nguyên.


Cùng thế hệ với Tnú cịn có Dít- cơ bí thư chi bộ xã, kiêm chính trị viên
xã đội làng Xơman. Dít là cán bộ trẻ, vững vàng thay thế cho Tnú và Mai
lãnh đạo dân làng Xôman đánh giặc. Lúc nhỏ rất gan dạ, thông minh và
nhanh nhẹn, làm liên lạc giỏi. Dít thể hiện tính nguyên tắc của một nữ cán
bộ chính trị rất nghiêm khi hỏi giấy phép Tnú. Cơ có tình cảm trong sáng,


sâu sắc nhưng lặng lẽ, kín đáo thể hiện qua đơi mắt mở to, bình thản trong
suốt.


Ngồi Tnú, Dít cịn cịn có một người được xem là chỗ dự tinh thần của
buôn làng, là pho sử sống của dân làng Xơman đó chính là cụ Mết. Cụ là
một già làng cao niên nhưng rất khỏe mạnh “Sau mươi tuổi rồi mà tiếng nói
vẫn ồ ồ dội vang lồng ngực”. Hình dáng quắc thước “ngực căng như một cây
xà nu lớn” mắt sáng xếch ngược, râu dài đen bóng, hai bàn tay chắc nịch
như hai giọng kiềm. Phong thái uy nghi, mỗi khi cụ nói tất cả đều im lặng ,
lũ trẻ con thì chăm chú nhìn như dán mắt, như nuốt lấy từng lời.


Cụ Mết giàu tình yêu thương dân làng, quê hương. Cụ từng nhường
muối cho người đau, yêu thương Tnú, đãi Tnú những món ăn ngon của q
hương. Cụ ln tự hào về truyền thống của bản làng. “Gạo Strá của mình
ngon nhất núi rừng ” ln có ý thức dạy cho các thế hệ con cháu làng
Xôman nhớ câu chuyện của Tnú-câu chuyện đấu tranh lịch sử của làng
Xôman.


Cụ Mết tin tưởng tuyệt đối cách mạng. Cụ tổ chức ni giấu cán bộ.
Năm năm liền khơng có người cán bộ nào bị bắt. Cụ dạy người dân làng
Xôman từ già đền trẻ phải biết găn bó với cách mạng, tin vào Đảng. Cụ chỉ
huy dân làng cầm vũ khí đứng lên chiến đấu “Chúng nó đã cầm súng, mình
phải câm giáo”. Cụ Mết là hình tượng tiêu biểu cho truyền thống lịch sử của
cha ông; là gạch nối giữa Đảng, cách mạng và người dân làng Xôman.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×