Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Vài nét về quân đội thời các chúa Nguyễn (1558-1777)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.61 KB, 8 trang )

VÀI NÉT VỀ QUÂN ĐỘI THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN (1558-1777)
LÊ THỊ HOÀI THANH
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Từ đầu thế kỷ XVI, chế độ phong kiến tập quyền của Đại Việt suy
yếu. Đất nước bị phân chia với những chính quyền riêng biệt: Bắc triều (nhà
Mạc) - Nam triều (nhà Lê) và sau đó là Đàng Ngoài (vua Lê chúa Trịnh) Đàng Trong (chúa Nguyễn). Để có thể đứng vững với tư cách là một chính
quyền độc lập, các chúa Nguyễn đặc biệt coi trọng việc xây dựng và phát
triển quân đội trên tất cả các mặt: tuyển quân, tổ chức, rèn luyện, trang bị vũ
khí, thưởng phạt binh sĩ nhằm tạo nên một quân đội mạnh góp phần vào sự
nghiệp bảo vệ chính quyền và lãnh thổ Đàng Trong.

1. MỞ ĐẦU
Năm 1558, Đoan quận cơng Nguyễn Hồng nhận cờ tiết chế của vua Lê vào trấn thủ
Thuận Hóa. Tại đây, với hơn mười năm trấn trị bằng chính sách “vỗ về quân dân, thu
dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng” [4, tr. 28], Nguyễn Hồng đã tạo lập được vị thế của
mình trên vùng đất này. Để đến năm 1570, ông được vua Lê cho kiêm luôn chức trấn
thủ Quảng Nam, đeo ấn Tổng trấn tướng qn và tồn quyền quyết định mọi cơng việc
ở hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.
Năm 1613, Nguyễn Hoàng mất và cũng đã kịp dặn hoàng tử thứ sáu rằng: “Đất Thuận
Quảng phía bắc có núi Ngang (Hồnh Sơn) và sơng Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía
nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có
cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống
chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời’’ [4, tr. 37]. Nguyễn Phúc
Nguyên lên thay cha cùng các hậu duệ đã hiện thực hóa tâm nguyện của chúa Tiên
Nguyễn Hồng. Một chính quyền riêng của dịng họ Nguyễn được thiết lập. Để đảm bảo
sự tồn tại ở vùng đất với nhiều điều mới lạ, các chúa Nguyễn tích cực tổ chức bộ máy
cai trị, tuyển chọn quan lại, tổ chức quân đội, phát triển kinh tế và không ngừng mở
rộng đất đai về phương Nam. Trong tất cả những yếu tố trên thì quân đội là vấn đề được
các chúa Nguyễn hết sức chú trọng. Trên cơ sở đó, các chúa Nguyễn tập trung thực hiện
việc tuyển quân, tổ chức, rèn luyện, trang bị vũ khí và thưởng phạt binh sĩ để tạo nên
một lực lượng quân đội mạnh cho chính quyền.


2. TUYỂN CHỌN BINH SĨ
Khi nói đến qn đội thì trước hết phải nói đến con người. Bởi đây chính là nhân tố chủ
thể trong mọi hoạt động. Ở Đàng Trong, vấn đề tổ chức một đội quân hùng hậu với
những binh sĩ tinh nhuệ được ưu tiên lên hàng đầu. Do vậy, tuyển chọn binh sĩ là việc
làm đầu tiên và thường xuyên của chính quyền chúa Nguyễn trong xây dựng lực lượng
quân đội.
Chúa Nguyễn thực hiện chính sách cưỡng bức binh dịch. Tất cả dân đinh từ 18 tuổi trở
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 02(22)/2012: tr. 79-86


80

LÊ THỊ HOÀI THANH

lên đều phải ghi tên vào sổ đinh để trình lên phủ, huyện xét duyệt, trừ những người đau
ốm, tàn tật hay con một. Phép duyệt tuyển của chính quyền Đàng Trong bắt đầu được
thi hành vào năm 1632, quy định: cứ 6 năm một lần tuyển lớn, 3 năm một lần tuyển
nhỏ. Đến năm duyệt tuyển, vào tháng giêng, chính quyền sai các tổng, xã làm sổ hộ tịch,
chia làm chính hộ (dân chính quán ở xã) và khách hộ (dân ngụ cư), mỗi loại chia thành
các hạng tráng, quân, dân, lão, tật, cố, cùng, đào. Trong đó, hạng tráng là hạng khỏe để
sung vào quân đội và hạng quân là hạng người được ở nhà làm ruộng, khi quân ngũ
thiếu thì gọi theo thứ tự trong sổ để bổ sung.
Sau khi phân rõ các hạng như trên, đến tháng 6 nhà nước chính thức duyệt tuyển và quy
định trong một tháng thì tuyển xong. Ở các địa phương, chúa Nguyễn cho lập các tuyển
trường, có quan văn, võ từ trung ương cử đến phụ trách việc duyệt tuyển. Ba huyện
Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang đặt một trường, ba huyện Vũ Xương, Hải Lăng,
Minh Linh đặt một trường, hai huyện Khang Lộc, Lệ Thủy và châu nam Bố Chính đều
mỗi nơi một trường, sáu phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Ninh, Phú Yên,
Bình Khang mỗi phủ một trường. Năm 1708, chúa Nguyễn cho đặt thêm 1 trường ở phủ

Bình Thuận và 1 trường ở phủ Gia Định. Đến thời điểm này, ở Đàng Trong có tất cả là
13 trường làm nhiệm vụ tuyển binh lính cho chính quyền. Các đời các chúa sau, cứ theo
lệ mà tiến hành duyệt tuyển. Theo Đại Nam thực lục tiền biên, các chúa Nguyễn đã tiến
hành duyệt tuyển vào những năm 1632, 1669, 1674, 1677, 1679, 1692, 1694, 1697,
1698, 1701, 1703, 1706, 1707, 1708… cho đến những năm gần cuối của chính quyền
Đàng Trong như năm 1772. Tháng 12 năm 1707, chúa Nguyễn Phúc Chu định thể thức
duyệt tuyển, trong đó có một số điều về tuyển chọn quân sĩ như sau: “Các quan viên,
binh viên cùng các chức trong xã, thôn, phường, cứ theo tên trong bảng lần lượt mà
chép vào sổ. Người nào từ 56 đến 59 tuổi thì tùy dân, xem hình thể già yếu thì cho làm
lão hạng. Những quân hạng, dân hạng cũ thì chép trở về tráng hạng, nếu là người thấp
nhỏ thì cứ cho làm quân dân hạng như cũ. Dân mới vào sổ, người nào nhỏ bé cao độ 3
thước trở xuống thì làm hạng nhiêu tật, hơi nặng thì cho làm hạng bất cụ. Như hạng
nhiêu tật cũ, người nào khỏi tật thì trở lại làm bất cụ hay quân hạng, dân hạng. Khách
hộ ở các thôn phường thì do tráng hạng, quân hạng theo lệ ghi vào sổ, tên nào trốn đi
từ kỳ tuyển năm Quý Mùi trở lại khơng thấy mặt thì cho các chức xét thực trừ làm ngoại
tịch” [4, tr. 121].
Đối với bộ phận bảo vệ phủ chúa, hộ vệ chúa, chính quyền chỉ lựa chọn con cháu tướng
võ người huyện Tống Sơn, Thanh Hóa (quê hương của chúa) nhằm bảo đảm sự trung
thành tuyệt đối.
Với cách thức tuyển chọn như trên, các chúa Nguyễn có trong tay một lực lượng qn
đội đơng đảo. Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần mở một cuộc duyệt binh lớn ở An
Cựu với số binh lên đến hơn 20.000 người. Lực lượng binh lính được tuyển chọn đã trở
thành bộ phận quan trọng của chính quyền, đóng vai trò to lớn trong việc bảo vệ đất
Đàng Trong.


VÀI NÉT VỀ QUÂN ĐỘI THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN (1558-1777)

81


3. CƠ CẤU TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI
Quân đội Đàng Trong bao gồm ba loại quân: túc vệ, chính quy và thổ binh.
- Quân túc vệ: (còn gọi là thân quân) là lực lượng đóng ở chính dinh.
- Qn chính quy: là lực lượng đóng ở các dinh.
- Qn thổ binh: (cịn gọi là thuộc binh, tạm binh) là lực lượng đóng ở các địa phương.
Mỗi loại quân trên đều chia thành cơ, đội, thuyền, trong đó thuyền là đơn vị thấp nhất.
Các đơn vị qn đội khơng có số lượng nhất định: mỗi thuyền có thể gồm từ 30 đến 60
người, mỗi đội có thể gồm từ 2 đến 5-6 thuyền. Số đội, số thuyền ở mỗi cơ lại khác
nhau, có cơ 400 hay 500 người nhưng cũng có cơ lên đến hàng ngàn người [1, tr. 39].
Ngoài số binh trên cịn có một bộ phận chiếm số lượng khơng nhỏ là binh lính làm các
cơng việc như cắt cỏ ngựa; giữ từ đường, phủ, vườn, kho, lăng mộ; thợ đúc các cục, thợ
súng, thợ rèn, thợ sơn, thợ mộc, thợ hỏa công, thợ tàu thủy… Các hạng tạp binh ấy tổng
cộng cũng lên đến 2519 người. [2, tr. 190]
Về binh chủng, quân đội ở Đàng Trong gồm có bộ binh, thủy binh, pháo binh và tượng
binh. Bộ binh: là lực lượng cơ bản, trấn giữ ở các dinh và địa phương. Chẳng hạn, vào
năm 1701, quân bộ binh Quảng Bình chia đặt 26 sở tuần trên chính lũy từ Ơng Hồi đến
Mỗi Nại với các đơn vị như sau: “2 thuyền Tân chí, Đại an thuộc đội Tả tiệp, 3 thuyền
Phú nhị, Hậu súng, An nhất thuộc cơ Tả kiên, 4 thuyền Tả hùng, Hữu hùng, Hậu đao
nhất, Hậu đao nhị, thuộc cơ Hữu kiên, 5 thuyền Tả nhất, Quảng nhất, Súng nhị, An nhị,
Tiền kiên súng thuộc cơ Tả bộ, 5 thuyền Chí nhất, Chí nhị, Tráng súng, Kiên súng, Nhuệ
súng, thuộc cơ Hữu bộ, các đao thuyền và các súng thuyền thuộc Trung cơ” [4, tr. 114].
Ngoài ra, bộ binh còn giữ vai trò quan trọng trong các cuộc giao chiến với quân Trịnh,
Champa, Chân Lạp và các thế lực phản loạn trong lãnh thổ.
Thủy binh: Việc bảo vệ Đàng Trong trước những cuộc tấn công của quân Trịnh cũng
như các thế lực xâm lược từ phía biển đơng đã đặt ra nhu cầu buộc chính quyền phải
quan tâm xây dựng và phát triển một lực lượng thủy binh mạnh. Kế thừa truyền thống
về thủy quân của tổ tiên kết hợp với việc học hỏi kinh nghiệm của người Champa, các
chúa Nguyễn có điều kiện để phát triển loại hình binh chủng này. Số lượng thuyền chiến
của thủy binh đã được phản ánh qua một số tư liệu của người nước ngoài. Theo linh
mục De Choisy, Đàng Trong (năm 1685 hoặc 1686) có 131 chiến thuyền, mỗi thuyền có

2 người lái, 3 cai đội, 6 người đốt lị, 2 tay trống và 60 tay chèo [6, tr. 68-69]. Còn theo
Thomas Bowyear, năm 1695, lực lượng thủy quân của chúa Nguyễn Phúc Chu gồm:
200 chiến thuyền lớn, 500 chiến thuyền nhỏ từ 40 đến 44 tay chèo, 100 chiến thuyền từ
50 đến 75 tay chèo [1, tr. 40]. Hình thức thuyền chiến khá đẹp: “Đầu thuyền ngồi một vị
quan, đuôi thuyền đứng một người cầm lái, giữa thuyền sáu mươi bốn quân nhơn đứng
chèo; giữa khoang thuyền có bốn cọc nạng sơn son, trên bắc ngang một cây mõ gỗ, một
lính ngồi gõ mõ làm nhịp cho những người đứng chèo; thuyền cạy qua tả là qua tả, bát
qua hữu là qua hữu, miệng hò lơ, chân dậm ván, đều răm rắp theo nhịp mõ chẳng chút
đơn sai… Thuyền dài mà hẹp như hình long chu, mũi rất cao, đuôi thuyền sơn đỏ…” [5,


82

LÊ THỊ HOÀI THANH

tr. 132].
Tượng binh: ở Đàng Trong, số lượng voi nhiều đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của tượng binh. Theo một báo cáo của Hà Lan, chính quyền có đến 600 voi vào
năm 1624 [6, tr. 72].
Pháo binh: Chúa Nguyễn cho sản xuất súng và mua các loại súng từ các thương nhân
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan để đáp ứng cho sự phát triển của pháo binh. Pháo
binh đã tham gia trong những cuộc chiến đấu với quân Trịnh. Đại Nam thực lục tiền
biên đã ghi nhận: ở trận đánh năm 1627, quân của chúa Nguyễn bắn đại bác về phía đối
phương, góp phần đưa đến những thắng lợi đầu tiên.
Như vậy, có thể thấy quân đội ở Đàng Trong có bước phát triển mạnh mẽ, bao gồm
nhiều binh chủng được tổ chức quy cũ. Trong chiến trận, các binh chủng đã có sự phối
hợp chặt chẽ để tạo nên sức mạnh tổng hợp giúp quân đội chúa Nguyễn hoàn thành
được những mục tiêu đặt ra.
4. CÁCH THỨC ĐÀO LUYỆN BINH SĨ
Chính quyền chúa Nguyễn ln coi trọng việc rèn luyện trong quân đội nhằm đào tạo

một đội quân có chất lượng cao. Do đó, binh sĩ Đàng Trong được luyện tập với các hình
thức thi, thao diễn ở các binh chủng.
Thủy binh: tháng 5/1642, chúa Nguyễn Phúc Lan ra lệnh cho ba huyện Hương Trà,
Quảng Điền, Phú Vang làm trường thao diễn thủy quân, cứ đến kỳ tháng 7 thì diễn phép
bơi chèo. Chúa Nguyễn còn tổ chức quân thủy tập luyện vào tháng 4 năm 1690; tháng
8/1701; cuối mùa xuân năm 1702; hè năm 1708. Một buổi thao diễn thủy binh ở Đàng
Trong đã được diễn ra như sau: “Tất cả có mười lăm thuyền chiến trên sơng, có thuyền
thếp vàng, có thuyền sơn son màu lửa, chúa ngự trên ngai đặt ở bờ sơng có hai ngàn
binh sĩ hai bên, tất cả đều mặc nhung phục như nhau, cùng mang võ khí như nhau.
Thuyền chiến thì cứ một cặp ba chiếc, thẳng hàng ngay lối, không để lọt một đốt ngón
tay, tiến lui đều đặn cả trong khúc vòng cũng vậy, điều hòa rất mực” [3, tr. 57].
Tượng binh: chính quyền chúa Nguyễn cho diễn trận voi ở những năm 1694, 1698,
trong đó các cơ chia phiên thao diễn trận pháp, mỗi ngày mỗi lượt. Hịa thượng Thích
Đại Sán đến Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Chu cũng đã thuật lại rằng: “Lúc dàn
trận, voi sắp từng hàng 10 con, đứng ở phía Tây… Phía đơng, 500 qn cầm đao
thương và đuốc châm lửa, xoay mặt về phía voi đứng… Cờ lệnh trên đài phất lên. Ba
quân múa đao thương, nhắm hàng voi xơng tới. Hỏa khí đốt lên, khói bay mù mịt, voi
vẫn đứng yên. Bỗng chốc, trống đánh liên hồi, các quân phấn dõng xông vào voi, bọn
nài bổ câu liêm vào đầu, võ sĩ đâm vào đùi. Bầy voi chạy thẳng đến rượt đuổi. Quân
lính lui tránh, mỗi con voi lấy vòi quấn một bù nhìn bằng rơm đem về. Thớt voi nào
chạy hơi chậm, liền bị thương đâm búa bổ, chảy máu đứt da, đến nỗi có con mệt q,
phục qụy khơng thể dậy nổi. Tan trận, lấy đó phân hơn thua” [5, tr. 92]. Năm 1700,
chúa Nguyễn lại cho lập phép trận diễn voi: Sai viên thống lãnh dẫn voi vào trường theo
thứ tự mà bày hàng. Nhạc bộ đánh trống ba hồi, rồi gãy đàn thổi sáo hát khúc Thái bình.
Hát xong đánh ba tiếng chng thì thống lĩnh dẫn voi tới và chúa đến duyệt.


VÀI NÉT VỀ QUÂN ĐỘI THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN (1558-1777)

83


Pháo binh: Cách thức tập luyện súng của các đội pháo binh đã được Bénige Vachet (là
giáo sĩ đến Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Tần) miêu tả: “Đúng 9 giờ, tồn bộ đội
binh, khơng có kiếm nhưng có súng, đến dưới một hành lang có mái ở phía trên bên kia
ngơi nhà có đường nhìn ra cánh đồng: đó là để người này sau người kí bắn 4 phát súng
cách điểm bắn 300 bước chân. Các mơ bắn hình vng, đường kính khoảng 10 mét, ở
giữa có một cái bia bắn làm như bia bắn của chúng ta nhưng bề cao lớn hơn bề rộng,
chấm đen nằm ở giữa chỉ rộng 4 lóng tay, tất cả mọi phát súng bắn trúng điểm đen sẽ
được kịp thời ban thưởng…” [3, tr. 59]. Tháng 3/1696, chúa Nguyễn Phúc Chu sai
dựng trường pháo, triệu các quan văn võ cùng các đội trưởng, văn chức và tam ty đến
diễn tập. Bắn trúng thì được thưởng tiền theo thứ bậc.Từ đây, mỗi năm đều làm theo lệ
này.
Ngồi ra, chúa Nguyễn cịn tổ chức thao diễn bộ binh (như vào các năm 1653, 1701,
1709), cho binh sĩ tập phép cưỡi ngựa, bắn cung, nỏ… Tháng 5 năm 1681, chúa Nguyễn
Phúc Tần ra lệnh các nội đội trưởng chuẩn bị thi ngựa và bảo các bề tôi rằng: “Binh
phải nhờ vào sức ngựa, ngày thường diễn tập cũng là giảng võ đấy” [4, tr. 92] nên chúa
sai sửa chữa đường quan, đắp đài mã ngựa để tập luyện. Nhờ vậy, quân kỵ xạ đều tài
giỏi.
Những buổi thao diễn, luyện tập, thi thố tài năng của tướng lĩnh cũng như binh sĩ ở mọi
binh chủng là hoạt động hết sức có hiệu quả, góp phần nâng cao trình độ tác chiến cho
các đội quân.
5. TRANG BỊ VŨ KHÍ CHO BINH SĨ VÀ CÁC BINH CHỦNG
Trong quá trình xây dựng và phát triển quân đội, các chúa Nguyễn rất chú trọng đến
việc trang bị vũ khí cho binh sĩ và các binh chủng. Binh sĩ Đàng Trong có súng ngắn,
gươm, cung, nỏ, khiên. Cũng giống như các triều đại trước, súng đạn, thuyền chiến,
gươm, giáo… là những mặt hàng thuộc độc quyền của nhà nước. Những thợ thủ công
giỏi và binh lính được trưng tập vào các cơng xưởng để sản xuất vũ khí. Trong tổ chức
chính quyền buổi đầu, ngoài 3 ty Xá sai, Tướng thần lại, Lệnh sử, cịn có Ty Lệnh sử
Đồ gia gồm các chức Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp, mỗi chức 3 người, lại viên 24 người
với nhiệm vụ “giữ việc thu phát dây thau, khối sắt, đồ đồng, ngà voi, chiêng đồng, phát

cho các cục để làm khí giới thuyền ghe, sửa sang tường thành nhà cửa và giữ các tích
dầu, sơn, than gỗ, vàng thếp, cùng là kho quân khí” [2, tr. 144].
Súng là một trong những loại vũ khí được nhà nước tập trung sản xuất. Năm 1631, chúa
Nguyễn Phúc Nguyên đặt Ty Nội pháo tượng, hai đội Tả, Hữu pháo tượng với số lượng
thợ là: Ty Nội pháo tượng có 1 thủ hợp, 1 ty quan, 38 người thợ; hai đội Tả Hữu pháo
tượng thì 12 ty quan, 48 người thợ. Mặt khác, để tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật
của phương Tây trong chế tạo súng, chúa Nguyễn tạo điều kiện thuận lợi cho Joao da
Cruz (người Bồ Đào Nha) đến định cư và mở xưởng đúc súng tại Phường Đúc ở thế kỷ
XVII. Xưởng đúc súng của Joao da Cruz đã sản xuất các loại súng tay và đại bác cho
chính quyền.
Đồng thời, nhằm gia tăng hơn nữa số lượng vũ khí để trang bị cho quân đội Đàng


84

LÊ THỊ HỒI THANH

Trong, các chúa Nguyễn khơng chỉ tập trung chế tạo trong nước mà cịn thơng qua con
đường thương mại nhằm mua súng, gươm, giáo và các nguyên liệu như đồng, thiếc,
chì…để sản xuất súng đạn. Thực tế cho thấy, bên cạnh việc trao đổi những hàng hóa
như kỳ nam, tiêu, đường, bạc, ngà voi…, thì vũ khí là một mặt hàng được các chúa đặc
biệt quan tâm, như nhà nghiên cứu Li Tana đã nhận xét: “…thư từ gửi cho chính phủ
Nhật Bản hay các văn kiện về mối quan hệ giữa các chúa Nguyễn với Macao… tất cả
đều để lộ mối bận tâm chính yếu của họ Nguyễn là tiền và khí giới” [6, tr. 60]. Đẩy
mạnh hoạt động ngoại thương với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Pháp, Anh.., vốn là những nước có trình độ sản xuất vũ khí cao, là cơ hội thuận lợi
để chính quyền Đàng Trong hiện đại hóa lực lượng vũ trang của mình.
Đối với thủy binh, chúa Nguyễn tập trung trang bị đại bác cho các chiến thuyền. Theo
giáo sĩ Bénigne Vachet, khoảng năm 1674, các chiến thuyền ở Đàng Trong khá to lớn,
mỗi chiếc có đến 30 mái chèo với ba khẩu đại bác ở mũi và hai khẩu ở hai bên [1, tr.

40]. Hay năm 1695, dưới thời Nguyễn Phúc Chu, Thomas Bowyear được mục kích thủy
qn của chúa và ơng đã mơ tả lại rằng: chúa Nguyễn có 200 chiến thuyền lớn, mỗi
chiếc có từ 16-22 khẩu đại bác [1, tr. 40]. Trên thuyền, binh lính cịn sử dụng giáo và
câu liêm có cán dài để làm khí giới.
Để đảm bảo chất lượng của các loại vũ khí, chính quyền thường xuyên cho quan quân
kiểm tra súng ống, đạn dược, như vào các năm 1653, 1665, 1699, 1701, 1709. Chẳng
hạn, năm 1709, chúa Nguyễn Phúc Chu “sai các quan văn võ và tam ty kiểm duyệt khí
giới, voi ngựa, thuốc đạn cơng và tư” [4, tr. 123].
Như vậy, trang bị vũ khí cho binh sĩ và các binh chủng là vấn đề được các chúa Nguyễn
hết sức quan tâm. Vũ khí đã đóng vai trị quan trọng trong việc tạo nên sự lớn mạnh của
quân đội Đàng Trong. Tất nhiên, yếu tố quyết định vẫn là con người nhưng nếu có được
những vũ khí hiện đại thì qn đội sẽ chiến đấu một cách hiệu quả hơn, góp phần đưa
đến thắng lợi nhanh chóng hơn.
6. CHẾ ĐỘ THƯỞNG PHẠT ĐỐI VỚI TƯỚNG LĨNH VÀ BINH SĨ
Bên cạnh việc rèn luyện binh sĩ, trang bị vũ khí, các chúa Nguyễn đã tiến hành khen
thưởng và thực hiện chế độ cấp lương bổng, ruộng đất cho các tướng lĩnh và binh sĩ.
Đối với những tướng tài, các chúa đều trọng dụng và có chế độ đãi ngộ thích hợp. Sau
những cuộc giao chiến, chính quyền đều sai quan đem vàng, lụa thưởng cho các tướng.
Nếu lập được chiến cơng lớn thì họ cịn được thăng chức. Ví như, sau thắng lợi năm
1672, Ngun sối Hiệp đã được thưởng 100 lạng vàng, 1000 lạng bạc và 50 tấm gấm.
Năm 1674, Thống binh Nguyễn Dương Lâm thắng trận và được giữ chức Trấn thủ dinh
Thái Khang, kinh lý việc biên phịng.
Năm 1680, chúa Nguyễn trích một phần quan điền trang và quan đồn điền để cấp cho
các tướng có cơng làm ruộng ngụ lộc: chưởng cơ 5 mẫu, cai cơ 4 mẫu, cai đội 3 mẫu,
nội đội trưởng 3 mẫu rưỡi, ngoại đội trưởng 2 mẫu rưỡi. [4, tr. 92]. Ngoài ra, sau khi
mất, họ cũng được ban ruộng thờ, phu giữ mộ…, chẳng hạn năm 1694, Nguyễn Phúc
Chu truy cấp cho Nguyễn Hữu Tiến 19 mẫu tự điền và 100 tự dân và Nguyễn Hữu Dật 3


VÀI NÉT VỀ QUÂN ĐỘI THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN (1558-1777)


85

mẫu tự điền và 100 tự dân [4, tr. 108]. Hay năm 1768, Nguyễn Phúc Thuần truy cấp cho
Thiếu úy Tôn Thất Hiệp 300 người tự dân và 500 mẫu tự điền [4, tr. 172].
Đối với binh lính: chúa Nguyễn định lệ phép cấp ruộng. Những xã có ruộng cơng nhiều
thì quân lính được cấp khẩu phần điền thổ nhiều hơn dân thường (có thể gấp 3 dân
thường như ở huyện Lệ Thủy, Khang Lộc). Bên cạnh đó, quân túc vệ, qn chính quy
cịn có lương và qn thổ binh thì chỉ được miễn trừ sưu thuế.
Trong các cuộc diễn tập thi ngựa, bắn cung, bắn súng, thao diễn bộ binh, thủy binh…
những ai luyện tập tốt đều được thưởng theo thứ bậc bằng tiền hoặc vàng, lụa. Cách
khen thưởng này nhằm khuyến khích binh sĩ chăm chỉ tập luyện hơn.
Song song với việc ban hành chế độ bổng lộc cũng như khen thưởng những người có
cơng, các chúa Nguyễn cịn đề ra những hình phạt nghiêm khắc đối với tướng lĩnh và
binh sĩ vi phạm để xây dựng một đội quân có kỷ luật chặt chẽ. Trong thời gian thực hiện
nghĩa vụ với chính quyền, nếu binh sĩ nào bỏ trốn thì đều có hình phạt rõ ràng: thuyền
nào có lính trốn thì trình lên, quan cơng đường dinh ấy bắt Tướng thần, Xã trưởng xã có
người trốn lính, giao cho sai nhân điệu về, sai nhân về nã binh lính ở xã nào thì thu
được ở xã ấy một số tiền hành lý, xã lớn (100 người trở lên) 1 quan, xã vừa (50 người
trở lên) 5 tiền, xã nhỏ (dưới 50 người) 3 tiền [2, tr. 183] và lính trốn sẽ bị xử tội. Ngồi
ra, chính quyền cịn quy định: thuyền nào hà khắc với lính mới thì đội trưởng phải phạt;
cấm các quan cai đội đem quân lính sửa sang nhà riêng, vườn riêng, ai trái lệnh thì bãi
chức, khơng cấp ngụ lộc.
Khơng chỉ đối với binh sĩ mà các tướng lĩnh nếu khơng hồn thành nhiệm vụ; có mưu
phản đều cũng bị trừng phạt, như tướng Nguyễn Hữu Hào thời chúa Nguyễn Phúc Trăn
do lần chần làm hỏng việc quân đã bị truất làm dân thường. Hay năm 1709, Nội hữu
phò mã Tống Phước Thiệu (con Nội tả Chưởng dinh Tống Phước Trí) mưu phản cũng
bị chúa Nguyễn miễn chức tước.
Tóm lại, các chúa Nguyễn đã thực hiện một chế độ thưởng phạt thích đáng nhằm khích
lệ tinh thần chiến đấu, rèn luyện cũng như thiết lập nề nếp đối với tướng lĩnh và binh sĩ

ở Đàng Trong.
7. KẾT LUẬN
Nhận thức được tầm quan trọng của quân đội đối với chính quyền và đời sống xã hội
nên các chúa Nguyễn luôn quan tâm xây dựng và phát triển quân đội về mọi mặt. Từ
tuyển quân; sắp đặt, bố trí nhiệm vụ cho từng loại quân, từng binh chủng cho đến trang
bị vũ khí; rèn luyện và thưởng phạt binh sĩ, các chúa Nguyễn đã có được những đội
quân tinh nhuệ. Đây chính là lực lượng giữ vai trò nòng cốt trong việc đảm bảo sự
thống trị của giai cấp cầm quyền cũng như bảo vệ lãnh thổ Đàng Trong ở thế kỷ XVI –
XVIII.


86

LÊ THỊ HỒI THANH

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]

Lê Đình Cai (1971), 34 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725),
Đăng Trình xuất bản, Sài Gịn.
Lê Q Đơn (1977), Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Phan Thanh Hải (2006), Diện mạo đô thị Huế thế kỷ XVII – XVIII qua sự mô tả của
một số nhân chứng người nước ngồi, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4, tr. 55-65.
Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện sử học, tập
1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế - Uỷ ban phiên dịch sử liệu
Việt Nam.
Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII,
bản dịch của Nguyễn Nghị, NXB Trẻ, Tp HCM.

Title: SOME SKETCHES OF NGUYEN LORDS’ MILITARY (1558–1777)
Abstract: Since the beginning of the 16th century, the feudalistic centralized regime of Dai Viet
impaired. The country was divided with separate administrations: Northern dynasty (Mac) –
Southern dynasty (Le) and then Dang Ngoai (Le king – Trinh lord) – Dang Trong (Nguyen
lord). To stand firmly as an independent administration, Nguyen lords especially concentrated
on the construction and development of military on all aspects: recruitment, organization,
training, armament, rewarding and punishment of soldiers in order to create a strong military to
contribute to the cause of protecting administration and territory Dang Trong.

ThS. LÊ THỊ HOÀI THANH
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
ĐT: 0913.540.607. Email:



×