Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thành thái ( 1/1889 – 7/ 1907)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.98 KB, 7 trang )

Thành thái ( 1/1889 – 7/ 1907)

Niên hiệu : Thành Thái

Sáu người con trai của Đồng Khánh đều còn quá nhỏ. Vâng ý chỉ của
Lưỡng Tôn Cung ( Nghi thiên chương Hoàng hậu – vợ Thiệu Trị và Lệ
Thiên anh Hồng hậu – vợ Tự Đức) triều đình đón người con thứ 7 của
Dục Đức ( đã bị phế truât là Hồng tử Bửu Lân khi đó mới 8 tuổi lên
làm vua.

Chuyện kể rằng, khi triều quan đến nhà rước Hồng tử vào hồng
thành làm lễ đăng quang thì mẹ là Từ Minh đi vắng. Ơng hồng bé
bỏng run sợ, nói.


Các ông đến làm chi ? Bắt tôi à ? Các ơng muốn làm chi thì làm nhưng
phải đợi ả tôi ( mẹ tôi) về đã.

Khi Từ Minh về, biết chuyện con mình bị bắt đi làm chi thì làm vua, bà
ịa khóc, nghẹn ngào nói.

Lạy các quan ! Xin các quan tha cho mẹ con tôi ! Tôi không bao giờ
quên cái chết vô cùng thê thảm của chồng tôi ( tức vua Dục Đức). Tôi
cũng không quên rằng các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc đã bị giết và vua
Hàm Nghi thì bị đi đày.

Sau một hồi khuyên giải của hàng xóm có mặt lúc đó. Từ Minh mới kể
cho người ta bế con lên kiệu rước đi. Sau đó 3 giờ, chú bé Bửu Lân trở
thành hồng đế Thành Thái.

Thành Thái thông minh, lên 4 – khi vua cha bị truất – đã phải sống ở


ngoài thành với bà con lao động chia sẻ gian khổ với những người
nghèo khó trong cảnh nước mất nhà tan. Vì thế, làm vua, tuy mới 10
tuổi. Thành Thái đã sớm có ý thức về quốc sự và rất ham hiểu biết.
Vua thích đọc các tân thư chữ Hán của Trung Quốc và Nhật Bản. Nhờ
đó, Thành Thái có tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải cách.
Song mọi dự định cách tân đất nước của vua đều bị thực dân Pháp
ngăn chặn.

Khâm sứ Pháp lo ngại một điều là Thành Thái rất gần dân, thương dân
và hay vi hành. Có lần Thành Thái đi chơi bộ trên cầu Gia Hội, sắp
gặp một người vác tre. Quân lính vội chạy lên trước, dẹp đường, vua
bảo.


Cứ để cho người ta đi ! Mình dân khơng phải là dân, vua không phải là
vua, tại sao dẹp người ta ?

Nhiều chuyến săn bắn ở Cổ Bi ( cách Huế khoảng 30 km) Vua thường
ghé vào chơi các làng dọc sông Bồ. Vào làng, vua cho trả chiếu ngồi
giữa đất, dân làng bu lại xem. Nếu lính đi, vua khơng cho và hỏi
dân muốn gì ? Dân bảo muốn xem bắn. Vua liền giương súng bắn cho
họ xem.

Khâm sứ Pháp và quần thần Nam triều xu nịnh rất muốn truất ngôi
của Thành Thái để thay bằng vua bù nhìn khác. Họ phao tin, nhà vua
bị điện hạ uy thế. Khâm sứ Lê – véc – cơ rất tức tối sau nhiều lần nhà
vua không làm theo ý hắn. Ngày 29 tháng 7 năm 1907 ( bắt đầu từ
đây khơng dùng ngày âm lịch vì sang thế kỷ 20), Lê – véc – cơ nói
thẳng với Vua. Nhà vua khơng chịu thành thật cộng tác với chính phủ
bảo hộ thì từ này mọi việc đều do Hội đồng thượng thư tự quyết đoán.

Nhà vua đã hết quyền hành và không được ra khỏi nơi Đại Nội dành
cho riêng vua.

Ngày 3 tháng 9 năm 1907, triều thần được lệnh của Pháp vào điện
Càn Thanh dân vua dự thảo chiếu thoái vị với lý do sức khỏe không
đảm bảo, xin tự nguyện rút lui. Xem xong bản dự thảo, Thành Thái
nhếch mép cười, ghi ngay hai chữ « phê chuẩn » quay lưng đi vào.

Ngày 12 tháng 9 năm 1907 thực dân Pháp cho áp giải vào Sài Gòn rồi
đưa đi quản thúc tại Capsaint Jacques, đến năm 1916 thì đày ra đảo
Réunion cùng với con là Duy Tân.


Như vậy Thành Thái làm vua được 18 năm, phế truất năm 18 tuổi.
Sau 31 năm bị đày, năm 1947, ông được phép trở về Tổ quốc nhưng
buộc phải ở lại Sài Gịn để Pháp dễ bề kiểm sốt. Mãi đến tháng 3
năm 1953, thực dân Pháp mới cho ông về thăm lăng tẩm cha mẹ, ông
bà ở Huế sau lại phải trở vào Sài Gòn. Thành Thái mất tại Sài Gòn
ngày 24 tháng 3 năm 1954, con cháu đưa ông về chôn ở Huế, thọ 74
tuổi. Không có miếu hiệu.

Duy tân ( 1907 – 1916)


Niên hiệu : Duy Tân

Gạt xong Thành Thái, thực dân Pháp định dùng con của Thành Thái là
Hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi lên làm vua để dễ bề thao túng. Chúng
không ngờ được rằng vị vua trẻ này cịn có thái độ chống lại kiên
quyết và tích cực hơn vua cha.


Từ khi cịn nhỏ, vua đã có những việc làm và lời nói cương nghị,
chống Pháp rất quyết liệt. Có lần, ngồi câu trước bến Phu Văn Lâu
cùng với thầy học là Nguyễn Hữu Bài, vua ra vế đối.

« Ngồi trên nước khơng ngăn được nước, trót bng câu nên lỡ phải
lần »

Nguyễn Hữu Bài đối lại :

« Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đến đó
»

Mắt đượm buồn, vua nói : Hóa ra thầy là người cam chịu bó tay trước
số mạng. Theo ý trẫm, sống như thế thì buồn lắm. Phải có ý chí vượt
qua gian khổ, khó khăn để tiến lên thì mới số có ý nghĩa.

Cuối năm 1916, được một tổ chức cứu nước giúp đỡ, Duy Tân đã bí
mật gặp hai nhà chí sĩ của Việt Nam Quang phục hội ( Phan Bội Châu
chủ xướng) là Trần Cao Văn và Thái Phiên bàn mưu khởi nghĩa đánh


Pháp. Vua đã chủ động tham gia và quyết định đẩy ngày khởi nghĩa
lên sớm hơn để khỏi lỡ thời cơ. Không may, bị lộ, Duy Tân bị giặc
Pháp bắt tại một ngôi chùa ở Quảng Ngãi ngày 6 tháng 5 năm 1916
cùng nhiều chiến sĩ cứu nước khác, Giặc dụ dỗ, Duy Tân khẳng khái
trả lời.

Nếu các ngươi dùng bạo lực bắt ta thì cứ bắt, cịn ta, nhất định khơng
về !


Tồn quyền Pháp ở Hà Nội đích thân ra gặp và dụ dỗ vua trở lại coi tôi
là một ơng vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là
quyền tự do trao đổi thư tín và chính kiến với chính phủ Pháp.

Khơng chấp nhận được, toàn quyền Pháp lệnh cho Khâm sứ đưa Duy
Tân vào tạm giữ ở đồn Mang Cá và giao cho Nam triều trong một tuần
phải thuyết phục được nhà vua thay đổi chính kiến. Cuối cùng, khơng
chịu khuất phục thực dân Pháp và tay sai, Duy Tân đã bi lưu đày sang
đảo Rêuyniong, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn
Quang Siêu đều bị chém đầu.

Theo vua đi đày có Hồng mẫu Nguyễn Thị Định. Hồng q phi Mai
Thị Vàng và em ruột là Mệ Cười mới 12 tuổi. Lúc theo chồng lên
đường bà Mai Thị Vàng đã có mang 3 tháng và bị sảy thai, sau hai
năm ở đảo Rêuyniong, vì khơng hợp thủy thổ, khí hậu, bị đau ốm
luôn, mẹ, vợ và em vua cùng nhau trở về Tổ quốc. Năm 1925, Duy
Tân đã gửi thư về cho Hội đồng dân tộc kèm theo giấy ly hôn bà Mai
Thị Vàng, xin hội đồng chứng nhận để bà đi lấy chồng khác. Lúc đó,
bà mới 27 tuổi, nhưng cương quyết thủ tiết với chồng.


Sau khi đã ly dị bà Vàng, Duy Tân đã lấy một người phụ nữ địa
phương, từ 1929 đến 1939, sinh được 4 con, ba trai, một gái. Rồi
không rõ bà vợ này đã chết hay bỏ nhau, cựu hoàng lại lấy một người
ở thủ đô Xanh bơ noa và sinh được một người con gái.

Trong chiến tranh chống phát xít 1939 – 1945, Duy Tân tình nguyện
gia nhập qn đội của « nước Pháp tự do » và khi đồng minh chiến
thắng, ông được giải ngũ với hàm thiếu tá không quân. Việc làm này

của ông bị vua cha là Thành Thái phản đối kịch liệt, tháng 10 thống
Pháp Đờ Gôn trở về Việt Nam, nhưng bị tai nạn máy bay và mất trên
đường đi thăm vợ con ở đảo Rêuyniong, thọ 48 tuổi. Khơng có miếu
hiệu.



×