Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

CÂU HỎI ÔN TẬP CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.76 KB, 17 trang )

PHẦN A ( MỖI CÂU 5 ĐIỂM)
Câu 1. Lượng giá trị của hàng hoá và các nhân t ố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa.
Giá trị của hàng hố là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng
hoá. Vậy lượng lao động của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để
sản xuất ra hàng hố đó và tính bằng thời gian lao động. Trong thực tế, có nhiều
người cùng sản xuất một hàng hố nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề khác
nhau... làm cho thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hố đó là khác nhau,
tức là mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Nhưng lượng giá trị của hàng hố
khơng do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định mà
do thời gian lao động XH cần thiết. Thời gian lao động XH cần thiết là thời gian lao
động cần thiết để sản xuất ra một hàng hố nào đó trong điều kiện bình thường của
XH với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung
bình và một cường độ lao động trung bình trong XH đó. Vậy, thực chất, thời gian
lao động XH cần thiết là mức hao phí lao động XH trung bình (thời gian lao động
XH trung bình) để sản xuất ra hàng hố. Thời gian lao động XH cần thiết có thể
thay đổi. Do đó, lượng giá trị của hàng hố cũng thay đổi theo.
Có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hố:
Thứ nhất, đó là năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của
người lao động. Nó được đo bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời
gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất
lao động tăng lên tức là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm giảm xuống, tức là giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm và ngược lại. Vậy,
giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Mặt khác, năng suất lao
động lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, trình độ trung
bình của người cơng nhân, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản
lý, quy mô sản xuất... nên để tăng năng suất lao động phải hồn thiện các yếu tố
trên.
Thứ hai, đó là cường độ lao động. Cường độ lao động phản ánh mức độ hao phí lao
động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay
căng thăng của lao động. Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối


lượng) hàng hố sản xuất ra tăng lên và sức lao động hao phí cũng tăng lên tương
ứng. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hố là khơng đổi vì thực chất tăng cường
độ lao động chính là việc kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động phụ thuộc
vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và đặc biệt là
thể chất và tinh thần của người lao động. Chính vì vậy mà tăng cường độ lao động
khơng có ý nghĩa tích cực với sự phát triển kinh tế bằng việc tăng năng suất lao
động.
Thứ ba là mức độ phức tạp của lao động. Theo đó, ta có thể chia lao động thành hai
loại là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà
bất kỳ một người lao động bình thường nào khơng cần phải trải qua đào tạo cũng


có thể thực hiện được. Cịn lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào
tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể thực
hiện được. Trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá
trị hơn lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động giản đơn
được nhân lên. Trong quá trinh trao đổi mua bán, lao động phức tạp được quy đổi
thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát.
Câu 2. Lý luận hàng hoá sức lao động và rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn
đề này.
Theo C.Mac: " SLĐ hay năng lực lao động là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần
tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận
dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó". SLĐ là yếu tố cơ bản của mọi
quá trình sản xuất.
SLĐ chỉ trở thành hàng hóa khi có 2 điều kiện sau:
- Người LĐ phải là người được tự do về thân thể của mình, phải có khả năng chi
phối SLĐ ấy đến mức có thể bán SLĐ đó trong một thời gian nhất định.
- Người LĐ khơng cịn có TLSX cần thiết để tự mình thực hiện LĐ và cũng khơng
cịn của cải gì khác muốn sống và tồn tai người LĐ chỉ còn cách bán SLĐ cho
người khác sử dụng.

Thuộc tính hàng hóa:
Cũng như mọi loại hàng hố khác, hàng hố sức lao động cũng có hai thuộc tính là
giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao
động XH cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Do việc sản xuất và
tái sản xuất sức lao động được diễn ra thông qua quá trình tiêu dùng, sinh hoạt, giá
trị sức lao động được quy ra thành giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, để duy trì đời sống cơng nhân và gia
đình họ cũng như chi phí đào tạo cơng nhân có một trình độ nhất định. Tuy nhiên,
giá trị hàng hoá sức lao động khác hàng hố thơng thường ở chổ nó bao hàm cả yếu
tố tinh thần và lịch sử của từng nước, từng thời kỳ...
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng nhằm thoả mãn nhu cầu của người
mua để sử dụng trong q trình sản xuất ra hàng hố và dịch vụ. Tuy nhiên, khác
với hàng hố thơng thường, trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng
giá trị mới lớn hơn lượng giá trị của bản thân nó, phần dơi ra đó chính là giá trị
thặng dư. Đây là đặc điểm riêng của giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động.
Ý nghĩa:
cần phải có những giải pháp hồn thiện cơ chế chính sách đi đôi với nâng cao chất
lượng nguồn lao động tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người lao động được tự do
bán sức lao động, tự do di chuyển sức lao động giữa các vùng, các miền khác nhau
… nhằm phát huy hết tiềm năng nguồn lực lao động của nước ta với mục đích xây
dựng một thị trường lao động sơi động, ổn định và có hiệu quả tác động tích cực
đến sự phát triển kinh tế.


Nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy
quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường lao động, nâng cao hơn nữa vai trò của
các tổ chức đại diện cho người lao động và tổ chức đại diện cho chủ sử dụng lao
động, tiếp tục hồn thiện các chính sách thị trường lao động, chính sách tiền
lương.
Câu 3. Vì sao nói: sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ

nghĩa tư bản?
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối
quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C.Mác, chế tạo ra
giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong chủ nghĩa tư bản, mục đích của sản xuất khơng phải là giá trị sử dụng mà là
sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là
mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn
bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt đi
chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó:
tăng cường bóc lột cơng nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo
dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của nó là
sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột cơng nhân làm thuê.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ
nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ
nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời
nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản
của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư
bản bằng một xã hội cao hơn.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu,
quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự
thống trị của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can
thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị
của giai cấp tư sản.
Tuy nhiên, do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản

phát triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức
lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Trong điều kiện hiện nay, sản
xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:


Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá
trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất
lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại làm cho chi phí lao động sống
trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi
lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao
động trí tuệ ngày càng tăng lên và ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản
xuất ra giá trị thặng dư.
Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trên phạm vi quốc tế
ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hố, trao
đổi khơng ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp
nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng
và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển đã bịn rút chất xám, hủy hoại mơi sinh, cũng như cội rễ đời sống
văn hoá của các nước lạc hậu, chậm phát triển.
Câu 4. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa Xét
một cách tổng quát chúng ta có thể khẳng định rằng, địa vị kinh tế - xã hội của giai
cấp cơng nhân quy định một cách khách quan vai trị sứ mệnh lịch sử của giai cấp
cơng nhân. Bởi vì:
-Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhấttrong các
bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Trong nền sản xuất
hiện đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm căn bản nhất
của nền sản xuất đó. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với đại

cơng nghiệp, cịn giai cấp công nhân lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng ngày càng được tri thức hóa. Điều
này có được là do yêu cầu khách quan của sự phát triển công nghiệp trong thời đại
mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
-Thứ hai, do khơng có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ bị lệ
thuộc hồn tồn trong q trình phân phối các kết quả lao động của chính mình. Do
vậy, về mặt lợi ích giai cấp công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư
sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức,
bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, giai
cấp cơng nhân chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng tồn xã hội khỏi chế
độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngồi xiềng xích
mà lại được cả thế giới.


-Thứ ba, giai cấp cơng nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của tồn thể
nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp, đồn kết, lãnh đạo đông đảo quần chúng
đi theo làm cách mạng, đồng thời họ cũng là người đi đầu trong cuộc đấu tranh của
toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân Địa vị kinh tế - xã hội khách
quan cịn tạo ra những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp cơng nhân. Chính
những đặc điểm này đã tạo ra khả năng để giai cấp công nhân hồn thành thắng lợi
sứ mệnh lịch sử của mình. Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công
nhân gồm:
-Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, chế độ xã hội
tiên tiến nhất, do đó, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân luôn phát triển và lớn mạnh
không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng cùng với sự phát triển của khoa học và

cơng nghệ hiện đại. Chính điều kiện làm việc ở thành thị và các khu công nghiệp
giúp cho giai cấp công nhân mở rộng các quan hệ xã hội, mở mang trí tuệ. Cuộc
đấu tranh chống áp bức bóc lột vì dân sinh dân chủ, cải thiện điều kiện làm việc đã
tôi luyện cho giai cấp công nhân có những phẩm chất cần thiết cho cuộc đấu tranh.
Lợi ích căn bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích căn bản của nhân dân
lao động nên họ có đủ khả năng và điều kiện tập hợp quần chúng nhân dân làm
cách mạng.
-Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để. Trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Trong tất cả các giai
cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực
sự cách mạng, tất cả các giai cấp khác đều là những tầng lớp trung đẳng ... Đó là do
giai cấp cơng nhân khơng gắn với tư hữu, do vậy, họ kiên định trong cuộc đấu tranh
xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới”
-Thứ ba, giai cấp cơng nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Môi trường làm việc của
giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao và có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện
đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ, làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp
công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc
đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản - là một giai cấp có tiềm lực về kinh tế kỹ thuật nên giai cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
-Thứ tư, giai cấp cơng nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp cơng nhân ở tất cả các
nước đều có chung một mục đích là giải phóng mình đồng thời giải phóng xã hội
khỏi áp bức bóc lột và họ đều có chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Và
cũng do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai
cấp tư sản khi mà chúng đã liên kết với nhau thành tập đồn tư bản, chủ nghĩa đế
quốc, vì vậy mà giai cấp công nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp
mình. Dựa vào đặc điểm này, C.Mác - Ph.Ăngghen nhấn mạnh: trong sự nghiệp


cách mạng của giai cấp vô sản “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. V.I. Lênin sau
này cũng khẳng định: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại”.

Câu 5. Nội dung cơ bản của nền văn hố XHCN
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa đã hình thành
Một là, nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.
Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của quần chúng nhân dân nhưng muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa, do vậy con người cần phải
được chuẩn bị tốt về tinh thần, trí lực, tư tưởng...Vì thế, nâng cao dân trí là nhu cầu
cấp bách và lâu dài. Nâng cao dân trí phải gắn liền với sự nghiệp giáo dục đào tạo
để hình thành đội ngũ trí thức mới, có tri thức hiện đại, mang bản sắc văn hóa dân
tộc.
Hai là, xây dựng con người mới phát triển toàn diện.
Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội trước hết phải xây dựng con người mới, đó là yêu cầu khách quan.
Con người mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng là con người phát triển tồn diện,
có tinh thần và năng lực xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, có tinh thần yêu
nước và tinh thần quốc tế trong sáng, có lối sống tình nghĩa và có tính cộng đồng
cao.
Ba là, xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa.
Lối sống là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác nhau;
là tổng thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất, tinh
thần và xã hội của con người. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được hình thành trên
cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng xã hội,
mở rộng dân chủ.
Bốn là, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Gia đình là một hình thức cộng động đặc biệt, ở đó con người chung sống với nhau
bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hơn nhân và quan hệ huyết thống. Gia đình
là một hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết
chế văn hóa-xã hội đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành

viên. Xã hội lồi người đã trải qua các hình thức: gia đình huyết tộc, gia đình đối
ngẫu, gia đình một vợ, một chồng. Bởi vậy, xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội
chủ nghĩa cần chú ý các vấn đề sau: - Xây dựng cơ sở kinh tế xã hội của gia đình. Cách mạng tư tưởng văn hóa có tác động trực tiếp đến việc xây dựng gia đình văn
hóa mới xã hội chủ nghĩa. - Trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong
thời kỳ quá độ, các yếu tố cũ và mới của gia đình tồn tại đan xen vào nhau, nên gia
đình chịu nhiều yếu tố chi phối từ tâm tư, tình cảm, tâm lý của nhiều giai cấp khác


nhau trong xã hội. - Gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng phát
triển trên cơ sở giữ gìn phát huy giá trị tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ tàn tích của chế
độ hơn nhân và gia đình phong kiến, đồng thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của
nhân loại về gia đình. - Trong xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa cần
phải chú trọng cả việc xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và
giữa gia đình với xã hội, hình thành quan hệ yêu thương, gắn bó, bình đẳng, tơn
trọng, giúp đỡ lẫn nhau
PHẦN B (MỖI CÂU 3 ĐIỂM)
Câu 1. Đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN
1) Chủ nghĩa Mác-Lênin với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là nền
tảng tư tưởng và giữ vai trò chủ đạo quyết định phương hướng phát triển nội dung
của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân lao động thực
sự trở thành chủ thể tự giác và hưởng thụ văn hoá của xã hội mới. Đặc trưng này
phản ánh bản chất giai cấp cơng nhân và tính đảng của nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa.
2) Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn
hố khơng cịn là đặc quyền, đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Cơng cuộc cải
biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội
từng bước tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây
dựng nền văn hoá mới và hưởng thụ những giá trị của nền văn hố đó.

3) Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua tổ chức Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn
đề có tính ngun tắc, là nhân tố quyết định trước tiên đối với việc xây dựng nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa khơng hình thành và phát
triển một cách tự phát, trái lại, nó phải được hình thành và xây dựng một cách tự
giác, có sự quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mọi sự coi
nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của Nhà
nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa sẽ
dẫn đến làm mất phương hướng chính trị của nền văn hoá- nền tảng tinh thần của
xã hội.
Câu 2. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc.
Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vơ sản do đó giải quyếtvấn đề dân
tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài của dân tộc. Kế thừa tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng
thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong


trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã
bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh
dân tộc” của Đảng Cộng sản. Nội dung của Cương lĩnh gồm:
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền thiêng liêng của mọi dân
tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc là bảo đảm cho mọi dân tộc dù đơng
người hay ít người, dù có trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền
lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi trong quan hệ
xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế. Để thực hiện tốt quyền bình đẳng dân tộc
địi hỏi chúng ta phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc
lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan và chủ nghĩa phát xít mới.

Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết. Đây là quyền cơ bản thiêng liêng của
mọi dân tộc. Quyền tự quyết dân tộc trước hết là quyền tự quyết về chính trị, tự do
lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển cho dân tộc mình, thực hiện
quyền làm chủ vận mệnh dân tộc mình mà khơng một dân tộc nào được quyền
dùng áp lực can thiệp vào công việc nội bộ của dân tộc khác. Quyền tự quyết dân
tộc bao gồm: quyền tự do phân lập và quyền các dân tộc tự nguyện liên hiệp lại
thành một liên bang các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, giúp nhau cùng tiến bộ. Do
đó, khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân.
Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương
lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp
Những người cộng sản lấy đồn kết cơng nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn
đấu cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân
tộc của các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Câu 3. Trình bày nguyên nhân d ẫn đến khủng hoảng và sụp đổ của mô hình
CNXH Xơ viết
Ngun nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mơ hình phát triển của chủ nghĩa xã
hội Xơ viết. Nếu như mơ hình tổ chức xã hội dựa trên kế hoạch hoá tập trung đã
phát huy được sức mạnh cho cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại thì trong điều kiện hồ
bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội, mơ hình này tỏ ra khơng phù hợp. Cơ chế kế
hoạch hố tập trung làm mất đi tính chủ động sáng tạo của người lao động, chậm
trễ trong việc tiếp thu những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ.
Trong những điều kiện lịch sử mới, mô hình chủ nghĩa xã hội Xơviết tỏ ra khơng
cịn phù hợp, là nguyên nhân sâu xa làm cho xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng
dẫn
tới

sụp
đổ

Liên


Đông
Âu.


2) Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
Chung quy lại, vấn đề nảy sinh từ nội bộ Đảng cầm quyền và sai lầm, sự phản bội
của những người lãnh đạo cao nhất. Trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liênxô đã mắc
sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức.
a) Đảng không coi trọng kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn nước mình và
đặc điểm thời đại; khơng coi trọng việc kế thừa, bổ sung và phát triển lý luận
mácxít. Hoặc giáo điều, dập khn máy móc, khơng căn cứ vào tình hình mới để
phát triển sáng tạo. Đánh giá không công bằng với lịch sử, từ chỗ phê phán sai lầm
của cá nhân đi đến phủ nhận toàn bộ lịch sử của Đảng và Nhà nước, phủ định chế
độ xã hội chủ nghĩa, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin để cuối cùng đi theo con
đường
chủ
nghĩa
dân
chủ

hội.
b) Chế độ tập trung trong Đảng bị phá hoại, không những làm cho Đảng mất khả
năng của bộ chỉ huy chiến đấu mà ngay mâu thuẫn trong đảng cũng khơng giải
quyết nổi. Tính quan liêu, giáo điều bảo thủ rất nặng nề ở bộ phận lãnh đạo cấp cao

của Đảng và Nhà nước tác động to lớn đến đời sống xã hội. Sự phân liệt Đảng
Cộng sản thành các phe nhóm chính trị khác nhau, nhiều tổ chức, đảng phái chính
trị ra đời đấu tranh giành quyền lực chính trị. Khuynh hướng dân tộc ly khai nảy
sinh, những cuộc xung đột đẫm máu xảy ra tạo môi trường cho các lực lượng phản
động trỗi dậy, xã hội mất phương hướng, gây thảm hoạ cho nhân dân.
c) Lực lượng phản bội trong nước tìm chỗ dựa từ các chính phủ tư sản bên ngồi,
các thế lực chống chủ nghĩa xã hội cũng xem đây là cơ hội tốt để thực hiện ý đồ
“diễn biến hồ bình”. Chúng ra sức cổ vũ lôi kéo những phần tử cơ hội, phản bội
giữ địa vị cao ở các cơ quan Đảng, Nhà nước để đưa đất nước theo xu hướng tư
bản. Khi bộ phận lãnh đạo tối cao đã liên kết với lực lượng đế quốc bên ngồi thì
chủ nghĩa xã hội theo mơ hình Xơviết dễ dàng sụp đổ.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội khơng thể là tất yếu vì thực tế ở những
nước xã hội chủ nghĩa khác qua cải cách đổi mới đã đưa đất nước từng bước thốt
khỏi khó khăn, khủng hoảng như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba. Vấn đề là ở chỗ
cải cách, cải tổ. đổi mới như thế nào, cần phải giữ vững nguyên tắc nào mà thôi.
Câu 4. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hố với tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa.
Hàng hóa là SP của lao động có thể thỏa mãn 1 nhu cầu nào đó của con người & đi
vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị trao đổi(giá trị)
Giá trị sử dụng: đây là thuộc tính được bộc lộ ra bên ngồi của hàng hóa.
GTSD là cơng dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số cơng dụng nhất định khi nó có một
hay nhiều thuộc tính tự nhiên.
Cơ sở để xác định giá trị sử dụng của hàng hóa: Do thuộc tính tự nhiên của hàng
hóa – chất của các hàng hóa khác nhua sẽ quy định những giá trị sử dụng khác


nhau; Do tập tục và quy ước. Do đó cơ sở của GTSD hàng hóa là là do những thuộc
tính tự nhiên của thực thể hàng hóa ấy quy định, vì vậy GTSD là một phạm trù

mang tính chất vĩnh viễn. Con người ở bất kỳ thời đại nào cũng cần đến các GTSD
khác nhau để thỏa mãn những nhu cầu phong phú của mình.
Khoa học kỹ thuật càng phát triển, con người càng phát hiện thêm những thuộc tính
mới của hàng hóa và dựa vào chúng để tạo ra những GTSD mới
Trong nền kinh tế hàng hóa, GTSD là vật mang giá trị trao đổi. Một vật nếu chỉ có
GTSD thì chưa đủ để trở thành hàng hóa, GTSD đó phải được làm ra để trao đổi,
nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi.
b) Giá trị: (là thuộc tính ẩn bên trong hàng hóa, khơng trao đổi, mua bán thì khơng
biết giá trị của nó). Trao đổi là hình thức bộc lộ giá trị. Để hiểu về giá trị hàng hóa
ta phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn
nhau giữa các GTSD khác nhau.
VD: Mang 1m vải đổi lấy 10kg thóc, hai hàng hóa này có GTSD khác nhau nhưng
được trao đổi với nhau. Như vậy chúng phải có điểm chung. Nếu gạt bỏ GTSD của
hàng hóa thì mọi hàng hóa đều có điểm chung là sản phẩm của lao động, vậy thực
chất của trao đổi hàng hóa là trao đổi lao động cho nhau. Để SX vải, thóc, những
người lao động đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu bên
trong hàng hóa làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi.
Sự trao đổi theo một tỷ lệ khác nhau là do số lượng lao động tạo ra SP (Thời gian
tạo ra 2 SP) khác nhau. SP nào có hao phí lao động để SX ra chúng càng nhiều thì
giá trị càng cao.
Giá trị hàng hóa là lao động của người SX hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị
hàng hóa có những đặc trưng sau: Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó chỉ
tồn tại ở những phương thức SX có SX và trao đổi hàng hóa; Giá trị hàng hóa phản
ánh quan hệ SXHH, tức là mối quan hệ kinh tế giữa những người SXHH, trong nền
kinh tế SXHH dựa trên chế độ tư hữu về TLSX, quan hệ kinh tế giữa người với
người.
Khi tiền tệ ra đời thì giá trị biểu hiện ra bằng tiền gọi là giá cả. Giá trị trao đổi chỉ
là hình thức biểu hiện của giá trị; Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi theo.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa là sự thống nhất giữa hai mặt đối

lập.
Thống nhất vì 2 thuộc tính cùng tồn tại trong 1 hàng hóa: là hàng hóa thì phải có
hai thuộc tính nói trên. Nếu thiếu 1 trong hai thì khơng phải là hàng hóa. Một vật có
giá trị sử dụng nhưng khơng do lao động của con người làm ra thì khơng được coi
là hàng hóa(khơng khí, năng lượng mặt trời…); Mộ vật do con người làm ra nhưng
vô dụng hay không được trao đổi mua bán thì cũng khơng phải là hàng hóa.
Sự đối lập hay mâu thuẫn giữa hai thuộc tính được bộc lộ ra bên ngồi thơng qua
người SX và người tiêu dùng. Người SX tạo ra GTSD nhưng mục đích của họ là
giá trị, họ quan tâm đến GTSD nhằm đạt được mục đích cuối cùng là giá trị mà


thôi. Ngược lại người mua lại quan tâm đến GTSD để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng.
Để có được GTSD họ phải trả giá trị cho người SX
GTSD và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình thực hiện chúng
tách rời cả về khơng gian lẫn thời gian: giá trị được thực hiện trước trong quá trình
SX lưu thơng, GTSD được thực hiện sau trong q trình tiêu dùng.
Mâu thuẫn được bộc lộ ra bên ngồi thành mâu thuẫn giữa chất lượng và giá cả,
giữa người mua với người bán. Thông qua phát triển khoa học, kỹ thuật người ta
trung hòa hai mặt đối lập giữa hai thuộc tính của hàng hóa bằng hệ thống các tiêu
chuẩn.
Tính hai mặt của lao động SXHH: sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là GTSD và
giá trị là vì lao động của người SXHH có tính hai mặt: LĐ cụ thể và LĐ trừu tượng.
Chính tính hai mặt đó của LĐSXHH quyết định tính hai mặt của bản thân hàng
hóa.
LĐ cụ thể: là lao động có ích dưới những hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chun mơn nhất định. Mỗi LĐ cụ thể có đối tượng riêng, mục đích riêng, phương
pháp riêng, kết quả riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại LĐ cụ thể
khác nhau.
Đặc trưng của LĐ cụ thể: Mỗi LĐ cụ thể tạo ra một loại GTSD nhất định, LĐCT
càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại GTSD khác nhau. Các LĐCT hợp thành hệ

thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển KH – KT, các hình thức
LĐCT ngày càng đa dạng, phong phú, mang tính chun mơn hóa cao. LĐCT là
một phạm trù vĩnh viễn, một hình thái khơng thể thiếu ở bất kỳ hình thái kinh tế xã
hội nào, là nguồn gốc tạo ra của cải vật chất.
LĐ trừu tượng: là hao phí sức lực nói chung của con người tạo ra hàng hóa khơng
kể hình thức cụ thể của nó.
Đặc trưng: LĐ trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi,
là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa. Là LĐ đồng nhất và
giống nhau về chất.
Câu 5. Sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước bắt nguồn từ
những nguyên nhân chủ yếu nào?
Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do
những
nguyên
nhân
chủ
yếu
sau:
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật
đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy

lớn.
- Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất
hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát,... đã tạo ra sản lượng lớn
gang thép với chất lượng cao: phát hiện ra hoá chất mới như: axit sunphuaric
(H2SO4), thuốc nhuộm...; máy móc mới ra đời: động cơ điezen, máy phát điện,
máy tiện, máy phay..; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe


điện, máy bay,... và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này,

một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới địi hỏi xí nghiệp phải có quy mơ
lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ tư bản,
thúc
đẩy
phát
triển
sản
xuất
lớn.
- Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ... ngày
càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung
sản
xuất
quy

lớn.
- Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy
mơ tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho
các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với
số tư bản tập trung và quy mơ xí nghiệp ngày càng to lớn.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm
phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng q trình tích tụ và
tập
trung

bản.
- Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành địn bẩy mạnh mẽ
thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các cơng ty cổ phần, tạo tiền để
cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.-.

Ngoài ra, chiến tranh thế giới cùng với nó là tham vọng giành chiến thắng trong
cuộc chiến tranh, việc đối phó với xu hướng xã hội chủ nghĩa mà cách mạng tháng
10 Nga là tiếng chuông báo hiệu bắt đầu một thời đại mới…làm cho nhà nước tư
bản độc quyền phải can thiệp vào kinh tế.
PHẦN C (MỖI CÂU 2 ĐIỂM)
Câu 1. Trình bày các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc
giải quyết vấn đề tôn giáo.
Giải quyết vấn đề tơn giáo trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên
những quan điểm sau:
Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo phải gắn liền với q
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để khắc phục mặt tiêu cực của tôn giáo, trước hết phải
không ngừng phát triển khoa học - công nghệ. Trang bị thế giới quan của chủ nghĩa
vô thần khoa học cho nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần
cho nhân dân. Phải khắc phục những tiêu cực của tơn giáo bởi vì chủ nghĩa MácLênin và hệ tư tưởng tơn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh
quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Hai là, tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân
dân. Mọi cơng dân theo tơn giáo hay khơng theo tơn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.


Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo tơn giáo và khơng theo tơn giáo,
đồn kết các tơn giáo hợp pháp chân chính (tơn giáo hợp pháp và chân chính là
những tơn giáo có tổ chức giáo hội được Đảng và nhà nước ta thừa nhận, và nằm
trong khối đại đoàn kết dân tộc), đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tơn giáo.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tơn giáo, khắc phục mặt này là nhiệm vụ
thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện ở

chỗ cần phải kiên quyết đấu tranh với những phần tử phản động, đội lốt tôn giáo,
lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là, phải có quan diểm lịch sử cụ thể trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trị, tác động của từng tơn giáo đối với đời
sống xã hội cũng không giống nhau.
Quan điểm của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội
thường không đồng nhất với nhau. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi
xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Câu 2. Chức năng, nhiệm vụ nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Chức năng:
+ Nhà nước nói chung: bất kì nhà nước nào cũng là cơng cụ của g/c thống trị
nhằm duy trì quyền lực của mình đối với tồn XH, nhà nước có 2 chức năng:
chức năng giai cấp và chức năng xã hội.
* Chức năng g/c nói lên rằng bất kì g/c nào cũng là cơng cụ chun chính của 1
g/c, nó sẵn sàng sử dụng mọi cơng cụ, mọi biện pháp có thể tổ chức và trấn áp g/c
đó
* Chức năng XH nói lên rằng bất kì nhà nước nào cũng phải thực hiện những lao
động chung vì sự tồn tại của XH phải lo tới cơng việc chung của tồn XH và
trong giới hạn có thể được nó phải thỏa mãn 1 số nhu cầu chung của cộng đồng
dân cư của sự quản lý của mình
Cả 2 chức năng này: Chức năng g/c và chức năng XH đều nhằm đến 2 mục tiêu là
xãa bỏ CNTB, xây dựng thành cơng CNXH một XH khơng có áp bức bóc lột, mọi
người no ấm bình đẳng có quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống XH. Vì
vậy có thể nói chức năng của nhà nước XHCN biểu hiện tập trung ở việc quản lí
XH
trên
tất
cả
các
lĩnh

vực
bằng
pháp
luật
+ Nhà nước XHCN: Cũng phải thực hiện 2 chức năng trên tuy nhiên Mac-Lenin
đặc biệt nhấn mạnh chức năng g/c của nhà nước XHCN. Chức năng g/c của nhà
nước XHCN được thực hiện thông qua 2 nội dung sau
* Bạo lực trấn áp đối với mọi hành vi chống phá lại sự nghiệp xây dựng CNXH
* Tổ chức xây dựng XHCN mới : chức năng tổ chức xây dựng của nhà nước


XHCN được hiểu theo nghĩa rộng và đầy đủ gồm tổ chức xây dựng lực lượng, tổ
chức xây dựng kinh tế, VH, XH, trong đó tổ chức xây dựng kinh tế là cơ bản nhất.
Hai nội dung trên có mối quan hệ và bổ sung cho nhau: bạo lực trấn áp tạo ĐK cho
tổ chức xây dựng tốt và ngược lại, tổ chức tốt sẽ giảm tính quyết liệt của bạo lực
trấn áp tuy nhiên tổ chức xây dựng XH mới có quyết định đến thắng lợi cuối cùng
của
CNXH
Nhiệm
vụ
của
nhà
nước
XHCN
+ Quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế, cải thiện khơng ngừng đời sống
vật
chất

tinh
thần

của
nhân
dân
+ Quản lý văn hóa, xây dựng nền văn hóa XHCN, thực hiện giáo dục đào tạo con
người, phát triển hồn thiện chăm sóc sức khỏe của nhân dân
+ Mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau vì sự phát triển
và tiến bộ XH đối với nhân dân các nước trên thế giới.
Câu 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị đối với quá trình phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá; quy định việc sản
xuất và trao đổi hàng hố phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho
mức hao phí lao động cá biệt của mình phự hợp với mức hao phí lao động xã hội
cần thiết để cú thể tồn tại; cũng trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo
nguyên tắc ngang giá- tức là giá cả phải bằng giá trị. Quy luật giá trị buộc những
người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo “mệnh lệnh” của giá cả thị
trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của
quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá và
biểu hiện sự tác động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng
hoá.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với nước ta hiện nay
Mặt tích cực: QLGT buộc các chủ thể phải nhạy bén, năng động,biết được lợi thế
của cá nhân và phát huy có hiệu quả, nắm bắt được nhu cầu của xã hội, chủ động
nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh tế; Cơ cấu của nền kinh tế tự điều chỉnh
phù hợp với cơ cấu tiêu dùng của xã hội dưới tác động của QLGT; QLGT buộc các
chủ thể phải cạnh tranh với nhau làm cho việc sử dụng các nguồn lực của xã hội
hiệu quả hơn,kích thích tiến bộ kỹ thuật và cơng nghệ, thúc đẩy lực lượng SX phát
triển, bình tuyển người SX, chọn ra những cá nhân ưu tú trong SX kinh doanh,
đồng thời buộc những người kém cỏi phải cố gắng nỗ lực, năng động hơn, tích cực
hơn trong SX kinh doanh. Qua đây ta nhận thấy một điều: cần tôn trọng và biết



phát huy vai trò điều tiết của QLGT trong việc phân bổ các nguồn lực cho các
ngành, các lĩnh vực một cách hợp lý , linh hoạt và hiệu quả; Xây dựng các vùng
kinh tế chun mơn hóa, lựa chọn đổi mới công nghệ, định hướng đào tạo nhân lực,
phát triển lực lượng SX, thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền
kinh tế thị trường.
Mặt tiêu cực: QLGT gây ra một số ảnh hưởng mà tự thân nó khơng thể giải
quyết được. Tình trạng khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi
trường, mất cân bằng sinh thái. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, các căn bệnh kinh tế
có cơ hội phát triển; Gây bất bình đẳng xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến tiến bộ xã
hội. Do đó cần coi trọng vai trị của nhà nước đối với việc ngăn ngừa, khắc phục
những tác động tiêu cực, đồng thời tạo điều kiện cho QLGT hoạt động có hiệu quả.

Câu 4. Tai sao nói: Giá tr ị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá
trị thặng dự tương đối?
Giá trị thặng dư được tiếp nhận từ lý luận kinh tế của Mác có thể gói gọn trong
định nghĩa rằng: Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công nhân làm thuê sản
sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt toàn bộ.
Việc sản sinh và chiếm đoạt giá trị thặng dư là sự phản ánh quan hệ sản xuất căn
bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật kinh tế cơ bản
của
chủ
nghĩa

bản.
Trong hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào việc mua sắm sức lao động và tư
liệu sản xuất. Cịn mục đích của nhà tư bản khi chi tiền ra mua sắm các thứ đó
chẳng có gì khác hơn là nhằm thu được một số tiền dơi ra ngồi số tiền mà mình đã
ứng chi trong quá trình sản xuất. Số tiền dơi ra đó chính là giá trị thặng dư.

Các tư liệu sản xuất như nhà xưởng, cơng trình kiến trúc, thiết bị, nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu,... là tư bản bất biến. Nó khơng thay đổi lượng giá trị trong q
trình sản xuất mà chỉ chuyển hóa giá trị của nó sang các sản phẩm mới được sản
xuất ra. Nó không thể là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Cịn sức lao động thì trong
q trình tiêu dùng, tức là trong q trình sử dụng nó vào lao động sản xuất, nó có
khả năng tạo ra giá trị mới mà giá trị mới này lại lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Sức
lao
động


bản
khả
biến.
Nhà tư bản sử dụng tính chất khả biến đó vào mục đích tạo ra cho mình giá trị
thặng dư. Chiếm đoạt toàn bộ giá trị thặng dư này là hành vi được gọi đích danh là
“bóc lột”. Đó là nói chung, cịn cụ thể, trong q trình sản xuất, hành vi “bóc lột”
giá trị thặng dư còn được nhà tư bản thực hiện bằng sự gia tăng giá trị thặng dư
tuyệt đối và sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, tức là kéo dài tuyệt đối thời gian


của ngày lao động, rút ngắn thời gian lao động cần thiết để sản xuất từng sản phẩm
và tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư. Việc tăng giá trị thặng dư còn được
một số nhà tư bản thực hiện bằng cách hạ thấp giá trị của hàng hóa do xí nghiệp
mình sản xuất so với giá trị xã hội của hàng hóa đó. Số giá trị tạo ra bằng cách này
được
gọi

giá
trị

thặng

siêu
ngạch.
giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là một biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Chỗ khác nhau giữa chúng chỉ là một bên thu được do tăng năng suất lao động xã
hội, còn bên kia - bên giá trị thặng dư siêu ngạch - thì được tạo ra nhờ biết áp dụng
kỹ thuật mới, biết áp dụng công nghệ tiến bộ và các phương pháp quản lý hoàn
thiện hơn trong tổ chức sản xuất. Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị
thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều bị
nhà tư bản chiếm đoạt, vì vậy mà ln ln có cuộc đấu tranh của công nhân làm
thuê chống lại sự chiếm đoạt đó: Đấu tranh chống kéo dài thời gian làm việc trong
ngày để chống bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối; đấu tranh chống việc nhà tư bản
rút ngắn thời gian lao động cần thiết và tăng tương ứng lao động thặng dư để chống
bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch. Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư
siêu ngạch về thực chất là sự phản ứng lại đối với những cải tiến trong áp dụng kỹ
thuật mới, phản ứng lại sáng kiến trong ứng dụng công nghệ tiến bộ và việc áp
dụng những phương pháp tổ chức sản xuất hoàn thiện hơn... Thật ra, sự đấu tranh
của giai cấp thợ thuyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa để chống lại sự bóc lột giá trị
thặng dư nói chung, là nhằm vào một chủ điểm: Chống việc nhà tư bản chiếm đoạt
hoàn toàn giá trị thặng dư cụ thể là cả ba thứ giá trị thặng dư vừa nêu trên.
Câu 5. Nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dự?
Để hiểu bản chất và nguồn gốc của giá trị thặng dư, ta hãy xét một ví dụ.
Giả sử để chế tạo ra 1 kg sợi, nhà tư bản phải bỏ ra 28.000 đơn vị tiền tệ bao gồm
20.000 đơn vị tiền tệ mua 1 kg bơng, 3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000
đơn vị mua sức lao động của công nhân điều khiển máy móc trong 1 ngày (10 giờ).
Giả định việc mua này là đúng giá trị. Đồng thời giả định, mỗi giờ lao động, người
công nhân tạo ra 1.000 đơn vị giá trị mới kết tinh vào trong sản phẩm.
Vậy bằng lao động cụ thể, người công nhân đã chuyển giá trị của bơng và hao mịn
máy móc vào trong sợi và bằng lao động trừu tượng của mình, mỗi giờ công nhân

lại tạo thêm một lượng giá trị mới là 1.000 đơn vị.
Nếu chỉ trong vịng 5 giờ, cơng nhân đã kéo xong 1kg sợi thì giá trị 1kg sợi là:
- Giá trị của 1 kg bông = 20.000 đơn vị
- Hao mịn máy móc = 3.000 đơn vị
- Giá trị mới tạo ra (trong 5 giờ lao động, phần này
vừa đủ bù đắp giá trị sức lao động) = 5.000 đơn vị
Vậy tổng cộng giá trị của 1 kg sợi là 28.000 đơn vị.
Tuy nhiên, do nhà tư bản đã thuê người công nhân trong 10 giờ nên trong 5 giờ lao
động tiếp theo, nhà tư bản không phải bỏ ra 5.000 đơn vị mua sức lao động nữa mà


chỉ cần bỏ ra 20.000 đơn vị tiền tệ để mua thêm 1kg bơng, 3.000 đơn vị cho hao
mịn máy móc, tức là với 23.000 đơn vị tiền tệ, nhà tư bản có thêm được 1kg sợi.
Như vậy. trong một ngày lao động, nhà tư bản bỏ ra 51.000 đơn vị tiền tệ để thu
được 2 kg sợi. Trong khi đó, giá trị của 2 kg sợi là: 28.000 . 2 = 56.000 đơn vị tiền
tệ. Do đó, nhà tư bản thu được 1 phần giá trị dôi ra, tức là giá trị thặng dư, bằng
5.000 đơn vị tiền tệ.
Từ ví dụ trên, ta thấy giá trị thặng dư chính là phần giá trị mới do lao động của
công nhân tạo ra ngoài sức lao động, là kết quả lao động không công của công nhân
cho nhà tư bản. Chú ý rằng, phần lao đơng khơng cơng đó trở thành giá trị thặng dư
vì nó thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không phải là của người lao đông. Sở dĩ nhà
tư bản chi phối được số lao động khơng cơng ấy là vì nhà tư bản là người sở hữu tư
liệu sản xuất.
Bản chất:
Với lịng tham khơng đáy, nhà tư bản mọi cách kéo dài ngày lao động để nâng cao
trình độ bóc lột. Nhưng do giới hạn về ngày tự nhiên, về sức lực con người nên
không thể kéo dài vơ hạn. Mặt khác, cịn do đấu tranh quyết liệt những giai cấp
cơng nhân địi rút ngắn thời gian lao động cũng không thể rút ngắn chỉ bằng thời
gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
tăng cường lao động vì tăng cường lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao

động trong ngày trong khi thời gian lao động càn thiết không thay đổi.
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm bớt giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch
vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy, phải tăng năng suất lao động xã hội
trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để
sản xuất ra các tuw liệu sản xuất tiêu dùng.
Giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối có điểm giống nhau đều làm tăng thời gian lao động thặng dư của
người công nhân không chỉ đủ ni sơng mình, mà cịn tạo ra phần thặng dư. Song,
hai phương pháp này có sự khác nhau về cách thức làm tăng thời gian lao động
thặng dư.



×