Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tìm hiểu về Đế quốc Ottoman

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.3 KB, 22 trang )

Đế quốc Ottoman

Devlet-i Âliye-yi Osmâniyye

‫ﺖ‬

‫ﮫ دوﻟ‬

‫ﮫ ﻋﻠﯿ‬

‫ﻋﺜﻤﺎﻧﯿ‬

Nhà nước Ottoman Tối cao

← 30px

Cờ

Khẩu hiệu
‫ﻣﺪت اﺑ ﺪ دوﻟ ﺖ‬
Devlet-i Ebed-müddet
(Đất nước vĩnh cửu)

Quốc ca
Đế quốc ca Ottoman


Lãnh thổ của Đế quốc Ottoman năm 1683 (See: list of territories)

Thủ đơ


Chính thể

Sultan

- 1281-1326

- 1918-22 (cuối cùng)


Đại Vizia

- 1302-31 (đầu tiên)

- 1920-22 (cuối cùng)

Lịch sử

- Được kiến lập

- Đứt quãng

- 1. Constitutional

- 2. Constitutional

- Sultan Mehmed VI thối vị

- Hiệp định Lausanne

Diện tích



- 1680

Dân số

- 1856 ước tính

- 1906 ước tính

- 1914 ước tính

- 1919 ước tính

Tiền tệ

Biên niên sử Đế quốc Ottoman

Đế quốc Ottoman hay Đế quốc Osman (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: ِ‫ﻋُﺜﻤﺎﻧﯿﮫ ﻋَﻠﯿﮫ دوﻟﺖ‬
Devlet-i Âliye-i Osmâniyye, dịch nghĩa "Nhà nước Ottoman Tối cao"; tiếng Thổ
Nhĩ Kỳ hiện đại: Osmanlı İmparatorluğu), cũng thỉnh thoảng được gọi là Đế quốc
Thổ Nhĩ Kỳ, là một quốc hiệu Thổ Nhĩ Kỳ đã tồn tại từ năm 1299 đến 1923. Thời
đỉnh cao quyền lực ở thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, các lãnh thổ của Đế quốc
Ottoman gồm các vùng Tiểu Á, Trung Đông, nhiều phần ở Bắc Phi, và đa phần
đông nam châu Âu đến tận Kavkaz. Đế quốc Ottoman chiếm một vùng có diện
tích khoảng 5,6 triệu km²,[1] dù vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc rộng hơn
nhiều, nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc du mục cai quản, nơi quyền bá


chủ của đế quốc này được công nhận. Đế quốc Ottoman tương tác với cả văn hóa

phương Đơng và phương Tây trong suốt lịch sử 624 năm của nó.

Mục lục


1 Lịch sử qua các thời kì
o

1.1 Nguồn gốc

o

1.2 Khởi đầu (1299-1326)

o

1.3 Lớn mạnh (1453-1683)


1.3.1 Các cuộc mở mang và cực điểm (1453-1566)



1.3.2 Dấu hiệu suy yếu và sự hồi phục (1566-1683)

o

1.4 Trì trệ và cải tổ (1699-1827)

o


1.5 Suy vong và hiện đại hóa (1828-1908)

o

1.6 Tan rã (1908-1923)



2 Q trình các lãnh thổ thuộc đế quốc Ottoman



3 Xã hội chính trị



4 Xem thêm



5 Chú thích



6 Tham khảo


[ ] Lịch sử qua các thời kì
[ ] Nguồn gốc

Các tổ tiên của vương triều Ottoman là một phần của các bộ lạc người Tây Đột
Quyết (Gokturk) miền tây đã di cư từ Trung Á bắt đầu từ thế kỷ 10. Định cư tại Ba
Tư trong thời kỳ này, những người Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu mở rộng về phía tây tới
Armenia và Tiểu Á vào đầu thế kỷ 11. Những đợt di chuyển này đã dẫn đến mâu
thuẫn giữa họ với Đế quốc Byzantine, từng là một quyền lực chính trị nổi trội tại
khu vực miền đơng Địa Trung Hải kể từ thời kỳ La Mã, nhưng vào thế kỷ 11 bắt
đầu một thời kỳ suy thoái dài. Người Thổ Seljuk đã thiết lập địa vị chắc chắn tại
Tiểu Á sau chiến thắng lịch sử tại trận Manzikert năm 1071, để thành lập nhà
Seljuk ở Tiểu Á. Tiếp theo sự xâm lăng của người Mông Cổ tới Tiểu Á trong thế
kỷ XIII, triều đại này đã sụp đổ và lãnh thổ của nó đã bị phân chia thành nhiều
vương quốc của người Thổ Nhĩ Kỳ, tức các beylik.
Dưới quyền bá chủ của nhà Seljuk ở Tiểu Á, bộ lạc Kayı của người Thổ Oğuz đã
tạo ra một thể chế mà cuối cùng đã trở thành vương quốc Ottoman tại miền tây
Tiểu Á. Thủ lĩnh người Kayı là Ertuğrul Gazi đã nhận được vùng đất này sau lưng
Seljuk trong cuộc va chạm biên giới nhỏ. Hệ thống Seljuk tạo cơ hội cho sự bảo vệ
vương quốc từ bên ngoài, và cũng cho phép nó phát triển cấu trúc nội tại của nó.
Vị trí của Kayı trên ven rìa phía viễn tây của nhà nước Seljuk cho phép họ xây
dựng lực lượng qn sự của mình thơng qua sự hợp tác với các dân tộc khác sống
tại miền tây Tiểu Á, nhiều trong số đó là những người theo Ki-tơ giáo. Sau sự tan
rã của nhà Seljuk, Kayı trở thành chư hầu của Hãn quốc Y Nhi của Mông Cổ.
[ ] Khởi đầu (1299-1326)
Bài chi tiết: Thời khởi đầu của Đế quốc Ottoman


Tên gọi Ottoman có nguồn gốc từ Osman I (cịn gọi là Osman Bey) (tiếng Ả Rập:
Uthman) [2] (1299-1326), con trai của Ertuğrul Gazi, người đã tuyên bố sự độc lập
của nhà nước Ottoman năm 1299. Trong khi các vương quốc khác của người Thổ
Nhĩ Kỳ còn phải bận tâm với các mâu thuẫn nội bộ, Osman đã có thể mở rộng
biên giới của khu định cư Ottoman về phía rìa của Đế quốc Byzantine. Ơng đã dời
đơ tới Bursa, và định hình sự phát triển chính trị ban đầu của dân tộc. Người ta gọi

ông với tên hiệu "Kara" vì sự can đảm của ơng, Osman đã được ca ngợi là một ông
vua hùng mạnh và năng động một thời gian rất dài sau khi ông mất, như được thể
hiện trong thành ngữ của người Thổ Nhĩ Kỳ "Ông/anh ta có thể tuyệt vời như
Osman". Danh tiếng của ơng cũng được đánh bóng trong câu chuyện thời Trung
đại của người Thổ Nhĩ Kỳ, được biết dưới tên gọi "Giấc mơ của Osman", một sự
thành lập huyền thoại trong đó chàng trai trẻ Osman là người có đầy năng lực để
chinh phục một đế quốc nhìn thấy trước.
Thời kỳ này là sự hình thành của triều đình Ottoman chính thức mà các cơ quan,
tổ chức cấu thành ra nó gần như khơng thay đổi lớn gì trong gần 4 thế kỷ. Ngược
lại với nhiều nhà nước cùng thời kỳ đó, hệ thống quan lại của Đế quốc Ottoman đã
cố gắng tránh sự cai trị theo kiểu quân sự. Triều đình cũng tạo ra một thể chế pháp
lý gọi là millet (kiểu lãnh thổ tự trị), mà trong đó thiểu số từ các dân tộc ít người
và tơn giáo có khả năng quản lý cơng việc của chính họ với một sự độc lập đáng
kể từ sự kiểm soát của trung ương.
Trong thế kỷ sau khi Osman qua đời, sự thống trị của Ottoman đã bắt đầu mở rộng
trên toàn khu vực miền đông Địa Trung Hải và Balkan. Thessaloniki, một thành
phố quan trọng của Venezia bị chiếm năm 1387, và chiến thắng của quân Thổ Nhĩ
Kỳ tại trận Kosovo năm 1389 làm cho Serbia mất quyền kiểm soát trên vùng đất
này, mở đường cho các cuộc xâm lược châu Âu của sultan. Trận Nicopolis năm
1396 được xem là cuộc Thập tự chinh cuối cùng của thời Trung cổ, trong trận này
quân Thập tự chinh đại bại trước quân Ottoman. Với sự mở rộng ảnh hưởng của


người Thổ vào vùng Balkan, thì cuộc chinh phục chiến lược vào Constantinople
đã trở thành mục tiêu quyết định. Đế quốc đã chiếm được các vùng đất Byzantine
phụ cận Constantinople, nhưng người La Mã vẫn đứng vững được khi Tamerlane
xâm lược Tiểu Á, và bỏ tù sultan Bayezid I sau trận Ankara năm 1402. Các lãnh
thổ Ottoman ở vùng Balkan (điển hình như Thessaloniki, Macedonia và Kosovo)
đều bị mất năm 1402, nhưng các vùng đất này được Murad I chiếm lại trong thập
niên 1430 - 1450.

Việc Bayezid bị bắt làm cho đất nước bị loạn lạc. Từ năm 1402 đến 1413, nội
chiến bùng nổ giữa các con của Bayezit. Cuộc chiến này kết thúc khi vua Mehmed
I lên ngôi và xây dựng lại đất nước, kết thúc Thời kì đứt quãng của Đế quốc
Ottoman. Cháu nội ông, Mehmed II đã tái cấu trúc của cả nhà nước lẫn quân đội,
và đã thể hiện các kỹ năng quân sự của mình trong cuộc chiếm đóng
Constantinople vào ngày 29 tháng 5 năm 1453, khi mới 21 tuổi. Thành phố này trở
thành kinh đô mới của Đế quốc Ottoman, và Mehmed II xưng làm Kayser-i Rum
(Hồng đế La Mã). Dù vậy, ngơi Hồng đế La Mã của sultan Ottoman không được
người Hy Lạp và các nước phương Tây công nhận, và các Nga hồng cũng tự
phong cho mình chức vị này. Để nắm vững ngơi Hồng đế La Mã, Mehmed II
khao khát chiếm Roma, và cho quân xâm lược bán đảo Ý, chiếm Otranto và
Apulia ngày 28 tháng 7, 1480. Nhưng sau khi ông bị ám sát ngày 5 tháng 3, 1481,
chiến dịch ở Ý thất bại và quân Ottoman rút lui về.
[ ] Lớn mạnh (1453-1683)
Bài chi tiết: Thời lớn mạnh của Đế quốc Ottoman
[ ] Các cuộc mở mang và cực điểm (1453-1566)


Mehmed II và đội quân chiến thắng tại Constantinople, họa phẩm của Musée des
Augustins Toulouse

Lãnh thổ của Đế quốc Ottoman từ lúc khởi lập đến năm 1683.
Vào thời lớn mạnh, Đế quốc Ottoman đã trải dài tồn bộ đơng-nam châu Âu bờ
bắc Địa Trung Hải, cả bờ biển bắc châu Phi cho đến Maroc phía nam Địa Trung
Hải. Trong thế kỷ XVII, Đế quốc Ottoman có khoảng 25 triệu dân – một con số


khổng lồ vào thời đó, gần bằng gấp đơi bất cứ nước nào ở châu Âu ngoại trừ Pháp.
Gần 30 quốc gia hiện nay đã được thành lập từ lãnh thổ cũ của Đế quốc Ottoman :
Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Bulgaria, Romania, Nam Tư (sau này phân làm 5 nước độc

lập), Hungary, Albania, Syria, Liban, Jordan, Israel, Aden, Kuwait, Ai Cập, Sudan,
Libya, Iraq, Yemen, Tunisia, Algérie, Síp, Armenia, Gruzia, Ukraina và một phần
nước Nga.
Vào đầu thế kỷ XVI, Đế quốc Ottoman trở thành một trong những nhà nước lớn
nhất thế giới thời bấy giờ. Trong thời kì này, nhiều ông vua kiệt xuất lên cai trị
Thổ Nhĩ Kỳ: điển hình như Selim I (1512-1520), người có cơng sát nhập vùng
Trung Đông vào Ottoman. Vào năm 1514 trong trận Chaldiran, ông đã đánh bại
vua Ismail I (1501-1524) nhà Safavid. Ông đã tiêu diệt nhà Mamluk ở Ai Cập vào
năm 1517 rồi dành danh hiệu khalip từ nhà Abbasid ở Cairo (các sultan Ottoman
tiếp tục giữ danh hiệu này đến năm 1924), bắt đầu thời kì Ai Cập thuộc Ottoman.

Trận Mohács (1526) là cuộc xâm lược Hungary của Ottoman
Sau khi Hoàng đế Selim I mất, Hoàng đế Suleiman I (1520-1566) tiếp tục mở
mang đế quốc. Sau khi thơn tính được Beograd năm 1521, Suleyman chinh phục
Vương quốc Hungary và sau chiến thắng trong trận Mohács năm 1526, đế quốc
Osmanli chiếm được Hungary và nhiều vùng đất ở Trung Âu. Sau đó, năm 1529
ơng bao vây thành Wien, nhưng vì thời tiết ở đây khắc nghiệt nên quân đội ông rút
lui.[3] Năm 1532, 25.000 quân Ottoman mở cuộc tấn công Wien, nhưng bị đẩy lui


cách Wien 97 km tại pháo đài Guns. Sau cuộc mở mang xa nhất của Ottoman năm
1543, hoàng đế Habsburg là Ferdinand công nhận quyền cai trị của Ottoman trên
đất Hungary năm 1547. Dưới triều vua Suleyman I, Transylvania, Wallachia và
Moldavia trở thành những công quốc chư hầu của đế quốc. Ở phía đơng, Ottoman
chiếm Bagdad từ tay Ba Tư năm 1535, chiếm được Lưỡng Hà và Hải quân
Ottoman tiến vào Vịnh Ba Tư. Khi Hoàng đế Suleyman I qua đời, dân số Ottoman
lên đến 15.000.000 người.[4] Công cuộc bành trướng của ông đã mang lại cho ông
một Đế quốc Ottoman vơ cùng rộng lớn, và thậm chí ơng cịn vượt xa cả những
tham vọng của Hoàng đế Xerxes I của Đế quốc Ba Tư năm xưa. [5]
Quân đội Ottoman đã để lại những nhà nguyện Hồi giáo rải rác khắp các sườn đồi

và thung lũng vùng Balkan. Nổi giận vì những biểu hiện cho việc chiếm đóng của
người đạo Hồi này, các vương quốc theo đạo Cơ đốc ở Tây Âu xem người Thổ
Nhĩ Kỳ là kẻ xâm lược Hy Lạp và các sắc dân theo Cơ đốc giáo khác. Nhưng đế
quốc Ottoman rộng lượng hơn, chấp nhận tôn giáo khác với đạo Hồi. Sultan chính
thức cơng nhận Giáo hội Hy Lạp và giáo khu của giáo chủ và các tổng giám mục,
cho phép các giáo đường Chính thống giáo được duy trì tài sản của họ. Người Thổ
Nhĩ Kỳ thích cai trị qua định chế chính trị địa phương, và để đổi lại cho tiền triều
cống, các tỉnh Cơ đốc giáo được phép duy trì các hệ thống hành chính, thứ bậc và
giai cấp.
[ ] Dấu hiệu suy yếu và sự hồi phục (1566-1683)
Năm 1571, Chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ-Venezia (1571-1573) nổ ra, quân Ottoman
xâm chiếm đảo Síp. Hạm đội Liên minh Thần thánh (bao gồm Venezia, Tây Ban
Nha, Savoie,...) đã đập tan Hạm đội Ottoman tại Lepanto. Nhưng, năm 1573 Hải
quân Ottoman được khôi phục lại, kết quả là Venezia phải kí hịa ước và nhượng
Síp cho Đế quốc Ottoman.[6]


Đế quốc Ottoman bấy giờ bao lần tung quân đi xâm lược Ba Tư. Người Ba Tư
thuộc hệ phái Shia và tin mình là con cháu của Imam Ali bin Abu Talib, trong khi
người Ottoman thuộc hệ phái Sunni. Đầu thế kỷ 17, quân Ba Tư tấn công lãnh thổ
Đế quốc Ottoman ở Lưỡng Hà

Hạm đội Ottoman do Barbarossa Hayreddin Pasha chỉ huy đánh thắng hạm đội
Liên minh Thần thánh ở Âu Châu do Andrea Doria chỉ huy tại Trận Preveza năm
1538.
Trong thế kỷ 16 và 17, Đế quốc Ottoman là một trong những thực thể chính trị
mạnh nhất thế giới, các nước mạnh ở Đông Âu luôn bị đe dọa bởi sự mở rộng
thường xuyên của nó qua Balkan và phần phía nam của Liên bang Ba Lan-Litva.
Hải quân của nó cũng là một lực lượng rất mạnh ở Địa Trung Hải. Nhiều lần, quân
đội Ottoman đã tấn công Trung Âu, bao vây Wien năm 1529 và một lần nữa năm

1683 trong nỗ lực chinh phục lãnh địa của gia tộc Habsburg, và cuối cùng chỉ bị
đẩy lui bởi một liên minh to lớn của các nước mạnh tại châu Âu trên cả trên bộ và
trên biển. Nó là quyền lực duy nhất không thuộc châu Âu đã thách thức được sự
nổi lên về quyền lực của phương Tây trong khoảng giữa thế kỷ 15 và thế kỷ 20, tới
mức nó đã trở thành một phần trong tổng thể của chính trị cân bằng quyền lực
châu Âu, vì thế làm giảm bớt sự khác biệt giữa hai bên.


Hạm đội Liên minh Thần thánh do Don Juan nước Áo chỉ huy đánh tan hạm đội
Ottoman do Muezzinzade Ali Pasha chỉ huy trong trận Lepanto năm 1571.
Đầu thế kỷ 17, Đế quốc Ottoman bắt đầu suy yếu. Các sultan vào lúc này thường
chỉ vui hưởng trong hậu cung, ngoài ra, binh đoàn Janissary thường hay nổi dậy.
Bên ngoài, quyền lực của đế quốc Ottoman bị suy giảm trầm trọng đến nỗi tàu
thuyền của người Venezia và người Cozak thường xuyên quấy phá. Đế quốc được
cứu nguy do tài năng của một đại gia đình làm quan Tể tướng gồm cha, con trai và
em rể - đó là gia đìng Köprülü.
Năm 1656, dưới triều Mehmed IV (1648-1687), trong khi đế quốc gần bị sụp
đổ,[cần dẫn nguồn] hậu cung đành phải cử một người Albania 71 tuổi, Köprülü
Mehmed Pasha làm tể tướng (1656-1661). Ông này ra lệnh xử tử 50.000-60.000
người để bài trừ tham nhũng. Năm năm sau, lúc ông qua đời, tình hình có phần ổn
định. Dưới quyền Tể tướng của con trai ơng, Kưprülü Fazıl Ahmed Pasha (16611676), và sau đó em rể ơng, Kara Mustafa Pasha (1676-1683), uy quyền của
Ottoman được hồi phục. Các hạm đội và quân của Venezia, Ba Lan, Áo và Nga bị
đẩy lui. Quân đội Ottoman xâm chiếm Ukraina và Podolia. Năm 1680, đế quốc
Ottoman đã đạt tới lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử đế quốc (11.5 triệu km²).


Cuộc bao vây Wien lần hai, năm 1683.
Năm 1683, đáp lời kêu gọi của Hungary chống lại hoàng đế Leopold I nhà
Habsburg, sultan Mehmed IV đã ra lệnh cho tể tướng Kara Mustafa phái 200.000
qn ngược dịng sơng sơng Donau, và lần thứ hai trong lịch sử, quân Ottoman

tiến đến chân tường thành của Wien, nhưng cuối cùng bị liên minh các nước Tây
Âu (Liên minh Thần thánh), do vua Ba Lan Jan III Sobieski chỉ huy, đánh bại.
Năm 1683, tại Beograd, sultan Mehmed IV ra lệnh thắt cổ tể tướng Kara Mustafa.
Trận Wien đánh dấu sự bắt đầu của cuộc Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ (1683-1699) ở
châu Âu.
Trong những năm tiếp theo, quân Ottoman bị đại bại do sức tiến công từ Wien.
Quân Venezia công hãm Athena, nhưng không may là trong đợt pháo kích của họ,
một quả đạn rơi trúng ngôi đền Parthenon được xây vào thế kỷ 5 TCN, lúc ấy
được quân Ottoman dùng làm kho chứa thuốc súng. Ngày 26 tháng 9 năm 1687,
ngôi đền lúc ấy còn khá nguyên vẹn bị nổ tung, để lại tình trạng cho đến bây giờ.
Cuộc đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc với Hiệp ước Karlowitz ngày 26 tháng 1 năm
1699, và theo hiệp ước này, Đế quốc Ottoman phải nhượng cho Đế quốc Áo một
số vùng lãnh thổ như Hungary thuộc Ottoman. [7]
Trong thời kì này, chỉ có hai vị sultan cai trị rất năng nổ, đó là: Murad IV (16121640) chiếm lại Yerevan (1635) và Bagdad (1639) từ tay Ba Tư và cai trị một cách
độc đoán.[8] Mustafa II (1695-1703) mở cuộc tấn công nhà Habsburg ở Hungary
trong các năm 1695-96, nhưng phải rút về sau khi thảm bại tại Zenta (11 tháng 9,
1697).[9]
[ ] Trì trệ và cải tổ (1699-1827)


Bài chi tiết: Thời trì trệ của Đế quốc Ottoman
Trong những năm tháng trì trệ, nhiều vùng đất ở Balkan bị nhượng lại cho nước
Áo. Những vùng đất khác của Đế quốc Ottoman, như Ai Cập và Algérie, trở nên
độc lập trên thực tế, và sau đó hứng chịu ảnh hưởng do các đế quốc thực dân như
Anh và Pháp truyền bá. Vào thế kỷ 18, chính quyền trung ương đã ban cho các
lãnh đạo và thủ lĩnh địa phương nhiều mức tự quyết hơn. Một loạt các cuộc chiến
đã diễn ra giữa đế quốc Nga và đế quốc Ottoman từ thế kỉ từ 17 đến thế kỉ thứ 19.
Vào giai đoạn cuối của thời kỳ trì trệ, xuất hiện những cải tổ về nền giáo dục và
công nghệ, bao gồm sự thiết lập những trường học lớn như Đại học công nghệ
Istanbul; khoa học công nghệ được ghi nhận là đạt đỉnh cao ở thời Trung Cổ, đó là

kết quả của việc các học giả Ottoman kết hợp cách học cổ điển với Triết học Hồi
giáo và toán học cũng như các kiến thức tiên tiến về công nghệ của Trung Hoa
như thuốc súng và la bàn. Tuy nhiên, cũng chính trong giai đoạn này, các thế lực
bảo thủ và phản đối cơng nghệ xuất hiện. Hội đồn các nhà văn của đế chế cho
rằng kỹ thuật in ấn là "sáng tạo của quỷ dữ" khiến công nghệ in, được Gutenberg
Johannes phát minh ở châu Âu năm 1450, phải mất 43 năm sau mới được giới
thiệu tại Constantinople nhờ vào những người Do thái Sephardic. Những người Do
Thái Sephardic, vốn sống ở Tây Ban Nha, di cư tới đế quốc Ottoman để trốn chạy
cuộc thanh giáo tại Tây Ban Nha vào năm 1492 và mang theo kỹ nghệ in tới
Ottoman.


Vương công Eugène xứ Savoie đã đánh tan tác quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Beograd,
buộc Sultan phải giảng hòa.
Thời đại Tulip, được đặt tên vì tình yêu của Sultan Ahmed III (1703-1730) với hoa
tulip và được dùng như biểu tượng của triều đại thanh bình của ơng. Trong giai
đọan này, chính sách của đế chế với châu Âu có sự thay đổi. au khi quân Nga đánh
thắng quân Thụy Điển trong trận Poltava vào năm 1709, vua Thụy Điển là Karl
XII có lúc đã trốn sang xin người Thổ Nhĩ Kỳ cho tị nạn[10]. Đất nước thanh bình
từ năm 1718 đến 1730, sau khi Quân đội Thổ Ottoman đập tan tác quân Nga trong
trận đánh tại sông Pruth năm 1712, Vương công Eugène xứ Savoie kéo quân Áo
đánh chiếm thành phố Beograd,[11] và Hiệp định Passarowits được ký kết sau đó
mang đến một giai đoạn đình chiến. Sau đó, Đế quốc cũng cải thiện hệ thống
thành lũy ở các thành phố tiếp giáp các nước Balkan, để bảo vệ đất nước chống lại
chủ nghĩa bành trướng của Châu Âu. Một số cải cách khơng dứt khốt cũng được
tiến hành: hạ thuế; cải thiện hình ảnh của các bang Ottoman; hình thái đầu tiên của
đầu tư tư nhân và doanh nghiệp tư nhân xuất hiện.
Vào năm 1736, Đế quốc Ottoman lại phải lâm chiến với Áo, và nước Áo thất
bại.[12] Lúc này danh tướng Eugène xứ Savoie đã qua đời, do đó tinh thần quân Áo
suy sụp, tổ chức kém cỏi, do đó đại bại, và đồng minh của họ là Nga đạt lợi thế



hơn trong cuộc chiến tranh này.[13] Sau này, cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 1763) bùng nổ ở châu Âu.[14] Vua nước Phổ là Fryedrich II Đại Đế phải chống
chọi với liên quân Nga - Áo - Pháp - Thụy Điển. Nền quân chủ Phổ bị suy sụy
nghiêm trọng, nhiều lãnh thổ của nước này bị rơi vào tay địch quân. Vua Friedrich
II Đại Đế trong vòng nhiều năm đã đàm phán với Đế quốc Ottoman và người
Tartar, nhưng rồi ông chẳng thấy quân Thổ - Tartar đâu. Tuyệt vọng, nhà vua
quyết định chờ quân Thổ - Tartar kéo đến vào tháng 2 năm 1762, nếu không ông
sẽ nhận lấy cái chết anh dũng của Cato Trẻ.[15] Nhưng rồi liên quân chống Phổ đã
tan rã và vua Friedrich II Đại Đế giành thắng lợi.[16] Sau năm 1768, khi tình hình
Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva bất ổn, người Thổ Nhĩ Kỳ cũng can
thiệp vào. Nhưng rồi ba nước Vương quốc Phổ, Áo và Nga đã tiến hành cuộc chia
cắt Ba Lan lần thứ nhất vào nắm 1772. [17]
Công cuộc cải tổ quân sự Ottoman được bắt đầu với Sultan Selim III (1789-1807),
vị vua tiến hành những nỗ lực lớn đầu tiên để hiện đại hóa quân đội gần biên giới
Châu Âu. Những nỗ lực này, tuy vậy, đã bị cản trở bởi phong trào phản kháng bắt
nguồn một phần từ các lãnh đạo tôn giáo và chủ yếu từ toán Ngự Lâm quân
Janissary - toán kiêu binh này trở nên rất uy quyền và chẳng biết sợ vua. Với tư
tưởng bảo thủ và lo sợ mất đại quyền, họ tiến hành cuộc bạo loạn Janissary. Do
tiến hành một loạt cải cách, Sultan Selim III bị lật đổ, Hoàng tử cổ hủ Mustafa lên
làm vua - tức Sultan Mustafa IV, và sát hại phần lớn các công thần phò vua Selim
III năm xưa. Dưới triều vua Mustafa IV, Quân đội Ottoman liên tục bị quân Nga
đánh bại. Vào năm 1808, hai bên ngừng bắn, một cuộc binh biến nổ ra. Alemdar
Mustafa Pasha - một công thần của cựu hoàng Selim III, kéo quân vào kinh thành
Constantinopolis đánh Sultan Mustafa VI. Nhà vua bèn truyền lệnh cho hành
quyết cựu hồng Selim III và hồng đệ Mahmud, nhưng khơng may Mahmud trốn
thốt. Ơng lên làm Sultan Mahmud II (1808 - 1839) và giết chết cựu hồng
Mustafa IV.[18] Ơng tiến hành thảm sát đẫm máu toán Ngự Lâm Quân Janissary,
rồi giải tán ln tốn Ngự Lâm Qn này v năm 1826.



[ ] Suy vong và hiện đại hóa (1828-1908)
Bài chi tiết: Thời suy vong của Đế quốc Ottoman
[ ] Tan rã (1908-1923)
Bài chi tiết: Thời tan rã của Đế quốc Ottoman
Xem thêm: Chiến tranh Balkan và Thế chiến I
Đầu thế kỷ 20, một nhóm người cải cách địi hỏi phải đổi mới và hiện đại hóa
nước Thổ, gọi là Những người Thổ trẻ. Năm 1909, họ lật đổ sultan Abdul Hamid
II, nhưng họ đã làm cho Đế quốc Ottoman tan rã vì tập trung quyền lực Thổ Nhĩ
Kỳ bất chấp sự phiền muộn của các dân tộc thuộc Ottoman ở Syria, Ả Rập,
Albania, Bosnia và Herzegovina, Crete, Macedonia và Tripoli.
Với sự bùng nổ của Đệ nhất thế chiến năm 1914, Đế quốc vẫn cịn kiểm sốt phần
lớn vùng Trung Đơng, và về phe Liên minh trung tâm (Đế chế Đức, Đế quốc ÁoHung,...), phe này thua trận. Các dân tộc vùng Trung Đông nổi dậy, và theo phe
Entente (Nga, Anh, Pháp, Hoa Kỳ...) để giành độc lập.


Mustafa Kemal (Atatürk) trong chiến hào tại trận Gallipoli (1915)
Sự tan rã của đế quốc Ottoman là hậu quả trực tiếp của Đệ nhất thế chiến, khi phe
Entente đánh bại phe Liên minh Trung tâm ở châu Âu cũng như các lực lượng
Ottoman tại Mặt trận Trung Đông. Ở thời điểm kết thúc chiến tranh từ năm 1918,
chính quyền nhà nước Ottoman sụp đổ và đế quốc bị Anh, Hy Lạp, Pháp Ý,
Armenia và Gruzia chinh phạt và phân chia. Những năm sau đó các nước mới độc
lập từ Ottoman tuyên bố thành lập và năm 1919, Mustafa Kemal Atatürk và lực
lượng Cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu cuộc chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ.
Năm 1923, lực lượng cách mạng Thổ thắng trận và Thổ Nhĩ Kỳ được độc lập.
Cùng năm đó, đế quốc Ottoman cáo chung, sultan Mehmed VI Vahdettin thoái vị,
và Mustafa Kemal Atatürk thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, dựa trên một
phần lãnh thổ của đế quốc Ottoman.

Năm 1922, Sultan Mehmed VI thối vị

Các thành viên của gia đình Osmanlı cai trị sau đó đã bị trục xuất khỏi Thổ Nhĩ
Kỳ vào khoảng năm 1923-1924. Năm 1924, chế độ khalip bị bãi bỏ, khalip Abdul
Mejid II nhà Ottoman cũng thoái vị. Năm 1974, sau 50 năm, Nghị viện Thổ Nhĩ
Kỳ đã trao quyền tái yêu cầu quyền công dân Thổ Nhĩ Kỳ cho những con cháu của
dòng họ này, và họ đều đã thực hiện điều đó trong những thập kỷ tiếp sau trong


một q trình đã hồn thành với việc người đứng đầu dịng họ Ertuğrul Osman V
đã được trao quyền cơng dân năm 2004.
[ ] Quá trình các lãnh thổ thuộc đế quốc Ottoman

[ ] Xã hội chính trị
Dân cư sinh sống trên lãnh thổ Ottoman chủ yếu theo đạo Hồi, và sắc tộc chính là
người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, kế tiếp là người Ả Rập, người Kurd, người Tatar
Krym, người Bosnia, người Albania v.v. Các sultan Đế quốc Ottoman cũng trị vì
hàng triệu dân theo Cơ đốc giáo: người Hy Lạp, người Serb, người Hungari, người
Bulgar...
Vì thế mà sợi dây chính trị nối kết các sắc tộc và tơn giáo khác nhau cần thiết phải
linh động và lỏng lẻo. Sultan trị vì từ thủ đơ Constantinople (nay là Thành phố


Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng bộ máy hành chính địa phương nằm trong tay các
tiểu vương, hoàng thân, hãn vương,..., có địa phương được tự trị mọi việc ngoại
trừ cái tên. Các hoàng thân Cơ đốc giáo vùng Balkan được sultan chọn, nhưng một
khi đã lên nắm quyền, lòng trung thành của họ chỉ thể hiện qua việc nộp triều cống
cho các sultan. Mỗi năm, từng đồn xe gng tải đến Constantinople vàng và
những loại tiền thuế. Hãn vương người Tatar của Hãn quốc Krym cai trị từ thủ phủ
Bakhchisarai như là vị lãnh chúa độc tơn, chỉ có nhiệm vụ cung ứng 20.00030.000 kỵ binh mỗi khi các triều đình Ottoman có chiến tranh. Về phía tây cách
gần 2.000 kílơmét, các vùng Tripoli, Tunis và Algérie chỉ thực hành nghĩa vụ
chiến tranh bằng cách điều tàu chiến (bình thường làm giàu nhờ nghề hải tặc cướp

bóc tất cả các nước) đi đánh các cường quốc Hải quân theo Cơ đốc giáo như
Venezia và Genova.

Các sứ thần nước ngoài trong điện Topkapi
Xuyên suốt lịch sử của họ, đế quốc Ottoman ln ln ở trong tình trạng chiến
tranh. Khi vị sultan có tính khí mạnh mẽ và thơng minh, đế quốc cường thịnh lên.
Trong khi ơng yếu đuối, thì đế quốc bị suy yếu. Điều dễ nhận thấy là cuộc đời
trong cấm thành, chung quanh là phụ nữ đầy sinh lực nồng nàn và thái giám đầy
mưu đồ, dễ làm cho một vị quân vương bị suy nhược. Một tình huống thứ hai
trong lịch sử của đế quốc cũng khiến cho sultan trở thành con người kém cỏi. Điều


oái oăm là việc này bắt đầu bằng hành động nhân từ. Cho đến thế kỷ 15, truyền
thống ở Ottoman là một hồng thái tử khi lên ngơi kế vị sẽ ra lệnh thắt cổ tất cả
anh em trai còn lại, để triệt hạ mọi âm mưu sốn ngơi, đó là theo lệnh của sultan
Mehmed II - người khi lên ngôi năm 1451 đã giết một đứa em khác mẹ cịn nằm
trong nơi. Năm 1595, sultan Mehmed III (1595-1603) khi mới lên ngôi đã ra lệnh
thắt cổ tất cả 19 em trai và, để tận diệt mọi mầm mống phản loạn, hạ sát luôn bảy
vương phi của vua cha lúc đó đang mang thai. Tuy nhiên, đến năm 1603, ấu chúa
Ahmed I (1603-1617) mới lên ngôi đã chấm dứt truyền thống khủng khiếp này khi
không muốn giết người em nào. Thay vào đó, ơng cách ly họ trong một khu riêng
biệt, nơi họ khơng liên lạc được gì với thế giới bên ngồi. Một người em của
Ahmed chính là sultan Mustafa I (1617-1618, 1622-1623) trong tương lai, Mustafa
được xem là bị mất trí.
Từ lúc này trở đi, mọi hồng tử Ottoman đều sống mỏi mòn trong khu biệt lập,
bên cạnh chỉ có thái giám và cung phi đã quá tuổi sinh nở để ngăn ngừa họ có hậu
duệ hịng làm phản. Nếu có một bé trai ra đời do sơ suất, đứa bé này không được
phép làm rối loạn thứ tự truyền ngơi, nên phải bị xử tử. Vì thế, khi một sultan qua
đời hoặc bị truất phế, một hoàng tử sống trong khu biệt lập có thể được triệu đến
để được tấn phong - bởi vì theo luật Ottoman, người kế vị của sultan là người đàn

ông cao tuổi nhất trong hoàng tộc. Trong số các hoàng tử ngu dốt và thụ động này,
hiếm khi triều đình tìm được người có đủ sự phát triển trí tuệ hoặc kiến thức về
chính trị để trị vì đế quốc. Vì vậy, có những trường hợp các vị sultan có điều kiện
tinh thần không tốt như Mustafa I hay Ibrahim I (1640-1648).
Dinh Đại Vizia có quyền lực rộng lớn – có khi đủ mạnh để mưu đồ lật đổ và giết
chết được sultan – nhưng cũng có nhiều rủi ro và ít khi hứa hẹn một cái chết êm
thấm. Khi thất trận, Đại Vizia bị sultan quy trách nhiệm và tiếp theo đó là bị cách
chức, đi đày hoặc khơng hiếm khi bị thắt cổ. Giữa các năm 1683-1703, có mười
hai vị Đại Vizia đến và đi.[cần dẫn nguồn]



×