Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Ai Cập cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.87 KB, 17 trang )

Ai Cập cổ đại
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm

Tượng nhân sư, phía sau là kim tự tháp Giza

Ramesses II (1279 - 1213 TCN) là là một trong những vị pharaon vĩ đại nhất của Ai Cập
cổ đại.


Hình quạt và mái chèo
Ai Cập cổ đại, hay nền văn minh sông Nin, gắn liền với cư dân sống bên hai bờ sơng
Nin tại Ai Cập. Dịng sơng Nin dài khoảng 6500 km, có bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải,
đã tạo ra nơi sản sinh ra một trong các nền văn minh sớm nhất thế giới. Phần hạ lưu sơng
Nin rộng lớn, giống như hình tam giác dài 700 km, hai bên bờ sông rộng từ 10 dến 50 km
tạo thành một vùng sinh thái ngập nước và bán ngập nước - một đồng bằng phì nhiêu với
động thực vật đa dạng và đông đúc. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 9, nước lũ sông Nin
dâng lên làm tràn ngập cả khu đồng bằng rộng lớn và bồi đắp một lượng phù sa khổng lồ,
màu mỡ. Các loại thực vật chủ yếu như: đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen,… sinh sôi nảy
nở quanh năm. Ai Cập cũng có một quần thể động vật đa dạng và phong phú, mang đặc
điểm đồng bằng-sa mạc như voi, hươu cao cổ, sư tử, trâu, bị, cá sấu, các lồi cá, chim,…
Tất cả các điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã góp phần hình thành nền văn minh Ai Cập sớm
nhất. Các ngành nghề như đánh bắt cá, nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp
đều phát triển ngay từ 3.000 năm trước Công nguyên. Đặc biệt, các di sản kiến trúc đồ sộ
và đạt đến một trình độ vươn lên tầm kỳ quan của thế giới như: các kim tự tháp, các kiệt
tác về hội họa, điêu khắc và nghệ thuật ướp xác,…
Theo cách phân định thời gian của Manetho (thế kỷ 3 TCN) thì lịch sử Ai Cập cổ đại
được chia ra thành Cổ, Trung và Tân Vương quốc với 30 vương triều kéo dài khoảng từ
cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên đến năm 332 trước Cơng ngun. Vua của
tồn cõi Ai Cập thường có các vua chư hầu dưới quyền, nên các tài liệu tiếng Pháp, tiếng
Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha dùng danh từ Cổ, Trung và Tân Đế quốc thay vì Vương


quốc. Danh từ pharaon bắt đầu được các vua Ai Cập cổ dùng từ vương triều thứ 12 trở
đi. Pharaon có nghĩa là ngơi nhà lớn ám chỉ cung vua. Vẫn còn nhiều nghiên cứu về các
vương triều Ai Cập đang được tiếp tục và có thể các vương triều này sẽ còn thay đổi, bởi


vì ngày nay các cơng tác khảo cổ vẫn tiếp tục phát hiện thêm nhiều dữ liệu, chứng cứ
khác nhau.

Mục lục
[ẩn]





1 Lịch sử qua các thời kì
o 1.1 Thời kỳ Tiền triều đại (13.000 TCN - 3.200 TCN)
o 1.2 Thời kỳ Sơ triều đại (3.100 TCN - 3.000 TCN)
o 1.3 Thời kỳ Cổ vương quốc (2.815 TCN - 2.400 TCN)
 1.3.1 2815 - 2700 trước Công nguyên
o 1.4 2700 - 2400 trước Công nguyên
o 1.5 Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2.400 TCN - 2.046 TCN)
 1.5.1 2400 - 2200 trước Công nguyên
 1.5.2 2200 - 2050 trước Công nguyên
o 1.6 Thời kỳ Trung vương quốc (2.046 TCN - 1.750 TCN)
 1.6.1 2.046 trước Công nguyên - 1.800 trước Công nguyên
 1.6.2 1.800 - 1.750 trước Công nguyên
o 1.7 Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhì (1.700 TCN - 1.590 TCN)
 1.7.1 1.700 - 1.590 trước Công nguyên
o 1.8 Thời kỳ Tân vương quốc (1.590 TCN - 1.078 TCN)

 1.8.1 1590 - 1310 trước Công nguyên
 1.8.2 1.310 - 1.078 trước Công nguyên
o 1.9 Thời kỳ chuyển tiếp thứ ba (1.078 TCN - 663 TCN)
o 1.10 Thời hậu nguyên (663 TCN - 332 TCN)
2 Thành tựu văn hóa Ai Cập cổ
o 2.1 Nghệ thuật ướp xác Ai Cập cổ
o 2.2 Chữ viết Ai Cập cổ
o 2.3 Văn học - nghệ thuật Ai Cập cổ
o 2.4 Kiến trúc Ai Cập cổ
o 2.5 Thế giới quan - triết học Ai Cập cổ
o 2.6 Chính sách quản lý và thuế
3 Chú thích
4 Xem thêm
5 Đọc thêm



6 Liên kết ngồi





[sửa] Lịch sử qua các thời kì
Bài này nằm trong
Lịch sử Ai Cập.


Ai Cập cổ đại
Ai Cập thuộc Ba Tư

Ai Cập thuộc Hy Lạp
Ai Cập thuộc La Mã
Ai Cập thuộc Ả Rập
Nhà Tulun
Nhà Ikhshid
Nhà Fatima
Nhà Ayyub
Nhà Mamluk
Ai Cập thuộc Ottoman
Nhà Muhammad Ali
Ai Cập hiện đại
Người Ai Cập

[sửa] Thời kỳ Tiền triều đại (13.000 TCN - 3.200 TCN)












13.000 TCN: Dân miền nam Ai Cập đã bắt đầu trồng lúa mạch.
7.000 TCN: Dân cư đồng bằng sơng Nin đã biết canh tác.
5.000 TCN: Có xứ Ombos, kinh đô là Ballas ở miền nam Ai Cập (cũng gọi là
Thượng Ai Cập). Miền bắc Ai Cập (Hạ Ai Cập) có xứ Balamun, kinh đơ là

Behedet.
4.500 TCN: Người Ai Cập đã biết dùng dương lịch mỗi năm có 365 ngày. Truyền
thuyết cho rằng người đặt ra lịch đó là Thoth. Thoth cũng được cho là người đã
đặt ra mẫu tự Ai Cập, toán học và thiên văn học[cần dẫn nguồn]. Người Ai Cập tôn ông
là thần của thời gian.
4.000 TCN: Xứ Ombos chiếm xứ Balamun.
3.900 TCN: Xứ Ombos bị chia đơi: xứ Nekhein ở phía bắc và xứ Buto ở phía
nam.
3.700 TCN: Người miền bắc Ai Cập bắt đầu biết dùng kim loại.
3.600 TCN: Xứ Nekhein ở miền bắc chiếm đuợc xứ Buto ở miền nam. Họ định đô
ở Heliopolis (Nhật Thành).
3.500 TCN: Ai Cập lại chia đôi: Nekhein giữ miền bắc, Buto độc lập ở miền nam.





3.300 TCN: Người phuơng đông tràn sang chiếm xứ Nekhein.
3.250 TCN: Vua xứ Buto là Scorpion II thắng được vua của Nekhein.

[sửa] Thời kỳ Sơ triều đại (3.100 TCN - 3.000 TCN)




3.100 TCN: Con của vua Scorpion II là Menes (hay Horus Narmer) đánh đuổi
được người phương đông, thống nhất Nekhein và Buto. Menes lập một triều đại
mới, tức là vương triều thứ nhất, trong vương phổ của Manetho. Menes cũng
được coi là người khai sinh ra nước Ai Cập.
Vương triều thứ nhất: Menes xây dựng thành phố Memphis (Bạch Thành) lớn

nhất thế giới thời đó. Ơng đóng đơ ở thành This. Vương triều thứ nhất có 7-9 đời
vua và truyền được khoảng 300 năm. Các vua thời này thường đánh đơng dẹp
bắc. Menes có đánh Libya. Djer đã chiếm đất Sudan đến ghềnh thứ nhì của sơng
Nin. Den và Semerkhet đánh bán đảo Sinai.

Thời này các sử gia còn tranh luận nhiều về cách định năm. Phần đông xếp cuộc thống
nhất Ai Cập của Menes vào năm 3100 TCN. Có người xếp trễ đến năm 2900 TCN. Tài
liệu xưa của Julius Africanus xếp sớm đến năm 5664 TCN.


Vương triều thứ 2: khởi đầu với vua Hotepsekhemwy. Những người kế vị ông là
Nebire, Nineter (Raneb), Uneg, Senji, Peribsen và Khasekhemwy. Vào hai vương
triều đầu, dân Ai Cập đã xây nhiều lăng tẩm rất lớn (mộ Mastaba). Kinh đô của
hai vương triều đầu là thành This nên thời đại của hai vương triều này cũng gọi là
"thời Thinite".

[sửa] Thời kỳ Cổ vương quốc (2.815 TCN - 2.400 TCN)
[sửa] 2815 - 2700 trước Cơng ngun


Vương triều thứ 3: Vua Djoser sai Vizia Imhotep xây dựng kim tự tháp có bậc
thềm đầu tiên ở Saqqara.

[sửa] 2700 - 2400 trước Cơng ngun


Vương triều thứ 4: một trang sử vàng son của Cổ vương quốc vì đã để lại rất
nhiều di sản văn hố. Các vua Khufu, Khafre và Menkaure là chủ nhân ba kim tự
tháp lớn ở Giza. Theo Herodotos, có 300.000 nhân cơng xây Kim tự tháp Khufu
trong 20 năm, kim tự tháp lớn nhất được xây dưới sự chỉ thị của Vizia Hemon,

đây là một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại



Vương triều thứ 5: Vua Sahure xưng là "Con của thần Rê". Các kim tự tháp đầu
tiên được xây dựng ở Abusir.
Vương triều thứ 6: Có các vua Pepi I, Pepi II. Pepi II ở ngôi 94 năm, nên triều đại
ông được các sử gia Âu Mỹ xếp hạng là đời vua lâu dài nhất thế giới nếu khơng
tính các huyền thoại.




[sửa] Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2.400 TCN - 2.046 TCN)
[sửa] 2400 - 2200 trước Cơng ngun


Vương triều thứ 7 và vương triều thứ 8 là thời kỳ Ai Cập bị phân chia thành nhiều
tiểu vương quốc. Vương triều thứ bảy loạn lớn: 70 vua cai trị 70 ngày.

[sửa] 2200 - 2050 trước Cơng ngun


Vương triều thứ 9, Vương triều thứ 10 và Vương triều thứ 11 là thời kỳ chiến
tranh liên miên giữa các tiểu vương quốc, và kết thúc bằng sự tái thống nhất do
Mentuhotep II, một hoàng thân xứ Thebes.

[sửa] Thời kỳ Trung vương quốc (2.046 TCN - 1.750 TCN)
[sửa] 2.046 trước Công nguyên - 1.800 trước Cơng ngun




Vương triều thứ 11: Vua Mentuhotep II chọn thành Thebes (Ai Cập).
Vương triều thứ 12: Vua Amenemhat I lên thay Mentuhotep IV. Các vua kế tục
như Senusret I, Senusret III và Amenemhat III đã nhiều lần mở mang bờ cõi.

[sửa] 1.800 - 1.750 trước Cơng ngun


Vương triều thứ 13 và vương triều thứ 14 là thời kỳ đen tối, loạn lạc của Ai Cập.

[sửa] Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhì (1.700 TCN - 1.590 TCN)
[sửa] 1.700 - 1.590 trước Cơng ngun


Vương triều thứ 16 và vương triều thứ 17 ở vùng Thượng Ai Cập là thời kỳ Ai
Cập chống lại sự xâm lược của người Hyksos. Vương triều thứ 15 là các vua Ai
Cập người ngoại tộc Hyksos ở vùng hạ. Nhiều sử gia cho rằng người Hyksos hơn
người Ai Cập ở chỗ biết dùng đồ sắt trong khi người Ai Cập chỉ biết dùng đồ
đồng.

[sửa] Thời kỳ Tân vương quốc (1.590 TCN - 1.078 TCN)
[sửa] 1590 - 1310 trước Cơng ngun


Vương triều thứ 18: Bắt đầu từ khi vua Ahmose I đánh đuổi được người Hyksos
và tái thống nhất Ai Cập.

Tiếp theo đó, những người kế vị ông là Thutmosis I, Thutmosis II, nữ hoàng Hatshepsut
và Thutmosis III ngự trên một đế quốc Ai Cập mở rộng đến Palestine, Israel, Liban và

một phần của Syria. Sự chinh phạt của triều đại đưa Ai Cập đến những cuộc chiến với đế


quốc Mitanni ở Syria và đế quốc Hittite ở Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Tutankhamun nổi tiếng với
câu chuyện "lời nguyền của các pharaon" (nhiều người vào mộ ông bị chết một cách đáng
ngờ) và những di sản quý báu (tìm được trong mộ của ông) được trưng bày nhiều nơi trên
thế giới từ thế kỷ 20.
[sửa] 1.310 - 1.078 trước Cơng ngun




Vương triều thứ 19: Vizia Pramesse trở thành vua Ramesses I của vương triều thứ
19, còn gọi là “nhà Tiền Ramesses”. Những người kế vị là Seti I, Ramesses II tiến
đánh Libya, Syria, Sudan, giao chiến với đế quốc Hittite và khơng ngừng xây
dựng các cơng trình đồ sộ, điển hình như các ngơi đền từ Abu Simbel đến Karnak.
Năm 1275 TCN Ai Cập giao chiến với đế quốc Hittite và liên quân 20 dân tộc tại
Kadesh ở Cận Đông. Tài liệu. Tài liệu Ai Cập cho là ông thắng trận nhưng ơng
giảng hịa với Hittite, nhường vùng Kadesh cho Hittite và cưới công chúa xứ này.
Merneptah cũng khá tài giỏi, đánh đuổi được một liên quân xâm lược gồm người
Libya, Licy, Sardes, Tyrsene và Achean đến từ phương Tây.
Vương triều thứ 19 bị 1 người Syria tên là Bay sốn ngơi. Được 5 năm, Setnakhte
giết được bạo chúa Bay, ơng lập ra vương triều thứ 20 cịn được gọi là nhà “Nhà
Hậu Ramesses”. Vương triều này thường phải đối chọi với các tấn công của Hải
Nhân, và kết thúc sau khi vua Ramesses XI qua đời.

[sửa] Thời kỳ chuyển tiếp thứ ba (1.078 TCN - 663 TCN)










Vương triều thứ 21 do Smendes I lập lên Vương triều thứ 21 ở thành phố Tanis.
Lúc ấy dòng dõi của quan trấn thủ Herihor (hay thầy tế Amun) cai trị miền nam,
đóng đơ ở Thebes. Mặc dù họ nói tiếng thần phục Tanis, nhưng thực chất họ là
một nước độc lập.
Vương triều thứ 22 do Shoshenq I, một người Libya, lập ra. Ơng thống nhất Ai
Cập và cưới một cơng chúa Ai Cập để được dân bản xứ công nhận là chính thống.
Sau khi vua Solomon của Do Thái mất, Shoshenq (được cho là Shishaq trong
Kinh Thánh) đánh Do Thái vào khoảng 920 TCN và vào cướp kinh đô Jerusalem.
Vương triều thứ 23 do Takelot II lập ở miền trung và nam Ai Cập để chống với
vương triều thứ 22 (khoảng 840 TCN). Một số sử gia lại cho người lập vương
triều thứ 23 là Pedubast I, người nổi lên ở miền nam Ai Cập khoảng 830 TCN để
chống với cả Takelot II lẫn vương triều thứ 22. Đến khoảng 760 TCN thì Ai Cập
đã bị vỡ ra nhiều nước nhỏ đánh nhau. Năm 730, vua Nubia (nay ở Sudan) là Piye
vào chiếm Ai Cập. Trong đài chiến thắng của Piye còn đọc được tên 21 nước trên
đất Ai Cập.
Khi Piye rút về, Tefnakht nổi lên lập nhà Sais, tức vương triều thứ 24, và diệt hai
vương triều 22 và 23, thống nhất Ai Cập.
Em trai Piye là Shabaka nối ngôi anh khoảng 716 TCN, sang đánh đuổi nhà Sais,
dời đô về Thebes, tức là vương triều thứ 25. Lúc bấy giờ, đế quốc Assyria ở Iraq
đang bành trướng rất mạnh. Năm 701, quân của vua Assyria là Sennacherib phá
tan quân Ai Cập và liên quân 29 nước ở Altaqah. Shabaka chết trong trận này.
Con cháu của vương triều này mấy mươi năm sau không được kể là vua Ai Cập
nữa, nhưng tiếp tục cai trị Nubia thêm 350 năm.



[sửa] Thời hậu nguyên (663 TCN - 332 TCN)


Năm 672, Assyria vào đô hộ Ai Cập, và lập hậu duệ của nhà Sais là Necho I lên
ngôi. Necho bắt đầu nhà “Hậu Sais” tức vương triều thứ 26. Lợi dụng lúc Assyria
suy yếu, Necho I liên kết với các cường quốc trong vùng và lấy lại chủ quyền,
nhưng bị Tantamani của Vương triều thứ 25 bắc phạt giết chết. Assyria trở lại
đánh bại Tantamani và tàn phá kinh đô Thebes.

Sau đó, con trai của Necho I là Psammetichus I khơi phục được đất nước. Trong thập niên
660 và 650 TCN, Psammetichus I liên kết với Lydia ở Thổ Nhĩ Kỳ để chống với Assyria.
Nhưng đến 615-605 TCN, khi Assyria suy yếu, bị liên quân Babylon và Media vây đánh,
Psammetichus I và con là Necho II lại đem quân đi cứu. Nhưng các vua Ai Cập bị thất
bại, Đế quốc Assyria bị diệt.


Từ năm 551 đến năm 529 TCN, có Cyrus Đại đế dấy lên lập đế quốc Ba Tư, gồm
thâu cả Media, Lydia và Babylon. Năm 525 TCN, con của Cyrus Đại đế là
Cambyses II vào chiếm Ai Cập. Vua cuối cùng vương triều 26 là Psammetichus
III chỉ lên ngôi được 6 tháng thì bị bắt giải về Ba Tư, sau đó ơng bị giết. Nhà
Achaemenes, tuy khơng đóng đơ trên đất Ai Cập, nhưng được coi là vương triều
thứ 27 của Ai Cập.

Trong thời Ba Tư thuộc, người Ai Cập nổi lên độc lập được hơn 60 năm, thành được 3
vương triều chót của danh sách Manetho:





Vương triều thứ 28, Amyrtaeus lên ngôi và ngự trị 6 năm (404-399 TCN)
Vuơng triều thứ 29, Nepherites I của Mendes thắng vua Amyrtaeus, giữ Ai Cập
được 18 năm (399 - 380 TCN).
Vương triều thứ 30, do vua Nectanebo I sáng lập ra sau khi lật đổ Nepherites II
của vương triều thứ 29, độc lập được 37 năm (380 - 343 TCN).

Năm 343 TCN, vua Ba Tư là Artaxerxes III xâm lược Ai Cập, đánh bại và bắt giữ
Nectanebo II. Nhà Achaemenes đã chiếm lại được Ai Cập.
Năm 332 TCN, vua Macedonia là Alexandros Đại đế tiêu diệt được đế quốc Ba Tư, rồi
chiếm ln Ai Cập. Ơng đóng đơ ở Alexandria, Ai Cập.
Lúc ấy, những trang sử Ai Cập thời cổ đại chính thức khép lại. Khi đó, các kim tự tháp và
tượng nhân sư đã đứng sừng sững trong khoảng hơn 2200 năm. Ngoại trừ châu Á[1] và các
vùng đất quanh Địa Trung Hải [2], những nơi khác lịch sử vẫn chưa bắt đầu.
Đất nước của các pharaon bước sang thời kì Ai Cập thuộc Hy Lạp.
Bài chi tiết: Ai Cập thuộc Ba Tư và Ai Cập thuộc Hy Lạp

[sửa] Thành tựu văn hóa Ai Cập cổ


[sửa] Nghệ thuật ướp xác Ai Cập cổ
Bài chi tiết: Xác ướp

Bức tranh miêu tả thuật ướp xác
Thuật ướp xác của người Ai Cập ra đời từ năm 2700 TCN. và kéo dài đến tận thế kỷ thứ
5. Quan niệm của người Ai Cập cổ về sự vĩnh hằng ở thế giới của các thần linh sau khi
chết nên việc ướp xác cũng là đức tin cho sự trường tồn của vương quốc Ai Cập.
Nguyên tắc ướp xác của Ai Cập cổ đại dựa trên việc làm mất nước trong cơ thể người
chết và lấy đi các bộ phận dễ phân hủy như nội tạng và bộ não. Nghệ thuật lấy não người
chết thật tài tình, nhiều năm làm các chuyên gia giải phẫu lúng túng về phương pháp bảo
vệ hộp sọ của người chết trong khi não được lấy ra một cách hoàn hảo. Bước tiếp theo,

xác ướp được để trong natron khô khoảng 70 ngày để thanh trùng. Cuối cùng là nhồi cỏ
khô, thơm vào phần rỗng của nội tạng, xoa dầu thơm và quấn vải lên thi thể một cách cẩn
thận và chu đáo. Các ngón tay của xác ướp được lồng bằng các ống vàng. Não và nội
tạng khi lấy ra khỏi xác ướp được cất giữ ở 4 chiếc bình.
Nghi thức chơn cất xác ướp cũng thần bí và ngày nay các nhà khảo cổ học vẫn khám phá
thêm các thông tin thú vị bên các khu khai quật mới.

[sửa] Chữ viết Ai Cập cổ

Chữ tượng hình trên một bức vẽ
Đã lâu, các nhà khảo cổ học tìm thấy những ký hiệu tượng hình được khắc trên các bức
tranh trong các di tích tìm thấy khi tiến hành khai quật Nekhen (Hierakonpolis theo người
Hy Lạp cổ và Kom el-Ahmar trong tiếng Ả Rập ngày nay), vào năm 1894. Tuổi của
những chữ tượng hình này có niên đại vào khoảng 3200 TCN. Tuy nhiên, gần đây, các
nhà khảo cổ học lại tìm thấy những ký hiệu trên đồ gốm Gerzean, 4000 TCN, có sự tương
đồng với chữ viết cổ Ai Cập.


Các nhà Ai Cập học xếp hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ vào thể loại chữ tượng hình là
lối viết sớm của hệ thống chữ viết của thế giới. Những thầy tu thảo ra những chữ tượng
hình Ai Cập cổ từ triều đại đầu tiên (2925 - 2775 TCN).
Chữ tượng hình Ai Cập cổ khơng cịn được sử dụng từ thế kỷ thứ 4. Đến thế kỷ 15, người
ta bắt đầu giải mã hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ. Đến thế kỷ 19, nhà khảo cổ người
Pháp là Champollion đã giải mã được văn tự Ai Cập.
Cuối thế kỷ 20, người ta đã truy ra là mẫu tự Phoenix (tổ tiên của người Li Ban) đã được
đặt ra bắt chước theo văn tự Ai Cập. Sau đó các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và LaTinh đã dựa theo mẫu tự Phoenix để thành lập chữ viết của mình. Ngày nay, các xứ dùng
mẫu tự La Tinh, trong đó có Việt Nam, Pháp, Anh; các xứ dùng mẫu tự Hi Lạp, trong đó
có Nga đều thừa hưởng di sản của chữ viết Ai Cập !

[sửa] Văn học - nghệ thuật Ai Cập cổ


Một cuốn sách của người chết viết trên giấy papyrus

Bức tranh tường vẽ hoàng hậu Nefertari
Tác phẩm văn học cổ xưa nhất của Ai Cập có lẽ là Câu chuyện của Sinuhe và tác phẩm
sách giấy papyrus (chỉ thảo) Ipuwer, có niên đại 1800 TCN. Hiện nay bộ sưu tập về các
tác phẩm cổ đại Ai cập cịn có:








Sách giấy papyrus Westcar (1600 TCN)
Sách giấy papyrus Tulli (1400 TCN)
Sách giấy papyrus Ebers (1300 TCN)
Sách giấy papyrus Harris I (1180 TCN)
Chuyện của Wenamun (1000 TCN)

Nghệ thuật hội họa Ai Cập cổ đáng để chúng ta kinh ngạc bởi những tranh vẽ trên tường
trong các khu hầm mộ của các pharaon, trên các chất liệu gốm cổ,… Các bức tranh mơ tả
cảnh sinh họat và sản xuất cũng như tín ngưỡng tập tục của các cư dân và vua chúa Ai
Cập. Các tác phẩm hội họa và các hoa văn trên gốm và đất nung đã cung cấp cho các nhà
Ai Cập học các tư liệu phong phú và sinh động.

Một bình gốm có hoa văn ở bảo tàng Louvre
Việc tồn tại cho đến ngày nay các tác phẩm hội họa Ai Cập cổ có thể do khí hậu khơ của
sa mạc và điều kiện thiếu ánh sáng của các hầm mộ. Những bức vẽ của Ai Cập cổ miêu tả

về một thế giới vui tươi cho những người chết ở cõi vĩnh hằng. Nhiều bức họa vẽ cảnh đi
vào cõi âm nhằm che chở người chết đi về với Chúa trời vì người Ai Cập tin rằng sự chết
chỉ là sự chuyển chỗ ở sang một thế giới các vị thần và điều này sẽ phù hộ cho những vị
pharng và các triều đại đang trị vì nước Ai Cập.
Nghệ thuật gốm cổ Ai Cập cũng rất phong phú và tinh xảo. Người Ai Cập cổ đã khám
phá ra chất liệu men gốm khá sớm; trên các bề mặt của gốm cổ Ai Cập có chạm khắc tinh
xảo các hình nhỏ mơ tả nhiều chủ đề. Đồ gốm thường được chôn theo người chết và để
dùng vào các nghi lễ thần bí.
Giấy papyrus là một loại giấy do người Ai Cập cổ sáng chế ra, được làm từ cây papyrus
mọc ở châu thổ sông Nin. Công nghệ làm giấy papyrus không được ghi lại và bị thất
truyền theo thời gian, tuy vậy, vào năm 1940, các nhà Ai Cập học đã phục hồi được công
nghệ này. Người ta đã tìm thấy những tấm giấy có kích thước khá lớn, dài hàng mét. Giấy
papyrus được người Ai Cập cổ dùng vào các việc ghi chép lại các cảnh sinh họat bao gồm
văn học, tôn giáo, lịch sử và các công việc hành chính.

[sửa] Kiến trúc Ai Cập cổ


Các chữ tượng hình Ai Cập có liên quan đến các cơng trình kiến trúc

Tháp ở đền Karnak

Đền Luxor ở Đông sông Nin
Hơn 10.000 năm trước đây, châu thổ sông Nin là nơi khởi đầu một nền văn minh sớm của
thế giới. Cùng với sự xuất hiện nền văn minh Ai Cập cổ là các cơng trình xây dựng vĩ đại
trên một khu vực tập trung dày đặc. Ai Cập cổ đã để lại và đóng góp cho nhân loại một
trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại, đó là Kim tự tháp Giza và tượng nhân sư Sphinx
khổng lồ.



Đặc trưng kiến trúc Ai Cập cổ thể hiện sự khan hiếm vật liệu gỗ, nên người Ai
Cập cổ sử dụng vật liệu trong xây dựng chủ yếu là gạch chưa nung, đá các loại.
Trong suốt các triều đại Ai Cập cổ, vật liệu đá được dùng hầu hết cho các cơng
trình như lăng mộ và đền đài. Đơi khi, các vật liệu gạch có được dùng trong các
cơng việc xây dựng lâu đài của các Hoàng đế, pháo đài và một số cơng trình dân
dụng khác như tường bao quanh lâu đài, đền đài và đô thị và các công trình phụ
trợ ít quan trọng trong các đền đài. Rất nhiều cơng trình nhỏ của Ai Cập cổ đã bị
phá hủy và cuốn trôi theo những cơn giận giữ bất thường của sơng Nin. Tuy
nhiên, do điều kiện khí hậu khơ, nóng của Ai Cập cũng giúp bảo tồn được khá
nhiều các cơng trình xây bằng gạch chưa nung. Ví dụ, ngày nay cịn lại một số
ngơi làng như Deir al-Madinah, pháo đài Buhen và Mirgissa. Các cơng trình bằng
đá ở các khu đất cao, không ảnh hưởng bởi lũ lụt của sông Nin nhưng cũng chịu
tác động không nhỏ của các cơn bão cát sẵn có ở vùng này.


Điều ấn tượng nhất chính là kỹ thuật xây dựng của người Ai Cập cổ. Những cơng trình đồ
sộ, cao lớn và chính xác theo quan niệm vũ trụ của người Ai Cập cổ đến hôm nay cũng
làm cho các nhà khảo cổ học lúng túng và việc liên tục khám phá chúng và có nhiều cơng
trình nghiên cứu mới ra đời thay thế cho các lập luận cũ không còn đứng vững. Cũng cần
nhắc đến kiểu kiến trúc đặc trưng của các cổng, cửa theo kiểu của vòm ở triều đại thứ 4;
tất cả các lối vào của các cơng trình lớn được kết cấu bởi các cổng lớn có dầm đỡ.

[sửa] Thế giới quan - triết học Ai Cập cổ

Thần Mặt trời (thần Rê)
Quan niệm về thế giới huyền bí của người Ai Cập cổ hay quan niệm tơn giáo tín ngưỡng
kéo dài trên dưới 3.000 năm về giữa cả hai tôn giáo là đạo Ki-tô và đạo Hồi.


Thần linh của người Ai Cập cổ, khi sơ khởi được quan niệm là một thế giới hỗn

mang của vật chất là nước. Vị thần đầu tiên, thần Ra-Atum, hàng năm xuất hiện
như nước lũ của sông Nin ở xứ sở Ai Cập. Thần Ra sinh ra các bọt nước, từ đó
biến thành thần Shu (khơng khí) và Tefnut (hơi nước). Thế giới được tạo ra khi
thần Shu và Tefnut sinh ra hai đứa trẻ: Nut (bầu trời) và Geb (mặt đất). Con người
được tạo ra khi thần Shu và thần Tefnut sơ ý bị lạc trong hoang mạc đen tối, thần
Rê dùng đơi mắt của mình đi tìm họ và trong khi xúc động về sự đoàn tụ, nước
mắt sung sướng của thần Rê đã tạo nên loài người. Con trai của thần Geb là Osiris
được cử làm vua của Ai Cập cổ đại. Người em trai của Osiris là Seth được xem là


kẻ xấu xa trong vũ trụ. Seth đã giết Osiris và tự lên ngôi là vua Ai Cập. Sau khi
giết Osiris, Seth thách đấu với con trai của Osiris (Horus) và bị thua, Seth bị đày
đến sa mạc và biến thành thần bão cát khủng khiếp. Osiris được ướp xác bởi
Anubis và biến thành thần của sự chết. Horus bắt đầu lên ngơi vua và trở thành
pharaon.
Cịn rất nhiều truyền thuyết xung quanh các triều đại Ai Cập. Nhưng thế giới của người
Ai Cập luôn xoay quanh các điều thần bí về con sơng Nin và sa mạc, tạo nên một đức tin
về các thế lực thần bí, ln lơi kéo con người phải thần phục các pharaong và các
pharaong như một vị thần hiện hữu, thay mặt các vị thần khác có nhiệm vụ trơng coi dân
Ai Cập và dung hòa các thế lực thiên nhiên khắc nghiệt để đưa đến cho thần dân Ai Cập
một cuộc sống yên lành bên cạnh pharaong và dịng sơng Nin giàu có và thần bí.


Quan niệm về cái chết của người Ai Cập cổ như một sự chuyển tiếp một cuộc
sống khác ở thế giới bên kia, thế giới cõi âm. Nghi lễ về cái chết là một sự kiện
quan trọng và tỉ mỉ nhằm tiễn đưa người chết về với cõi vĩnh hằng. Người Ai Cập
cổ quan niệm con người có cả phần thể xác và phần linh hồn, chính vì vậy, các
nghi lễ là thể hiện sự chuẩn bị cho thể xác và linh hồn có được sự hịa hợp khi về
cõi âm, họ tin tưởng rằng, nếu thi thể được bảo quản tốt nhất thì linh hồn sẽ tái
hịa nhập sau một thời gian nào đó. Điều kiện để linh hồn mau chóng trở lại hịa

nhập vào thể xác là xác phải được một người thầy tu lành nghề bảo quản nguyên
vẹn cơ thể, khuôn mặt được như lúc còn sống và cơ thể phải được ướp hương
thơm. Đầu tiên, cơ thể người chết sau khi đã được lấy đi nội tạng, sẽ được cho
vào một quan tài nhỏ bằng sậy vùi vào cát nóng nhằm làm khơ xác để cho cơ thể
không thể phân hủy sau này, sau đó thì mới mai táng trong hầm mộ.

[sửa] Chính sách quản lý và thuế

Bức tranh mô tả cuộc sống lao động thường ngày ở Ai Cập cổ
Nhằm quản lý hiệu quả, Ai Cập cổ đại đã chia vương quốc thành các vùng, được gọi là
nome. Vết tích về các nome có lẽ được bắt đầu từ thời kỳ Tiền triều đại (trước 3100
TCN), khi đó các vùng được tự trị như các tiểu đô thị. Hệ thống cai trị này rất phổ viến
dưới nhiều triều đại của các pharaong Ai Cập cổ, vương quốc đã được chia thành 42
nome. Thời kỳ suy yếu, Ai Cập cũng được chia thành 22 nome. Trong mỗi vùng này, việc
cai trị được trao cho một người đứng đầu, giống như thống đốc của một địa phương cấp


tỉnh, với đầy đủ quyền lực cai trị địa phương mình. Địa vị của vị thủ lĩnh được phép
truyền đời theo dòng họ, cha truyền con nối, được bổ nhiệm của pharaong.
Sự cai trị của Ai Cập cổ áp đặt khác nhau về số thuế phải đóng của các cư dân. Người ta
chưa rõ từ khi nào người dân Ai Cập phải đóng thuế bằng các hình thức hoặc là sản
phẩm, hoặc là lao động. Vị quan điều hành hệ thống thuế thông qua một bộ của bang,
vùng. Bộ điều hành thuế có các thơng báo hàng ngày về số lượng hiện có trong kho, và
dự tính thời gian hết trong tương lai. Các loại thuế phải nộp dựa trên kết quả các ngành
nghề thủ công và lợi tức. Các chủ đất phải nộp thuế bằng các sản phẩm thu họach trên đất
đai, đầm nước và các ốc đảo của mình. Những thợ săn và người đánh cá phải nộp các
khoản thuế trên các sản phẩm từ sông, hồ, đầm lầy và sa mạc. Mỗi thành viên trong các
gia đình buộc phải trả thuế bằng sức lao động ở các cơng trường bằng số lượng vài tuần
trên một năm, ví dụ như đào kênh hay làm việc ở các khu khai khống. Tuy nhiên, những
người giàu có, có thể được phép th những người đàn ơng nghèo khổ đi đóng thuế lao

động cho mình.

[sửa] Chú thích
1. ^ Vào năm 332 TCN, Iraq, Iran (Ba Tư), Ấn Độ, Trung Quốc,… đã trải qua vài nghìn
năm lịch sử. Sự hiện hữu của Văn Lang, Nhật Bản, Cao Ly, Hung Nơ,… cũng ít còn bị
tranh cãi.
2. ^ Đế quốc Carthage ở Bắc Phi có từ năm 830 TCN, cộng hịa La Mã từ năm 753 TCN














Aldred, Cyril (1988). Akhenaten, King of Egypt. London, England: Thames and
Hudson. ISBN 0-500-05048-1.
Allen, James P. (2000). Middle Egyptian: An Introduction to the Language and
Culture of Hieroglyphs. Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 0521-77483-7.
Badawy, Alexander (1968). A History of Egyptian Architecture. Vol III. Berkeley,
California: University of California Press. ISBN 0-520-00057-9.
Billard, Jules B. (1978). Ancient Egypt: Discovering its Splendors. Washington
D.C.: National Geographic Society.
Cerny, J (1975). Egypt from the Death of Ramesses III to the End of the TwentyFirst Dynasty' in The Middle East and the Aegean Region c.1380–1000 BC.

Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 0-521-08691-4.
Clarke, Somers (1990). Ancient Egyptian Construction and Architecture. New
York, New York: Dover Publications, Unabridged Dover reprint of Ancient
Egyptian Masonry: The Building Craft originally published by Oxford University
Press/Humphrey Milford, London, (1930). ISBN 0-486-26485-8.
Clayton, Peter A. (1994). Chronicle of the Pharaohs. London, England: Thames
and Hudson. ISBN 0-500-05074-0.
Cline, Eric H.; O'Connor, David Kevin (2001). Amenhotep III: Perspectives on
His Reign. Ann Arbor, Michigan: University of Michigan Press. tr. 273. ISBN 0472-08833-5.
Dodson, Aidan (1991). Egyptian Rock Cut Tombs. Buckinghamshire, UK: Shire
Publications Ltd. ISBN 0-7478-0128-2.



























Dodson, Aidan; Hilton, Dyan (2004). The Complete Royal Families of Ancient
Egypt. London, England: Thames & Hudson. ISBN 0500051283.
El-Daly, Okasha (2005). Egyptology: The Missing Millennium. London, England:
UCL Press. ISBN 1-844-72062-4.
Filer, Joyce (1996). Disease. Austin, Texas: University of Texas Press. ISBN 0292-72498-5.
Gardiner, Sir Alan (1957). Egyptian Grammar: Being an Introduction to the Study
of Hieroglyphs. Oxford, England: Griffith Institute. ISBN 0-900416-35-1.
Hayes, W. C. (October 1964). “Most Ancient Egypt: Chapter III. The Neolithic
and Chalcolithic Communities of Northern Egypt”. JNES 23: 217–272.
Imhausen, Annette; Eleanor Robson, Joseph W. Dauben, Kim Plofker, J. Lennart
Berggren, Victor J. Katz (2007). The Mathematics of Egypt, Mesopotamia, China,
India, and Islam: A Sourcebook. Princeton: Princeton University Press. ISBN 0691-11485-4.
James, T.G.H. (2005). The British Museum Concise Introduction to Ancient
Egypt. Ann Arbor, Michigan: University of Michigan Press. ISBN 0-472-03137-6.
Kemp, Barry (1991). Ancient Egypt: Anatomy of a Civilization. London, England:
Routledge. ISBN 0415063469.
Lichtheim, Miriam (1975). Ancient Egyptian Literature, vol 1. London, England:
University of California Press. ISBN 0-520-02899-6.
Lichtheim, Miriam (1980). Ancient Egyptian Literature, A Book of Readings. Vol
III: The Late Period. Berkeley, California: University of California Press. ISBN
0-520-24844-1.
Loprieno, Antonio (1995a). Ancient Egyptian: A linguistic introduction.
Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 0-521-44849-2.

Loprieno, Antonio (1995b). "Ancient Egyptian and other Afroasiatic Languages".
trong Sasson, J. M.. Civilizations of the Ancient Near East. 4. New York, New
York: Charles Scribner. 2137–2150. ISBN 1-565-63607-4.
Loprieno, Antonio (2004). "Ancient Egyptian and Coptic". trong Woodward,
Roger D.. The Cambridge Encyclopedia of the World's Ancient Languages.
Cambridge, UK: Cambridge University Press. 160–192. ISBN 0-52-156256-2.
Lucas, Alfred (1962). Ancient Egyptian Materials and Industries, 4th Ed. London,
England: Edward Arnold Publishers. ISBN 1854170465.
Mallory-Greenough, Leanne M. (2002). “The Geographical, Spatial, and
Temporal Distribution of Predynastic and First Dynasty Basalt Vessels”. The
Journal of Egyptian Archaeology (London, England: Egypt Exploration Society)
88: 67–93. doi:10.2307/3822337.
Manuelian, Peter Der (1998). Egypt: The World of the Pharaohs. Bonner Stre,
Cologne Germany: Kưnemann Verlagsgesellschaft mbH. ISBN 3-89508-913-3.
McDowell, A. G. (1999). Village life in ancient Egypt: laundry lists and love
songs. Oxford, England: Oxford University Press. ISBN 0-19-814998-0.
Meskell, Lynn (2004). Object Worlds in Ancient Egypt: Material Biographies
Past and Present (Materializing Culture). Oxford, England: Berg Publishers.
ISBN 1-85973-867-2.























Midant-Reynes, Béatrix (2000). The Prehistory of Egypt: From the First
Egyptians to the First Pharaohs. Oxford, England: Blackwell Publishers. ISBN 0631-21787-8.
Nicholson, Paul T. et al. (2000). Ancient Egyptian Materials and Technology.
Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 0521452570.
Oakes, Lorna (2003). Ancient Egypt: An Illustrated Reference to the Myths,
Religions, Pyramids and Temples of the Land of the Pharaohs. New York, New
York: Barnes & Noble. ISBN 0-7607-4943-4.
Robins, Gay (2000). The Art of Ancient Egypt. Cambridge, Massachusetts:
Harvard University Press. ISBN 0-674-00376-4.
Ryholt, Kim (January 1997). The Political Situation in Egypt During the Second
Intermediate Period. Copenhagen, Denmark: Museum Tusculanum. ISBN
8772894210.
Scheel, Bernd (1989). Egyptian Metalworking and Tools. Haverfordwest, Great
Britain: Shire Publications Ltd. ISBN 0747800014.
Shaw, Ian (2003). The Oxford History of Ancient Egypt. Oxford, England: Oxford
University Press. ISBN 0-500-05074-0.
Siliotti, Alberto (1998). The Discovery of Ancient Egypt. Edison, New Jersey:
Book Sales, Inc. ISBN 0-7858-1360-8.
Strouhal, Eugen (1989). Life in Ancient Egypt. Norman, Oklahoma: University of

Oklahoma Press. ISBN 0-8061-2475-x.
Tyldesley, Joyce A. (2001). Ramesses: Egypt's greatest pharaoh. Harmondsworth,
England: Penguin. 76–77. ISBN 0-14-028097-9.
Vittman, G. (1991). “Zum koptischen Sprachgut im Ägyptisch-Arabisch”. Wiener
Zeitschrift für die Kunde des Morgenlandes (Vienna, Austria: Institut für
Orientalistik, Vienna University) 81: 197–227.
Walbank, Frank William (1984). The Cambridge ancient history. Cambridge, UK:
Cambridge University Press. ISBN 0-521-23445-X.
Wasserman, James; Faulkner, Raymond Oliver; Goelet, Ogden; Von Dassow, Eva
(1994). The Egyptian Book of the dead, the Book of going forth by day: being the
Papyrus of Ani. San Francisco, California: Chronicle Books. ISBN 0-8118-07673.
Wilkinson, R. H. (2000). The Complete Temples of Ancient Egypt. London,
England: Thames and Hudson. ISBN 0500051003.

[sửa] Xem thêm



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×