Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Dong vat co xuong song

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.5 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐỘNG VẬT CĨ XƯƠNG SỐNG</b>


<b>Động vật có xương sống (</b>danh pháp khoa học: Vertebrata) là một phân
ngành của động vật có dây sống, đặc biệt là những loài với xương sống hoặc cột
sống. Khoảng 57.739 lồi động vật có xương sống đã được miêu tả. Động vật có
xương sống đã bắt đầu tiến hóa vào khoảng 530 triệu năm trước trong thời kỳ của
sự bùng nổ kỷ Cambri, một giai đoạn trong kỷ Cambri (động vật có xương sống
đầu tiên được biết đến là Myllokunmingia). Các xương của cột sống được gọi là
xương sống. Vertebrata là phân ngành lớn nhất của động vật có dây sống và bao
gồm phần lớn các loài động vật mà nói chung là rất quen thuộc đối với con người
(ngồi cơn trùng). Cá (bao gồm cả cá mút đá, nhưng thông thường không bao gồm
cá mút đá myxin, mặc dù điều này hiện nay đang gây tranh cãi), động vật lưỡng
cư, bị sát, chim và động vật có vú (bao gồm cả người) đều là động vật có xương
sống. Các đặc trưng bổ sung của phân ngành này là hệ cơ, phần lớn bao gồm các
khối thịt tạo thành cặp, cũng như hệ thần kinh trung ương một phần nằm bên trong
cột sống. Các đặc trưng xác định khác một động vật thuộc loại có xương sống là
xương sống hay tủy sống và bộ khung xương bên trong.


Bộ khung xương bên trong để xác định động vật có xương sống bao gồm
các chất sụn hay xương, hoặc đôi khi là cả hai. Bộ khung xương ngoài trong dạng
lớp áo giáp xương đã là chất xương đầu tiên mà động vật có xương sống đã tiến
hóa. Có khả năng chức năng cơ bản của nó là kho dự trữ phốtphat, được tiết ra
dưới dạng phốt phat canxi và lưu trữ xung quanh cơ thể, đồng thời cũng góp phần
bảo vệ cơ thể luôn. Bộ khung xương tạo ra sự hỗ trợ cho các cơ quan khác trong
quá trình tăng trưởng. Vì lý do này mà động vật có xương sống có thể đạt được
kích thước lớn hơn động vật khơng xương sống, và trên thực tế về trung bình thì
chúng cũng lớn hơn. Bộ xương của phần lớn động vật có xương sống, ngoại trừ
phần lớn các dạng nguyên thủy, bao gồm một hộp sọ, cột sống và hai cặp chi. Ở
một số dạng động vật có xương sống thì một hoặc cả hai cặp chi này có thể khơng
có, chẳng hạn ở rắn hay cá voi. Đối với chúng, các cặp chi này đã biến mất trong
quá trình tiến hóa.



Hộp sọ được coi là tạo thuận lợi cho sự phát triển của khả năng nhận thức
do nó bảo vệ cho các cơ quan quan trọng như não bộ, mắt và tai. Sự bảo vệ này
cũng được cho là có ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển của tính phản xạ cao đối
với mơi trường thường tìm thấy ở động vật có xương sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Phần thân của động vật có xương sống là một khoang rỗng chứa các nội
tạng. Tim và các cơ quan hô hấp được bảo vệ bên trong thân. Tim thường nằm
phía dưới mang hay giữa các lá phổi.


Hệ thần kinh trung ương của động vật có xương sống bao gồm não bộ và
tủy sống. Cả hai đều có đặc trưng là rỗng. Ở động vật có xương sống bậc thấp thì
não bộ chủ yếu kiểm soát chức năng của các thụ quan. Ở động vật có xương sống
bậc cao thì tỷ lệ giữa não bộ và kích thước cơ thể là lớn hơn. Não bộ lớn hơn như
vậy làm cho khả năng trao đổi thông tin giữa các bộ phận của não bộ là cao hơn.
Các dây thần kinh từ tủy sống, nằm phía dưới não bộ, mở rộng ra đến lớp da, các
nội tạng và các cơ. Một số dây thần kinh nối trực tiếp với não bộ, kết nối não với
tai và phổi.


Động vật có xương sống có thể tìm thấy ngược trở lại tới Myllokunmingia
trong thời kỳ của sự bùng nổ kỷ Cambri (530 triệu năm trước). Cá khơng quai hàm
và có mai (lớp Ostracodermi của kỷ Silur (444-409 triệu năm trước) và các lồi
động vật răng nón (lớp Conodonta)- một nhóm động vật có xương sống tương tự
như lươn với đặc trưng là nhiều cặp răng bằng xương.


Phân loại này là theo Janvier (1981, 1997), Shu và những người khác (2003),
và Benton (2004) [1].


 Phân ngành Vertebrata



o (nhóm khơng phân hạng) Hyperoartia (cá mút đá)
o Lớp Conodonta †


o Phân lớp Pteraspidomorphi †
o Lớp Thelodonti †


o Lớp Anaspida †
o Lớp Galeaspida †
o Lớp Pituriaspida †
o Lớp Osteostraci †


o Cận ngành Gnathostomata (động vật có xương sống có quai hàm)


 Lớp Placodermi † (các dạng cá da phiến thuộc đại Cổ
sinh)


 Lớp Chondrichthyes (cá sụn)


 Lớp Acanthodii † (<i>cá mập gai</i> đại Cổ sinh)
 Siêu lớp Osteichthyes (cá xương)


 Lớp Actinopterygii (cá vây tia)
 Lớp Sarcopterygii (cá vây thùy)


 Phân lớp Coelacanthimorpha (cá vây tay)
 Phân lớp Dipnoi (cá phổi)


 Phân lớp Tetrapodomorpha (tổ tiên của động vật
bốn chân)



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

 Lớp Amphibia (động vật lưỡng
cư)


 Loạt Amniota (động vật có màng
ối)


 Lớp Sauropsida (bò sát và
chim)


 Lớp Aves (chim)
 Lớp Synapsida (bò sát


tương tự như động vật có
vú)


 Lớp Mammalia
<b>(động vật có v</b>
<b>HỆ TUẦN HỒN CỦA ĐỘNG VẬT CÓ XƯƠNG SỐNG</b>
<b>I. CẤU TẠO CHUNG.</b>


Cấu tạo gồm máu và hệ ống dẫn (tim và mạch máu). Động vật hơ hấp bằng
mang thì có 1 vịng tuần hồn, động vật hơ hấp bằng phổi có 2 vịng tuần hồn là
nhỏ trao đổi khí ở phổi và vịng tuần hồn lớn thì đưa máu đến nội quan.


<b>1. Máu: </b>


Máu là một loại mô liên kết với một chất dịch cơ bản và các yếu tố hữu
hình. Chất dịch cơ bản của máu được gọi là huyết tương và các yếu tố hữu hình là
thành phần tế bào, gồm 3 loại chính là: (1) Các hồng cầu, (2) Các bạch cầu và (3)


Các tiểu cầu hay tấm máu. Chúng đều xuất phát từ các nguyên bào trong tủy
xương của cá thể trưởng thành (được hình thành từ trung bì).


<b>2. Huyết tương: </b>


Thành phần cơ bản của huyết tương là nước, chiếm khoảng 90%. Trong
nước có một số lượng rất lớn các chất hịa tan, có sáu loại là: (1) Các ion vô cơ và
muối, (2) Các protein huyết tương, (3) Các chất dinh dưỡng hữu cơ, (4) Các sản
phẩm thải có nitơ, (5) Các sản phẩm đặc biệt được chun chở và (6) Các khí hịa
tan.


<b>3. Huyết cầu: </b>


Bao hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu (tấm huyết).
<b>4. Bạch cầu: </b>


Các tế bào bạch cầu của động vật có xương sống có nhân lớn, hình dạng
không đều. Chúng được tạo ra từ các nguyên bào đặc biệt trong tủy xương
và được phóng thích vào dịng máu. Các tế bào bạch cầu khác nhau giữ vai trò rất
quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các vi sinh vật gây bệnh. Chia làm 5
loại bạch cầu khác nhau: limphô, môno, trung tính, ưa axit và ưa bazơ.


<b>5. Hồng cầu: </b>


Các hồng cầu của người là những tế bào nhỏ, hình đĩa lõm hai mặt, khơng
có nhân. Ở cá thể trưởng thành, các hồng cầu được sản sinh từ các nguyên
bào trong tủy xương. Các tế bào hồng cầu chưa trưởng thành có nhân, ti thể, bộ
Golgi... nhưng về cuối giai đoạn phát triển, chúng mất nhân và các bào quan khác,
tích tụ nhiều hemoglobin, sau đó đi vào máu.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Tiểu cầu là những thể nhỏ, khơng màu, có nhiều hạt, kích thước nhỏ hơn
hồng cầu rất nhiều. Tiểu cầu được sản sinh ra khi tế bào chất của các tế bào tủy
xương bị tách ra và đi vào hệ tuần hoàn. Chức năng chính của tế bào là giải phóng
thromboplastin để gây đơng máu.


<b>7. Hệ thống ống dẫn:</b>


Bao gồm tim, động mạch, tĩnh mạch và mao mạch:


<b>7.1. Cấu tạo chung tim: </b>


Tim được hình thành từ nếp gấp của mạch máu bụng, được bao bọc bởi
xoang bao tim, bao tim. Tim chia thành các buồng chính là tâm nhĩ, tâm thất, tâm
nhĩ là nơi nhận máu tĩnh mạch từ các hệ cơ quan về tim, tâm thất có thành dày
hơn, đưa máu từ tim đến cơ quan. Tim hoạt động như một cái bơm. Tim của các
nhóm động vật có xương sống khác nhau về mức độ cấu tạo như sau:


+ Cá miệng trịn đã có tim 2 ngăn (1 tâm nhĩ và 1 tâm thất), phía trước tâm
thất có bầu động mạch, phía tâm nhĩ có xoang tĩnh mạch.


+ Ở các lớp cá, tim cấu tạo gần với cá miệng tròn, song phát triển cao hơn
và hoạt động hữu hiệu hơn. Tim có 4 phần là xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất
và bầu chủ động mạch.


+ Tim lưỡng cư có 3 ngăn (2 tâm nhĩ, 1 tâm thất), từ tâm thất có 1 thân
chung động mạch, từ đó có van xoắn và 3 đơi động mạch.


+ Ở bị sát tim có 3 ngăn (2 tâm nhĩ và 1 tâm thất), tâm thất đã có vách ngăn
chia làm 2, có cung động mạch phổi và cung động mạch chủ từ nửa trái của tâm
thất, từ nửa trái của tâm thất có cung phải chủ động mạch.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

+ Ở thú tim có 4 ngăn, chia làm 2 phần, nửa trái chứa máu động mạch, nửa
phải chứa máu tĩnh mạch. Sai khác với chim là ở chỗ van nhĩ thất phải rất mỏng
chia 3 lá, van nhĩ thất trái có 2 lá, kích thước tim thay đổi.


<b>7.2. Cấu tạo chung của hệ mạch máu: </b>
Cấu tạo phức tạp chia làm 3 hệ chính là


<b>7.2.1. Hệ động mạch: bao gồm các mạch dẫn máu đi đến tế bào mô;</b>


<b>7.2.2. Hệ tĩnh mạch: gồm các mạch dẫn máu đi từ tế bào, mô, cơ quan về tim;</b>
<b>7.2.3. Mao mạch: là các mạch máu vô cùng bé nằm trong mô nối liền động mạch</b>
với tĩnh mạch, chức năng trao đổi chất dinh dưỡng, khí O2 và CO2. Do q trình


trao đổi khí hình thành 3 loại máu: Động mạch màu đỏ tươi do chứa nhiều oxy,
máu tĩnh mạch đỏ sẫm do chứa CO2, máu pha trộn do hòa lẫn 2 loại. Cấu tạo tim


và vịng tuần hồn của chim, thú được trình bày ở hình .


<b>II. HỆ TUẦN HỒN Ở CÁC LỚP ĐỘNG VẬT CĨ XƯƠNG SỐNG.</b>
<b>1. Hệ tuần hồn của lớp miệng trịn.</b>


Tim có 2 ngăn, một tâm thất và 1 tâm nhĩ, ngồi ra cịn có thêm xong tĩnh
mạch.


Hệ động mạch: Từ tâm thất phát ra động mạch bụng, phần góc phình rộng
được gọi là bầu chủ động mạch. Động mạch bụng phát ra 8 đôi động mạch
tới mang, phân nhánh trong vách mang. Sau đó có 7 đơi động mạch rời mang đi
vào động mạch chủ lưng, động mạch này chạy dọc về phía sau, phân nhánh tới nội
quan - gan, sau đó chuyển vào phần dưới xoang tĩnh mạch. Từ xoang tĩnh mạch,


chuyển vào tâm nhĩ, sau
đó sang tâm thất. Vịng
tuần hồn lại tiếp tục.
Như vậy tuần hoàn của
cá Miệng tròn chưa có
ống Cuvie và hệ gánh
thận như các nhóm khác.


Hệ tĩnh mạch:
Máu tĩnh mạch từ phía
sau thân, vào tĩnh mạch
đi rồi phân ra thành 2
tĩnh mạch chính sau, sau
đó đổ vào xoang tĩnh
mạch. Ở phần đầu, máu
tĩnh mạch tập trung vào 2
tĩnh mạch chính trước,
cịn máu phần hầu đổ vào
tĩnh mạch cảnh dưới, sau
đó đổ vào xoang tĩnh
mạch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Gồm 4 phần là xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và cơn chủ động mạch.
Cơn chủ động mạch có thể xem là một bộ phận của tâm thất vì có thành cơ vân, có
van và có thể co bóp tự động.


<i><b>2.2. Hệ động mạch</b></i>


Từ cơn chủ động mạch có chủ động mạch bụng chia ra 2 nhánh trái và phải,
có 5 động mạch tới mang. Máu qua mang nhả bớt khí cacbonic và nhận thêm


nhiều ơxy, hố đỏ tươi. Trên mỗi khe mang có 2 nhánh động mạch rời mang, đổ
vào một động mạch rời mang ngắn, đổ vào rễ chủ động mạch lưng ở mỗi bên. Về
phía sau thân, 2 động mạch này một chủ động mạch lưng chạy tới đi, phân
nhánh vào nội quan.


Về phía trước, rễ chủ động mạch lưng hình thành động mạch cảnh, đưa máu
lên đầu.


<i><b>2.3. Hệ tĩnh mạch</b></i>


Từ tĩnh mạch đuôi chia thành 2 tĩnh mạch chính sau, chạy qua thận,
phân thành các mao mạch, hình thành hệ gánh thận. Mỗi tĩnh mạch chính sau
nhập với tĩnh mạch chính trước (tĩnh mạch cánh) cùng bên, vào ống Cuvie, ở mỗi
bên ống Cuvie đổ vào xoang tĩnh mạch.


Từ ruột có tĩnh mạch ruột tới gan, phân mao mạch làm thành hệ gánh gan.
Tĩnh mạch gan đổ vào xoang tĩnh mạch.


Từ vây chẵn cũng có tĩnh mạch bên cùng đổ vào ống Cuvie.


Hai tĩnh mạch cảnh dưới dẫn máu dưới đầu và tĩnh mạch dưới đòn dẫn máu
từ chi trước, cũng đổ vào ống Cuvie ở mỗi bên.


<b>3. Tuần hoàn cá xương</b>


Hệ tuần hồn cá xương
gồm có tim, hệ động mạch và hệ
tĩnh mạch.


<b>3.1. Tim</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

động mạch, khơng có van và cơ nên khơng co bóp và không được xem là một bộ
phận của tim.


<i>SV=1. Xoang tĩnh mạch; A=2. Tâm nhĩ; V=3. </i>
<i>Tâm thất; CA=4. Nón động mạch;</i>


<b>3.2. Hệ mạch</b>


Động mạch bụng dẫn máu tĩnh mạch từ tâm thất về phía trước, chia thành 4
động mạch tới mang. Máu sau khi được trao đổi khí ở mang theo 4 động mạch rời
mang, tới mỗi bên tập trung vào rễ chủ động mạch. Đi về phía sau 2 rễ chủ động
mạch nhập thành động mạch lưng phân nhánh tới nội quan.


Đi về phía trước nối với nhau thành động mạch đầu. Từ vịng đầu có động
mạch cảnh trong và
ngoài.


Hệ tĩnh mạch: Máu ở
phần đuôi tập trung
thành tĩnh mạch đi,
sau đó phân thành 2
nhánh: Một nhánh đổ
vào tĩnh mạch dưới
ruột, một nhánh đổ
vào tĩnh mạch thận,
qua thận vào tĩnh
mạch chính sau. Ở cá
xương các mạch máu
bên trái làm thành


gánh thận, cịn ở bên
phải, tĩnh mạch chính
sau không phân mao
quản, hình thành hệ
gánh thận rồi đi tới ống Cuvie.


Tĩnh mạch cảnh trên đưa máu từ phần đầu tập trung vào tĩnh mạch chính
sau, đổ vào ống Cuvie. Tĩnh mạch cảnh dưới mang máu phần bụng của mang hợp
với tĩnh mạch gan rổi đổ vào ống Cuvie. Máu từ ống Cuvie mỗi bên đổ vào đi vào
xoang tĩnh mạch rồi sang tâm nhĩ, sang tâm thất. Máu lại vào vịng tuần hồn tiếp
theo.


<b>3.3. Tuần hồn cá phổi.</b>


Ở cá phổi, ngồi mang ra cịn có phổi, thơng với mặt bụng của thực quản,
có vách bên trong ngăn thành tổ ong. Cá phổi khơng có bóng hơi mà có lỗ mũi
trong (lỗ khoan). Hệ tuần hồn cá phổi có các đặc điểm sau:


Tâm nhĩ có vách ngăn khơng hồn tồn, chia thành 2 nửa trái phải và có
nón chủ động mạch, có van dọc chia thành 2 phần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Ngồi tĩnh mạch chính sau, ở cá phơi cịn có tĩnh mạch chủ sau, nhận máu
của tĩnh mạch thận. Như vậy hệ tĩnh mạch cá phổi có vị trí trung gian giữa tuần
hồn của động vật Có xương sống ở nước và ở cạn.


<b>4. Tuần hoàn ở lưỡng cư (Amphibia):</b>
<b>4.1. Tim</b>


Tim có 3 ngăn (2 tâm nhĩ, 1 tâm thất), từ tâm thất có 1 thân chung động
mạch, từ đó có van xoắn và 3 đơi động mạch.



Do xuất hiện phổi, lưỡng thê có thêm vịng tuần hồn phổi (vịng nhỏ) bên
cạnh vịng tuần hồn lớn: Vịng lớn vận chuyển máu đến tế bào và hệ cơ quan,
vòng nhỏ khôi phục oxy cho máu, chuyển máu tới phổi để trao đổi khí.


<i>Tìm và hệ tuần hồn của Lưỡng cư (theo Raven)</i>


<i>(a). Tim của ếch chỉ có 1 tâm thất và 2 tâm nhĩ; (b). Vịng tuần hồn 1. Máu tới</i>
<i>thân; 2. Máu tới phổi; 3. Tĩnh mạch phải; 4. Vách ngăn; 5. Nón động mạch; 6.</i>
<i>Tĩnh mạch phổi; 7. Tâm nhĩ trái; 8. Xoang tĩnh mạch; 9. Tâm thất; 10. mao mạch</i>


<i>hô hấp; 11. Lưới mao mạch</i>


<b>4.2. Hệ động mạch</b>


Hệ động mạch ở Lưỡng cư khơng đi có 3 đôi động mạch: Đôi động mạch
cảnh, đôi cung động mạch chủ, đơi động mạch phổi da.


Nịng nọc và cá cóc có bốn đơi cung động mạch qua mang khơng phân thành mạng
mao quản (khác với cá).


<b>4.3. Hệ tĩnh mạch</b>


Hệ tĩnh mạch ở lưỡng cư có hệ cửa gan, nhờ đó gan lọc chất dinh dưỡng từ
ruột để đưa vào máu.


Tĩnh mạch bụng dẫn máu từ chi sau và phần sau cơ thể thẳng tới tĩnh mạch
của gan. Phần máu còn lại của chi sau đi qua hệ cửa thận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>4.4. Hệ bạch huyết</b>



Các lồi lưỡng cư có hệ bạch huyết phát triển mạnh vì có liên quan đến hô
hấp da. Hệ bạch huyết gồm mạch, tim bạch huyết và túi bạch huyết dưới da.
Lưỡng cư có 2 đôi tim bạch huyết lớn: Một đôi ở bên đốt sống thứ 3 và một đôi ở
gần lỗ huyệt.


Lá lách có dạng trịn, màu đỏ nằm trên màng bụng, gần đầu ruột thẳng.
<b>5. Hệ Tuần hồn Bị sát (Reptilia) </b>


<b>5.1. Tim</b>


Có 3 ngăn (2 tâm nhĩ và 1 tâm thất), khác với lưỡng cư tâm thất đã có vách ngăn
chưa hoàn toàn, chia làm 2. Khi tim co, vách ngăn chưa hồn tồn được nâng lên
chạm tới nóc tâm thất làm cho hai nửa của tâm thất cách biệt nhau hồn tồn, do
đó máu tĩnh mạch ở tâm nhĩ phải và máu máu động mạch ở tâm thất trái không thể
pha trộn. Tim vẫn còn xoang tĩnh mạch, so với lưỡng cư thì phát triển yếu và gắn
với tĩnh mạch phải.


<i>Cấu tạo nội quan cá sấu (theo Hickman)</i>


<i>1. Thuỳ khứu giác; 2. Bán cầu não; 3. Tuyến yên; 4. Não giữa; 5. Tiểu não; 6.</i>
<i>Hành tuỷ; 7. Động mạch cảnh; 8. Phổi; 9. Dạ dày; 10. Động mạch chủ; 11. Lá</i>


<i>lách; 12. Ruột; 13. Tuyến tính; 14. Thận; 15. Tĩnh mạch chủ sau; 16. Hầu; 17.</i>
<i>Tĩnh mạch cảnh; 18. Phế quản; 19. Cung động mạch; 20. Động mạch phổi; 21.</i>


<i>Tĩnh mạch phổi; 22. Tâm thất phải; 23. Tâm thất trái; 24. Gan; 25. Tĩnh mạch</i>
<i>gánh gan; 26. Ruột kết; 27. Lỗ huyệt.</i>


<b>5.2. Hệ mạch</b>


<b>5.2.1 Động mạch</b>


Bị sát có hệ động mạch khác với lưỡng cư: Khơng có thân chung mà chỉ có
3 cung động mạch rời nhau xuất phát từ 2 nửa của tâm thất:


Nhánh thứ nhất: động mạch phổi từ nửa phải tâm thất (mang máu tĩnh
mạch) tách ra thành 2 động mạch phổi đi tới phổi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Nhánh thứ 3: từ nửa trái tâm thất mang máu động mạch uốn sang bên phải,
hình thành cung chủ động mạch phải và động mạch cảnh. Như vậy máu lên đầu là
máu đã được ơxy hố hồn tồn. Tuy nhiên cung chủ động mạch trái và phải uốn
về phía sau hình thành nên chủ động mạch lưng. Máu ở chủ động mạch lưng là
máu pha vì máu ở cung chủ động mạch trái là máu tĩnh mạch, nhưng chứa máu
động mạch nhiều hơn. Từ động mạch chủ lưng hình thành nhiều động mạch lớn ở
phía sau tới nội quan và động mạch nhỏ tới thành cơ thể. Sau cùng động mạch chủ
lưng chia thành 2 động mạch chậu đi tới chi sau và về đuôi thành động mạch đuôi.
<b>5.2.2. Hệ tĩnh mạch</b>


<i><b>* Máu từ phần sau của cơ thể về tim lần lượt theo các tĩnh mạch sau:</b></i>
Tĩnh mạch chậu nhận máu tĩnh mạch từ tĩnh mạch đuôi, tĩnh mạch chân của
tĩnh mạch gánh thận, tập trung thành tĩnh mạch bụng sau đó vào tĩnh mạch chủ
sau.


Tĩnh mạch bụng nhận máu của tĩnh mạch nội quan, hình thành tĩnh mạch
cửa gan, vào gan rồi phân thành hệ gánh gan, sau đó tập trung thành tĩnh mạch
gan, cuối cùng đổ vào tĩnh mạch chủ sau.


<i>Hệ tuần hồn của bị sát (theo Matviep)</i>


Tĩnh mạch chủ sau sau khi nhận máu từ tĩnh mạch thận và tĩnh mạch gan đổ


vào xoang tĩnh mạch rồi vào tâm nhĩ phải.


<i><b>* Máu từ phần trước cơ thể chuyển về tim theo các tĩnh mạch sau:</b></i>
Máu ở tĩnh mạch đầu đổ vào 2 tĩnh mạch cảnh


Máu ở 2 chi trước tập trung vào tĩnh mạch dưới đòn


Máu của tĩnh mạch dưới đòn và tĩnh mạch cảnh tập trung vào tĩnh mạch chủ
trước rồi di vào xoang tĩnh mạch, vào tâm nhĩ phải.


Tĩnh mạch phổi đưa máu đã được ơxy hố về tâm nhĩ trái. Như vậy hệ tuần
hồn của bị sát khác với lưỡng cư là thiếu tĩnh mạch da.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>6.1. Tim</b>


Tim của chim lớn, có cấu tạo rất hồn chỉnh nhờ chim trao đổi chất mạnh,
tim có 4 phần hay buồng (2 tâm nhĩ, 2 tâm thất), chia tim thành 2 nửa trái, phải
riêng biệt: Nửa phải chứa máu tĩnh mạch, nửa trái chứa máu động mạch.


<b>6.2. Hệ động mạch</b>


Chim chỉ có 1 cung động mạch chủ phải, đi từ tâm thất trái dẫn tới động
mạch chủ lưng. Ở gốc cung chủ động mạch phát ra một đôi động mạch không tên,
mỗi động mạch không tên phân thành 3 động mạch là động mạch cảnh, động mạch
dưới đòn và động mạch ngực đi tới cánh và ngực. Thân chính của động mạch
khơng tên vịng qua phế quản phải, kéo dài dọc sống lưng hình thành nên động
mạch chủ lưng, từ đây hình thành các động mạch tới nội quan. Tới vùng chậu, sau
khi hình thành đôi động mạch ngồi và đôi động mạch đùi, động mạch chủ lưng trở
thành động mạch đuôi.



<b>4.3. Hệ mạch máu</b>


Tâm thất phải phát ra thân chung, sau đó tách thành 2 động mạch phổi đưa
máu tĩnh mạch tới phổi.


<i><b>*Hệ tĩnh mạch</b></i>


Chim có hệ gánh thận khơng đầy đủ. Từ tĩnh mạch đuôi phân hai tĩnh mạch
gánh thận. Tĩnh mạch qua thận còn tiếp nhận tĩnh mạch đùi mang máu từ chi sau
về làm thành đôi tĩnh mạch hông, đôi này gắn với nhau làm thành chủ sau. Ở gốc
tĩnh mạch đi cịn có một tĩnh mạch treo ruột cùng đặc trưng cho chim,
đổ vào tĩnh mạch gan. Ngồi ra cịn có tĩnh mạch trên ruột mang máu từ mạc treo
đổ vào tĩnh mạch gánh gan.


Máu ở phần đầu đổ vào đôi tĩnh mạch chủ trước, tĩnh mạch chủ sau đi vào
tâm nhĩ phải.


Máu ở phổi đổ vào 4 tĩnh mạch phổi, sau đó vào tâm thất trái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Máu tĩnh mạch từ tâm thất phải tới phổi để trao đổi khí, theo tĩnh mạch phổi về
tâm nhĩ trái là vòng tuần hồn nhỏ. Như vậy máu khơng pha trộn.


<b>* Nhịp tim</b>


So với nhiều động vật khác thì tim chim đạp nhanh, nhịp tim tỷ lệ với
nghịch với khối lượng cơ thể. Ví dụ ở gà là 250 lần/phút, ở chim sơn tước đầu đen
khi ngủ là 500 lần/phút, còn khi hoạt động thì đạt tới 1.000 lần/phút. Nhờ vậy máu
lưu thơng nhanh, đảm bảo cung cấp ôxy cho cơ thể kịp thời. Mặt khác hồng cầu
của chim có nhiều và lồi hai mặt, có nhân, hemoglobin liên kết với ơxy và khí
cacbonic yếu nên việc giải phóng ơxy và khí cacbonic thực hiện nhanh. Điều này


giải thích vì sao thân nhiệt của chim rất cao (khoảng 38 - 45,50<sub>C) tuỳ theo loài.</sub>


<b>7. Hệ tuần hoàn ở lớp Thú (Mammalia) </b>
<b>7.1. Tim: </b>


Tim của thú có 4 ngăn, chia làm 2 phần, nửa trái chứa máu động mạch, nửa
phải chứa máu tĩnh mạch. Sai khác với chim: Van nhĩ thất phải rất mỏng chia 3 lá,
van nhĩ thất trái có 2 lá, kích thước tim thay đổi.


<i>Cấu tạo tim của thú (theo Hickman)</i>


<i>1. Dộng mạch; 2. Hạch xoang; 3. Hạch tâm nhĩ; 4. Tâm nhĩ phải; 5. Nhánh chính</i>
<i>động mạch tim; 6. 2 nhánh trái, phải của động mạch tim; 7. Tâm thất phải; 8.</i>


<i>Mao mạch; 9. Tâm thất trái; 10. Tâm nhĩ trái</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Sơ đồ vịng tuần hồn ở người</i>


<b>III. KẾT LUẬN.</b>


Hệ tuần hồn ở động vật có xương sống rất tiến hóa so với hệ tuần hồn của
các ngành động vật khác. Ngay bản thân ngành động vật của xương sống thì hệ
tuần hồn của nó cũng tiến hóa từ lớp động vật bật thấp cho đến lớp động vật cao
hơn. Từ hệ tuần hoàn đơn cho đến hệ tuần hồn kép, từ máu đi ni cơ thể là máu
pha (vừa có Oxi, vừa có CO2) đến máu đi ni cơ thể là máu khơng pha (Hồn


tồn mang Oxi).


Tài liệu tham khảo: .



</div>

<!--links-->


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×