Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phát triển phê bình luận lí học văn học ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.78 KB, 6 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 5, pp. 53-58
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0059

PHÁT TRIỂN PHÊ BÌNH LN LÍ HỌC VĂN HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đỗ Văn Hiểu
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Từ sau cải cách 1986 đến nay, trong hoạt động phê bình nghiên cứu văn học ở
Việt Nam khơng hề nhắc đến phê bình ln lí học văn học. Nhưng theo tơi, ở Việt Nam
phát triển phê bình ln lí học văn học có một tiềm năng rất lớn. Bài viết này sẽ khái quát,
phân tích tiềm năng phát triển phê bình ln lí học văn học ở Việt Nam từ thực tiễn sáng
tác văn học, các phương pháp phê bình đang tồn tại ở Việt Nam, tâm lí tiếp nhận của độc
giả cũng như từ nhu cầu phát triển của hoạt động văn học nói chung.
Từ khóa: Phê bình ln lí học văn học, phê bình văn học, ln lí học.

1.

Mở đầu

Hiện nay, trong nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam tồn tại rất nhiều phương pháp phê
bình văn học, hình thành cục diện đa nguyên, nhưng từ sau Đổi mới, thuật ngữ phê bình ln lí học
văn học chưa một lần được chú ý [1, 4, 8, 9]. Bài viết này muốn từ những vận động trong nghiên
cứu văn học thế giới và thực tiễn hoạt động văn học trong nước, giới thiệu phương pháp phê bình
ln lí học văn học và phân tích khả năng phát triển của phương pháp này ở Việt Nam.

2.
2.1.

Nội dung nghiên cứu


Chuyển hướng luân lí trong nghiên cứu văn học thế giới – cơ hội đến từ bên
ngoài

Nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và đạo đức luân lí ngay từ thời cổ đại đã được chú ý
đến. Bởi từ rất xa xưa, các học giả đã nhận ra mối quan hệ tất yếu giữa văn học và đạo đức luân lí.
Trên tổng thể, luân lí học phương Tây quan tâm khảo sát sâu rộng các hiện tượng ý thức đạo đức,
quy phạm đạo đức,à hoạt động đạo đức và giải thích bản chất, chức năng, quy luật của các phương
diện đạo đức trên phương diện thế giới quan và phương pháp luận. Đạo đức với tư cách là hình
thái ý thức phản ánh tồn tại xã hội, chính điều này đã quyết định quan hệ tương hỗ giữa nghiên
cứu luân lí và tồn tại xã hội. Trong khi đó, văn học thơng qua tưởng tượng nghệ thuật và miêu tả
nghệ thuật chuyển hóa hiện thực thành thế giới nghệ thuật tập trung thể hiện một cách kinh điển
các hiện tượng đạo đức xã hội của nhân loại, miêu tả các mâu thuẫn, xung đột của đời sống xã hội.
Không chỉ thần thoại, mà cả sử thi Home, kịch, thơ ca, truyện kí Hi Lạp. . . đều thể hiện nội dung
luân lí đạo đức. Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại Hi - La đã có những biện luận kịch liệt về quan
hệ giữa văn học và ln lí học, nhưng cơng trình nghiên cứu luân lí học văn học chỉ thực sự xuất
Ngày nhận bài: 5/1/2016. Ngày nhận đăng: 20/5/2016
Liên hệ: Đỗ Văn Hiểu, e-mail: /

53


Đỗ Văn Hiểu

hiện vào nửa sau thế kỉ XIX. Bài diễn giảng Luân lí học văn học ở Dartmouth College năm 1838
của Ralph Waldo Emerson, Bàn về văn học và ln lí học (1853) của White có ảnh hưởng tương
đối lớn. . . Sau đó, nửa sau thế kỉ XIX xuất hiện những chuyên luận học thuật như Luân lí học
và mĩ học thơ cơ hiện đại (J.B.Selkir, 1878), Luân lí học tiểu thuyết hiện đại (Trevor Creighton,
1884), Tuyển tập văn học và luân lí học (Wiliam E.A.Xon, 1889), Luân lí học văn học nghệ thuật
(Maurice Thompson, 1893), Luân lí học văn học (John A.Kersey, 1894). . . Đầu thế kỉ XX, dưới
ảnh hưởng của chủ nghĩa duy mĩ và lí luận ngơn ngữ của Saussure, chủ nghĩa thực chứng, nghiên

cứu văn học phương Tây đã thực hiện sự chuyển hướng ngơn ngữ luận, với Phê bình mới, Chủ
nghĩa hình thức Nga, Chủ nghĩa cấu trúc, Kí hiệu học. . . đều nhấn mạnh vị trí trung tâm của ngơn
ngữ, nhấn mạnh quy luật nội tại của bản thân văn học, từ đó tiến thêm một bước phân tách quan
hệ gữa văn học và ngôn ngữ. Vấn đề đạo đức luân lí luân lí trong nghiên cứu văn học bị mờ hơn
khi nghiên cứu văn học bước vào giai đoạn hậu hiện đại với sự xuất hiện của chủ nghĩa tương đối,
đa nguyên giá trị. . . . Tuy nhiên, nghiên cứu văn học và luân lí học vẫn là đối tượng được quan tâm
của xã hội nhà văn và bạn đọc, như cuốn Dẫn luận luân lí học kịch thời đại Elizabeth: nhạc giao
hưởng Shakepear (Harold Bayley, 1906), Văn học Hi Lạp và Tơn giáo ln lí học và ln lí học
của tồn thư cựu ước (Stella Louise Lange, 1935). . . Nhưng nhìn chung, nghiên cứu ln lí học
văn học đã trầm xuống.
Từ những năm 80 của thế kỉ XX, nghiên cứu văn học thế giới lại có bước chuyển hướng
văn hóa với hàng loạt khuynh hướng nghiên cứu như Chủ nghĩa nữ quyền, Chủ nghĩa hậu thực
dân, Phê bình sinh thái. . . Lúc này, nghiên cứu ln lí học văn học lại được phục hưng. Có khuynh
hướng nghiên cứu giá trị luân lí của văn học nhà văn và việc đọc, như Tưởng tượng đạo đức: bàn
về văn học và luân lí học (Chrristopher Laurensen, 1986), Luân lí học của sự đọc (J.Hills Miller,
1987). . . luân lí học văn học đã trở thành một khoa học mới được đông đảo giới học thuật chú ý.
Bên cạnh đó cịn có xu hướng chuyển từ nghiên cứu giá trị đạo đức thông thường của văn học sang
phân tích vấn đề luân lí của tác phẩm, nhà văn. Gray. Wei và David Williams chủ biên cuốn Văn
học và luân lí học (1988) đã thể hiện rõ ràng khuynh hướng này. Sang thế kỉ XXI thì hướng này
phát triển thêm một bước với những cơng trình như Song trùng điểm nhìn: triết học đạo đức và
Kịch Shakepear (2007), Tưởng tượng đạo đức của T.S.Eliot thế kỉ XX (2008). Như vậy phê bình
ln lí văn học đã thốt khỏi sự chèn ép của các trường phái nghiên cứu khác và trở lại, đồng thời
đã có những biểu hiện mới. Có học giả cho rằng, sang thế kỉ XXI nhân loại phải đối diện thường
xuyên với vấn đề sinh thái tự nhiên, sinh thái xã hội, cho nên, luân lí đạo đức và môi trường tự
nhiên trở thành vấn đề chủ yếu của thế kỉ mới, chính điều này đã thúc đẩy sự chuyển hướng của
luân lí học văn học.
Ở Trung Quốc, hình thức biểu hiện sớm nhất của phê bình ln lí – phê bình đạo đức - bắt
đầu từ thời Chu. Chỉ có điều phê bình ln lí lúc đó chủ yếu dùng ý thức đạo đức chính trị và
quan hệ ln lí để phân tích và bình giá tác phẩm văn học nghệ thuật, sau đó, thơng qua sự khuếch
trương của Khổng Tử, nó có ảnh hưởng sâu sắc đến sáng tác và phê bình văn nghệ sau này. Đến

những năm 80 của thế kỉ XX, giáo sư Chu Hiến bắt đầu nghiên cứu cơng trình của đại diện cho
phê bình ln lí Mĩ Wayne Clayson Booth, năm 1984 đã đăng bài Một vài khuynh hướng nghiên
cứu văn học phương Tây hiện đại trong đó đặc biệt đã nói đến phê bình ln lí hiện đại phương
Tây. Cuốn Tu từ học tiểu thuyết của Booth do Chu Hiếu dịch năm 1987 đã đánh dấu phê bình ln
lí Mĩ bắt đầu được tiếp nhận và truyền bá ở Trung Quốc, đặt cơ sở cho phê bình ln lí phát triển
mạnh ở Trung Quốc đầu thế kỉ XXI. Năm 2009 Mục Lôi chủ biên và cho xuất bản cuốn Sự phục
hưng của tu từ của Clayson Booth tập hợp 17 bài kinh điển giới thiệu quan điểm chủ yếu và phê
bình mang tính chất đại diện cho phê bình ln lí Mĩ của ơng. Nhưng phê bình ln lí học văn học
ở Trung Quốc chỉ thực sự phát triển mạnh với giáo sư Đại học Sư phạm Hoa Trung Nhiếp Trân
54


Phát triển phê bình ln lí học văn học ở Việt Nam hiện nay

Chiêu. Từ năm 2004 đến nay ông đã chủ trì 5 hội thảo quốc tế về phê bình ln lí học văn học thu
hút sự tham gia của hàng trăm học giả trong nước và quốc tế mỗi lần tổ chức, đồng thời cho xuất
bản cuốn Dẫn luận phê bình ln lí học văn học (2014).

2.2.

Phê bình luân lí học văn học – phương pháp nghiên cứu văn học đặc thù

Cho đến nay, phương pháp phê bình luân lí học văn học vẫn chưa thực sự được chú ý ở Việt
Nam. Ấn tượng về một thời phê bình văn học có khuynh hướng chụp mũ, quy kết, phán xét khá
nặng nề đã dẫn đến tình trạng dị ứng với phương pháp phê bình ln lí đạo đức trong nghiên cứu
văn học, mặc dù ở chỗ này chỗ khác, trong quá trình nghiên cứu các nhà nghiên cứu văn học Việt
Nam vẫn khắc khoải về tình trạng tha hóa về đạo đức. Để xóa bỏ định kiến này, trước hết, chúng ta
cần phải giới định về phương pháp phê bình ln lí học văn học trong tương quan với ln lí học
và phê bình đạo đức.
Phê bình ln lí học văn học và ln lí học có mối quan hệ gần gũi bởi vì phê bình ln lí

học văn học đã mượn phương pháp luân lí học để nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, khi vận dụng
phương pháp ln lí học nghiên cứu văn học, phê bình ln lí học văn học vẫn khơng xa rời các
phương pháp nghiên cứu văn học khác. Đối tượng nghiên cứu của phê bình ln lí học văn học và
ln lí học cũng khác nhau. Đối tượng nghiên cứu của luân lí học là các hiện tượng đạo đức trong
xã hội hiện thực, hoặc nếu có nghiên cứu các hiện tượng đạo đức trong tác phẩm văn học thì ln
lí học cũng chỉ coi nó như một tư liệu để đánh giá vấn đề đạo đức trong đời sống hiện thực xã hội,
từ đó đưa ra các phán đốn giá trị thiện ác. Trong khi đó, đối tượng nghiên cứu của phê bình ln
lí học văn học lại là các hiện tượng đạo đức trong thế giới sáng tạo bằng ngôn từ nghệ thuật, giống
hiện thực mà không phải là hiện thực, từ đó đưa ra các phán đốn thẩm mĩ. Nhiếp Trân Chiêu
khẳng định: “phương pháp phê bình ln lí học văn học và ln lí học vừa có điểm tương đồng
vừa có điểm khác biệt trên phương diện đối tượng, nội dung và mục đích đạt tới” [5;9].
Cũng cần phải phân biệt Phê bình ln lí học văn học với Phê bình đạo đức. Về bản chất,
phê bình ln lí học văn học là một phương pháp nghiên cứu văn học, cho nên điều mà nó quan
tâm là phân tích, lí giải các hiện tượng đạo đức trong thế giới do nhà văn sáng tạo ra, một thế giới
nghệ thuật có khơng gian, thời gian, quy luật và số phận riêng. Trong q trình phân tích lí giải
đó, phương pháp phê bình này chú ý đảm bảo nguyên tắc thẩm mĩ, ứng xử với vấn đề đó như ứng
xử với một sản phẩm của sáng tạo nghệ thuật. Trong khi Phê bình đạo đức lại ứng xử với các hiện
tượng đạo đức từ lập trường của hiện thực, quy kết nó về thực tại. Chính điều này khiến cho giới
nghiên cứu phê bình Việt Nam dị ứng với phê bình đạo đức. Bởi phương pháp này dễ dẫn đến quy
chụp, phán xét không để ý đến bản chất thẩm mĩ của văn học. Nhiếp Trân Chiêu từng chỉ ra: “Phê
bình ln lí học văn học và phê bình đạo đức khác nhau ở chỗ phê bình ln lí học văn học kiên trì
bình giá văn học từ lập trường của hư cấu nghệ thuật, cịn phê bình đạo đức lại phê bình văn học
từ lập trường hiện thực và chủ quan” [5;11].
Trên tổng thể, sang thế kỉ mới, giới nghiên cứu văn học Trung Quốc đã tiến hành giới định
lại, tiến tới hồn thiện trong quan niệm về phê bình ln lí học văn học. Ở phương diện này, người
có đóng góp khá lớn là Nhiếp Trân Chiêu. Ơng đã xuất phát từ nhiều góc độ để có một cái nhìn
tương đối tồn diện về phương pháp phê bình cổ điển mà hiện đại này. Từ góc độ quan hệ giữa
nhà văn và sáng tác, phê bình ln lí nghiên cứu quan niệm đạo đức luân lí của nhà văn và đặc
điểm, nguyên nhân, bối cảnh thời đại, quá trình hình thành những quan niệm này; quan hệ giữa
quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức mà tác phẩm biểu hiện; ảnh hưởng của

quan niệm đạo đức luân lí của nhà văn đến sáng tác của họ. Riêng đối với sáng tác của nhà văn,
phê bình luân lí nghiên cứu các quan hệ giữa tác phẩm và các hiện tượng đạo đức tồn tại trong
55


Đỗ Văn Hiểu

xã hội; khuynh hướng đạo đức mà tác phẩm biểu hiện; giá trị xã hội và giá trị đạo đức trong tác
phẩm. Đối với quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, phê bình ln lí nghiên cứu cảm thụ của người
đọc về quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức trong tác phẩm, sự bình giá của
người đọc về quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức trong tác phẩm, ảnh hưởng
của khuynh hướng đạo đức trong tác phẩm đối với người đọc và xã hội. Phê bình luân lí cịn bao
gồm: làm thế nào từ góc độ ln lí học bình giá khuynh hướng đạo đức của nhà văn và tác phẩm;
quan hệ giữa quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức mà tác phẩm biểu hiện với
truyền thống; ảnh hưởng của quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức của tác
phẩm đến nhà văn và văn học đời sau; tác phẩm văn học, đạo đức xã hội và giáo dục đạo đức xã
hội. Mục đích của phê bình ln lí học văn học khơng chỉ là thuyết minh đặc điểm của luân lí đạo
đức trong văn học hoặc vấn đề luân lí học của việc nhà văn sáng tác văn học, mà cịn là từ góc độ
đạo đức ln lí nghiên cứu các vấn đề về quan hệ giữa tác phẩm văn học và xã hội, văn học và nhà
văn, văn học và người đọc
Như vậy, trong khái quát giới định lại về phê bình ln lí học văn học của giới nghiên cứu
Trung Quốc đã cho thấy diện mạo mới của phê bình ln lí học văn học trong thời kì mới. Phê bình
ln lí học văn học khơi phục lại vị trí của tác giả trong q trình hình thành văn bản; thừa nhận
tính xã hội của văn bản. Nhấn mạnh vai trị của người đọc, có điều, văn học bị coi là kẻ khác của
người đọc, người đọc là tham tố của vấn đề luân lí mà tác giả - người thiết kế văn bản quan tâm.
Phê bình ln lí phát hiện ra diện mạo đạo đức, mục đích đạo đức ngay trong kết cấu hình thức,
mơ hình thể loại, mơ hình diễn ngơn cụ thể. Tất nhiên, phê bình ln lí học văn học cũng khơng
qn vai trị của chính trị, xã hội. Cuối cùng, phê bình ln lí học văn học tiếp tục bàn luận vai trị
của chính trị, xã hội. Rõ ràng, trong thời kì mới, phê bình ln lí học văn học chú ý đến quan hệ
tương tác giữa việc làm thế nào để miêu tả kẻ khác, xác lập quan hệ trách nhiệm với kẻ khác, so

sánh thể nghiệm kẻ khác và việc đọc văn bản. Thông qua việc đọc văn bản có thể thu được kinh
nghiệm đối xử một cách luân lí với kẻ khác và bản thân việc đọc chính là trải nghiệm đối xử luân
lí với người khác. Có thể thấy, phê bình ln lí học văn học hiện đại đã hấp thu được những thành
quả mới nhất của nghiên cứu văn học để tự hình thành nên một diện mạo mới.

2.3.

Đời sống văn học Việt Nam – cơ hội đến từ bên trong

Từ góc độ thực tiễn sáng tác, có thể thấy văn học Việt Nam từ xưa đã thấm đậm tinh thần
đạo đức luân lí. Đây là cơ sở lí tưởng cho phê bình ln lí học văn học phát triển. Ngự trị trong
thời trung đại là quan niệm sáng tác “văn dĩ tải đạo”. Dòng chủ lưu của sáng tác thời kì đó là văn
học thể hiện các phạm trù luân lí đạo đức phong kiến, ngay kiệt tác Truyện Kiều cũng không xa
rời quan hệ, xung đột đạo đức. Đến những năm đầu thế kỉ XX, vấn đề lớn trong văn học lãng mạn
cũng là vấn đề xung đột giữa quan niệm đạo đức truyền thống và hiện đại, vấn đề khát vọng hạnh
phúc cá nhân và nền tảng đạo đức phong kiến. Văn học hiện thực phê phán cũng tập trung vào vấn
đề quan hệ giữa con người và xã hội hiện thực, vào việc xử lí vấn đề đạo đức nhân phẩm trong
quan hệ với hiện thực nghiệt ngã. Đến văn học cách mạng, bao trùm lên tất cả là vấn đề đạo đức
cách mạng, vấn đề đạo đức của con người trong công cuộc xây dựng xã hội mới, đạo đức của con
người trong ứng xử với chiến tranh, kẻ thù, chiến hữu. . . Rồi văn học thời kì hậu chiến, vấn đề
đạo đức trong thời kì mới được đặt ra mãnh liệt hơn, đặc biệt là khi cơ chế thị trường, đồng tiền
can thiệp mạnh mẽ vào các mối quan hệ xã hội, vấn đề ứng xử với quá khứ, với những tàn dư của
chiến tranh như thế nào. Điều này có thể thấy rất rõ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Ma
Văn Kháng, Chu Lai. . . Thực tiễn sáng tác như vậy là mảnh đất màu mỡ để phê bình ln lí học
văn học phát triển. Chúng ta có thể sử dụng các thuật ngữ cơng cụ như ý thức luân lí, trật tự luân
lí, cấm kị ln lí, hồn cảnh ln lí, căn cước ln lí, hỗn loạn luân lí, tuyến luân lí chi phối, liên
56


Phát triển phê bình ln lí học văn học ở Việt Nam hiện nay


kết các sự kiện luân lí và xung đột luân lí. Các thuật ngữ này giúp nhà phê bình có thể thao tác
được lí thuyết nhằm ứng dụng vào nghiên cứu các hiện tượng văn học cụ thể. Từ xưa đến nay, mặc
dù trải qua nhiều lần đổi mới, nhưng về đại thể, sáng tác văn học Việt Nam chưa bao giờ là những
trị chơi hình thức thuần túy.
Từ thực tiễn nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam, cũng có thể nhận thấy, hiện nay là thời
điểm thuận lợi để phát triển phê bình ln lí học văn học. Nghiên cứu văn học trước đổi mới chịu
ảnh hướng của khơng khí văn học phục vụ chính trị, cho nên đã coi nhẹ bản chất thẩm mĩ của văn
học. Muốn thốt khỏi khơng khí đó, dịng chính của nghiên cứu văn học sau 1986 là dòng truy tìm
bản chất nghệ thuật của văn học, khẳng định giá trị tự thân của tác phẩm văn học. Nhưng cuối thế
kỉ XX đầu thế kỉ XIX, hướng nghiên cứu nội tại tồn tại trên dưới 20 năm đã khơng cịn giữ vị trí
độc tơn nữa, bên cạnh chủ nghĩa hình thức Nga, kí hiệu học, Chủ nghĩa cấu trúc, Tự sự học, Thi
pháp học đã xuất hiện Phân tâm học, Chủ nghĩa nữ quyền, Phê bình hậu thực dân, Phê bình sinh
thái và sự trở lại của Mĩ học tiếp nhận. Giống như bối cảnh dẫn đến chuyển hướng luân lí học trong
nghiên cứu văn học thế giới, đây cũng là cơ hội để phê bình ln lí học văn học có thể được nhìn
nhận và phát triển ở Việt Nam. Ngoài ra, việc tồn tại phong phú các phương pháp phê bình khác
khơng hề mâu thuẫn với việc phát triển phê bình ln lí, ngược lại, cịn tạo điều kiện thuận lợi để
phê bình ln lí phát triển. Phê bình ln lí học văn học khơng hề tách rời các phương pháp phê
bình khác. Chẳng hạn, cũng giống như phê bình lịch sử, phê bình ln lí quan tâm đến các hiện
tượng văn học, xác lập địa vị lịch sử của nhà văn, tác phẩm, cũng đặt các hiện tượng văn học vào
bối cảnh lịch sử để đánh giá. Tất nhiên phê bình ln lí trong thực tiễn phê bình khơng thể tách rời
phê bình thẩm mĩ, khơng né tránh các yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật. Đây cũng là xu hướng
tồn tại chung của các phương pháp phê bình hiện nay. Nói như Trâu Kiến Qn: “Phê bình lịch sử
văn học, phê bình xã hội học, phân tâm học, phê bình nữ quyền chú trọng tư liệu lịch sử, xã hội mà
tác phẩm văn học cung cấp, nhưng cũng không xa rời sự thực thẩm mĩ văn học”. Sự phong phú đa
dạng của các khuynh hướng phê bình văn học ở Việt Nam hiện nay trở thành điều kiện thuận lợi
để phê bình ln lí học văn học phát triển. Thành tựu của các phương pháp phê bình văn học khác
sẽ được tận dụng để giúp cho phê bình ln lí ln lí làm tốt hơn nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Phê bình ln lí học văn học cũng có thể tìm thấy cơ hội phát triển trong tâm lí tiếp nhận
của độc giả Việt Nam. Cho dù bản thân người viết chưa có dịp tiến hành điều tra xã hội học về vấn

đề thị hiếu độc giả, nhưng thông qua những tác phẩm được sáng tác, dịch thuật ở Việt Nam có thể
gián tiếp thấy được vấn đề tâm lí tiếp nhận. Bởi sáng tác văn học, dịch thuật văn học trước hết là
sáng tác dịch thuật cho độc giả, nếu độc giả không hưởng ứng, thì tự nhiên tác phẩm khơng có lí
do để tồn tại và tiếp tục xuất hiện. Từ thực tiễn sáng tác và dịch thuật có thể thấy độc giả Việt Nam
chưa bao giờ tỏ ra lạnh nhạt với những vấn đề thuộc phạm trù ln lí đạo đức. Đó cũng là một
trong những lí do khiến sáng tác mang nhiều trăn trở về vấn đề luân lí đạo đức gia đình, xã hội, về
cách ứng xử với con người với tự nhiên của Nguyễn Huy Thiệp được hưởng ứng mạnh mẽ như vậy
ở Việt Nam từ sau đổi mới đến nay. Xa rời những trăn trở về xã hội, cuộc sống con người, trong đó
có vấn đề ln lí đạo đức, những thể nghiệm hình thức thuần túy hoặc thiên sang thể nghiệm hình
thức chưa bao giờ được nhiệt liệt đón nhận ở Việt Nam.

3.

Kết luận

Nhìn chung, ở Việt Nam từ góc độ sáng tác, nghiên cứu văn học đến tâm lí tiếp nhận đều
cho thấy phê bình ln lí học văn học có nhiều cơ hội phát triển. Khơng thể phủ nhận ảnh hưởng
sâu sắc của luân lí đạo đức Nho giáo trong đời sống văn hóa văn học Việt Nam hàng nghìn năm.
Cho nên, phát triển phê bình luân lí văn học cũng là xây dựng và vận dụng một phương pháp phê
57


Đỗ Văn Hiểu

bình có thể giúp giới nghiên cứu thuận lợi hơn trong việc tìm ra đặc trưng của văn học Việt Nam
so với các nền văn học khác trên thế giới, đặc biệt là văn học phương Tây. Phát triển phương pháp
phê bình này cũng là một cách nhằm tránh rơi vào nghiên cứu văn học một cách khép kín, kinh
viện, nâng cao trách nhiệm của người sáng tác, người đọc đối với các vấn đề xã hội, môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Chu Hiến, 1984. Một vài khuynh hướng nghiên cứu văn học phương tây hiện đại. Tạp chí

Nghiên cứu văn nghệ, Số 6.
[2] Clayson Booth, 1987. Tu từ học tiểu thuyết, Chu Hiến dịch. Nxb Đại học Bắc Kinh.
[3] Clayson Booth, 2009. Sự phục hưng của tu từ, Mục Lôi dịch. Nxb Dịch Lâm.
[4] Nhiếp Trân Chiêu, 2014. Dẫn luận phê bình ln lí học văn học. Nxb Đại học Bắc Kinh.
[5] Nhiếp Trân Chiêu, 2006. Phê bình ln lí học văn học và phê bình đạo đức. Tạp chí Nghiên
cứu Văn học nước ngồi, Số 2, tr.9.
[6] Nhiếp Trân Chiêu, 2006. Phê bình ln lí học văn học và phê bình đạo đức. Tạp chí Nghiên
cứu Văn học nước ngoài, Số 2, tr.11.
[7] Nhiếp Trân Chiêu, 2004. Phê bình ln lí học văn học: Tìm hiểu mới về phương pháp phê bình
văn học. Tạp chí Nghiên cứu Văn học nước ngoài, Số 5, tr.19-20.
[8] Lawrence Buell, 1999. Introduction: In pursuit of Ethics. PMLA 114, pp.7-19.
[9] Trâu Kiến Quân, 2005. Phẩm chất riêng và kiêm dung của phê bình ln lí học văn học Tạp
chí Nghiên cứu Văn học nước ngoài, Số 6, tr.10.
ABSTRACT
The potentiality of ethical literary criticism in Vietnam nowadays
Abstract: Since Renovation policy 1986, the literary crictism activities in Vietnam have
never reminded about the term ‘ethical literary criticism’. But we consider that, this field has a
great potentiality in Vietnam. In this paper, we will present the general analysis of that potentiality
in literary creation, the methods of literary criticism, the receiving psychology of readers and the
need of developing the literary activities as well.
Keywords: Ethical literary criticism, Literary crictism, Ethics.

58



×