Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 155 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Có tiếng nổ uỳnh uỳnh như tiếng công nông, tiếng bánh xe lộc cộc trên đá
dăm lao vào ngõ, gạt cánh cổng gỗđánh xoẹt. Thằng mất dạy nào đấy, có
biết nhà ai đây khơng mà láo lếu thế hở? Thằng nào? Bà có ra mà lơi cổ
nó vào đây tơi dạy cho một bài khơng? Con cái nhà ai thế không biết?".
"Bố? Con đây chứ thằng nào. Bố lại đang uống rượu à, may quá, con về
đúng lúc. Đang thèm rượu muốn chết đây bố ạ". "Mày... là mày đấy à?
Rước cái của nợ ấy ở đâu về thế, hay lại trộm cắp của ai, hở? Tao là lao
không để yên đâu nhé! Ngồi xuống, lấy thêm cái chén. Mẹ mày vừa lĩnh
lương hưu, chi hẳn cái đùi với cả đĩa dồi, cứ nhắc mãi không thấy cái mặt
giặc (là mày ấy) đâu cả: Rõ thiêng. Ăn đi, rồi nói tao nghe, mày lấy cái
của nợ ấy ở đâu ra?". "Bố cứ hay đùa, lấy đâu ra? Nửa năm mửa mật của
con đấy chứ lấy ở đâu. Bố có biết của độc là cái gì khơng? Là cái mà cả
Hà Nội chỉ có vài tay thợ biết sửa nó như thế nào, thay thế phụ tùng ở
đâu, là cái mà chỉ nhìn đã biết cái thằng người ngồi trên nó là loại gì,
là...". "Là loại đầu trộm đi cướp, loại thích chít khăn tang lao như điên
lúc nửa đêm ấy hả. Gì thì gì, con tao hay khơng phải con tao, hễ cứ ngồi
trên cái của nợ ấy trông đã khơng đứng đắn, khơng tử tế, đã là loại thích
chơi lười làm, loại khơng coi thiên hạ ra gì, loại...". "Thôi nào, bố! Bố cho
con ăn vài miếng đã, kẻo lại phụ lòng mẹ. Ăn xong rồi con với bố nói
chuyện cái xe. Con mời bố một chén. Mẹ mua rượu nhà ai mà thơm thế,
mai con xuôi, mẹ kiếm cho con vài lít nhá. Tuần sau thằng Bờm trịn sáu
tháng, đám bạn con thế nào cũng đến, cho chúng nó chết tại trận".
Xong bữa, bố khơng cịn nhớ gì đến cái xe nữa, bố ngủ mất rồi. Bố bao
giờ cũng thế, uống vào là ngủ, là khơng biết trời đất gì nữa. Mẹ bảo đấy
chồng mẹ chỉ có đánh đẫy một giấc, xong, khơng ị ê gì. Sống ở đất rượu
mà như bố, đàn ơng chỉ có một. Làng có bao nhiêu ơng chồng thì bố là
tấm gương của bấy nhiêu ông. Ngẫm ra, mẹ là người đáng được tự hào
nhất ở làng. Anh cả làm ra nhiều tiền, mua một cái nhà to tướng, sau cơn
sốt đất này dưới Hà Nội, anh có cả tỷ bạc trong tay. Trong cái nhà bốn
tầng to thù lù ấy, anh trang bị cho chị dâu cả với thằng cháu đích tơn của
ơng bà đến tận răng mọi thứ đồ dùng hiện đại, bóng lống, gõ vào đâu
cũng kêu coong coong. Bà hãi nhất là phải xuống đấy, thơi thì chúng mày
thỉnh thoảng đưa cháu về cho tao hít hà một tí, đừng bắt tao phải xuống ở
trong cái nhà ấy. Tao phát bệnh ra mất.
Anh thứ chưa lấy vợ, ở một mình trong căn hộ bé như cái lỗ mũi tít trên
tầng năm một khu chung cư. Mắt cận bảy tám đi ốp, nói nửa câu sách vở
nửa câu, cứ như tung hoả mù trước mặt người ta. Mấy ơng đồ Nho cịn
sót lại trong làng, hễ thấy anh thứ về là chèo kéo đến nhà đàm đạo chữ
nghĩa bằng được.
Cậu út có cái thú mua bán, đổi chác xe máy, mỗi lần về làng lại cưỡi một
cái xe mới. Thôi thì đủ kiểu, nhưng nhất thiết là cái nào cũng phải nổ thật
to. Như hôm nay đây, cái xe to như xe bị nghênh ngang giữa làng, hàng
xóm được một mẻ nghe chó sủa điếc lai. Mẹ chẳng ưa gì cái xe kềnh
càng, đúng như bố bảo, ngồi trên cái xe ấy, người tử tế mấy cũng thành ra
khơng tử tế. Nhưng nó lại bảo mẹ, vụ khoai tây này, cả làng gom lại, bán
tiền thế thì biết nói gì nữa. Nhưng thiếu gì cách để khoe tiền, tại sao lại
phải mua một cái xe như thế mà đi. Thanh niên bây giờ lạ thật, mất liền
mua cái khơng tử tế vào mình thì chỉ có chúng nó. Thật khơng thể hiếu
nổi.
Đêm, khuya hẳn rồi mà nó cịn dong ra ngõ, đánh thức bọn trẻ con hàng
sông. "Chúng mày có đứa nào biết chị Thơm, con ông Vạn lái đị
khơng?". "Biết chứ sao không. Chị Thơm ngày nào chẳng mang ngô sang
chợ huyện từ sớm tinh mơ". "Nhưng chị Thơm không phải là con ông
Vạn nữa rồi". "Sao lại không phải là con ông Vạn nữa? Chúng mày chỉ
huyên thiên". "Thật mà. Chị Thơm thành con ông Tỉnh từ lâu rồi, bây giờ
sang ở hẳn bên huyện bán thịt rồi. Con dâu ơng Tỉnh chẳng ở đấy thì ở
đâu". "Con dâu à, thế thì phải nói rõ là chị ấy đi làm dâu nhà người ta
chứ". "Anh út ơi, ông Q. bảo lẽ ra ông ấy hỏi chị Thơm cho anh mà, phải
không? Anh mà lấy chị Thơm, chở lợn cho chị ấy bằng cái xe này thì
sướng phải biết, nhỉ . Chồng chị Thơm ngày nào chẳng chở lợn bên này
về mổ, nhưng chỉ chở bằng xe Min thôi".
Dịng sơng chảy dưới ánh trăng giữa tháng sóng sánh vàng. Con đị của
ơng Vạn lấp ló ánh đèn. Sau cái đận chở đầy người quá bị lật, xã khơng
cho chèo đị nữa, ơng Vạn chuyển sang nghề đánh cá. Con gái đi lấy
chồng, nhà bỏ không, ông gần như xuống thuyền ở hẳn, đêm cũng ngủ
dưới thuyền. Khơng chở người thì ơng chở lợn, những con lợn béo nung
núc, cậu con rể gom từ khắp các làng bên này sông, mang sang chợ hóa
kiếp. Sáng nào qua sơng nó cũng dúi cho ơng gói lịng cịn nóng hơi hổi
trong lá chuối, kiếm chai rượu nữa là ông say sưa cả ngày. Hơm nào hứng
lên thì giăng lưới, quăng chài. Ơng bảo ông là người sướng, sướng nhất
làng. "Cậu về đấy à, xuống làm với tơi chc rượu. Này, ngày xưa tơi mà
gả con Thơm cho cậu thì giờ sao nhỉ, cậu lại lơi nó xuống tít Hà Nội ấy,
coi như tơi mất con cịn gì. Nó hận tôi lắm, cái đận ấy Nhưng đâu phải tại
tôi, đúng khơng cậu? Có dun số cả đấy cậu ạ, các cụ nhà mình nói cấm
có sai. Hồi cậu đi, con Thơm địi nhảy sơng tự tử. Con nhà lái đị mà nhảy
sơng tự tử thì chết thế quái nào được. Nó quẫn quá quên mất đấy mà. Cứ
Con Thơm nhà này...". Ơng già nói một thôi một hồi chợt chững lại, nâng
chén dốc thẳng vào miệng đánh ực. "Thơm thế nào, bác? Sao bác khơng
nói tiếp? Cơ ấy khổạ? Vì cái gì? Kìa... bác...". "Vì cái gì à? Chả vì cái gì,
cũng chả khổ. Chồng mổ lợn, vợ bán, tiền nong rủng rẻng, có gì mà khổ...
Nhưng mà... vẫn chưa có con. Chồng nhận tại chồng, vợ tranh tại vợ,
không đứa nào chịu đi khám xem thực hư thế nào. Sốt cả ruột. Thôi, uống
đi. Uống đi nào, mấy khi cậu về...".
Theo hai anh "bỏ làng", xuôi Hà Nội, đánh vật với cái mác ngoại tỉnh,
học đủ thứ cốt để không thất nghiệp, cốt để mở mày mở mặt cho thiên hạ
biết tay, cốt để bố mẹ không phải làm gì lúc tuổi già mà vẫn đủ ăn đủ
tiêu, trong nhà lúc nào cũng có dăm trăm bạc phịng khi hiếu hỉ không
phải lo chạy quanh như nhà người la. Lúc chưa có cứ tưởng chỉ cần như
thế là đủ, là mãn nguyện, nhưng có rồi lại thấy còn thiếu bao nhiêu thứ.
Thế là cứ lao đầu vào mọi chỗ, không bỏ qua một cơ hội nào. Khơng phải
là tham lam, dứt khốt khơng phải là tham lam. Mà đã là một cái gì đó
như thói quen, như ngồi lên một cái xe là phải lao đi, quen rồi, dừng lại
không chịu được. Nhưng cũng không ngờ đến lúc lao đi mãi rồi, đến lúc
khơng coi cái gì ra gì nữa, khơng cịn sợ ai nữa, khơng cịn phải lo thiếu
thốn bất cứ thứ gì nữa, thì cũng là lúc thấy chính mình thừa ra. Có ai như
mình khơng, hai ơng anh mình có như mình khơng, khơng biết nữa. Cái
thằng đàn ơng mà cũng có lúc buồn viển vơng, mơ hồ như đàn bà thì thật
chẳng ra gì. Biết thế, nên cố giấu. Chỉ có mẹ là nhận ra. Lúc nào đột
nhiên về nhà, dù là nửa đêm, mẹ cũng không hỏi tại sao lại về, tại sao lại
đêm hơm mị mẫm thế. Sự im lặng của mẹ thật vô cùng dễ chịu. Trên đời
này có hai người làm nó ln cảm thấy dễ chịu khi ở bên cạnh, đó là mẹ
và thằng con trai nửa tuổi. Cái thằng bé khôn sớm đến lạ lùng. Nửa đêm,
nghe tiếng xe nổ ình ình của bố là thế nào cũng dứt vú mẹ chồm dậy mở
và một không hiểu gì cả đã làm thằng đàn ơng gần ba chục buổi đầu cân
bằng những lúc chống chếnh nhất, những lúc đã nghĩ đến một lối thoát
nhẹ nhàng... Nếu khơng có hai con người ấy thì khơng biết đã ra sao rồi.
Hầu như không ngày nào ăn được hai bữa cơm ở nhà. Khuya khoắt lắm
mới xong việc để về. Vợ như ô-sin, dỗ con ngủ rồi gà gật ngay cạnh cửa,
chờ tiếng xe về để mở cổng, đểđẩy giúp vào trong nhà. Tự dưng khó chịu
kinh khủng, nhìn thấy mâm cơm đậy lồng bàn khơng thể khơng cáu um
lên. "Đã bảo ăn thì cứăn, phần làm gì. Về được thì người ta khắc về đúng
bữa, sao lại cứ phải chờ?". "Ăn một mình em khơng nuốt được". "Trời ạ,
nhàn cư sinh đỏng đảnh đấy à? Hay tại xem phim Hàn Quốc nhiều q
mà sinh hội chứng lãng mạn...". "Ơ kìa, sao tự dưng chỉ có chuyện ấy mà
anh cũng cáu với em? Anh...". Khóc. Dấm dứt. Nức nở. Sụt sịt. "Trời ơi,
nhà cửa thế này thì tơi về làm gì, cơ có biết cả ngày ngồi kia tơi mệt mỏi
thế nào khơng? Có im ngay đi khơng. Tôi đã vung tay trước mặt cô bao
giờ chưa, thử xem cả xóm này có thằng chồng nào tử tế hơn tôi không?
Tại sao cô không biết làm cái gì đó để mỗi lúc về nhà tơi khơng thấy tức
ngực khó thở thế này? Tơi có bắt cơ làm gì nặng nhọc đâu, có bắt cơ phải
tằn tiện chắt bóp đâu, mà sao có mỗi cái việc ấy cũng không làm được!".
"Nhưng việc ấy cụ thể là việc gì, anh phải bảo thì em mới biết chứ...".
"Nếu biết là việc gì thì tơi tự làm cho xong. Tôi là chồng chứ không phải
là vợ. Trời sinh ra đàn bà các cô để làm vợ, thế thì cơ phải biết là mình
cần làm gì trong gia đình chứ...". "Em phát điên lên mất thôi anh ơi, em
xin...". "Không phải chờ cô. Tơi đã điên rồi đây này...".
Cố ghìm để khơng to tiếng mà thằng cu con đã ngủ vẫn nhổm dậy trong
màn, đầu ngọ ngoạy, miệng ô a không rõ muốn nói cái gì. Tự dưng chùng
người xuống: Rệu rã như một cỗ máy đã hết thời hạn sử dụng. Hình như
mình cần một sự bảo trì bảo dưỡng nào đấy, nếu khơng thì chỉ ngay ngày
được, có khi chỉ thay một cái sơ mi mới là đủ phục hồi. Nhưng sự rữa nát
bên trong thì thật kinh khủng. Khơng nhìn thấy, chỉ cảm thấy. Máu chảy
chậm rù rì trong huyết quản, thở mà như không thở, mọi ý nghĩ chìm
nghỉm trong một cái vũng lầy đặc sền sệt. Cũng có thể nó chưa đến nỗi
rữa nát, cũng có thể nó mới chỉ là dấu hiệu cho một căn bệnh tâm thần
nào đó. Sợ, rồi lại không sợ. Lại sợ. Căn nhà thành ra trống huếch trống
hoác, thành ra lạnh lẽo, xa lạ từ bao giờ thế khơng biết. Ơm riết lấy con.
Thằng bé theo thói quen rúc vào ngực bố tìm bầu sữa. Cọ mớ râu lởm
chởm vào má nó. Thật khơng thể hình dung được, cái thằng người râu ria
cóc cáy như mình mà cũng đã từng bé tí thơm tho, ấm mềm thế này. Con
người mà cứ được bé mãi thì sung sướng quá. Nào, ngủ đi con. Ngủ đi.
Đêm nay con ngủ với bố nhé. Ngủ đi là hết đói thơi con ạ. Ngày xưa bố
cũng thế đấy. Lúc nào đói khơng chịu nổi nữa thì đi ngủ. Rúc đầu vào
đống rơm mà ngủ. Thế mà giờ lắm người lại phải ngủ để quên no đi đấy
con ạ. No q cũng khó chịu khơng kém gì đói q, có khi cịn khó chịu
hơn.
Sáng, mở mắt ra, vợ đã lấy kem đánh răng vào bàn chải, khăn mặt ngâm
trong nước nóng, bày sẵn trên bàn ăn ba món để thích chọn thứ nào thì
chọn. Xong bằng ấy việc thì ngồi vào một góc, lặng lẽ chờ, mặt như lá
chuối hơ lửa, đợi chồng ăn xong để lấy tăm, lấy nước, rồi vào phòng
chuẩn bị quần áo, giày, tất. Vậy mà mỗi buổi sáng phải khoác vào người
mớ quần áo thơm tho phẳng phiu lại thấy mất tự tin đến nỗi ra khỏi nhà là
phải ghé ngay vào một quán nước chè nào đó vệ đường, đứng lên ngồi
xuống cho nó nhàu nhĩ đi một tí. ấy vậy mà khơng sao mở miệng nói
được một câu, đại loại như, thằng tơi sao thì cứ để vậy, rơm rác quen rồi,
đừng có cố gột rửa tôi như thế. Khốn khổ, đến mấy cái thứ mặc trên
người cũng biết làm thế nào để hành mình, vợ chả tội tình gì thì biết trút
Cơ quan đơng nghìn nghịt. Con gái trẻ lượn ra lượn vào như bươm bướm.
Không hiểu sao cơ quan này lại lấy lắm con gái thế khơng biết. Sểnh ra
một cái là thấy thì thụt lơi trong ngăn kéo ra nào son nào phấn, hí húi bơi
quệt, cứ như khơng có son phấn thì thành ngợm cả. Hầu như không ngày
nào thống kê được mình đã làm những việc gì từ sáng, đã gặp những ai,
đã nói những câu dài ngắn thế nào. Chỉ biết đến tối mịt, có khi gần nửa
đêm vẫn đang ở một chỗ nào đó hồn tồn khơng phải của mình. Đã
thành một cỗ máy rồi, đã khơng làm chủ được mình nữa rồi, đã phải vận
hành hết công suất rồi. Không ngày nào không ước ao sóng điện thoại tự
dưng mất tiệt đi, đừng có rung bần bật trong túi quần nữa. Điện thoại đã
đổi đến lần thứ mười mấy, đã là loại bé tí như đồ chơi trẻ con rồi, mà cái
sự rung của nó trong túi quần vẫn khơng giảm bớt khó chịu đi tí nào. Mỗi
lần thấy buồn buồn ở hông là một lần giật thồn thột, lại muốn ngừng cả
thở. Càng ngày càng mất lịch sự, càng vắn tắt, càng tiết kiệm cơng nói
cơng nghe.
Cái cục bực bội không lúc nào chịu rời đi cho, hễ cứ về đến nhà là nó lại
cồm cộm lên, ứ đến cổ. Vợ ti tỉ khóc. Tối nào cũng ti tỉ khóc. Mà cái
giống, khóc thì khóc cho thoả, khóc thoải mái một lần cho hết cơn đi còn
dễ chịu. Đằng này lại cứ giấu giấu giếm giếm, mím mơi mím lợi, lại cứ
chạy ra chạy vào toa lét, mặt mũi thì đỏ tía cả lên. Người ta làm gì mình
đâu mà phải khóc. Nhà cao cửa rộng khơng thiếu thứ gì, lại ở vị trí mà
bao nhiêu người nhiều tiền thừa của bây giờ muốn có. Hoa ư, cây cảnh ư,
chim chóc ư, chó mèo õng ẹo ư... đủ hết. Vậy mà lại rũ người ra như
bông hoa héo là làm sao? "Cả ngày chỉ có mỗi việc trơng con, dạy con, cơ
mà để thằng bé ảnh hưởng đến thần kinh thì liệu hồn. Hay tại tôi hay cáu
gắt, tôi không biết ngọt ngào như trong phim, trong tiểu thuyết hở?".
"Anh... sao anh không cố hiểu em, không cố thông cảm với em?". "Trời
rúc về nhà được mấy tiếng đồng hồ mà lại còn phải làm cái công việc
hiểu cô hay sao? Cô làm vợ kiểu gì thế? Vợ gì mà khơng biết thương
chồng, xót chồng hở? Mà cơ thì có gì khó hiểu đâu cơ chứ. Cái đầu cô lúc
nào cũng sạch sẽ thơm tho thế kia thì đựng được thứ gì trong ấy? Tôi đã
không yêu cầu cô phải lo nghĩ việc lớn việc bé gì, cơ chỉ có mỗi một
trọng trách là ngồi đấy, trông con, đợi tôi về rồi mở cổng. Hay là ngày
mai tơi th người chun mở cổng, đóng cổng thay cơ nữa? Này, cơ thật
là có vấn đề mất rồi...". "Nhưng... em thực ra là cái gì trong nhà này anh
có khái niệm được khơng? Có khơng?". Và lần này thì khóc to, khóc thật
sự, khóc khơng giấu giếm nữa. Khóc đến nghẹn thở, mặt mũi đỏ tía, tóc
xù cả ra. Mở toang tất cả cửa kính cửa chớp, cho gió lùa vào khắp nhà,
bật tất cả quạt lên nữa. Sao vẫn nặng nề bức bối thế này. Cô ơi, tôi quỳ
xuống lạy cơ đây này. Cơ làm gì tơi thì làm ngay đi, giết tôi cũng được,
nhưng đừng bắt tôi phải làm cái mà tơi khơng biết nó là cái gì. Cơ cũng
khơng biết nó là cái gì cơ mà...".
***
Mấy bà mẹ chạy khắp làng ời ời gọi trẻ con về đi ngủ, đã có người dóng
dả như hát hay: "Đâu có cái loại người nào lại thế chứ, nửa đêm nửa hơm
rồi cịn tha con người ta đi, đúng là cái đồ dở hơi, rửng mỡ".
Ơ hay, mình làm gì mà để người ta chửi thế. Về thôi nào, chúng mày lên
xe hết đi, bám cho chắc vào. Bây giờ mong cái xe nổ bé tiếng đi một tí thì
nó lại kêu to hơn, như trêu tức, giữa đêm thanh vắng. Bầy chó lại được
một mẻ sủa inh ỏi.
Bên cánh cổng đang mở sẵn, mẹ đứng nép vào một bên, chờ cái xe to như
xe bò phi vào sân rồi cài then. Nó đã mua cái xe này chỉ vì muốn có tiếng
nổ thật to, có lúc cịn tháo cả ống xả ra. Phố xá càng đông người càng
thấy mình cơ quạnh, mình thừa ra, nên cứ phải có cái gì thật náo động
ngay lập tức vứt quách cái xe đi... "Mẹ à, con nhớ thằng Bờm quá. Có khi
con khơng ngủ nhà nữa đâu, con về với nó đây". Mẹ lại ra mở cổng, với
tay xoa nhẹ lên vai, nắm nắm mấy cái. Mắt mẹ ầng ậng nước trong bóng
tối lờ mờ dưới tán cây hồng xiêm mười mấy năm tuổi... Giờ mới thấy, đôi
mắt thằng Bờm mỗi lúc mở to trong màn nhìn ra, giống mắt mẹ vơ cùng.
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
<i>V</i>ớ<i>i c</i>ả<i>m quan tinh t</i>ế<i> và ngơn ng</i>ữ<i> nhu</i>ầ<i>n nh</i>ị<i>, </i>Đỗ<i> Bích Thúy d</i>ườ<i>ng nh</i>ư
đ<i>ã soi rõ m</i>ọ<i>i ngõ ngách </i>đờ<i>i s</i>ố<i>ng tình c</i>ả<i>m c</i>ủ<i>a nh</i>ữ<i>ng con ng</i>ườ<i>i vùng </i>
<i>cao, l</i>ậ<i>t lên nh</i>ữ<i>ng l</i>ớ<i>p v</i>ẻ đẹ<i>p sâu </i>đằ<i>m trong tâm h</i>ồ<i>n h</i>ọ<i>. "Gió khơng </i>
<i>ng</i>ừ<i>ng th</i>ổ<i>i"- ti</i>ế<i>p n</i>ố<i>i m</i>ạ<i>ch </i>đề<i> tài s</i>ở<i> tr</i>ườ<i>ng c</i>ủ<i>a ch</i>ị<i> - là m</i>ộ<i>t truy</i>ệ<i>n ng</i>ắ<i>n </i>
<i>gi</i>ả<i>n d</i>ị<i> và sâu s</i>ắ<i>c. </i>
Thào Mí Chà ở Lũng Pục là một thằng trai đẹp, trán cao, vuông, lông
mày rậm, mắt sáng, hai hàm răng rất trắng và miệng cười làm chết người,
bọn con gái ở Lũng Pục rất nhiều đứa thích nó, nhưng nó là một con ngựa
chỉ thích ăn cỏ trong vườn hàng xóm. Cái thằng hư thế không biết, nó
khơng giống bố nó là ơng Thào Mí Sùng một tí nào. Mấy hơm nay người
Lũng Pục xơn xao ca lên vì chuyện thằng Chà tự dưng mất tích. Nhà ơng
Sùng như có đám, cả Lũng Pục cũng như có đám theo. Người Lũng Pục
xưa nay vẫn thế, mấy chục nóc nhà sống với nhau như anh em ruột thịt,
một con bò cày nhà ai bị ngã núi thì cả bản xúm lại góp mỗi người một ít
tiền cho nhà ấy mua ngay một con bò mới, huống hổ lần này lại là chuyện
mất ích của thằng con trai duy nhất nhà ơng Sùng. Bọn thanh niên bổ đi
tìm, sang Pải Lủng, sang Cao Mã Pờ, sang Khâu Bủng, chỗ nào có nhiều
con gái đẹp là tìm đến, ba ngày sau thì đưa được thằng Chà say khướt về.
- Tìm thấy nó ởđâu thế? Người già nhao nhao, mắt vằn lên vì tức giận.
- Ây dà, nó uống rượu ở nhà một đứa gái góa bên Cao Mã Pờ...
- Cái gì? Uống rượu ở nhà một đứa gái góa à? Trời đất ơi, gầu Mơng ơi là
Thế này thì khơng được rồi, khơng được rồi. Mỗi người một câu thi nhau
trút xuống đầu thằng Chá. Trong khi bố nó, ơng Sùng như già đi hàng
chục tuổi, ngồi gục một góc bên cạnh chai rượu ngơ đã cạn, mẹ nó nằm
như một tấm váy ướt trong buồng. Đứa chị thì mặt tái xanh, cầm khăn lau
mặt cho thằng em vẫn đang say sưa ngủ, bọt mép sùi cả ra.
*
Năm mười tám tuổi ông Sùng đã lấy bà Kía, ở với nhau bảy năm mới đẻ
được một đứa con gái, là cái Sèn. Nhưng cái Sèn đã lớn mà mãi khơng có
em, mẹ chồng bà Kía đã đi khắp cả vùng Quản Bạ, Yên Minh, lên cả
Đồng Văn, Mèo Vạc, mang về đủ thứ thuốc mà con dâu cứ như con bị
đực, khơng đẻ nữa. Trước lúc chết, bà gọi con dâu vào buồng:
- Phải có một đứa con trai, con dâu à, nếu khơng thì sau này... bà già khóc
nấc lên, hai giọt nước mắt hiếm hoi lăn ra từ hai hốc mắt trũng sâu. Bằng
mọi cách phải có một đứa con trai, phải giữđược đất của họ Thào ở Lũng
Pục, phải có người thờ cúng tổ tiên, nhớ chưa.
Bà Kía nước mắt rịng rịng khơng mở miệng nói được câu nào, chết lặng
nhìn mẹ chồng ra đi. Bà Kía gần nhưđược mua về nhà chồng. Bố mẹ chết
sớm, Kía ở với chú thím, chú thím nghèo, đơng con, từ sáng sớm đến đêm
khuya chỉ biết hùng hục làm lo đổ đầy ngô xay vào chõ mèn mèn cho lũ
con gần chục đứa đang tuổi ăn tuổi lớn, thế nên Kía khơng được dạy dệt
vải, thêu thùa, khâu vá, Kía chỉ giỏi cầm cái cày đi sau con bị và bỏ hạt
ngơ xuống hốc đá mà thôi. Bố mẹ chồng đã phải bỏ ra hai trăm đồng bạc
trắng để lấy được Kía về làm dâu. Ngày đầu tiên về nhà chồng, mẹ chồng
dẫn Kía xuống bếp. Ở bếp có con ma bếp, ma bếp cai quản việc sinh đẻ
của đàn bà và phu hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Vì thế khơng được dẫm
chân lên bếp lị, khơng được gõ vào thành bếp, lúc nào muốn nhấc chảo
cám lợn ra phải cho một hòn đá vào giữa... tất cả những điều đó bà mẹ
với một đứa con dâu mới về. Ở nhà chồng Kía được thương u, được
đùm bọc, được chăm sóc khi ốm đau, ngày Kía đẻ con Sèn bố mẹ chồng
làm một cái lễ cúng ma buồng to lắm, to như cúng cho một thằng cháu
trai. Con Sèn lớn nhanh, rất ngoan nhưng dù thế nào nó vẫn không phải là
con trai. Bố chồng, rồi mẹ chồng đã lần lượt đi theo ông bà tổ tiên, mà
Kía vẫn cịn một món nợ chưa trảđược.
Ngày ngày Kía hùng hục giành làm hết việc, lúc nào cũng dựng sẵn một
thùng rượu ngơ ở góc nhà và vài tảng thịt khô trên gác bếp để chồng gọi
bạn đến chơi. Kía sợ chồng buồn, chồng buồn thì Kía càng có lỗi q. Kía
cũng buồn, buồn lắm, vừa buồn vừa thương bố mẹ chồng chết chưa nhắm
được mắt, thương chồng sắp đến tuổi ông mà chưa được làm bố một
thằng con trai, nhưng cái buồn giấu tận đáy lịng khơng làm phai mờ đi
nhan sắc của người đàn bà miền núi một con, cặp má đỏ hồng, da căng
mịn, mái tóc rất dày và hai cánh tay khỏe mạnh, Kía vẫn làm chồng mệt
lử sau mỗi đêm uống rượu với thịt bị khơ.
Mẹ chồng chết đã nửa năm, một đêm, Kía cầm lấy tay chồng, khẽ khàng:
- Mình tìm cho bố nó một người vợ nữa nhé?
Chồng Kía ngồi bật dậy:
- Cái gì, vừa nói cái gì thế?
- Mình tìm thêm cho bố nó một người vợ nữa. Phải đẻ một đứa con trai
bố nó à, mình đã hứa với tổ tiên rồi, bằng mọi giá phải có một đứa con
trai để sau này cịn có người thờ cúng, có người giữ đất.
Chồng đưa tay bịt mồm Kía, Kía gạt ra, nói tiếp, rất nhanh:
- Nghe mình, mình sẽ tìm một đứa gái tốt, một đứa gái biết đẻ mình sẽ coi
nó như em gái mình, mình sẽ bảo nó cách làm vợ...
- Nghe đây này, có chết tơi cũng khơng lấy ai nữa, có chết ngay bây giờ
tôi cũng không cho bất cứ người nào bước chân vào nhà này, nhớ chưa.
Kía nghẹn giọng: .
- Mình đã hứa với bà nội con Sèn rồi... biết làm thế nào?
- Làm thế nào thì mặc kệ, tơi khơng biết.
- Nhưng... mình đã đưa nó về đây rồi.
- Cái gì? Đưa ai vềđây?
- Là đứa gái con nhà Lừ bên Cao Mã Pờ. Mình mang nó về đây rồi, nó
đang ngủ với con Sèn đấy.
- Ái chà, vợ mình đã coi mình như con lợn con dê rồi đây, định mang
mình đi lấy giống hở. Đâu nó đâu, xem cái mặt dày thế nào mà dám bước
chân vào nhà này.
Kía khơng kịp níu áo thì chồng Kía đã sồng xộc bước ra ngoài, xông
thẳng đến trước cửa buồng con gái. Nhưng cũng lúc ấy, cánh cửa phía
trước kèn kẹt mở ra, rồi tiếng bước chân dẫm lên đống đỗ tương phơi dở
ngoài hiên lạo xạo vội vã... Người mà Kía định đưa về làm vợ hai cho
chồng đã nghe thấy hai vợ chồng nói chuyện với nhau, bỏđi mất rồi.
Chồng Kía ra bếp ngồi, vớ lấy cái điếu cày rít sịng sọc, một lúc sau lại
lấy thêm chai rượu, rót uống một mình cho đến sáng.
Từ đấy, Kía khơng dám nhắc đến chuyện tìm vợ mới cho chồng nữa. Mà
không lấy thêm vợ nữa cho chồng thì lấy đâu ra con trai cho họ Thào cơ
chứ. Mỗi lần đưa con đi hàng mấy cây số ra suối tắm giặt Kía lại đằm
mình trong nước suối, chỉ mong nó làm cho mình xấu xí đi, khô héo đi.
Tại sao một người đàn bà không đẻ được nữa lại cứ nở ra như một bông
hoa chuối đỏ rực, căng mọng thế này? Nhưng nước suối, cả những mớ lá
cây úa vàng cháy trong lịng nó cũng khơng làm Kía khơ héo đi. Giá mà
Một buổi chiều, đã muộn rồi nhưng Kía vẫn cố nán lại trên nương để bẻ
nốt chỗ ngô. Năm nay ngô được mùa, bắp nào cũng to, dày hạt, cầm nặng
trình trịch, năm nào cũng được thế này thì người Mơng khơng bao giờ lo
đói. Đang lúi húi bẻ ngơ thì một người đàn ơng xuất hiện ngay trước mặt
Kía. Là Vàng Chỉn Tờ trên Khâu Bủng. Kía biết người này, người này có
họ xa với nhà chồng. Vàng Chỉn Tờ nhìn Kía cười cười:
- Muộn rồi sao chưa về hở chị dâu?
- Cũng đang định về đây. Lâu lâu không thấy chú đến chơi, ông bà trên ấy
có khỏe khơng?
- Khỏe, khỏe lắm. Em cũng khỏe, chị có tin khơng?
- Chú nói gì thế, khó hiểu q.
Tờ sán lại gần, nhìn Kía cười cười nuốt nước bọt ừng ực. Kía lùi lại, nhìn
quanh. Trời đang sẫm dần, cả một dải nương ngô đã vắng ngắt. Tờ vẫn
cười:
- Thấy bảo anh Sìn dạo này khơng khỏe, muốn có con trai mà mãi chưa
được.
- Từ từ rồi khắc có, đi đâu mà vội.
Kía lúng búng mấy câu nhưng Tờ đã sấn đến, đè nghiến Kía xuống đất.
Kía gào thét, giãy dụa, Tờ cười hềnh hệch, nước dãi rớt ra thành dòng:
- Để em cho một đứa con trai, chị dâu à, nghe em, em cho một đứa con
trai, khỏi phải lo lấy vợ mới cho chồng.
Trời tối đen, nương ngô rất rậm và cao, tiếng gào thét của Kía bị át đi bởi
tiếng gió từ trong thung lũng đang phả ra ào ạt... Mãi cho đến khi có tiếng
trẻ con thét lên bên cạnh, tiếng gậy đập lẹt đẹt ngay bên trên Kía. Là cái
Sèn, bố đi đám cưới để Sèn ở nhà một mình, sợ q nó đã mị lên nương
Nếu khơng có Sèn ở bên cạnh đêm ấy thì có lẽ Kía đã khơng về nhà, đã ra
bờ vực và nhảy xuống. Chỉ có một nơi nào đó sâu thẳm, tối đen mới có
thể xoa dịu nỗi tủi nhục mỗi lúc một dâng lên trong lịng Kía. Nhưng con
Sèn cịn bé q, khơng thể nào để nó lại được.
Sau hơm ấy Kía bị ốm, hằng tháng liền không dậy được, cũng không ăn
nổi thứ gì. Cứ cầm lấy bát cháo thì cái mặt đầy dãi rớt của thằng Tờ lại
hiện lên, cơn buồn nôn lại ào đến. Sùng đã đưa thầy Sa man về nhà,
nhưng thầy Sa man cũng chịu, và khơng cần phải dầm mình dưới suối
nữa thì Kía cũng đã khơ héo đi như một quả đậu giống để trên gác bếp
Nhưng trong lúc mê lúc tỉnh, điều kinh hoàng nhất mà Kía cảm thấy lại là
một sự sống đang hình thành trong bụng mình. Đúng vậy, đó là điều kinh
hồng nhất mà Kía phải đối mặt. Cái sự sống rất bé nhỏ ấy, đúng là nó,
đang cựa quậy, dần thành hình hài trong bụng Kía. Ơi trời ôi, nếu mà nó
mang cái mặt giống như cái mặt đầy rớt rãi và đơi mắt đục ngầu thì sao?
Nếu mà nó giống hệt như thế thì sao? Hàng ngày Kía sẽ phải nhìn thấy
nó, đối diện với nó, ơm ấp nó, trời ơi, thế thì có tội lớn q, thế thì có chết
khơ bảy lần có chết ướt mười lần cũng khơng gột rửa hết.
Thế mà không để ý đến nỗi sợ hãi vô ngần của Kía, đứa bé cứ lớn dần lên
trong bụng. Phải bỏ nó đi thơi, khơng thể để nó ra đời được. Nó là ma
quỷ, nó là rắn rết, nó là hổ báo, lợn rừng, nó khơng phải người, nó khơng
được ra đời, khơng thể để nó ra đời rồi mang họ Thào được. Đêm khuya,
trời rét căm căm, Kía mị mẫm ra vườn cải, phía sau chuồng dê, Kía lấy
một cái khăn to, quấn chặt lấy bụng rồi bám lấy dóng chuồng dê nhảy
chồm chồm, nhảy đến mệt lử mồ hơi vã ra đầm đìa. Nhưng đứa bé, dai
dẳng như một sợi mây, dứt khốt khơng rời khỏi Kía. Đã thế tao sẽ nhịn
ăn, nhịn ăn cho mày chết đói. Kía lẩm bẩm. Nhưng chồng Kía khơng để
cho Kía nhịn, nếu Kía khơng ăn thì Sùng cũng khơng thể ăn được, nếu
mèn cịn đầy nguyên, nghe bố nói với mẹ mà nước mắt rịng rịng. Khốn
khổ q, vậy là Kía đành phải để đứa bé lớn lên trong bụng mình.
Một đêm tối trời, mưa rả rích, Kía lên cơn đau bụng. Đứa bé sắp ra rồi,
chồng Kía vẫn ngồi khoanh chân bên bếp uống rượu với thịt bị khơ, hai
gị má tái xanh, tóc rối bù. Ở trong buồng Kía khơng dám gọi chồng. Một
nỗi sợ hãi cộng với tủi nhục, cộng với đau đớn tột cùng làm Kía khơng
cất nổi tiếng gọi. Kía bám lấy mấy mép giường, nghiến răng, cong mình
lên và rồi đứa bé trơi tuột ra khỏi bụng mẹ. Nó khóc váng lên. Trong lúc
lơ mơ Kía chỉ nhận thấy ánh mắt lấp lánh của con Sèn bên ánh đèn dầu,
cịn chồng Kía đang ơm đứa bé, nhìn chăm chăm vào mặt nó.
Đó là một thằng bé trai có khn mặt sáng như ánh trăng. Kía nhìn con
chim bé tí như quả ớt chỉ thiên của nó mà tối tăm mặt mày. Vậy là nỗi sợ
hãi lớn nhất của Kía đã hiển hiện ngay trước mặt. Thằng bé sẽ là người
đàn ông nối dõi của dòng họ Thào ở Lũng Pục. Chồng Kía vừa đào lỗ
chơn nắm nhau của nó ở chân cột nhà chính vừa nói:
- Chỉ tại mày mà tí nữa tao mất vợ, phải ăn cho khỏe, lớn cho nhanh để
thay tao làm trụ cột cái nhà này, đừng có để cho bố mẹ mày phải khổ vì
mày nghe chưa.
Thằng bé như nghe được lời Sùng nói, tiếp tục khóc váng lên. Tiếng khóc
của nó làm chấn động cả Lũng Pục, ánh đuốc lập loè từ mấy chục nóc nhà
tỏa ra, người Lũng Pục ùa đến xem mặt thằng bé. Mừng quá, mừng cho
nhà Sùng quá, người tốt như thế mà khơng có con trai nối dõi thì ơng trời
thật là không phải.
Cứ thế, thằng Chá lớn lên nhanh như thổi. Năm nó một tuổi, trịn trùng
trục như một cái cối xay. Trong lễ mừng tuổi nó, Sùng đưa cho nó một
đã được bố nó giao cho trọng trách làm chủ gia đình, và phải trở thành
một thằng trai giỏi giang, thạo việc.
*
Đã lâu rồi, Sùng không làm cái việc của một người chồng với vợ. Thằng
Chá đã lớn rồi, nó thơi khơng cịn bú mẹ nữa, nhiều đêm nằm giữa một
bên con, một bên chồng Kía thao thức không ngủ được. Cái mùi mồ hôi
rất thân thuộc ở ngay bên cạnh, Kía chỉ mong được vùi mặt vào đấy mà
hít hà cho thoả, nhưng Sùng luôn luôn ngủ rất nhanh và rất say. Sùng đã
quên vợ rồi sao? Hay tại Kía bây giờ khơng còn được như trước nữa?
Suốt thời gian mang thằng Chá trong bụng, sinh nó xong, Kía đã như một
cái cây bị phơi khơ, có phải vì thế mà Sùng khơng cịn muốn gần gũi vợ
nữa? Nhưng sâu thẳm nhất, sau mỗi lần trằn trọc vật vã, là một nỗi sợ hãi
khôn tả. Nỗi sợ hãi nằm sẵn trong lịng Kía, thỉnh thoảng lại trỗi dậy.
Kía nằm nhích lại gần, xoay người khe khẽ, vịng tay ơm lấy cổ chồng.
Sùng chưa ngủ, bằng chứng là hơi thở của Sùng dồn dập, lồng ngực Sùng
dưới cánh tay Kía phập phồng. Kía phả một hơi thở thật nóng vào mặt
Sùng, nhưng Sùng chỉ quay lại ơm lấy Kía, vỗ vỗ vào vai như dỗ trẻ con
ngủ rồi thơi. Nằm trong vịng tay chồng một lúc lâu, tự dưng Kía thấy tủi
thân q, Kía chuồi ra, quay lại ơm lấy con, lặng lẽ khóc. Sau lưng Kía,
Sùng thở dài thườn thượt. Tất cả những vồ vập, hồ hởi của Sùng trước
đây giờđã khơng cịn bóng dáng. Chẳng lẽ... chẳng lẽđiều Kía lo sợ nhất,
Sùng đã biết chuyện xảy ra trong nương ngô, lại là sự thật? Nghĩ đến đấy
Kía bủn rủn chân tay. Khơng thể như thế này mãi được, Kía phải hỏi cho
ra nhẽ, hoặc là Sùng cứ đuổi mẹ con Kía đi, hoặc là Sùng phải chửi rủa,
phải đánh đập, chứ Sùng đừng như một cục đá thế này. Kía quay phắt lại,
lay chồng:
- Ngủ rồi. Có chuyện gì à?
- Ừ, có chuyện. Bố nó à...
- Gì thế?
- Có phải bố nó... bố nó... biết...
- Ầy dà, có chuyện gì mà ấp úng mãi thế, nói tuột ra xem nào.
Trong bóng tối Kía bấu chặt mấy ngón tay vào tấm chăn. Kía đang run
bắn lên. Nếu như Sùng chưa biết thì sao? Có thể Sùng chưa biết lắm chứ,
nếu khơng thì làm sao khi Kía sinh một đứa con khơng phải con đẻ của
Sùng, Sùng lại yêu thương nó, nâng niu nó đến thế, mỗi khi thằng bé
nghịch dại, người mắng nó, cầm roi vụt vào mơng nó khơng phải Sùng
mà là Kía. Nghĩđến đấy, ý định hỏi cho rõ lại trôi tuột đi trong đầu Kía.
*
Thế là thằng Chá cứ lớn lên trong nỗi sợ hãi sâu thẳm của mẹ nó. Nó
khơng hề biết điều đó, chỉ biết rằng nó được nng chiều, và vì nó là
thằng con trai nối dõi dịng họ nên vai trị của nó rất quan trọng, mỗi khi
nó ốm đau thì cả họ cuống lên lo lắng, gà vịt lũ lượt theo nhau đến kêu
inh tai dưới bếp. Nó chẳng biết làm gì hết. Việc nhà bố nó, mẹ nó, chị nó
làm tất, nó chỉ việc mặc quần áo đẹp, cắp cây sáo vào nách và ngồi trên
lưng con ngựa tía rong ruổi hết chợ này đến chợ khác. Và vì nó có một
cái mặt rất đẹp, lại thổi sáo hay như dứt ruột người ta ra nên ở đâu đám
con gái cũng vây quanh nó, đứa nào được nó liếc cho một cái thì mất ngủ
mấy đêm liền.
Trước Tết, nó bảo sang Cao Mã Pờ chơi với mấy thằng bạn trai. Mẹ nó
bảo:
- Tết đến nơi rồi, nhà nào cũng lắm việc, mày chơi với ai. Không đi đâu
Nó cãi:
- Đã hẹn chúng nó rồi, khơng đi khơng được.
Bà Kía nhìn thằng con trai câng mặt cãi lại, tức lộn ruột, định cho nó một
cái tát thì ơng Sùng ngăn lại:
- Để nó đi cũng được, sửa nhà có một tí thơi, bố với chị Sèn làm một lúc
là xong. Ông Sùng quay sang Sèn:
- Sèn à, cho nó đi, nhỉ?
Sèn gật đầu. Vậy là thằng Chá nhảy tót ra cửa, chỉ một lống tiếng lục lạc
đeo trên bờm ngựa đã xa tít.
Nó đi chơi đến sáng mùng một tết mới về đến nhà, mặt gầy xọp đi, quần
áo xộc xệch, đầu tóc rối bù, chân đi đất. Khơng thấy nó dắt ngựa theo, bà
Kía hỏi, nó thản nhiên:
- Chơi bạc, gán cho chúng nó rồi.
Nói xong, chui lên gác ngơ ngủ một mạch ba ngày liền. Nó khơng biết
con ngựa ấy đối với bố nó quan trọng thế nào. Đấy là con ngựa mà người
bạn thân nhất của ông Sùng đã để lại tặng ông trước khi chết. Một con
ngựa tía đẹp hiếm thấy ở vùng núi đá này, chân dài, bụng thon, ức nở,
bờm dài và lúc nào cũng mượt óng. Ơng Sùng đã chăm bẵm con ngựa
suốt mấy năm trời, cho đến khi thằng Chá lớn thì ơng đã nhường cho nó.
Con ngựa chỉ làm đẹp cho nó thơi, nhìn nó cưỡi trên lưng ngựa, cả hai lao
như bay trên triền núi chênh vênh, đứa gái nào cũng mê tít. Vậy mà chỉ vì
thua bạc, hết tiền, nó gán ln con ngựa cho người ta.
Bà Kía leo lên gác gọi thằng Chá dậy, nó dúi đầu vào trong đống ngơ dứt
khốt khơng ra. Nó đã thức liền mấy đêm liền, giờ phải ngủ, khơng ngủ
thì chết mất. Bà Kía cầm chân cố lơi nhưng nó cứ ì ra, đành hậm hực
nhọn còn nguyên trong bao da, cả cái đèn pin nữa, đi ra cửa. Bà Kía giật
mình:
- Ơng đi đâu đấy, đang Tết mà.
- Có một tí việc, tơi phải đi.
- Nhưng việc gì chứ?
- Ừm, đàn bà biết gì mà hỏi.
Ơng Sùng đi hết đêm, đến sáng hơm sau thì vềđến nhà, dắt theo con ngựa
tía. Thằng Chá vẫn cịn ngủ như chết trên gác ngơ, bà Kía định leo lên lơi
nó dậy nữa thì ơng Sùng bảo:
- Kệ nó, để cho nó ngủ.
- Phải cho nó một trận mới được. Tức q đi thơi, ai lại để bố già thế này
phải đi chuộc ngựa cơ chứ.
- Thôi mà, đằng nào cũng lấy được ngựa về rồi.
- Phải đấy, làm sao ông lấy được ngựa? Mang tiền đi chuộc à?
- Làm gì có tiền. Có mỗi cái này thơi.
Ơng Sùng chìa con dao nhọn ra. Bà Kía rùng mình:
- Ơng... làm gì chúng nó?
- Chẳng làm gì cả, chỉ giơ cái này ra là chúng nó khắc phải trả. Nhưng chỉ
dọa được một lần thơi, lần sau thì chắc chúng mang con ngựa đi bán luôn
chứ không chờ mình đâu.
Thằng Chá nằm trong đống ngơ nghe hết câu chuyện. Nó khơng dám dậy,
biết ăn nói với bố thế nào, con ngựa quý thế mà loáng một cái nó gán
ln cho mấy thằng bên Cao Mã Pờ, như nó là bố thì có khi chặt chân
thằng con trai rồi.
Bà Kía ốm. Thầy Sa man đến gọi hồn về, gọi mãi không được, thầy Sa
man bảo:
- Chắc là phải để bà ấy theo tổ tiên thôi.
Thêm chuyện thằng Chá sang Cao Mã Pờ ăn ngủ ở nhà một đứa gái góa
nữa, bà Kía càng khơng thể dậy được.
Ơng Sùng ngồi bên cạnh vợ, tay nắm chặt tay vợ, râu tóc đã bạc trắng sau
mấy đêm liền khơng ngủ. Ơng hỏi rất khẽ:
- Có mệt lắm khơng?
Bà Kía hơi lắc đầu:
- Không mệt đâu, chỉ buồn ngủ thôi.
- Không được ngủ đâu, bà vợ à, không được ngủ đâu. Phải cố thức, nhé.
Bà Kía chớp mắt thay cho cái gật đầu. Bà cũng biết, mình khơng được
ngủ, nếu mà ngủ thì sẽ khơng dậy nữa. Nghe giọng chồng như sắp khóc
bà thấy thương chồng quá. Bà biết mình sắp đi theo tổ tiên rồi. Trước lúc
đi nhất định bà sẽ nói sự thật cho ơng Sùng biết. Phải nói cho ơng ấy biết
thì bà mới nhắm mắt được, sang bên kia mới dám nhìn mặt bố mẹ chồng.
Nhất định bà sẽ nói.
- Đừng ngủ, bà vợ nhé. Không được ngủ đâu. Bà có dặn gì tơi, con Sèn
với thằng Chá khơng?
Bà Kía nghe chồng hỏi, nhưng khơng trả lời, nắm nắm lấy mấy ngón tay
khơ khốc của chồng. Bên ngoài tiếng con Sèn rấm rứt khóc vọng vào.
Đêm đã khuya lắm, bà Kía vẫn chưa ngủ, khơng phải bà cố thức mà vì bà
tiếc, bà không muốn ngủ chẳng ởđược với chồng với con bao lâu nữa mà
ngủ thì tiếc quá. Bà chỉ nhắm mắt nằm đấy thôi. Thằng Chá mấy hôm nay
lại đi chơi rồi, không biết bao giờ mới về. Nhà chỉ có con Sèn với ơng
Sùng đi ra đi vào. Ông Sùng vén chăn lại cho vợ rồi bước ra ngồi. Con
- Khơng ngủ à Sèn, để mai làm cũng được mà.
Sèn không trả lời, hỏi lại bố:
- Mẹ ngủ hay thức thế bố?
- Ngủ rồi. Thức mãi thì cũng phải ngủ chứ.
Ông Sùng lấy điếu cày, cho một cục thuốc lào to tướng vào nõ điếu, châm
lửa hút liền mấy hơi, phả khói mù mịt:
- Sèn à, có chuyện này bố phải nói mới được.
Giọng Sèn chợt thảng thốt:
- Chuyện gì thế bố?
- Chuyện này... lâu lắm rồi, cũ lắm rồi, bố định khơng bao giờ nói cho
con biết, nhưng giờ... mẹ sắp bỏ bố con mình để đi theo ơng bà rồi, bố
phải nói thơi...
- Bố à, có chuyện gì mà bố phải giấu lâu thế. Có chuyện gì mà con không
biết?
- Sèn à, sau này, lúc con đi ấy chồng rồi, không biết bố như thế nào... ơng
Sùng thẫn thờ nhìn ra ngồi cửa tối đen, ngồi đó từng đợt gió rét mướt
đang thổi mấy cái vỏ ngơ trên sân đá lạt sạt. Sèn nhìn ông hoang mang.
- Sèn à, thằng Chá ấy, thằng Chá em con ấy, nó khơng phải là con đẻ của
bố. Con biết khơng? Nó khơng phải là con đẻ của bố đâu, thật đấy. Giờ
mẹ sắp đi rồi, bố định hỏi xem mẹ có muốn cho nó đi nhận bố đẻ khơng.
Cả con nữa, con có muốn thế không? Con là con gái lớn, bốđể con quyết
Mọi dồn nén của bao nhiêu năm đã phút chốc vỡ vụn ra làm Sèn bải hoải,
rụng rời. Mười bảy năm nay lúc nào Sèn cũng nơm nớp lo một ngày bố
biết sự thật, bố sẽ giết chết mẹ, giết chết thằng Chá mất. Cũng chỉ vì thế
còn ai bênh mẹ, bênh em. Thằng Chá ấy, cho dù nó mất nết, cho dù nó là
một thằng trai hư hỏng thì nó cũng là em của Sèn, là ruột thịt của Sèn.
Mỗi khi thằng Chá làm sai việc gì Sèn lại nhăm nhăm bênh nó. Sèn chỉ sợ
bố hắt hủi nó thì mẹ lại tủi thân. Cái buổi chiều ngồi nướng ngơ năm nào
ám ảnh Sèn cho đến giờ, Sèn không tin vào người đàn ơng nào hết ngồi
bố Sèn ra, nhưng ngay cả bố, Sèn cũng không dám nghĩ rằng bố chịu
đựng được. Sèn gục đầu vào vai bố khóc nức lên:
- Bố à, bốơi.
Sèn chỉ kêu được thế. Bố Sèn đang bấu chặt mấy ngón tay gầy guộc vào
vai Sèn, như thể Sèn là chỗ nương tựa cuối cùng trước khi bố như một
con ngựa dũng mãnh ngã xuống vực sâu.
Trong lúc ấy, ở trong buồng, bà Kìa lặng lẽ kéo chăn lên ngang mặt,
nhắm chặt mắt và thở thật chậm. Gió vẫn đang rít lên bên ngồi, những
mảnh vỏ ngô bị cuốn lên, đập cả vào tường nhà lẹt xẹt...
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Hơm nay nhà Thèn Kháy Chỉ ở Chín Chải cưới vợ cho con trai. Ai chà,
cưới đứa đầu tiên có khác, mổ hẳn hai con bị, mâm bát linh đình từ ba
ngày trước, người ra người vào nườm nượp.
Buổi sáng, Thèn Kháy Chỉ giao cho thằng con đang học lớp bảy trường
nội trú huyện mang giấy bút ra ngồi đằng sau cái bàn gỗ kê ngồi cổng,
cịn thằng em nó thì cầm một cái túi trước là túi đựng cám con cị mua về
ni lợn cưới đứng bên cạnh, miệng túi mở sẵn ra. Thế là thành lệ rồi.
Trước, đi đám cưới, người làng có gì thì mang nấy, chục con gà con nhốt
trong lồng làm giống cũng được, một cái chảo cũng được, thậm chí nhà
nghèo quá thì vót cho mấy cái cặp bếp, mấy cái mi, thìa gỗ. Bây giờ thì
theo nhau, đi mừng đám cưới bằng tiền. Nhiều ít, giàu nghèo gì cũng đưa
tiền hết.
Thằng Chính nhận tiền, đếm, vừa ghi vào giấy vừa nói to: Ơng Dùng ở
Chín Chải: năm nghìn; bà Phường ở Sính Lủng: mười nghìn... Ghi xong,
đưa tiền cho thằng em, thằng em bỏ luôn vào túi cám con cị. Hai anh em
chúng nó ngồi đếm đếm ghi ghi được một lúc thì mặt trời lên cao, nắng
rọi xuống bỏng cả mặt. Người thì mỗi lúc một đơng, thỉnh thoảng thằng
Chính dừng lại, vặn vẹo cổ tay cho đỡ mỏi. Anh Dí ở Chín Chải: Hai...
hai... hai trăm nghìn đồng. Thằng Chính lắp bắp rồi hô to. Đám người
đứng sau chờ đến lượt ồ lên, rồi một người, hai người mở miệng: "Ai chà,
con nhà giàu mà". "Phải rồi, hai trăm nghìn chứ hơn nữa cũng chẳng là gì
đâu". "Nhưng làm thế chẳng phải đập vào mặt bằng này người già hay
sao?". "Ừm, khoe đấy. Giàu mà không lấy được vợ thì giàu làm gì?".
tức quá lườm người nói một cái rồi nghênh ngang đi vào trong nhà.
Người vừa nói là Chảo A Chai người Xà Tủng Chứ.
Thằng Dí ấy, đúng là con nhà giàu. Từ bé đến lớn mỗi bữa nó ăn một bát
thịt đầy, cơm chỉ dính mấy hạt dưới đáy bát. Bố nó, Thèn Văn Dấn bảo,
tao khổ mãi rồi, giờ phải để chúng mày sướng. Cứ ăn đi, ăn được bao
nhiêu tốt bấy nhiêu. Nhưng không biết tại sao, ăn nhiều thế nhưng thằng
Dí vẫn khơng lớn được. Mười sáu tuổi mà chỉ bằng đứa mười ba, chân
tay, mặt mũi trắng như cỏ mọc trong nhà.
Thèn Văn Dấn, một buổi sáng ngồi ăn thịt chó dưới phố huyện thấy mấy
thằng trai phóng xe máy vèo vèo, phụt khói vào mặt mình, bèn đặt chén
rượu đánh cộp xuống bàn, đưa tay lên mồm chùi chùi, lẩm bẩm: "Phải
rồi, phải rồi". Nói xong, đứng dậy trả tiền rồi lên ngựa đi một mạch về
Chín Chải. Lại từ Chín Chải ơm một bọc tiền quay xuống phố huyện.
Năm nay thảo quả được mùa, mấy cọc tiền cao lừng lững xếp đầy trong
tủ lấy đi chục triệu chỉ vơi một ít. Dấn lững thững cưỡi ngựa đến thẳng
hàng xe máy, chỉ vào một chiếc màu đỏ. Ai chà, đúng là nhà giàu đi mua
dê, cái xe giá sáu triệu đồng, Dấn trả luôn, khơng nói một câu. Chủ hàng
xe máy cười tít mắt, sai thằng con: "Đi đổ đầy bình xăng rồi đưa bác về
tận nhà, nghe chưa". Thế là Dấn buộc ngựa vào cái cọc sắt trước cửa hàng
xe máy, leo lên sau xe, phóng về Chín Chải. Đấy là cái xe máy đầu tiên
xuất hiện ở Chín Chải.
Dân Chín Chải vứt cày vứt bừa nháo nhào chạy đến xem cái xe mới cịn
bóng lừ. Mấy ơng già đưa tay sờ, miệng xuýt xoa. Dấn nói to: "Cái xe này
mình mua cho con trai đấy, đứa gái nào muốn làm vợ nó thì ngồi ở chỗ
này". Nói xong, đưa tay vỗ vỗ lên yên xe, cười kha kha.
Thế là từ đấy, phiên chợ nào thằng Dí cũng dắt xe từ gầm sàn ra, nổ máy
ầm ĩ rồi phóng vèo vèo ra đường nhựa. Nó bé người quá, ngồi trên yên xe
đứa gái, mỗi phiên một đứa, đứa nào cũng mặt đỏ nhừ, cười tít mắt.
Qua sáu phiên chợ thì vợ chồng Dấn phải đi tìm bà mối, nhờ hỏi vợ cho
con trai.
Bà mối đến nhà Thào Chá Cáy. Hai vợ chồng Cáy đang ngồi tẽ ngô
giống. Thấy bà mối vào, lẳng lặng đứng dậy, khơng nói khơng rằng. Bà
mối ậm ừ lấy giọng:
- Ơng Cáy bà Cáy à, nhà ơng Dấn túng bấn quá không biết nhờ vả đâu,
nay nhờ tơi đến nói với ơng chia cho ít thóc giống.
Ơng Cáy:
- Thóc thì có đấy nhưng khơng được tốt lắm, gieo nó xuống cịn phải mất
cơng chăm bón nhiều, khơng dám chia cho nhà ấy đâu.
Bà mối:
- Hạt giống chưa tốt nhưng có mảnh đất tốt, có tấm lịng rộng rãi thì
khơng sợ gì mất mùa ơng ạ.
Bà Cáy:
- Không dám đâu, không dám đâu. Nhờ bà về nói hộ, núi ấy cao q, nhà
này khơng trèo được.
Bà mối cầm chén nước, uống ực:
- Thế là ông bà chê rồi, tôi về vậy. Nhưng... tại sao chứ, chê thằng Dí bé
quá hay là...
Bà Cáy đứng dậy, đi ra góc nhà, vớ con dao dài, ngồi xuống thái dọc
mùng xoèn xoẹt. Ông Cáy hút mấy điếu thuốc lào, thấy bà mối vẫn chưa
chịu đứng dậy, bèn chép miệng:
- Nói cũng khó, khơng nói cũng khó. Thế này, tháng trước con Kía nhà
này bị ốm, tơi phải đi mời ông then về, ơng then bảo nó phải lấy một
- Dê trắng thì khó gì - Bà mối hấp tấp - Mấy con cũng được, dễ thôi mà...
- Không phải dê trắng bình thường, phải là dê trắng có bốn con mắt kia.
- Ầy, làm gì có dê bốn mắt?
- Là hai con mắt giả mọc bên trên này này, màu đen. Ơng Cáy đưa ngón
tay trỏ to tướng chỉ lên trên lông mày. Bà mối gật gật đầu, uống thêm
ngụm nước rồi ra về.
Chuyện nhà Cáy từ chối bà mối không gả con gái đã ngay lập tức ầm ĩ lên
ở Chín Chải. Thằng Dí thì phát ốm, cái xe máy đỏ chót dựng ở đầu hồi,
gà nhảy lên cục tác, phân vãi đầy trên yên cũng mặc kệ. Tìm đâu ra dê
bốn mắt bây giờ? Vợ chồng Thèn Văn Dấn nhìn thằng con trai cả ốm lăn
lóc cũng lừ đừ theo. Nếu mà có con dê ấy thì bao nhiêu tiền cũng mua,
khơng tiếc gì. Chỉ cần nó khỏi ốm, nó tươi tươi cái mặt lên, nó lại phóng
xe vù vù là được. Nhưng thằng Dí mỗi lúc một rũ ra như tàu chuối héo.
Trong khi đó thì con dê bốn mắt lại đang được buộc ở cổng nhà Cáy. Con
dê ấy của thằng Chảo A Chay người Xà Tủng Chứ. Chảo A Chay biết Kía
từ lâu, mê lắm, phiên chợ nào cũng lẽo đẽo dắt ngựa theo sau, nhưng từ
khi Kía ngồi sau cái xe đỏ chót của Dí, mặt đỏ dừ, mắt nhắm tít thì Chay
chịu, khơng sao đuổi kịp. Giờ thì... hà hà, Chay biết chuyện nhà Cáy, dắt
ngay con dê trong chuồng nhà mình ra, múc gần hết nước trong bể đá tắm
cho nó trắng tinh ra. Riêng hai con mắt giả thì lấy than tơ thêm cho đen
óng. Xong, Chay dắt con dê nghênh ngang trên đường núi, xuống Chín
Chải. Không cần bà mối, không cần bố mẹ, bố mẹ Chay chết hết rồi,
Chay ở với chú thím từ lâu, thế là Chay tự đi hỏi vợ.
Nhưng Chay khơng được đón ở nhà Kía. Bố mẹ Kía đồng ý, nhưng Kía
thì cầm một con dao nhọn hoắt, sáng lống, ngồi lì trong buồng, nói vọng
ra:
- Bố mẹ mà cho thằng ấy vào nhà là con đâm dao vào bụng, chết luôn.
- Mày đâm tao trước rồi muốn làm gì thì làm.
Nói xong, xơ cửa xơng vào. Nhưng Kía đang vén áo lên, chĩa mũi dao
thẳng vào bụng:
- Bố vào là con đâm ngay.
Ông Cáy sợ q, lại quay ra.
Kía khơng thích Chay. Đúng là Kía khơng thích Chay. Ngồi trong buồng
từ sáng đến tối, không ăn không uống mấy ngày liền, Kía chỉ nhìn ra lỗ
cửa mà nghĩ đến Dí thơi. Khơng phải vì Dí có cái xe máy đâu. Kía tự biết
mình, khơng phải Kía thích Dí vì Dí có cái xe máy, hay lúc nào trong cạp
quần cũng có một cục tiền dày cộp, mà vì cái gì cũng khơng biết nữa. Cái
mặt Dí trắng q, chân tay cũng trắng, người già bảo loại ấy không biết
làm, chỉ biết ăn. Mặc kệ, Kía vẫn thích thì làm thế nào. Dí có một cái đài
thu băng bé tí, phiên chợ nào Kía cũng hát cho Dí thu vào đấy, Dí bảo,
đêm về khơng nghe được Kía hát thì Dí khơng ngủ được. Kía hát:
Mây nắng bảo anh đi, mây mưa bảo anh về/Em đưa anh đến con đường
rẽ, con đường rẽ thụt sâu/Mây nắng bảo anh đi, mây mưa bảo em quay
lại/Anh buông tay em, tay như rụng/Như lá tre, lá gỗ lả tả rụng/Anh bỏ
tay em, tay như rơi/Như lá tre, lá gỗ lả tả rơi...
Dí đã cầm tay Kía rồi, làm sao Kía bng ra được nữa.
Một đêm, Kía đợi bố mẹ ngủ rồi lẻn dậy, tìm đến nhà Dí. Dí đang nằm
bẹp trong buồng, nghe tiếng rít lên lanh lảnh, ngay lập tức như chẳng ốm
đau gì nữa, vùng ngay dậy. Là tiếng gọi của Kía đấy, khơng lẫn đi đâu
được, chỉ có Kía mới biết nhét hai ngón tay vào mồm mà rít lên như vậy.
Dưới ánh trăng lờ mờ, hai đứa nắm chặt tay nhau. Kía khóc rịng rịng,
Kía đã mệt quá rồi, Dí cũng hết cả sức, cứ thế này thì chết mất. Kía hỏi:
- Nhà tìm được dê chưa?
- Thế mà lại có một con buộc ở cửa nhà mình.
Dí thảng thốt:
- Của ai? Của ai thế? Ai đã đến hỏi Kía làm vợ thế? Bố mẹ Kía nhận lời
rồi à?
Kía lắc đầu:
- Bố mẹ mà nhận lời thì Kía chết ln.
- Khơng được đâu. Chờ mình, bố mẹ mình thế nào cũng tìm được.
- Nhưng mình sợ lắm.
- Sợ gì?
- Sợ tìm khơng thấy, lại đi thích người khác.
- Khơng, Dí chỉ thích Kía thơi. Kía có chờ Dí khơng?
- Có chứ.
- Kía ơi, con dê ấy... của ai?
- Của thằng A Chai ở Xà Tủng Chứ.
Thế là Kía khỏi ốm. Biết Kía thật bụng thương mình, chờ mình thì gì mà
khơng khỏi ốm. Thế nên hôm đám cưới nhà Thèn Kháy Chỉ Dí mới đi
được chứ. Và Dí đã gặp thằng Chay, cái thằng có con dê bốn mắt.
Chẳng biết thế nào nhà chủ lại xếp cho Dí và Chay ngồi một mâm, một
mâm toàn thanh niên. Uống rượu, ngà ngà say, Chay xích lại gần Dí:
- Đã tìm được dê chưa?
- Hỏi làm gì. Dí xẵng giọng. Chay cười hề hề:
- Khơng tìm được đâu, đi hết dãy Hồng Liên cũng khơng có con thứ hai
đâu. Hỏi vợ khác đi thôi.
- Mình nói thật đấy mà, khơng lấy được nó đâu. Nhường cho mình là hay
nhất.
Dí chồm dậy, định tát Chay, nhưng Chay tóm được, vặn cho một cái, Dí
kêu oai ối.
Trên đường về, Dí đi trước, đứng đợi Chay dưới gốc một cây dẻ, chìa ra
trước mặt Chay một cục tiền dày cộp:
- Bán cho tao.
Chay thủng thẳng:
- Bán gì?
- Con dê, con dê bốn mắt của mày.
- Không bán đâu.
- Chê ít à?
- Khơng chê, cũng khơng bán. Phải để hỏi vợ chứ.
- Nhưng nó khơng thích mày.
- Lâu lâu khắc thích. Chờ mày lâu q nó khắc phải thích tao.
Chay nghênh ngang bỏ đi, mặc Dí đứng nghệt dưới gốc cây dẻ.
Mùa hè qua, mùa thu qua, mùa đông năm nay đến sớm, cây cỏ chết khô,
rau trong vườn các nhà cũng khơng cịn xanh được nữa. Mùa này là mùa
gia súc dễ ốm vì đói, mà đã ốm thì rất dễ chết vì bệnh tật. Đàn dê nhà
Chay đã phải bán gần hết cho mấy quán thắng cố vì chú thím sợ chúng
chết. Chỉ cịn mỗi con dê trắng của Chay. Chay dắt con dê trắng đi tìm cỏ.
Phải ăn cỏ khơ lâu ngày, lơng nó đã dựng cả lên, cái bụng chửa sắp đẻ mà
cũng hóp lại. Gió từ dưới sâu thốc hun hút, sương mù giăng giăng khắp
nơi, con dê vẫn cặm cụi nhặt từng lá cỏ cịn sót lại. Sờ bụng con dê thấy
đã căng căng, Chay định về thì Dí đến.
Chay nhìn Dí cười khẩy:
- Đợi nó đẻ con rồi tao bán cho, chịu khó ni hai ba năm là được con dê
to thơi mà.
Dí bặm mơi, nhìn Chay chằm chằm.
- Sao thế, lại định đánh nhau à? Đồ trẻ con, trẻ con mà cũng đòi lấy vợ.
Năm nay mày mười hai, hay mười ba. Hở ?!
Chay cúi xuống, vuốt vuốt lưng con dê, cười ha ha.
Con dê đang đứng chênh vênh trên mép vực, chẳng để ý gì, vẫn cặm cụi
nhặt cỏ. Nó sắp đẻ rồi, nếu khơng đủ ăn thì nguy cơ sẽ không đẻ được.
Đột ngột, tiếng cười của Chay tắt lịm. Dí đã xơng đến như một con trâu
điên nhưng không phải xông vào Chay mà là xông vào con dê, Dí đẩy
mạnh, con dê chới với rồi lăn tịm xuống vực.
Chay ngồi khóc hu hu ở mép vực. Cịn Dí lững thững quay về. Dí khơng
nói cho Chay biết, Dí vừa đến nhà Kía. Lâu lâu khơng thấy Kía đến chỗ
hẹn, thấy nhớ quá, Dí phải đi tìm. Nhà Kía hơm nay có khách, khách
khơng ở Chín Chải cũng khơng ở Xà Tủng Chứ. Có một con ngựa tía cao
to lừng lững, lơng óng mượt buộc ở gốc cây lê, phải là một người trai rất
cao lớn, bắp chân, bắp tay cuồn cuộn mới cưỡi nổi con ngựa ấy. Không
biết người ấy có mang đến con dê bốn mắt nào khơng nhưng tận mắt Dí
đã thấy Kía mặt đỏ nhừ, mắt cười tít với người ta. Có con dê hay khơng
có con dê này thì cũng thế thơi.
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Dựng xong căn lều trên mảnh nương mới được người bạn nhường cho,
ông Chúng mang mấy chiếc nồi bé sang, cả gạo, muối, dầu thắp, cả một
con trong đàn chó canh nhà. Lúc bà hỏi ông, định đi luôn không về hay
sao mà mang lắm thứ thế, ông bảo phải qua sông, lại cũng xa nữa, nên
thỉnh thoảng ông phải ở lại. Thực ra chính ơng cũng biết đó chỉ là cái cớ,
chứ nếu ơng đi vắng thường xun thì nhà ơng như thiếu tường đất, mưa
khơng biết lấy gì che, gió khơng biết lấy gì chống. Chưa kể gần đây thỉnh
thoảng lại có nhà trong bản bị mất trộm dê lợn, có nhà đã mất cả bị. Thế
mà cánh cổng gỗ vào nhà đã có từđời ơng bà, chưa một lần thay, cài then
thì cũng chỉ để đánh lừa mắt thôi, người khoẻ xô nhẹ là bật ra ngay rồi.
Chẳng phải ông không biết lo việc nhà, chẳng phải ông bỏ đi để hàng
ngày được rượu thịt một mình. Lúc này ơng thấy trong nhà mình khó ở
q, giống như trời sắp dơng mà mấy ngày liền khơng mưa được. Nhìn
dáng con May ngồi thái dọc mùng trắng cho lợn mới thấy thời gian trôi đi
nhanh quá, thằng Trài cũng cao hơn con dao quắm dựng góc nhà rồi. Chỉ
phải lo cho hai đứa con một vài năm nữa thôi, đến lúc chúng như cánh
chim rời tổ thì với ơng sống hay chết, no hay đói, giàu hay nghèo cũng
chẳng cần phải nghĩ đến nữa. Cả bà chắc cũng nghĩ như ơng thơi...
Ơng Chúng sang nương, mấy ngày đầu nhà vắng quá, bữa cơm nào cũng
mang thừa bát đũa. Đến tối May sang ngủ chung với mẹ già. Thường thì
cứ phải đến lúc May chập chờn ngủ rồi mẹ già mới vào. Hôm nào mẹ
cũng phải đi một vòng xem lại cửa cổng, dập hết than trong bếp lị, mang
chó ra buộc gần chuồng ngựa. Lúc mẹ già vào, May ôm lấy mẹ thật chặt.
Đêm nay May đi ngủ muộn, phần vì nhà đã vắng càng vắng - thằng Trài
mang ngựa đi lấy giống, mẹ già đi xem bệnh cho trẻ con nhà Chứ - phần
vì ngồi kia, sau bờ rào đá, có tiếng đàn môi tự dưng cất lên, gọi mãi, gọi
mãi. Tiếng đàn ấy may gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần nào cũng đuổi sau
lưng, May đi nhanh thì theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ
lại dám theo về tận nhà người ta nữa. Đã mấy lần May đứng dậy, ngập
ngừng định đi ra cửa mà chân cứ run lên lại ngồi xuống. Chiếc khăn thêu
được vài đường đã nhầm, kim lại đâm vào ngón tay mấy lần. Sau rồi May
cũng giữ được chân mình mặc kệ tiếng đàn mơi ấy, dội lửa vào gộc củi
rồi vào buồng. Tiếng đàn còn quanh quẩn bên ngoài mãi mới chịu đi.
Tiếng bước chân ngựa cũng ngập ngừng. Đi ngựa là người ở xa đến rồi.
Đi xa mà đứng lâu như thế dưới sương có khi lại ốm.
May nằm mãi cũng chẳng ngủ được. Trên gác nhà, con mèo mẹ tha đàn
con đi đi lại lại suốt, lục sục trong đống ngơ bắp. Nhà khơng có đủ người,
gió lùa từ đầu hồi này tới đầu hồi kia, nghe mỏi cả tai. Nhằm mắt rồi mở
mắt, May cố khơng nhìn vào cái hịm gỗ to lù lù góc buồng. Trong cái
hòm ấy mẹ già cất một bộ váy áo đẹp lắm, thêu bảy màu như cầu vồng,
mẹ bảo bao giờ con May lấy chồng thì mẹ cho mang theo. Vậy mà mới
đêm hôm qua, lúc gần sáng May thức giấc lại thấy mẹ già mở hòm lấy bộ
váy áo ấy ra. Mẹ già định mặc váy áo đẹp đến thế đi đâu? Hết mùa cưới
rồi, họ hàng chắc cũng khơng cịn ai cưới vợ cưới chồng cho con nữa. Mẹ
già đi đâu? Hay là mẹ già định đi hội chợ 27 tới đây? Nếu thế thì... thì sao
hở May? Có phải vì bố bỏ sang nương khơng? Hay vì bố biết mẹ già định
mang gạo muối sang bên kia sông Nho Quế, bây giờ nghĩ lại mới thấy có
điều gì đó khơng bình thường, không giống như việc đàn ông các nhà
càng thấy khó tìm lối ra, càng khó ngủ. Tự dưng May lo lo, không rõ
mình lo gì, nhưng như có ai đốt lửa trong bụng. Ngoài hè, giọt sương
đọng trên mái tranh rơi xuống bể nước đá cạn khô càng lúc càng to, nghe
giống tiếng mưa lác đác.
Năm nay trời rét đậm hơn mọi năm, lại rét muộn nữa. Rét muộn thì sẽ rét
lâu rét dài, tháng ba tháng tư có nắng rồi vẫn rét. Ra giêng hoa đào hoa lê
mới đua nhau nở, ai cũng bảo năm nay Tết mùng năm tháng năm sẽ mất
vui. Nhưng Tết mùng năm còn lâu mới tới, trời thay đổi tính nết thì con
người khổ, khổ vì gieo hạt ngô lúa xuống đất mãi vẫn chưa thấy lá chồi
lên. Đất càng ngày càng khô đi. ở những nương đá mới xếp đất xẹp dí
xuống, đợi hạt giống đâm mầm lá lên mới bón thêm phân được. Nhưng lo
thì cứ lo vậy thôi, hội 27 vẫn chẳng kém vui hơn mọi năm đâu.Có tiếng
chó đầu nhà rên ư ử, đi quẫy đập vào tường đất lạch phạch. Ơng Chúng
về. Mẹ già mới về trước một lúc lập cập ra mở cửa, xuýt xoa:
- Về sớm thế? Sao không để sáng hẳn ra, sương tan cho đỡ lạnh.- ừ... -
Tiếng ông khàn khàn - Cũng định thế. Nhưng có mấy người trên Xíu cái
xuống sớm, bảo cho đi nhờ thuyền sang bên này, tiện thể về ln. ở nhà
có việc gì khơng?- Vẫn thế thơi, chỉ có mấy thanh chuồng ngựa sắp gãy.
Hơm nào ông về lâu lâu thì sửa nhé.
- Được rồi, cứ để đấy, tí nữa tơi sửa ln.ở nhà này thứ gì cũng cũ, cũng
già. Cả cái chuồng ngựa cũng thế. Ngày xưa bố ông Chúng dựng bằng gỗ
lim từ lúc con trai út chưa ra đời. Mấy chục năm rồi, khơng nhớ đã có bao
nhiêu đời ngựa, bây giờ mới hỏng cần phải sửa là bền q cịn gì.Trời
sáng hẳn, ơng Chúng đi một vòng quanh nhà, xem kỹ chỗ chồng ngựa
chuồng dê rồi mang dao, cưa ra sửa luôn. Bà ra theo ơng, xem có cần gì
thì giúp. Vừa làm ông Chúng vừa bảo vợ:
- Mẹ già này, năm nay xuân muộn, người đi chợ 27 đông lắm, nấu được ít
- Khơng phải nấu cũng cịn đầy kia kìa. Trước Tết nhà Sùng nhờ nấu mấy
nồi cho nó lấy con dâu mới, sau họ hàng giúp nhiều quá lại không dùng
đến.
- Thế thì bà mang ngựa thồđi bán nhé.
Giọng nói của ơng có gì khang khác, bà cảm thấy thế. Rượu nhà mình tự
nấu, để bao lâu cũng được, càng để lâu uống càng ngon. Mà từ giờ đến
Tết năm sau cịn có bao nhiêu dịp cần đến rượu, sao ơng lại giục bà đi
bán. Bà nhìn mãi sang ông nhưng ông vẫn cắm cúi làm, như khơng để ý,
như chỉ vơ tình nói ra chuyện đi chợ bán rượu. Ai cũng biết mang rượu đi
chợ 27 để người bán người mua uống cùng với nhau. Uống cho say rồi
người mua không nhớ trả tiền cũng được, mà nhớ nhưng trong túi chỉ còn
vài đồng không đủ mua túi muối, mang ra trả cũng được. Chợ ngày 27
nhưng từ 21, 22 đã lác đác có người, có rượu. Cả năm cúi mặt ngồi
nương, cúi mặt vì hạt ngơ hạt đậu, về nhà cúi mặt vì con lợn con gà, mãi
mới có lúc thảnh thơi. Khơng bị trẻ con quấn chân nên ở chợ mọi người
tha hồ chơi, tha hồ uống rượu. Đàn ông quên dao, quên nỏ, đàn bà quên
chảo cám, quên cái đũa cả, chẳng ai chê cười.
Giữa ông Chúng với vợ đúng là có bao nhiêu thứ khó nói ra thành câu
thành tiếng. Tất cả cũng chỉ tại một người mới đến, rồi lại đi trước Tết. Đi
ln thì thơi, đằng này còn hẹn ra xuân sẽ quay lại. Nếu đúng lời hẹn thì
người ấy cũng sắp quay lại rồi.
Trước Tết một tháng, đúng hôm mẹ già với May làm bánh khảo thì nhà
có khách. Khách ấy là mẹ Hoa. Lúc May ra mở cổng, May nhận ra mẹ
Hoa ngay, nhưng mẹ Hoa cứ đứng nhìn May mãi, nhìn khơng chớp mắt.
May khơng nghĩ mình lớn đến mức khó nhận ra thế. Ngay lúc ấy May đã
quay lưng đi như chạy vào nhà ngay, mặc kệ mẹ Hoa kéo lê cái túi to
đùng trên đất đi sau. Người May tự dưng nóng bừng lên, hai đầu gối run
thứ trong nhà lên, sẽ chẳng có thứ gì được ở yên chỗ của mình nữa. Sao
tự dưng mẹ Hoa lại về, sao không đi luôn. Chị em May đã sắp quên
chuyện cũđi, giờ lại phải nhớ hay sao?
Mẹ Hoa đi vào trong nhà, cúi đầu chào bốđang ngồi bên bàn uống nước.
Bố May nhìn ra:- à... lại về nhà đấy!- Vâng... mẹ Hoa lí nhí, đầu cúi thấp
hơn nữa, tay mân mê hai cái quai túi đặt trước mặt.
- Về làm gì? Bố hỏi mà như khơng hỏi
- Em... em về chơi thôi. Xem mọi người thế nào.
- Thế nào à? Chẳng thế nào hết. Người lớn thì già đi, trẻ con thì lớn lên...
Bố nói như khơng có người đứng nghe ngay trước mặt. Bố gọi May, gọi
thằng Trài. Chỉ mình thằng Trài vào, cịn May đứng đầu hồi, như khơng
nghe tiếng bố.
Mẹ già đi ra, bảo mang củi ướt ngoài chuồng ngựa vào cho mẹ gác lên
bếp lò, ghé vào tai May nói như mắng:
- Khơng được thế con gái à. Mẹ Hoa chứ có phải người lạ gặp ngoài
đường đâu. Lâu quá nó mới về nhà, nhưng con gái vẫn khơng qn đâu,
phải thế không?
May quay lại trả lời mẹ già:
- Con còn nhờ hơn cả mẹ, mẹ già ạ. Nhớ hết. Nhớ cả con bò bị người ta
dắt đi...- ầy, chuyện cũđừng nhắc nữa. Cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên
quên phải biết quên. Hôm qua trời mưa nước suối đục, nhưng không đục
mãi được. Con người cũng thế...Mặc kệ mẹ già nói gì thì nói, May cũng
khơng tự bắt mình qn được. May chạy ra chạy vào, hùng hục mang tất
cả số củi ướt ngoài chuồng ngựa vào chất cao gần chạm gác bếp ở sau lò.
Một thanh củi rơi cả vào chảo cám đang sôi sùng sục. Mặc kệ. Mồ hôi túa
ra trên mặt May, áo vay bê bết đất. Chuyến cuối cùng, thằng Trài đứng
- Chị là đứa trẻ con bốn, năm tuổi à?
May mím mơi. Thằng Trài người thì to thật đấy nhưng ý nghĩ thì bé, bây
giờ đã dám nói cái giọng ấy với chị nó rồi cơ đấy. May giằng tay em ra,
mang số củi ướt vào phía sau bếp lị, cầm lấy thanh củi trong chảo cám
quấy tung cả lên.
Mẹ già về làm vợ ông Chúng đã hơn hai chục năm. Ngày ấy cả vùng này
biết tiếng cô Mao đẹp người nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới
khơng ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cơ. Cả
vùng cũng chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu như
bố mẹ Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu nhà Chúng. Trước ngày
cưới, cả đêm tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức
trắng. Mờ sáng thì con ngựa ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất
lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn mơi nghe rất xa. Mao ngồi dậy, nhìn qua ô
cửa bé bằng hai bàn tay, thấy ngoài trời mù mịt sương ập xuống mảnh
sân, vườn, nhìn từ nhà ra bờ rào đã không thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa
kia lại giống như mũi tên xuyên qua thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa kia
lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày đặc, lao đến. Tiếng đàn mơi
buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hơm ấy Mao khơng bao giờ
nghe tiếng đàn Mơi dành cho riêng mình nữa.
Sau ngày cưới một năm, hai năm, rồi ba năm, chờ mãi mà vợ chống Mao
vẫn chưa có con. Lúc đầu nhà chồng còn chạy tìm thầy tìm thuốc sau
thấykhơng làm được gì đành thơi. Bố chồng, mẹ chồng nối nhau đi,
thương con dâu như con gái nên khơng đành mở miệng bảo con trai đi
tìm vợ mới, dù cả họ chỉ còn mỗi một người đàn ơng trẻ nhất là Chúng.
Cịn lại hai vợ chồng, bao nhiêu lần Mao nói với Chúng, hay là Chúng để
Mao về nhà mẹ đẻ, cho Chúng đi lấy vợ mới, nhưng Chúng không nghe.
Chúng phải giữ lấy Mao như giữ cánh cửa trong nhà mình. Chúng biết
có việc phải ra khỏi nhà Chúng cũng đều cố gắng nhanh nhanh cho xong
việc để còn về. Chúng sợ Mao ở một mình lại buồn, sợ Mao đắp nửa
chăn, nằm nửa giường lạnh không ngủđược.
Năm ấy, người ta mở đường lên Thượng Sơn, cả bản nhà nào cũng phải
có một người ra khuân đất đá. Ngày nào Mao cũng dậy sớm đồ xôi,
nướng gà cho Chúng ăn no, cịn gói để Chúng mang theo ăn trưa luôn.
Nhưng càng ngày con đường càng xa, làm xong không kịp về nhà, Chúng
phải mang gạo đi, đến cơng trường góp nấu cơm chung với người ta. Vài
ba hôm Chúng mới tranh thủ về được một lần. Lần nào cũng động viên
Mao chịu khó ở một mình ít ngày nữa, đường sắp xong rồi.
Nhưng cũng phải hết mùa khơ thì con đường nối mấy xã với nhau mới
hoàn thành. Căn nhà rộng vắng bóng Chúng lâu quá nên chỗ nào cũng
lành lạnh, ngày Chúng về Mao đang ốm, đã mấy hơm liền khơng ăn uống
gì.
Nhưng Chúng khơng về một mình. Đi theo Chúng cịn có một người cùng
trong đội dân công. Người ấy là một cô gái trẻ, trẻ hơn Mao mấy tuổi,
người miền xuôi.
Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của mình sang căn buồng của mẹ chồng trước
kia. Căn buồng thường xuyên được Mao quét dọn, nhưng thiếu người ở
nên cứ như cái nhà hoang. Lúc Mao mang cái hòm riêng từ ngày về nhà
chồng ra thì Chúng đứng ở cửa buồng, đưa tay ra như muốn giữ Mao lại.
Mao nhìn vào mắt Chúng, nhìn thẳng. Chúng khơng chịu được ánh mắt
Mao phải quay mặt để Mao bước ra. Đêm hôm ấy Chúng ngồi gọt chuôi
dao bên bếp lị, muộn lắm mà khơng đi ngủ. Mao dọn dẹp nhà cửa xong
cũng khơng đi ngủ mà mang bó mùng trắng ra thái. Hai người khơng ai
nói gì, chỉ nghe tiếng dao thái vào thân mùng phầm phập. Mao đứng dậy,
đổ dọc mùng vào chảo cám, cúi xuống đẩy mấy gộc củi vào sâu trong
Nhưng hai người ngồi cạnh nhau rồi mà Chúng vẫn cứ gọt mãi, gọt mãi
cái chi dao, gọt cả vào ngón tay, máu gứa ra. Đưa ngón tay bị đứt lên
miệng, Chúnh khơng biết bắt đầu như thế nào. Mao vẫn nhìn chằm chằm
vào bếp lửa, ánh lửa hắt lên mặt Mao đỏ hồng, tự dưng Chúng thấy sờ sợ
Mao, thà Mao cứ nói gì thật to với Chúng cịn hơn.
Từ hơm ấy nhà có ba người. Ba người ngủ ở ba cái giường, ba góc nhà.
Ba người khơng mấy lúc nói chuyện với nhau, Mao dưới bếp, Hoa trên
nhà, Chúng ngoài vườn, chỉ bữa cơm mới ngồi gần nhau. Đêm nào cũng
nghe thấy tiếng kọt kẹt từ ba cái giường. Dậy sớm hay dậy muộn thì cả ba
người đều quầng hai mắt. Sống thế thì khổ quá, rồi đến lúc ốm cả thì sao?
Một đêm, Chúng ngồi dậy, đi đến cửa buồng bên phải, cửa buồng cài chặt
bên trong, Chúng đứng một lúc lâu, khe khẽ ho, nhưng cửa vẫn đóng kín
cũng khơng nghe thấy tiếng người trong buồng thức dậy. Lúc ấy, buồng
bên trái tự dưng có tiếng khóc. Tiếng khóc của người đang úp mặt xuống
gối. Cửa buồng bên ấy lại không cài, chỉ khép hờ. Trời lạnh mà mồ hơi vã
ra đầm đìa trên mặt Chúng...
Sau khi con bé May ra đời, Hoa ở lại chứ không bỏ đi như Chúng nói với
Mao. Nhưng đúng là Hoa không quen làm nương, không biết trỉa đậu,
vun đậu, nhóm cái bếp lị cũng khơng nổi. May được hơn hai tháng tuổi
thì mẹ Hoa để May ở nhà với mẹ già rồi xuống phố huyện mở sạp hàng
bán giày vải, thỉnh thoảng mới về.
May bé như con mèo con. Từ sáng đến tối khuya, lúc nào cũng nằm trong
địu trên lưng mẹ già. Không biết bao nhiêu lần May ngậm hai bầu ngực
mẹ già, nhay đến bật máu vì thèm sữa. May lên hai tuổi, còn chưa trèo
qua được bậu cửa thì mẹ Hoa đẻ thêm thằng Trài. Thằng Trài lại ngồi
trong địu, thay chỗ của May, lại nhay bầu vú chưa bao giờ có sữa của mẹ
già.
lại đi. Lần nào về cũng mang cho hai chị em May cả túi kẹo màu to
tướng, cả giày dép áo quần. Nhưng lần nào cũng vậy, chị em May lại
mang kẹo ra đổ vào máng ngựa, quần áo cũng không mặc đến, mặc váy
áo mẹ già dệt quen rồi. Quần áo mẹ Hoa mang về cứđể mãi trong hòm...
Năm May lên mười một tuổi, em Trài lên chín thì mẹ Hoa về nhà lần cuối
cùng rồi đi hẳn. Lần ấy mẹ Hoa ăn cơm rồi ngủ lại một đêm với ba mẹ
con. Bố May đi săn không về, chị em May đi ngủ sớm, sáng hôm sau
thức dậy đã không thấy mẹ Hoa đâu. Mẹ già cũng chỉ bảo là mẹ Hoa đi
sớm lắm, khắc tự dậy mở cửa rồi đi. Cũng đêm ấy, con bò cày bị mất
trộm, ai đó đã tháo thanh cài cửa chuồng, dắt bị đi. Nhà chỉ có một con
bị cày, mất bị thì người phải làm thay bò thôi. Gần trưa hôm ấy ông
Chúng mới đi săn về, May ôm lấy chân bố, kể chuyện mẹ Hoa về, chuyện
mất trộm bò. Khơng thấy bố và mẹ già nói gì với nhau về chuyện ấy. Mấy
đêm liền bố May không ngủ, ngồi uống rượu khan ngoài hè, xung quanh
là đàn chó con lớn con bé nằm chồng lên nhau.
Vụ mùa năm ấy, vụ sau nữa, hai bố mẹ May phải mang cuốc đi cuốc đất
thay bò. Bàn tay mẹ già đã chai càng thêm chai thêm, vết chai dày cộp
như miếng cháy trong nồi cám. Đêm nào mẹ già cũng lấy hai bàn tay đầy
vết chai ấy xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ.
Mẹ Hoa đã đi suốt bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng, ai cũng nghĩ là mẹ
Hoa không bao giờ về nữa. Mấy lần ông Chúng xuống huyện cũng không
thấy Hoa ngồi bán hàng ở đó. Bằng ấy ngày tháng, đủ cho bọn trẻ con sắp
thành người lớn cả rồi, Hoa còn trở lại. Chẳng lẽ giống như người đi mãi
mà không tới được nơi cần đến, không cịn sức nữa nên quay về tìm chỗ
nghỉ chân?
Mẹ Hoa về làm cái gia đình đang yên ổn như tổ chim trên cao lộn tung cả
lên. Hoa đã nói những gì ơng Chúng chẳng nhớ hết, vì ơng khơng muốn
với thằng Trài về xuôi thăm họ hàng, ăn Tết, thì ơng đã qt lên. Nhà ông
không phải vườn ổi hoang, ai thích đến hái thì cứ hái như trẻ chăn bị.
Nói với ơng khó q thì mẹ Hoa tìm mẹ già. Sau một đêm, thức dậy ông
thấy hai mắt mẹ già trũng xuống, tay bưng chậu cám run như phải cảm.
Ông cứ chờ xem bà có nói gì với mình khơng nhưng bà im lặng mãi, cắm
cúi làm, không buồn ngẩng mặt lên.
Mẹ già thì tránh mắt ơng, ơng lại tránh mắt mẹ Hoa. Mẹ Hoa vẫn đẹp như
bông lê đang độ nở rộ ngày trời ấm. Mẹ Hoa chỉ kém mẹ già mấy tuổi mà
trông như con gái của mẹ già. Có lúc mẹ Hoa nhìn ơng, nhìn muốn cháy
cả mặt. Lúc mẹ Hoa vén quần rửa chân, để lộ hai bắp chân tròn hơn cả
bắp chân con May, thì ơng xua tất cả những ý nghĩ lạ sắp đến trong đầu
mình đi. Mẹ Hoa lại vào ngủ trong buồng trái, không cần ai bảo. Từ ngày
mẹ Hoa đi, ơng ngủ một mình ở đấy. Bà Mao lấy cớ đã ngủ quen bên kia
với bọn trẻ con, dứt khốt khơng chuyển đồ sang lại nữa.
Ông lại ngồi uống rượu khan. Lưng áo ông lạnh buốt. Sau lưng ông là cửa
buồng trái khép hờ, trước mặt là ngọn đèn cạn dầu, ngọn lửa cháy đã có
mùi khét của bấc.
Mẹ Hoa khơng sao nói chuyện được với May. May tránh mặt mẹ đẻ. May
bảo với bố, mẹ Hoa chỉ như con thú hoang ở đâu lạc vào nhà mình thơi,
lúc nào khơng muốn ở nữa thì đuổi đi. May biết, lúc nào phía sau, bên
cạnh mình cũng có ánh mắt mẹ Hoa nhìn mình. Thằng Trài khác May, nó
đã chịu nói chuyện với mẹ Hoa. May đâm ra ghét cả Trài, hai chị em
cũng khơng nói chuyện với nhau nốt. Lúc nào May cũng chỉ thấy hai bàn
tay khô như hai cành mua cong queo, đầy vết chai dầy như miếng cháy
trong chảo cám của mẹ già trước mắt mình.
trong ngực. Hai mắt mẹ Hoa - đôi mắt mà mẹ già vẫn bảo là thứ để người
khác nhìn vào nhận ra May - đơi mắt ấy đỏ như chảy máu, mí mắt sưng
to, hai gị má mẹ Hoa trắng nhợt. Nhưng May vẫn khơng nói với mẹ Hoa
một lời nào, miệng May như có ai khâu chặt lại.
May đã quay mặt đi, tránh ánh mắt mẹ Hoa, May khơng đủ sức nhìn lâu
hơn. Mẹ Hoa đã đi, một lúc đã không thấy đâu giữa những triền ngô xơ
xác vừa qua vụ thu hoạch. May vùng chạy ra khỏi nhà, chạy về phía con
suối nằm rất sâu trong rừng. Mẹ già đang giặt ở đấy, váy áo ướt đã phơi
đầy trên những tảng đá lớn trên bờ suối. May chạy xuống, ngã dúi vào mẹ
già, khóc ồ lên:
- Đi... đi rồi, mẹ già ơi! Mẹ Hoa ấy...
Mẹ già ôm lấy vai May. Nước suối lạnh buốt đập vào gờ đá, bắn ướt chân
váy hai mẹ con. Mẹ già khe khẽ thở dài...
May gặp người ấy rồi. Có một tối ngồi trong nhà, nghe tiếng đàn mơi gọi
mãi, giục mãi. May đã liều bước chân ra cổng. Người ấy ở Thượng Sơn
xuống, còn trẻ lắm, hơn May một, hai tuổi là cùng, nhưng May chỉ đứng
cao đến vai người ấy. Dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ May khơng nhìn
được rõ mặt, nhưng cảm thấy rất rõ ánh mắt như có lửa của người ấy nhìn
mình như thế nào. Đêm đầu tiên May chỉ dám đứng một lúc, run quá,
chạy vội vào nhà, May sợ mình đứng thêm nữa thì ngã mất. Dần dần đỡ
sợ hơn, May đứng thêm một lúc, có hơm sương rơi ướt vành khăn mới
vào nhà. Giờ thì May đã nhận lời đi hội chợ hai bảy với người ấy.
Ngày mai Chử đợi May ở ngã ba, từ ngã ba đến chợ còn một đoạn nữa,
đến nơi chắc trời cũng tối rồi. Cả đêm May khơng sao ngủ được. Đã cố
tình đi ngủ muộn mà đến lúc vào giường, nằm mãi vẫn chưa thấy gà gáy.
già khơng nói gì, chỉ dặn đến nhà người khác phải nhớ chào hỏi người
già, không được đi ngủ trước người già như ở nhà mình.
Trời mờ sáng May đã dắt ngựa ra. Con ngựa đen như hiểu ý May, ngoan
ngoãn để May đặt yên lên lưng.
May run quá, chỉ sợ gặp người quen trong bản, người ta lại kể với bố mẹ
thì thế nào cũng bị mắng vì tội nói dối. Nhưng sợ thì cũng cứ đi, có người
đi cùng mình cịn sợ cái gì. Không ngờ ở chợ ấy May gặp đến 3, 4 đứa
bạn gái cùng bản, đứa nào cũng đi với một anh con trai lạ. Nhìn thấy
nhau, khơng đứa nào nói gì, cứ làm như không quen, quay mặt đi mới
tủm tỉm cười. Đêm xuống, có một thanh niên đốt đống lửa to ở giữa bãi
cịn, ai có cái gì mang theo thì bỏ ra ăn chung. May và bạn May cũng
buộc ngựa một góc rồi ra đấy ngồi cùng. Xung quanh đống lửa càng lúc
càng đơng người, tồn con trai con gái trẻ. Giờ thì khơng thấy ai xấu hổ
nữa. Má đám con gái đỏ rực nhưng là vì ánh lửa. Ai cũng như mình thì
việc gì phải xấu hổ.
Sáng hơm sau, đúng ngày 27 tháng 3, mặt trời mãi mới nhô lên sau cánh
rừng đỏ rực. Chử kéo tay May ra phía người ta ngồi thành hàng dài, rượu
đựng trong can to để trước mặt. Nhưng ngồi uống rượu lâu cả buổi thì chỉ
có người già thơi, bọn thanh niên ghé qua một tí rồi tìm chỗ khác, ít bị
người ta nhìn thấy mà ngồi.
Vừa ngồi xuống một hàng rượu, chưa kịp nói gì với người bán thì đột
nhiên May kéo Chửđứng bật dậy:
Đi! Đi chỗ khác. Nhanh lên.
Vừa nói May vừa kéo Chử đi như chạy, xa chỗ bán rượu càng nhanh càng
tốt. May vừa nhìn thấy, May khơng nhìn nhầm, nhất định May không
nhầm, người mặc váy áo màu như cầu vồng ấy là mẹ già. Mẹ già đang
tấu có phải là bạn cũ của mẹ già? Là người thề không bao giờ chơi đàn
môi nữa từ ngày mẹ già đi làm dâu, có phải người ấy khơng?
May kéo Chử đi, cịn Chử nhìn May, nhìn mãi khơng nói được câu gì.
Nhà Chử chỉ có hai bố con. Mẹ Chử chết bệnh từ khi đứa con trai đang
bám bậu cửa tập đi. Lên sáu tuổi, Chử đã được bố dạy thổi kèn, lên mười
tuổi Chử đã theo bố lên nương. Biết chuyện, bạn May có đứa đùa, bảo
May về nhà ấy làm dâu thì sướng, vì Chử thổi kèn cịn hay hơn cả bố, vì
May khơng phải chiều mẹ chồng...
Muộn lắm May mới về tới nhà. Mẹ già đang ngồi hong tay trước cửa bếp
lò mới bén lửa, giục May lấy nước ấm đi rửa chân tay. Mẹ già đã mặc bộ
váy áo ở nhà nhưng lại quên thay thay khăn. May ngồi xuống bên cạnh.
Mẹ già bảo bố đưa mẹ Hoa xuống phố huyện chưa về, mẹ Hoa mới lên
chiều hôm qua. Mẹ Hoa lại lên. Chuyện ấy có đáng nghĩ đến khơng? Sao
mẹ già chẳng nói gì thêm? May ngập ngừng:
- Mẹ già định... định thế nào?
- Thế con gái bảo mẹ phải làm gì? Mẹ già quay sang nhìn May rồi lại
quay đi, cằm tì lên hai đầu gối, tay cầm thanh củi dụi mãi vào bếp lò đang
cháy to dần, một lúc lâu mới tiếp:
- Con gái à, làm dâu mà khơng làm mẹ thì chỉ là cục đá kê chân cột nhà
chồng thôi. ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là cục đá
kê cột thế thơi...Nghe mẹ già nói May ứa nước mắt ra. Vậy là hai mươi
năm nay mẹ già vẫn nghĩ đến chỉ là cục đá, mẹ già không nhận chị em
May hay sao? Mẹ già định trả chị em May cho mẹ Hoa như người ta
mượn ngựa rồi trả ngựa hay sao? Trả xong rồi thì mẹ già làm gì nữa?
Chẳng lẽ bằng ấy tuổi rồi còn định sang nhà khác tiếp tục làm cục đá kê
cột? May kéo ghế ngồi xích lại gần mẹ già hơn một tí, khơng biết nói gì
Khuya rồi vẫn khơng thấy bố về. Bây giờđường tốt rồi, người ta đi về chỉ
mất chưa hết nửa ngày, vậy mà bố đi lâu thế? Chẳng ai bảo ai nhưng hai
mẹ con đều có ý chờ, chờ đến tàn gộc củi mới đi ngủ. Nhưng vừa nằm
một lúc, chập chờn ngủ thì May nghe có tiếng đàn mơi cất lên. Tiếng đàn
ở ngay ngồi cổng gỗ chứ khơng gọi ở đầu nhà như lần trước. May định
mặc kệ, vừa mới chào nhau, mùi tóc quen quen còn chưa bay hết, lại
buồn ngủ nữa. Nhưng tiếng đàn cứ gọi mãi, gọi mãi, mà tiếng đàn môi
đêm nay cũng có gì khang khác, dài hơn trầm hơn, ngập ngừng hơn, vẫn
tràn qua bờđá vừa dày vừa cao như suối chảy. Nghe bao nhiêu lần mà lần
nào May cũng hồi hộp, tim đập thình thịch. Đột nhiên mẹ già khẽ khàng
ra khỏi chăn, chắc lúc đi ngủ mẹ qn chưa buộc con chó ra ngồi chuồng
ngựa rồi. Đợi mẹ mở cửa, May cũng tung chăn ra. Ra bảo Chử về đi thôi.
Về nghỉ mai còn đi làm chứ.
May đi như chạy ra sân, đầu va cả vào dây phơi treo đậu tương định ra rồi
vào luôn để mẹ già không biết. Nhưng vừa đi qua sân bất chợt May sững
lại. Ngay trước mặt May, cách chỉ hai bước chân là mẹ già. Mẹ già quay
lưng lại phía May, đầu cúi xuống, tấm khăn tuột trên vai, tay mẹ già đang
nắm chặt thanh gỗ gài hai cánh cổng...
May bíu lấy gốc cây lê, cố thở thật khẽ. ánh trăng cuối tuần mờ quá. Gió
lạnh từ trong khe núi ào ra, mấy chiếc lá lê già cịn sót lại rụng nốt, quệt
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Khơng hẹn trước mà lần nào trở về tôi cũng gặp trúng mùa trăng. Mùa
trăng có ý nghĩa với người miền núi nhiều lắm. Thường thì người ở trên
nương cứ thấy khói bếp dưới bản bay lên là bảo nhau về, nhưng vào mùa
trăng thì ai cũng cố nán lại. Thêm một gùi, hai gùi cũng cố, vì người già
bảo hạt lúa, bắp ngô cuối ngày bao giờ cũng mẩy hơn, chắc hơn buổi
sáng. Thế nên nhiều hơm về đến nhà thì trẻ con đã ngồi chờ cơm gà gật
bên bếp.
Đã mấy lần trăng lên rồi trăng tàn tôi không về. Mấy mùa trăng là mấy
lần mẹ mang mẹt thuốc ra phơi, rồi lại mang vào cất đi. Ngày tiễn tôi đi,
cha tơi bùi ngùi: "Mày đi thì tốt cho cái thân mày chứ ởđây mãi cũng như
tao, như anh mày thôi, tóc bạc, mỏi chân, cũng chỉ có chín bậc cầu thang
với cái ngưỡng cửa. Cố mà học lấy cái khôn vào đầu nhưng phải nhớ giữ
cái lưng cho thẳng, giữ cái đầu khơng cúi xuống... Lìn à". Lúc ấy, nhìn
vào mắt cha, tơi đã định khơng đi, nhưng cha đẩy tơi lên xe. Khơng ngờ
đó là lần cuối cùng tơi nhìn thấy cha. Vào đời, chưa kịp học lấy cái khôn
vào đầu cho "mắt sáng ra, cho miệng rộng ra" để mang về khoe với cha
chì cha đã ra đi, sau cái chết đột ngột của anh Lân tơi. Từ đó, mỗi khi nhớ
về căn nhà rộng thênh thang của mình, tơi khơng hình dung nổi nó ra sao
khi thiếu vắng bàn tay sắp đặt kỹ lưỡng của cha.
Về đến con suối đầu bản tôi gần như vấp phải một người đang ngồi trên
phiến đá rộng như mặt bàn. Một chàng trai còn rất trẻ, hai bắp vai vồng
lên dưới lớp áo tà phủ cịn thơm mùi lá nhuộm. "Làm gì mà ngồi ở đây
một mình thế?". "Ngồi chơi trăng lên thôi". "A, lại thổi khèn gọi con gái
cạnh anh ta, để nguyên cả giày sục xuống suối. Nước suối ấm, chầm
chậm uốn quanh bãi lanh mọc cao hơn đầu người. Vì thế về bản phải lội
hai lần trên cùng một con suối. Ngày nhỏ, anh em tôi với lũ bạn cứ nằm
xồi ra, để nước cuốn trơi từ trên xuống dưới bãi lanh, đập nước mỏi chân
vài lần là biết bơi.
Một tốp con gái đi nương về lội ào qua mặt tôi, phảng phất mùi của lá dẻ
khô, mùi nương đồi, mùi cỏ cháy, bng lời chịng ghẹo. "Hơm nay lại có
thêm một người nữa à. Anh gì ơi, đến Vần Chải tìm ai đấy?". "Chắc là
tìm đứa con gái đẹp nhất rồi". "Thế thì khơng có đâu. Con gái Vần Chải
ai cũng đẹp như nhau mà". Tiếng cười rộ lên, khuất sau bãi lanh rồi vẫn
nghe tiếng cười, cả tiếng hát cất lên: "... Dêu hẩn lầu tẩu lốc, bản nuông
bàu mi lóc. Lóc hẩn lầu tẩu lải, bản nng bàu mi vai..." (Bản em khơng
có nắng, lấy trời râm làm cảnh đẹp. Bản em khơng mưa phùn, thì chàng
ơi hãy về)... Tiếng hát bay lên, dội vào vách núi cao ngất, xao động cả
đêm đang xuống. Tôi đi qua bãi lanh, cảm giác hơi ấm của đám con gái
vừa đi qua vẫn còn phảng phất.
Đến đoạn suối thứ hai, định lội ào qua rồi về nhà mình ln thì tơi bắt gặp
một người đang dầm mình dưới chỗ nước sâu. Trên bờ, một gùi củi cao
ngất dựng cạnh bụi cây. Tôi ngồi thụp xuống sợ bất chợt người con gái
quay lại nhìn thấy mình thì khó xử quá. Trăng đã bắt đầu lên phía sau
ngọn Tạ Đú làm cả đoạn suối sáng bừng lên. Người con gái có đơi bờ vai
rất tròn, cái cổ cao mà trắng như đá núi vỡ. Tôi nghe rõ cả tiếng khoả
nước... Đang định đứng dậy, quay lại chỗ ban nãy, chờ cho cô gái đi
trước rồi mới về. Thì cơ gái đã đứng lên. Tơi cứng đờ như thằng ăn trộm
bị bắt quả tang. Cô gái ú ớ không thành tiếng một lúc rồi kêu lên: "Ơi,
chú Lìn. Chú Lìn phải khơng? Làm chị hết cả hồn. Chú về sao không báo
trước cho mẹ mừng?". Tơi líu ríu: "Chị dâu! Sao đi nương về muộn thế,
khác". "Đưa gùi em mang cho." "Thôi, chú không gùi được đâu. Lâu lâu
khơng gùi cái gì thì đau vai lắm.". Chị cúi xuống xốc gùi củi lên vai. Gùi
củi cồng kềnh lại nặng nên cả người chị phải lao về đằng trước. Đi sau,
tơi nhận ra hơi nóng từ cơ thể chị làm cho váy áo ướt như có sương mù
bay lên. ở miền núi, con gái phải tập gùi từ lúc 8, 9 tuổi. Gùi mãi, đủ thứ
trên lưng, già rồi vẫn gùi nên bao giờ lưng cũng cịng sớm hơn lưng đàn
ơng. Chị dâu tơi cịn phải gùi nhiều hơn người khác, gùi thay cả mẹ, thay
cả tôi. Chẳng biết đến bao giờ mới thôi không phải gùi nữa. Từ sáng sớm
đến tối mịt, cái lưng chỉ thẳng ra mỗi lúc ngủ.Hai chị em mải miết đi,
phía sau tiếng khèn lá đã cất lên.
Nhà tơi có ba anh em, anh cả, tôi và em gái út. Tôi với anh giống nhau y
hệt. Ngày nhỏ, nghe hàng xóm hay đùa bảo mẹ tơi phải lấy nhọ nồi bơi
lên mặt một đứa để cịn biết đâu là anh, đâu là em. Hai đứa đã cãi nhau
mà cãi không xong là đánh nhau. Vì chẳng đứa nào chịu nhận mình là
người phải đánh dấu. Lớn lên tí nữa thì tơi lại cao vượt lên. Mười tám
tuổi anh Lân mới chỉ đứng đến tai tôi. Ngày anh cưới vợ, tôi đã biết cầm
dao chọc tiết con lợn gần một tạ, anh em thơi khơng cịn cãi cọ nữa.
Nhưng tơi đi chưa đầy năm thì anh bị lợn rừng húc chết trong một đêm
lên nương canh ngơ. Cha tơi đau buồn suốt mấy tháng trời vì chưa kịp có
cháu nội. Khơng riêng gì cha mà cả họ đều trông chờ vào anh Lân.
Nhưng chị dâu lúc ấy còn đứng thấp hơn cái khung cửa vài gang tay, một
tay tôi cũng đủ sức nhấc bổng chị lên. Khơng biết có phải vì thế mà anh
chị chưa kịp có con hay không?
Tôi bước lên cây cầu thang quen thuộc, kịp nhận ra sự thiếu vắng bóng
đàn ơng ngay trong ngơi nhà của mình. Một bậc cầu thang bị vỡ ra một
miếng từ bao giờ chưa có ai thay, cái cặp tre cời bếp cháy nham nhở gần
đến tay cầm vẫn cố dùng, cần giã gạo long ra, để chỏng chơ... ở nhà thì
ơng, đàn bà có đến cũng chỉ được ở dưới bếp, trưởng họ có nói gì khơng
thuận tai cũng phải nghe theo. Lâu nay mẹ tôi đau yếu thế, chắc chị dâu
cũng chẳng bao giờ mặc váy áo đẹp đi đâu.Mẹ sờ nắn khắp người tôi, bắt
tôi ngửa hai bàn tay xem vết chai còn hay mất, nhìn tơi chăm chăm suốt
bữa ăn. Dường như mẹ vẫn chưa hết ngỡ ngàng vì sự trở về đột ngột của
tơi. Tơi đã xa ngơi nhà của mình quá lâu, lâu đến nỗi quên cả chỗ ngồi
của mình trên tấm phản lớn nhất bên bếp.
Chị dâu mở tủ, lấy gói chè gói kỹ trong mấy lần giấy ra pha. Chị biết tôi
nghiện chè, mà phải thứ chè nhà tự sao lấy. Thỉnh thoảng có người xuôi,
tôi lại nhận được chè chị gửi. Chè ở đây mọc hoang. Dưới thấp người ta
còn chặt đi để lấy chỗ trồng thứ khác chứ trên cao, tít trên đỉnh núi mặc
kệ, muốn lớn đến đâu thì lớn. Mùa xn nhà nào có người hay uống chè
lại mang gùi lên lấy về mà sao. Đi hai lần là đủ chè uống cả năm, uống
đến mùa xn năm sau.
Mí quấn lấy tơi một lúc lại bỏ sang ơm cổ chị dâu địi đi ngủ. Ngày chị về
nhà tơi Mí mới được hơn 2 tuổi vẫn chưa rời vú mẹ, nó quấn quýt với chị
cho đến giờ. Cả nhà chỉ mỗi mình Mí dứt khốt khơng gọi chị dâu mà gọi
chị gái, mẹ nói thế nào cũng khơng nghe.
Tơi bảo với mẹ rằng lần này tơi về để đón mẹ xuống ở với tơi, lần sau thì
đón cả chị dâu, cả em Mí, tơi muốn mọi người ở bên mình, muốn mọi
người hết khổ. Mẹ nắm chặt đôi tay trên đầu gối: "Đấy là những gì mày
học được từ khi ra khỏi nhà phải khơng Lìn? Mắt mày sáng ra bằng nào
tao chưa thấy, chỉ thấy mày quên hết lời cha mày dặn thôi, quên cả lời
hứa khi nào tinh như con cắt lúc rời tổ mày sẽ về, sẽ lấy vợ, có nhiều con
trai. Mày nói ở quê khổ quá à? Khổ mà tao vẫn sống đến giờ, khổ mà trẻ
con vẫn lớn được! Khơng có ai chết vì khổđược đâu, chỉ có chết vì trong
Tơi muốn bảo mẹ rằng ý tôi không phải như mẹ nghĩ, nhưng không mở
miệng được. Mẹ không cần tôi cho mẹ cuộc sống khác, mẹ cần một đứa
con trai để ngày mưa gió có người dọi nhà, có người chèn cửa. Chị dâu
khẽ khàng lên tiếng: "Chuyện ấy để mai hẵng nói, chú Lìn đi nghỉ kẻo
mệt". Chịđã trải chiếu, mang chăn ra chỗ ngủ cho tôi từ lúc nào. Mệt, đau
nhừ, mỏi rã rời mà không sao ngủđược.
Đã gần giữa thu, trời bắt đầu lạnh, những cơn gió hun hút luồn qua vách
nứa. ánh trăng sáng trắng lọt qua ô cửa nhỏ, hắt cả một quầng sáng vào
trong nhà. Cả bản tơi nằm gọn trong một thung lũng, bốn phía là rừng,
qua rừng đến nương ngô, nương lúa, qua nương lại đến rừng rồi đến bản
khác? Bản ở dưới thung lũng nên ngập trong ánh trăng. Ban đêm, những
nếp nhà sàn lô nhô lẫn vào rừng cây trông không rõ đâu là nhà, đâu là
những tán cây rậm rì, cao vút. Giữa mùa, trăng cứ rọi vào nhà cả đêm,
trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau. Đêm trời càng gió, trăng càng
sáng thì hơm sau càng nắng to.Hồi còn ở nhà, mùa trăng nào tôi cũng
bám áo anh Lân tìm đến nhà nào có con gái đẹp thổi sáo suốt đêm. Anh
Lân thổi khèn lá tài lắm, phiên chợ nào cũng có con gái quấn theo mãi, tối
không về được. Thế mà về bản, đứng ở đầu hồi nhà người ta có khi ba
đêm liền cũng không thấy ai ra. Ba đêm khơng được thì bảy đêm, bảy
đêm cũng không được là hỏng rồi, sang nhà khác thôi. Lần anh đến nhà
chị dâu tôi bây giờ cũng hết đêm thứ bảy mà khơng được gì đã định bỏ.
Cả ngày hơm sau anh bỏ cơm, gắt om xòm. Đến đêm thứ tám lại mang
mũ nồi giấu dưới gối, đi. Đêm thứ chín, trăng lên muộn lắm, tơi đã thiu
thiu ngủ lại thấy anh dậy mặc áo. Anh bảo: "Thôi đêm nay mày đừng theo
tao nữa, muộn rồi. Tao đi, có khi ngủ ln ngồi rừng khơng về". Gần
sáng thì anh về, lật chăn ra, bắt tôi dậy để anh cho xem chiếc khăn tay
rào rào ngồi sơng, tiếng trâu thở phì phì đuổi muỗi, tiếng chim lợn rít lên
cuối rừng... và càng rõ hơn tiếng khèn lá từ ngoài suối vọng vào. Tiếng
khèn lúc gần lúc xa, lúc như tiếng gió dài lê thê, lúc ào ào như nước lũ,
lúc cao vun vút, rộn rã như cánh chim buổi sớm... Tiếng khèn như thế nói
được nhiều điều lắm, đủ để cơ gái nào đó hiểu rằng chàng trai sẵn sàng
làm tất cả vì cơ, đổi tất cả những gì mình có để lấy ánh mắt của cơ, bán
tất cả để mua nụ cười của cô. Chàng trai ấy sợ đôi chân cô dẫm phải đá
sắc lên nương, sợ gai cào tay cô, làm rách vành khăn của cô lúc vào rừng.
Chàng trai ấy nhìn cơ cười để vui, nhìn cơ khóc để buồn... Khơng biết
chàng trai có đơi tay nổi bắp cuồn cuộn ấy gọi ai.
Đột nhiên có tiếng cọt kẹt của sàn nhà. Chị dâu từ trong buồng rón rén
bước ra, vừa đi vừa vấn lại mái tóc dài đến eo lưng. Tự dưng tôi run bần
bật, một cảm giác đau buốt nhói lên phía ngực. Tơi nhắm nghiền mắt.
Hẫng hụt, như người rơi xuống đáy sông sâu hun hút...
Kéo chăn lên ngang mặt, chỉ hở hai con mắt tôi cố nén để không vùng
dậy. Nhưng chị dâu chỉđi ra bếp thổi lửa, mang lanh ra quấn. ánh lửa bập
bùng hắt lên gương mặt trịn của chị. Hình như đến giờ tơi mới thực sự
hiểu ra vì sao ngày xưa anh Lân có thể thổi khèn lá tới đêm thứ chín. Đơi
gị má căng, đỏ rừng rực, khuy áo bên trên bật ra trễ nải, để lộ ba ngấn cổ
cao trắng ngần, khuôn ngực phập phồng nhè nhẹ... Tiếng khèn mỗi lúc
một réo rắt, đôi tay chị quấn lanh nhanh hơn, cuống quýt mà ánh mắt thẫn
thờ. Được một lúc, chịđứng dậy với thúng ngơ trên gác xuống tẽ... Tiếng
gà rừng tít thăm thẳm xa đã eo óc gáy. Răng cắn chặt mơi tê dại. Lát sau
tôi thiếp đi mãi đến lúc nghe tiếng cối xay ngô rền rĩ dưới gầm sàn mới
tỉnh dậy. Chị dâu đã trở lại vẻ hoạt bát, thậm chí tơi khơng dám tin chắc
có tiếng khèn đêm qua, nếu như cuộn lanh không rối tung nằm đó... Chị
mang ấm nước nóng ra pha cho tôi rửa mặt: "Đêm qua ngủ có phải co
à. Lâu quá mới ngủ được một giấc ngon như thế". Chị dâu cười. Tơi thấy
đầu óc váng vất.Trời cịn chưa sáng rõ chị dâu đã xay ngô xong. Mẹ tôi
bảo: "Năm nay nhà mình làm cốm được đấy con dâu?". "Vâng, có chú
Lìn về mà!". ở q tơi, mùa cốm là mùa hội. Sáng mười bốn âm lịch, mặt
trời còn chưa lên đã mang đòn gánh lên nương lúa cao nhất "tan" lúa về.
Buổi chiều, đàn ông xuống gầm sàn tìm chỗđắp bếp đất, đàn bà nhóm lửa
nướng thóc non. Đêm xuống trăng lên thì con trai con gái trong bản kéo
nhau tới giã cho từng nhà. Giã cốm thâu đêm, hết cốm thì cho rơm vào
giã, giã để cịn được ngắm nhau, được nói lời hay với nhau mà không sợ
ai nghe mất. Thế nên sáng hơm sau về nhà có ai hỏi đêm qua giã được
mấy mẻ cốm, cốm năm nay có ngon hơn năm trước không cũng chẳng
biết. Mấy năm rồi, đến mùa cốm chị dâu chỉ mang một cum sang gửi
hàng xóm lấy cốm cho cái Mí ăn chứ nhà khơng làm.Chị dâu đi đến trưa
mới về, bốn cum thóc nếp cịn xanh mọng nặng trĩu hai đầu đòn gánh. Mẹ
kêu lên: "ấy da, lấy về nhiều thế con dâu? Định cho thằng Lìn ăn cốm
thay cơm thay thịt hay sao?". "Để chú Lìn khỏi qn mùi núi rừng thơi
mẹ à".Chập tối, hai chị em đắp bếp, nướng thóc, xếp sẵn một lượt vào cối
dài thì đám thanh niên tới, chia ra mỗi bên hai, ba đứa con trai con gái
xen nhau. Đứa con gái có cái lúm đồng tiền cất tiếng hát, hát xong, bọn
con trai nhấc chày lên, lúc con trai giã xuống, bên kia con gái nhấc lên.
Vừa giã vừa chòng ghẹo nhau, thỉnh thoảng lại rúc rích cười. Một đứa
con gái nói to, át cả tiếng chày thụm thụp: "Chị Lân à, làm sao con gái có
chồng rồi mà cứ đẹp mãi, ngày càng đẹp thế". "Em nói ai?". "Cịn ai nữa.
Bao nhiêu đứa muốn hỏi chị đun nước lá gì gội đầu mà tóc đen thế, nhiều
thế, đun củi gì mà má hồng thế đấy!". "Chỉ nói lung tung thôi. Chị già rồi
mà". "Không già tí nào đâu chị ơi. Cứ đẹp mãi thế lại khối người Vần
Chải khổ thôi". "Bậy quá. Không được đùa thế đâu". Mặc kệ, tiếng cười
vẫn cứ lanh lảnh. Chị dâu bối rối, sảy mẹt cốm vãi cả ra ngoài.
rừng thì đám thanh niên giã xong, lại lũ lượt kéo nhau sang nhà khác.
Cịn một mình chị dâu lúi húi dọn dẹp. Chị khe khẽ hát. Bất chợt tiếng
khèn lá đêm trước lại dội lên, chị luống cuống bê thúng cốm đi như chạy
lên cầu thang, suýt vấp ngã. Chị cài chặt then cửa, lao vào buồng, tơi cịn
nghe tiếng thở dồn dập rất lâu.
Mẹ tôi ra khỏi buồng, đến trước bàn thờ cha tôi. Tôi chỉ nghe được tiếng
thở dài nén rất nặng trong lồng ngực mỏng manh của mẹ. Sau khi làm hai
đám ma, trong nhà tôi hầu như khơng cịn gì. Bị, dê, gà, lợn mổ để thầy
mo cúng làm lễ hết, ngô lúa cũng hết. Cha tơi mất tháng trước thì tháng
sau trời nắng to, nắng ghê gớm, nắng từ lúc mặt trời chưa lên hẳn đến lúc
mặt trời sắp lặn. Nắng từ ngày này sang ngày khác, già bản tụ tập tất cả
bô lão trong làng lập dần cầu khấn mà trời vẫn không cho một giọt mưa.
Trên nương, ngô vừa ra bắp bằng chuôi dao đã khô quắt lại, lúa ngả sang
màu trắng, bông phất phơ như lau. Rừng già lách tách tiếng vỏ cây vỡ
nứt. Rồi cháy, cháy khủng khiếp, cháy ba ngày ba đêm, thiêu trụi mấy
cánh rừng, đến sáng thứ tư thì thơi. Đứng dưới bản nhìn lên chỉ còn thấy
một màu đen của cây cháy. Đột ngột, kinh hồng q, khơng ai cịn khóc
được.
Nương sắn chưa đầy năm cũng nằm trong vùng cháy. Chị dâu mang dao,
mang gùi đi từ sáng sớm đến trưa mới về, gùi một gùi sắn đã chín, củ nào
cũng chỉ như ngón chân cái. Mí hớn hở ăn, rồi say, nơn ra máu. Nó ốm,
tóc rụng trơ cả da đầu, nằm ẹp như một con mèo con, chỉ còn thấy hai hốc
mắt. Mẹ cũng kiệt sức, ngồi bó gối bên giường Mí mấy đêm liền, đến lúc
chị dâu đỡ mẹ nằm xuống, đôi chân vẫn co như đang ngồi. Ban đêm, lúc
mọi người ngủ, chị dâu đốt đuốc ra suối lật từng viên đá lên tìm cua. Sáng
sớm, lúc mọi người chưa dậy, chị đã mang ống bương qua hai quả núi đi
lấy nước... Những ngày tháng ấy nếu không có chị dâu khơng biết điều gì
xanh, phủ dần màu đen của tro than. Như một sự trả nợ, vụ ấy trời cho
được mùa, lúa ngơ mang về khơng cịn chỗđể.
Chú tơi đến chơi, bảo là "để xem bao giờ thằng Lìn mới chịu lấy vợ". Chú
thím cố mãi cũng chỉ tồn con gái. Tưởng có mỗi chuyện ấy thơi nhưng
đến lúc ăn cơm xong, đợi chị dâu mang bát đi rửa chú mới nói: "Chị à,
con dâu ngày càng đẹp ra đấy, khéo mà giữ kẻo mang tiếng họ Bàn".
"Chú nói gì? Nó đi đâu mà phải giữ. Đi từ nhà lên nương, từ nương về
nhà, mặt chỉ biết cúi xuống nhìn lối đi...". "Chị khơng biết rồi...". "Biết
cái gì?". "Người già mà ngủ say được thế sao chị dâu? Ngủ say quá nên
không nghe đêm trăng nào cũng có đứa đến gần nhà thổi khèn lá! Đứa ấy
gọi ai? Gọi cái Mí chín, mười tuổi à? Con gái có chồng, cái bụng mà
không nghĩ lung tung thì má khơng như hoa dào thếđâu".
Tiếng nước xối ào ào rồi lặng yên. Mẹ liếc nhìn chú, lại nhìn ra cửa. Chị
dâu khệ nệ bưng chồng bát vào, nước bắn lên váy ướt lem nhem, dính vào
đơi bắp chân trịn. Con gái miền núi có đơi bắp chân đẹp là nhớ quấn xà
cạp lúc đi làm, lúc ra khỏi cửa, chỉ đệm mới tháo ra. Chú tôi vê điếu
thuốc lào phả khói mù mịt, ngồi thêm lúc nữa rồi lẳng lặng ra về. Chị dâu
rút nắm đuốc trên gác bếp châm lửa, đưa chú xuống cầu thang. Ngày
trước, chú là người phản đối việc anh trai tơi địi cưới chị. Chú chê chị bé,
chê con gái mà ngực lép, lông mày rậm là không biết làm dâu, là có lúc
cãi bố mẹ chồng. Sau này, khi anh tôi rồi cha tơi mất, chính chú lại là
người thương chị dâu nhất, chuyện gì cũng nói như với con gái. Thế mà
bây giờ...
Chú Phin về rồi, mẹ bảo tôi: "Mày mới về, nghe chú nói, biết thế, đừng
nghĩ xấu cho nó". "Mẹ nghĩ thế nào?". "Tao làm dâu họ Bàn, nó cũng là
dâu họ Bàn, chết đi làm ma họ Bàn. Muốn gì cũng khơng được đâu".
Chị dâu ngồi vào khung cửi. Chị bảo cố dệt để còn kịp đi phiên chợ tới.
ngồi sơng, trên rừng, khơng ai thức cạnh khung cửi. Nghe tiếng lạch
xạch, lúc gấp gáp, lúc trễ nải tôi không sao ngủđược.
Tiếng khèn lá vẫn réo rắt từng đêm, từng đêm. Đêm nào chị dâu cũng
ngồi bên khung cửi, đống lanh trắng chất đầy hai quẩy tấu không hết.
Từng đêm, từng đêm ấy, tôi nằm cứng đơ như khúc gỗ, nghiến mỏi hàm
răng nhìn chị hai lần, ba lần đứng lên mang dây lanh ra buộc cửa, buộc
thêm, thêm mãi, thành một đống rối tung to xù. Khơng biết có phải tại
ánh trăng hắt từ bên ngoài vào hay khơng mà tơi thấy mặt chị đã khơng
cịn hồng, mà tái xanh, cặp mắt như mắt người say rượu. Đêm thứ tư, đêm
thứ năm... đến đêm thứ bảy thì tơi vùng dậy, lao như một con thú ra cửa,
giằng tay chị ra khỏi mớ dây lanh bùng nhùng. Chị giằng co với tôi, sợi
lanh thô cứng cửa vào tay chị bật máu...
Tôi không nhớ mình đã nói gì để thằng con trai cịn rất trẻ, tóc ướt sũng
sương đêm ấy lủi thủi bỏ đi. Lúc trở về nhà, chị dâu đang đứng ở chân
cầu thang, mắt nhìn chằm chằm vào bàn tay đang nắm chặt của tôi. Tôi đi
qua chị khơng nói một lời nào, run lên vì hơi nóng rừng rực đang tốt ra
từ đơi cánh tay trần phơi dưới ánh trăng, từ đôi mắt thăm thẳm của chị.
Chú Phin ốm, bảo tôi lên canh nương thay chú vài hôm. Tôi mang dao
quắm, đèn pin đi. Nương ở xa nên chắc sẽ ở lại luôn đến hôm nào chú
khỏi mới về. Buổi chiều, chị dâu lên, mang theo cá nướng với thịt dê. Chị
cắm cúi dọn nồi niêu, chăn màn, khơng nói câu nào. Mãi đến lúc chị định
về, tôi cũng mới mở miệng được: "Chị dâu à, em bảo thằng Sìn đem khèn
lá đi nơi khác mà thổi. Nhìn vào mắt nó em khơng chịu được...". Chị dâu
run run: "Chị khơng nghĩ đến thằng Sìn bao giờ đâu, chú đừng lo". "Thế
thì chị dâu nghĩđến ai? Ai hở chị dâu? Người ấy có ở Vần Chải khơng?".
"Chú đừng hỏi nữa, chị xin...". Chị dâu khóc. Tiếng khóc bật ra như thác
trong lòng. Nước mắt chảy ròng ròng trên gương mặt bợt bạt, rớt xuống
ướt ngực áo...
Cuối mùa trăng, tôi lại đi. Mẹ vẫn không một lời ngăn cản, mẹ mặc tôi.
Tiễn tơi đi chỉ có chị dâu với em Mí. Đến chỗ con suối chảy qua chị dừng
lại, cúi nhặt một viên sỏi đưa cho tôi: "Chú mang đi để khỏi qn đường
về Vần Chải". Tơi cố nhìn chị, mắt chị rưng rưng, lấp lánh ánh trăng mờ
xa cuối rừng chưa kịp lặn. Chị quay đi. Gió sớm từ trong khe núi lùa ra
thông thốc làm váy chị, váy em Mí xịe ra.
Tơi mím mơi bước đi. Bãi lanh còn đẫm sương đêm quệt vào mặt lạnh
buốt. Ra đến đoạn suối bên ngoài lại nhìn thấy ngay trước mặt, trên phiến
đá rộng, một người đang gục đầu lên hai cánh tay vòng trên đầu gối.
Xung quanh, lá rừng bị xé tung tơi tả. Sìn! Đúng là Sìn. Ngẩng đầu lên
nhận ra tơi hình như nó định đứng dậy, định chạy đi, nghĩ sao lại ngồi
n. Đầu tóc, quần áo Sìn ướt sũng, râu mọc tua tủa trên gương mặt tím
tái...
Tơi đi qua Sìn. Hịn sỏi trong tay bỏng rát. Trăng cuối mùa vẫn chưa kịp
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Mẹ và thằng Sinh đón tơi ở ngã ba, nơi chân dốc dẫn lên ngôi nhà sàn.
Ngôi nhà nằm chênh vênh trên cao kia. Già nua cũ kỹ và nhỏ nhoi. Khi
nào nhớ về mẹ, tơi cũng hình dung thấy ngơi nhà với chín bậc cầu thang,
nơi chân tơi run rẩy, chập chững đi ra cuộc đời và từ cuộc đời đầy giông
bão trở về.
Mắt tôi tự dưng mờ đi. Tôi luýnh quýnh: “ềm! ềm vẫn khoẻ đấy ư?Trời
ôi, con lo biết chừng nào là lo!”. “Biết tao khoẻ thì cịn lâu mày mới về,
phải khơng Din?”. “Kìa… con xin ềm. ềm đừng nói với con thế. Con vừa
về tới nơi… ềm có thương con…”. Mẹ tơi ngoảnh mặt đi, lặng thinh.
Tiếng thở dài nhè nhẹ mà hun hút như cơn gió quặn lồng ngực tơi.Thằng
Sinh ơm cổ, dí cái mũi ươn ướt vào má tôi: “Bác ơi, bà bây giờ lẩm cẩm
rồi. “Hư nào!”. “Thật… Bố cháu bảo thế mà”.
Nhà tơi chỉ có hai chị em, tơi với em Dân. Cha tôi hy sinh khi tôi mới
mười tuổi, mẹ tôi ở vậy nuôi mẹ chồng, cả đàn em chồng lít nhít với hai
chị em tơi. Rồi bà tôi mất, các cô các chú lấy vợ lấy chồng, tôi đi xa, em
Dân lấy vợ sớm rồi cũng đi nốt, bỗng chốc mà mẹ gần như chỉ có một
mình. May mà em Dân lấy vợ quê, từ ngày có thằng Sinh mẹ tơi cũng
khuây khỏa.
Mẹ đi trước, tay dắt thằng Sinh chậm chạp leo dốc. Tôi thảng thốt, chẳng
lẽ lưng mẹ đã còng thật rồi ư? Dấu vết thời gian chính là nó, đã hiện diện
khắc nghiệt trên dáng vóc mẹ khơng nấn ná, khơng gượng nhẹ. Đơi chân
cũng khơng cịn chiều theo ý mẹ và con đường như dài hơn, dốc hơn,
khấp khểnh hơn. Ngày xưa, cũng trên con đường cheo leo dốc này, tơi đặt
Có lần cả hai chị em ngã dúi dụi, mặt vục vào đất cát, khơng khóc thành
tiếng. ấy thế mà bà nội biết, không cho mẹ đánh đứa nào. Về sau em Dân
bảo: “Lúc ấy em thương mẹ quá. Đến cả cái quyền dạy con cũng bị cấm
đoán”. ý em trách bà nội. Bà nội tơi có tiếng khắc nghiệt với con dâu ở Tả
Choóng bây giờ. ấy thế mà rồi bà cũng chỉở với con dâu cả cho đến cuối
đời chứ không chịu đi với đứa con trai, con gái nào.
Em dâu đi nương về, ngả vội gánh thóc nếp xuống cầu thang: “Chị Din đã
về rồi này! Ơi, tí nữa thì em dâu khơng nhận ra đấy. Ngày càng đẹp gái
như bơng hoa thì khổ trai bản thôi”. Em dâu cười, cái lúm đồng tiền xốy
sâu trên má. Em dâu kém tơi bốn tuổi. Ngày em về làm dâu, nhà tơi có
bao nhiêu trai bản uống rượu say không về được. Người Tả Choóng bảo
nhờ em Dân có cái chữ hơn người nên ơng Dìn mới chịu gả con gái cho
mà chỉ lấy ba mươi, chứ người như thế phải lấy cả trăm mới xứng. Trăm
đồng bạc trắng, trăm cân gà, trăm cân lợn, trăm lít rượu ngơ, khơng phải
nhà giàu mấy đời thì chịu thơi, làm đến chết cũng khơng trả hết nợ. Ngày
có em dâu tơi khấp khởi mừng, ít ra cũng an tâm phần nào khi đi xa. Hình
như em sinh ra để làm dâu nhà tôi. Em giống mẹ tôi từ nết ăn ở trở đi. Có
em, mẹ có thêm một đứa con gái. Một đứa con gái mà mẹ mong mỏi chứ
không như tôi. Tôi không nghe được mẹ muốn gì. Tơi vùng vẫy và tơi ra
đi. Có những lúc mệt mỏi rã rời vì cuộc mưu sinh nơi xứ người tôi chỉ
thèm được vùi mặt vào ngực mẹ mà khóc cho thoả thuê. Nhưng rồi vẫn
cứ xa mẹ, xa hơn và lâu hơn.
Gánh thóc nếp có tới bốn cum vậy mà em dâu chỉ xốc nhẹ một cái đã vắt
trên vai, bước thoăn thoắt lên cầu thang, để lại chín vết chân ướt vững
chãi, đều đặn. Cầm lấy cum thóc, em dẻo tay lật ngửa, x nó ra như
bơng hoa trên sàn phơi đầu hồi. Cạnh đó có tới mấy chục cum đều đặn và
đã xếp sẵn từ bao giờ. “Năm nay được nhiều thóc nếp khơng em?”.
về quê lấy chồng không, chị Din?”. “Bây giờ không ai muốn lấy người
hai sáu tuổi đâu em ơi. ế mất rồi”. “Cây cao khắc có người khoẻ trèo chị
Din à’.
Tôi cất đồ đạc, cầm lấy địn sóc theo em dâu lên nương mang nốt số thóc
ra quệt vào đơi bắp chân trịn vo. “Năm nay nhà nào cũng bỏ nương
xuống dưới kia làm ruộng nước rồi. Cả lúa nếp cũng cấy dưới ấy, nhiều
giống mới bây giờ mang đập như thóc tẻ được, khơng phải vị. Nhưng bà
nội thằng Sinh bảo vẫn phải gieo một ít thóc cũ để cịn đồ xôi, làm bánh
rằm, với lại để phần đợi chị Din…”.
Nương lúa đã đổ rạp xuống ở phần “tan” xong. Mai kia khô rồi chỉ cần
châm lửa đốt là sạch sẽ, trỉa luôn được vụ mới. Chiều chậm chạp đổ
xuống từng vạt núi vàng sậm, cả những cánh rừng sồi, rừng dẻ mướt óng
phía xa. Gió trườn trên những triền núi; từng cơn, từng cơn, cuốn theo
mùi khói bếp từ những căn nhà bàng bạc, thấp thống phía bản người Phù
Lá.
Một thằng bé, mặt mũi lọ lem lùa đàn dê đơng nghìn nghịt từ đỉnh núi
chạy xuống. Ngang qua chỗ tơi nó khựng lại, đơi mắt hiền lành giương
lên tị mị. Tơi mỉm cười thân thiện: “Em, tên là gì?”. “…”. “Nhà em ở
ngay bên suối phải không?”. Tôi hỏi vậy bởi lúc lội qua con suối đầu làng
đã thấy một ngôi nhà trông giống trại chăn dê, từng dãy chuồng kế tiếp
nhau san sát. Nhưng thằng bé khơng nói gì ngồi những âm thanh u ơ rụt
rè. Đột nhiên nó chìa cho tơi một mớ cỏ tím ngăn ngắt, lè lưỡi trêu chọc
rồi quay đi, roi vung lên vun vút. Em dâu khe khẽ: “Thằng Câm đấy. Có
khi chị khơng nhớ. Ngày chị cịn ở nhà nó vẫn mang cá lên bán cho mẹ.
Nay thì ở mỗi nhà một vài ngày. Gần hai mươi tuổi rồi mà khơng lớn
thêm được là mấy… Nó đưa cho chị cái gì thế? Ngải đắng à? Đi xa thế
thuộc xộc lên. Chính cái thứ hương cay cay, ngòn ngọt, nhằng nhặng
đắng đã theo riết tơi, đã níu tơi với cả qng đời thơ ấu bình n. Có vậy
mà từ lúc nào bước chân về bản tôi nghĩ mãi không ra mình thấy thiếu
thứ gì mà cứ chơng chênh, trống trải. Nắm rau ngải thằng Câm mang về
đã bắt đầu héo và nóng sực.
Mãi tới lúc lên đèn em Dân mới về, thồ theo một can dầu sau xe. Trông
em già và đen đi nhiều. Cứ tưởng làm cán bộ xã thì nhàn rỗi… Mâm cơm
có canh măng giang nấu với thịt ếch, thịt gà rang lá chanh và ngải đắng
xào mẻ. Nhìn đĩa rau ngải tôi thèm mà không dám gắp, sợ hết. Để rồi đến
cuối bữa vẫn còn nguyên. Em dâu ngạc nhiên: “Sao chị bảo thích rau ngải
lắm?”. “ừ…nhưng…”. “Nhưng lâu rồi, lâu quá rồi không ăn cái đắng như
thế nên quên, phải không?”. Mẹ tôi, vẫn cái giọng dằn dỗi.
Tôi lặng im. Dân nén thở dài. Trên mâm gỗ, đĩa rau ngải cứ nhoà dần,
nhoà dần đi… Tôi nghe quặn lên từ trong tiềm thức tiếng thác lũ thượng
nguồn ào ạt, tiếng vỏ cây rừng mùa khô vỡ ra lách tách, tiếng con nai tác
mẹ ngẩn ngơ, thăm thẳm và cả những cơn gió mùa dài lê thê hun hút trên
mái nhà. Năm ấy… Trời làm đất đai cạn kiệt, tôi theo mẹ đem ống bương
đi qua hai quả núi, cách Tả Choóng nửa ngày trời mới lấy được thứ nước
đầy rêu trong một cái vũng nhỏ. Rét căm căm, sương muối trút xuống
từng tảng, sáng ra thấy cây cối đầy lá úa, dây bí ngồi vườn chưa kịp ra
quả đã khô quắt queo, mẹ gieo hạt cải cả tháng chưa thấy mọc. Khơng có
hai thứ ấy, người q tơi khơng cịn bất cứ thứ rau gì cho mùa đơng. Một
ngày, hai ngày, rồi cả tháng, bữa nào cũng chỉ có sắn nạo ăn với muối.
Em Dân khóc ngằn ngặt, rồi bà, rồi mẹ cũng ứa nước mắt. Chiều hôm ấy
mẹ ra vườn quơ lấy một nắm ngải đắng, bà bảo: “Đừng liều thế, mẹ Din”.
Mẹ tôi ngập ngừng: “Con dê ăn được chắc mình cũng ăn được ềm à!”.
người ta chỉ lấy về khi trong nhà có người ốm, đem nướng trên phiến đá
nung rồi để gối đầu chứ chưa ai ăn bao giờ.
Mẹ đem luộc rồi xào mẻ. Mẻ chua, muối mặn, vậy mà ngải vẫn nhằng
nhặng đắng. Tôi cịn cố nuốt được vài ngọn chứ em Dân thì nhè ngay ra,
lại khóc. ấy thế nhưng tỉnh người ra thật, dần dần vài bữa rồi quen, ruột
gan đỡ xót đi. Bà gắp một bát đem sang hàng xóm. Thế rồi cả bản theo
nhau hái về ăn thay rau. Người ta càng hái thì ngải càng đâm nhiều ngọn,
mặc cho những đợt gió mùa tới tấp ùa về, quất ràn rạt trên mặt đất. Trên
nương, trong vườn, cả dưới gầm sàn chỗ cái ang nước khô vênh, chỗ nào
cũng thấy ngải, như một sự bù đắp cho sự khắc nghiệt của đất trời…
Sinh đã ngủ khoèo, trật cả cái bụng tròn phinh phính ra phía bếp lửa. Mẹ
tơi mang mảnh lưới đan dở ra làm tiếp, em dâu vừa đun cám vừa vị thóc
nếp. Dân ngồi rít thuốc lào. Trên bếp, nồi cám bắt đầu sôi lục bục mẹ mới
cất tiếng: “Dân à! Nói gì với chị mày thì nói đi chứ. Mong nó về lắm
mà!”. Em dâu nhẩn nha: “Đi làm cán bộ nói mãi cho người ngồi nghe
được mà nói với chị gái thì khó thế à”. Dân ngọ ngoạy, lúng búng: “Chị
Din về lâu lâu được thì mai em mới nói. Để chị nghỉ đã…”. “Chị khơng
về lâu được đâu. Một hai ngày lại đi thơi. Cịn bao nhiêu việc dưới
kia…”. Dân vốn thế. Người ngoài chả nể ai về nhà lại sợ chị. Từ bé tới
giờ khi nào tôi cũng đầy quyền uy. Đâu muốn thế. Chả gì, cha tơi là
trưởng họ, được mỗi đứa con trai…
Dân diễn đạt một cách vất vả, thỉnh thoảng lại liếc mẹ, nhưng mẹ khơng
tỏ thái độ gì. Ra em đang mâu thuẫn với mẹ, giữa cái mới và cái cũ. Xã
đang đốc thúc các làng, các bản thực hiện quy ước nếp sống văn hoá, phải
thay đổi cách ăn ở sinh hoạt, cả một số phong tục bị xem là lạc hậu…
nhưng Dân, một trong những người cần gương mẫu thì vấp phải mẹ, như
vấp vào ngưỡng cửa nhà mình. Khó xử, nan giải là phải. Chẳng biết mấy
Mẹ giục đi ngủ, mở hòm ra lấy bộ váy từ ngày tơi chưa đi. “Cịn biết cách
mặc khơng?”. “Dạ… nhưng tóc ngắn thế này làm sao mà vấn được khăn
đây ềm?” Mẹ tôi thở dài: “Mày lớn quá, tao không giữ nổi mày thật rồi.
Núi rừng cao thế cũng không ngăn được bàn chân mày. Sau này tao chết
đi rồi mày có trở lại Tả Chng khơng? Mày lấy người thế nào làm chồng
hả Din? Sao mày khơng đưa nó về để tao xem tay, xem mặt? Mày sợ nó
khinh mày, khinh q mày, phải khơng? Đời tao có khi không biết đến
chén rượu của con rể lớn bé thế nào…”.
Giờ thì tơi khóc nức lên. Lâu rồi khơng khóc được như thế. Tơi biết nói gì
với mẹ khi tơi đã ra đi vì khát vọng của mình, đã giãy giụa ra khỏi những
mịt mùng heo hút, đã sợ bị “định giá” như mẹ, như em dâu… thì cịn có
thể thanh minh, giãi bày gì cho vừa lịng mẹ? Tơi ghì xiết lấy tấm thân bé
nhỏ và lạnh của mẹ. Đâu hết rồi mẹ ơi những ấm nồng, đầy đặn ăm ắp
sức sống? Đâu rồi bầu ngực tròn căng của người vợ gố? Đâu rồi mái tóc
đầy những mùi thơm của lúa, mùi cay nồng của ngải đắng, mùi mặn mòi
của cỏ tranh bịđốt cháy?…
Đêm thanh vắng, tiếng nước chảy trong máng vầu róc rách. Khơng biết từ
ngày tôi đi đã mấy lần em Dân phải thay máng rồi. Bất chợt tiếng tắc kè
bật lên khắc khoải. Tơi rưng rưng nhớ cha. Ngày cha tơi cịn sống ông đã
từng bắt tắc kè về nuôi. Chỉ cần thả vài con tắc kè non lên mái nhà hôm
trời mưa là nó ở lại ln, thơi khơng đi nữa. Có lúc đàn tắc kè sinh sơi
đến gần chục con, dạn người, lơ láo bò qua bò lại trên bậu cửa. Hôm nào
chúng kêu tiếng lẻ là trời nắng, tiếng chẵn là trời mưa, cha tôi cứ theo đó
mà cắt đặt việc nhà. Chiến tranh biên giới nổ ra, cả nhà bồng bế nhau đi
sơ tán, chỉ cha tôi ở lại cùng dân quân du kích xã mà ơng phụ trách. Cho
đến khi tạm ngưng tiếng súng thì chúng tơi trở về. Cha tơi đã hy sinh. Căn
nhà cũ tan hoang, mốc thếch, đàn tắc kè bỏđi từ bao giờ. Bà nội ứa nước
trong số chúng có con nào là hậu duệ của đàn tắc kè nhà tôi? Đếm mãi mà
không nghe rõ tiếng chẵn hay lẻ. Mẹ tôi than mấy năm gần đây mưa nắng
thất thường, mùa vụ cũng lúc được lúc mất.
“Din ơi, mày vẫn thức đấy chứ?”. “Vâng! ềm bảo gì con?”. “Mai mày nói
với thằng Dân, bảo nó khơng muốn ở nhà thì xuống xã mà ở”. “ấy chết!
Sao ềm nói thế? ý em Dân khơng dám như vậy đâu”. Mẹ nghèn nghẹn:
“Hơn sáu mươi năm nay tao như con suối chảy xuôi. Sắp ra đến sông lớn
rồi, sắp theo cha chúng mày rồi, giờ nó bắt rẽ ngang, bắt chảy ngược…
Nó… thằng Dân ấy…”. “Nhưng con thấy có gì rối rắm lắm đâu mà
ềm…”. “Hừ! Khơng à! Mày cũng giống nó thơi, Din à. Bao nhiêu năm
nay người ở trên sàn nhà, trâu, ngựa, ngan, ngỗng ở dưới gầm sàn, tự
dưng em mày đòi mang trâu ra ngoài vườn, con trâu mẹ ốm lên ốm
xuống, cho uống bao nhiêu muối không khỏi. Ngỗng đang ở yên thế tự
nhiên lại lùa ra, sáng nào cũng phải đi tìm, con ngủ chỗ này, con ngủ chỗ
khác… Cả mày, cả nó đều tập ngồi, tập đi ở trên sàn nhà mới lớn được
chừng ấy, bây giờ còn mang bộ bàn ghế về. Nó bảo hay có khách nên
phải lịch sự. Lịch sự là cái gì? Khách nào cũng mặc quần áo đẹp, đi cả
giày lên nhà. Ngồi uống nước thì quay lưng vào bàn thờ ông bà, thấy trẻ
con thì vỗ má, xoa đầu… Thế mà lúc tao mở miệng ra thì nó bảo để rồi
phá cái nhà này đi, làm nhà ngói mà ở. Tao ốm, bảo mổ dê, gọi thầy mo
về đuổi con ma đi, nó lắc đầu quầy quậy, đưa cho một nắm thuốc xanh
xanh đỏ đỏ… Bây giờ khơn rồi, cái gì cũng muốn theo người xi. Tao
khơng cần. Tao khơng có đứa con nào như thế. Tao chết ở đây”. Lồng
ngực mong manh của mẹ căng lên, những nhịp đập hối hả, ngắt quãng.
Mẹ khóc khơng có nước mắt. Tuổi già đã mang đi những giọt đau đớn
cuối cùng của đời người.
Hồi lâu, mẹ cựa mình len ra khỏi đơi tay tơi, mẹ vén lại chăn. Tơi chồng
đẻ. Dặn mẹ Sinh nhớ xúc trấu khô mà ủ chắc lại quên rồi”. Lúc chiều ông
Tào ở mãi Ngàm Đăng Vài sang đòi đặt tiền trước để con nghé lớn tí nữa
thì bắt đi. Trâu trắng không dùng cày được, người ta kiêng. Nhưng bán đi
thì tiếc, lại thương con trâu mẹ. Thế nên ông kia nói mãi mà mẹ vẫn chưa
chịu cầm tiền.
Tôi không sao ngủ được. Càng đêm càng lạnh. Thời tiết ở đây vốn thế,
ban ngày nắng đến mấy, có khơ rang cả mái nhà dày hàng gang tay thì
đêm vẫn lạnh. Quanh năm không khi nào phải cất chăn. Tấm chăn tôi
đang kéo lên đến cằm nặng trình trịch, toả ra một thứ mùi của ký ức.
Ngày chuẩn bị về làm dâu, mẹ tôi mười sáu tuổi, mẹ tôi đã dệt cả tháng
trời mới xong tấm chăn, còn chưa kể những khăn và váy áo. Mẹ kể đêm
đầu tiên, rét lắm, nhưng mẹ dứt khốt khơng chịu đắp chung chăn với
cha, để rồi cha phải bỏ ra bếp ngồi hút thuốc lào đến sáng. Mẹ về làm dâu
là về không, hầu như chẳng có gì vì ơng ngoại mất sớm, mẹ ở với chú
thím. Thế nên chỉ như thân con mèo nem nép bên bếp nhà chồng, từ sáng
đến tối không biết ngẩng mặt lên, đến bữa không dám ăn no, đến năm
mười tám tuổi mà bé quắt hơn cả lúc lấy chồng. Chị cả tôi ra đời chưa
đầy tháng thì mất vì viêm phổi, mãi hơn chục năm sau mới có tơi…
Ở vùng núi bao giờ mùa đông cũng đến sớm. Khi những chiếc lá đào, lá
mận đầu tiên rụng xuống thì dịng suối bắt đầu cạn, nước chảy dưới phần
ngầm của lớp đá cuội trắng trơ. Gió từ trong khe núi ùa ra, mang theo hơi
lạnh đến ghê người của đá và lá cây lúa. Thân ngải đắng bắt đầu khô lại,
rễ bám chặt lấy lớp đất chai cứng và ngả sang màu nâu đen vì sương
muối. Nhiều ngày, nhiều tuần, có khi cả tháng trời khơng có nắng, giữa
tuần trăng đêm cũng chỉ lờ mờ. Đây là quãng thời gian ít việc nhất trong
năm. Đám con gái chỉ quanh quẩn ở nhà xe lanh đơi gị má bắt lửa đỏ au.
Ngồi nương chỉ cịn trồng tam giác mạch. Hạt tam giác mạch ăn khơng
thì sắc biếc sắc hồng càng rực rỡ. Cả dải núi, nương nhà này nối với
nương nhà kia cứ bừng lên như một màu tam giác mạch ngợp trời. Cả
nương tam giác mạch có khi chỉ được lưng quẩy tấu hạt nhưng nhà ai
cũng trồng. Dễ lắm. Đợi cây ngơ thu hoạch xong, trời bắt đầu rét thì quãi
tam giác mạch xuống. Cỏ không mọc nổi nhưng tam giác mạch thì nảy
mầm lên xanh mướt, thế nên chả ai chịu đểđất không.
Cho đến khi ngựa đập móng lộp cộp đầu hồi, hoa lê bật bơng trắng như
tuyết thì xn sang. Các ơng bố đeo bao dao ra khỏi nhà tìm trong bản,
ngồi bản, ai có lợn to thì chung mổ ăn Tết. Xn sang đấy nhưng trời
còn rét mãi tới tháng ba tháng tư, trẻ con đuổi bò xuống thung lũng vẫn
chưa chịu bỏ bùi nhùi rơm ở nhà, mặt đứa nào cũng nứt tốc cả ra. Chỉ có
đất bắt đầu tơi mềm, bò dê được ăn cỏ tươi và nước thì bắt đầu chảy đầy
máng vầu trở lại. Sau Tết Nguyên đán có khi hội bản này nối sang bản kia
cả tháng trời. Chợ nào cũng đông nghìn nghịt, tồn con trai con gái mặc
đẹp, đeo đầy vòng bạc, mua sắm thì ít mà ngắm nhau thì nhiều. Ngày
xưa, cha tơi cũng nhìn thấy mẹ tôi vấn đầu trong một phiên chợ như vậy.
Trở vào, mẹ không đi nằm mà ra bếp ngồi, cơi lò cho cháy lên, lại mang
lưới ra đan. ánh lửa chập chờn hắt lên mẹ, lên mái tóc bạc, lên gương mặt
đã kín vết nhăn như thực, như hư. Một nỗi sợ từ đâu ùa vào tơi. Hình ảnh
chiếc áo quan mở nắp mà thằng Sinh với lũ bạn nhảy ra nhảy vào đùa
nghịch hiện lên mồn một. Mẹ tôi đã chuẩn bị cho sự ra đi lâu nhất, mãi
mãi như thế từ cách đây năm, sáu năm. Ba con dê đổi lấy một khúc gỗ dẻ
rất lớn mà em Dân dùng trâu kéo về…
Tôi ra ngồi với mẹ. Lát sau gà gáy eo óc thì em dâu cũng dậy kiễng chân
với mẹt muối sấy trên gác bếp xuống lật trở cho đều. Sắp tới rằm tháng
bảy ăn to lắm. Nhà nào nghèo mấy thì trẻ con cũng phải có bộ quần áo
mới, trong nhà có ít nhất hai thứ bánh gù, bánh chuối và chõ xôi đỏ hoặc
Nậm tụ tập đánh khăng đánh cù, lúc đói bụng thì chạy vào bất cứ nhà nào
cũng được ăn bánh đầy bụng. Tháng bảy hay mưa nhưng cứ mười bốn,
mười rằm là tạnh ráo. Đàn ông đi uống rượu nhà bạn bè có khi say mấy
ngày liền khơng về.
Em dâu nhắc: “Rằm tháng bảy năm nay thế nào chị Din cũng phải về đấy
nhé. Hai cái rằm rồi, làm bao nhiêu bánh ăn mãi không hết. Làm ít bà bảo
sợ chị Din về, nhỡ có bạn đi cùng thì khơng đủ, thế là cứ cố nhiều bột,
nhiều chuối… ấy da…”. Tơi nhìn mẹ. Muốn hỏi có phải ềm chỉ làm mặt
giận vậy thơi chứ lúc nào cũng thương con gái nhất, nhưng mẹ dường như
chẳng để ý gì.
Chưa tỏ mặt người, em Dân đã đi, bảo phải lên họp ở trên huyện. Dân
nhìn tơi, hình như muốn nói gì nhưng ngần ngừ rồi thôi, xách cặp đi,
tiếng xe Min nổ phành phạch xa dần. Gương mặt buồn buồn của đứa em
trai mới lớn ngày nào còn tranh với chị từng củ sắn nướng cứ dằn vặt tôi.
Nghe đâu người ta còn muốn cất nhắc Dân lên huyện nhưng em không
muốn đi. Dân khác tôi, gắn chặt với nơi mình sinh ra, khơng sao rời đi
được dù có nhiều cơ hội cho bản thân vươn lên. Tôi vừa thương vừa biết
ơn Dân, em gánh cả phần trách nhiệm của tôi đối với mẹ, hẳn cha tôi dưới
kia cũng mừng.
Sinh dậy, chả rửa mặt gì, lơi tơi xuống cầu thang: “Mình đi tìm ngỗng về
khơng thì bà lại mắng bố Sinh”. “Tìm ở đâu kia?”. “Sinh biết mà. Đi
nhanh nào”. Sinh kéo tôi chạy một mạch tới suối, chỗ cái cối nước đang
thì thụp giã. Cả bầy ngỗng đang ngủở đấy thật, co một chân, húc đầu vào
cánh, bị đánh thức chúng nhốn nháo ầm ĩ. Bản tôi, nhà nào cũng ni
ngỗng thay cho chó canh nhà. Chỉ cần hai con ngỗng là cứ việc mở toang
cửa ngõ đi làm cả ngày.
Hai bác cháu lùa ngỗng về tới nhà thì mẹ tơi đã đứng ở chân cầu thang,
tảng lờ, liến láu: “Cháu với bác Din đi tìm ngỗng về. Chúng nó ngoan
lắm éme à. Chỉ cần làm một cái nhà be bé ngoài máng nước cho chúng nó
là xong. éme ơi… - nó ngập ngừng - éme đừng mắng bố cháu, đừng giận
bố cháu nữa, tội nghiệp lắm. éme nhé! éme gật đầu đi. Gật như Sinh đây
này”. Thằng bé làm động tác gật đầu mấy cái. Mẹ tơi nhìn thằng bé, mắt
hấp háy như có ánh cười. Thằng Sinh giống em Dân tôi y hệt, từ nước da
ngăm ngăm, đơi mắt một mí đến hai mớ tóc hơi quăn kết chặt vào nhau.
Nó thực sự là hiện thân của Dân hai chục năm về trước… hình như thằng
Sinh đang cố gắng làm cái việc mà bố nó loay hoay mãi khơng biết xử trí
thế nào. Và mẹ tơi thì tin cậy nó. Có lẽ vì thằng bé còn đang trong vòng
tay bà, nối bà với những đứa con dang đôi cánh bay cao và bay xa.
Dưới chân cầu thang, nơi mẹ tôi và thằng Sinh đang đứng. Có một phiến
đá rất lớn. Phiến đá màu xanh, bốn năm người đứng lên vẫn đủ chỗ. Cha
tơi đã kéo nó từ dưới chân suối lên sau một cơn lũ lớn. Chính trên phiến
đá này tôi đã gặp cha lần cuối cùng, nghe ơng dặn dị rồi tơi khóc rịng
rịng, mãi mới buông vạt áo ông ra. Sau này, không biết đã bao nhiêu lần
tôi đứng vào chỗ của cha hồi đó, mặt hướng lên phía Tây Cơn Lĩnh cao
vời vợi, sương mù phủ trắng, mà cảm thấy như một sự ấm áp, một nguồn
sinh lực nào đó, để có thểđi những bước vững vàng ngồi kia.
Mặt trời lên. Đỏ như một quầng lửa. Báo hiệu một ngày rất nắng. Cứ
nắng như thế thì chỉ ba ngày là thóc nếp khơ, n tâm xếp lên gác bếp.
Năm nào cũng vậy, sau mùa thu hoạch bao giờ trên cái gác chạy dài từ
đầu nhà đến cuối nhà cũng đầy chật lúa ngô. Ngô túm thành từng túm
treo lủng lẳng, lúa xếp bên trên. Được mùa, có khi lúa năm ngối chưa ăn
hết thì lúa năm nay đã về, cứ thế xếp lên. Mẹ tôi kể ngày xưa, nhà ông bà
nội cịn có những cum thóc tuổi nhiều hơn chú út.
Có tiếng leng keng, lịch kịch, thì ra thằng Câm đang lùa dê lên núi. Nó
nó”. “Làm gì cơ chứ. Mình nó vẫn chăn mà. Với lại, xa lắm cơ chị Din
lấy cho. Việc gì phải đi cho mệt ra”. “Không. Chị muốn tự hái về”. Mẹ
lẩm bẩm: “Ngày xưa… ngải bò vào đến gầm sàn, dỗ mãi không ăn. Làm
sao giờ lại thèm khát đến thế hở!”.
Câm hớn hở ra mặt. Cặp mắt anh ánh đàn ông lấp lánh trên gương mặt
thoắt buồn, thoắt vui. Chắc đi mãi một mình nó cũng buồn. Chúng tơi đi
ngược về phía mặt trời. Mặt trời đang ở phía sau dãy núi kia, mới chỉ thấy
những tia nắng hình nan quạt hắt lên. Con đường đầy những vết chân dê
càng lúc càng dốc, những con bọ gậy bò lổm ngổm trên đám lá vàng ướt
sũng sương đêm. Càng lên cao rừng càng âm u. ở những cánh rừng như
thế này trời tối khi nào đám trẻ mải chơi không kịp biết. Trên đầu, tán cây
ken dày khít, ong bay vù vù. Vất vả lắm tôi mới theo kịp Câm. Đàn dê
không cần đuổi cũng đã chạy trước, sục vào những bụi cây gai mịt mùng.
Và đây, tôi đang đứng trên đỉnh của một trong những ngọn đồi hùng vĩ
nhất Tây Cơn Lĩnh. Gió lồng lộng thổi như muốn cuốn tơi bay lên cao…
Và kia, ồ ra trước tơi, xanh rợp, tím ngắt, bàng bạc trắng, dập dềnh như
những con sóng là cả triền núi mơn mởn ngải đắng vừa thức dậy từ sương
mù. Tôi lao vô tri vào đấy, úp mặt lên nó, một trạng thái nửa mê nửa tỉnh,
tựa hồ quay về những năm tháng rất xa. Những năm tháng mà có lúc
tưởng như nó chỉ cịn phảng phất trong cuộc sống cuồn cuộn chảy, dữ dội
vật lộn hôm nay. Tơi gặp cha tơi ở đây. Ơng vẫn cường tráng, vâm vấp,
tôi rúc vào ông như một con gấu non…
Tôi đã trở về nơi tôi sinh ra. Nơi mặt trời lên muộn nhất và đi ngủ sớm
nhất.
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Tơi sinh ra ở núi rừng. Tơi ăn học ở thành phố. Núi rừng là tuổi thơ tôi.
Thành phố là tuổi thanh xuân của tôi. Núi rừng ở sau lưng. Thành phố
đang ở trước mặt. Tơi đang đi từ phía trước mặt về phía sau lưng. Đi về
dịng Lơ, dịng sơng q tơi... Nửa đêm. Tơi giật mình chồng tỉnh mới
biết mình mơ. Tơi cảm thấy có ai đó đang mơn man những ngón tay mềm
trên mặt mình. Ra là ánh trăng. Trăng cuối tháng lên muộn, mới đang chỉ
lấp ló trên đỉnh Thúng Khiếu, lọt những tia sáng ngả xanh qua vách nứa.
Gió vẫn rít lên khe khẽ, trăng càng sáng thì trời càng thêm lạnh. Mùi
thuốc nam cịn tươi bà tơi đem phơi sương bay vào dễ chịu...
Giữa sàn, bếp lửa vẫn còn ấm sực nhờ hai gộc củi lớn chụm vào nhau
đang ngun ngút cháy không thành ngọn. Trong gia đình người Tày lửa
không bao giờ được tắt. Khi nào bếp không có lửa ắt là điềm gở. Người
già chọn con dâu, chỉ cần nhìn cách chụm củi, cách vun bếp là đủ biết có
khéo, có đảm hay khơng.
Có ánh đèn pin loang lống, cha tơi lục sục trở dậy. “Po khó ngủ hở Po?”
“Khơng. Tao đi ra sơng.” “Làm gì cơ?” “Cịn làm gì nữa. Đang mùa cá
chép đẻ mà.” “A, Po đi lấy trứng về thả.” “Mày còn nhớ à. Tưởng cơm
thịt Hà Nội làm mày quên rồi chứ. Con ơi! Mày là người của núi rừng...”
Cha nói như dằn dỗi. Ơng lẳng lặng đưa cho tôi cây đèn pin khác, cây đèn
có đai sẵn, đeo vừa lên trán. Ơng với bao dao trên vách, cầm thêm chiếc
xô nhựa phăm phăm ra cửa...
Sông quê tôi đây. Những lần nhắm mắt nhắm mũi đạp xe qua cầu trên
sông Tô Lịch tôi lại thảng thốt nhớ đến quay quắt dịng Lơ q mình.
mấy hớp nước rồi mới lôi vào. Vậy mà chị vẫn không tài nào bơi được.
Cũng tại chị tôi nhát quá, cầm con chuồn ngô, vạch áo lên cả chục lần mà
cứ dấm dứ mãi khơng dám để nó cắn...
Dịng sơng lọt giữa hai bên là trùng trùng dãy núi vắt đầy mây trắng
xuyên qua đất Vị Xuyên. Quanh năm bóng núi cao vời vợi hắt xuống làm
dịng sơng dường như càng thêm sâu thăm thẳm. Đêm nay, trăng núi hạ
tuần nhuộm cho cả lịng sơng ánh u tịch, trầm mặc. Gió lạnh chạy đuổi
nhau ào ào, hun hút trên mặt sơng u u huyền bí. Sóng nước dềnh lên ì oạp
do con nước vấp phải ghềnh đá rải rác giữa dòng. Năm nào cũng vậy, cứ
vào độ này - quãng tháng chạp ra giêng - là mùa cá chép nổi lên tìm chỗ
đẻ trứng. Cá chép là thứ cá vừa khôn vừa dại, quanh năm kiếm ăn dưới
đáy sâu, hiếm khi quăng chài, câu hay đánh dậm, đánh đó mà tóm được
chúng. Ấy vậy mà cũng chỉ nó mới đem cái sự sinh nở duy trì nịi giống
đầy thiêng liêng ngoi lên trên mặt nước mà khoe với thiên hạ. Người bản
tơi ít ăn cá chép. Người già bảo rằng cá chép là loài chúa tể, quyết định sự
tồn vong của lồi cá sơng, đem nó lên đĩa là một hành động phạm thượng.
Thế nên khi đánh bắt được cá chép người ta có thể vì tiền mà đem bán
chứ ít khi ăn. Cũng vì thế mà khúc sơng này hình như nhiều cá chép hơn
cả, chúng không bị săn lùng ráo riết cho mấy quán ăn bình dân dưới phố
huyện. Hàng năm, cả bản ra sơng vớt trứng cá đem về thả trong ao. Cuối
năm, dịp ơng Táo lên chầu trời là vừa kịp có cá chép bằng bàn tay phục
vụ cho người tỉnh, người huyện mang ra sơng phóng sinh.
Hai cha con tôi tắt đèn, ngồi nấp sau bụi lau sậy um tùm. Dưới chỗ chúng
tôi ngồi chỉ chừng một tầm với thôi, đàn cá chép đang bắt đầu tụ tập
quanh đám rễ cây buông xuống nước mềm mại, ấm áp. Độ nửa giờ sau,
khi vầng trăng trịn nhơ lên tới ngọn cây trám giữa thơn Nùng thì bắt đầu
có tiếng lóc tóc lách tách. Cha tơi thì thầm: “Bắt đầu rồi đây.” Dần dần,
thành tiếng quẫy đạp ùm ũm. Tơi nín thở dõi theo ánh đèn pin đã che
khuất hai phần ba bằng ngón tay trỏ của cha tơi, khơng tin nổi vào mắt
mình. Bầy cá dễ có đến cả trăm con lúc nhúc chen vào giữa đám rễ cây,
bên ngồi, những con khác nối đi nhau lượn thành vịng trịn. Bất chợt
cha tơi vung dao, miệng lầm bầm: “Mất dạy khơng nào!” Thì ra có mấy
gã bống, cá chuối đang tìm cách len vào, mồm há ra đón lõng những dịng
trứng vừa tn ra chưa kịp quấn vào đám rễ cây. Sau cái vung tay của cha
tôi, lũ cá chuối, bống kia biến mất. Bầy cá chép vẫn mê mải quấn quýt
bên nhau.
Tơi để cha ngồi lại một mình rồi xi xuống mé dưới. Khơng riêng gì cha
con tơi mà người trong bản xuống lấy trứng cá cũng đông lắm. Bụi cây
nào cũng thấy có tiếng nói chuyện rì rầm. Bản tơi bám dọc theo nửa bờ
bên này, phần ruộng nương tương đối bằng phẳng chạy vào chân núi độ
nửa cây số. Bên kia sông là nương ngô, sắn của người Dao ở Lùng Áng.
Họ làm nhà chênh vênh giữa lưng chừng núi. Thời điểm này thu hoạch
nương rẫy xong rồi họ thường vào rừng sâu kiếm mật ong...
Bản tôi ở dưới thấp, trong thung lũng. Mà thung lũng thì như cái lòng
chảo, hứng lấy mùn trên núi, mưa lũ đưa về nên đất đai màu mỡ, trồng
cấy thứ gì cũng lên như thổi. Rừng chẻ ra muôn khe suối lớn nhỏ chảy
ngoằn ngoèo qua bản làng, ra sông. Mùa cạn, trẻ con kéo nhau ra úp mặt
xuống lịng suối tập bơi. Nhưng cũng chính những khe nước nhỏ này lại
là những cánh cửa mở ra đón nước lũ tràn vào bản bạo liệt và hung dữ
mỗi mùa mưa.
Ở rừng, mùa mưa thường đến sớm. Trên này mùa mưa chán chê rồi mà
dưới xi có khi vẫn cịn khơ hạn. Trước mùa mưa, cua bị lổm ngổm từ
suối lên, sáng ra thấy cua bậu kín cả chân cầu thang. Ấy là lúc ngô lúa,
đậu lạc ngoài đồng phải mau mau mang về. Biết vậy mà hầu như năm nào
quá. Thời điểm ấy những cơn mưa như trút nước nối tiếp nhau kéo dài lê
thê. Một ngày... hai ngày... một tuần... rồi hai tuần... nước đỏ ngầu nhấn
chìm các con suối. Nước tràn vào đồng thấp, nước leo lên đồng cao, nuốt
chửng cả những gò đồi trồng đỗ đen, đỗ xanh lá đã ngả vàng. Nước dâng
mãi, dâng mãi ngập đến ba bậc cầu thang thì dừng lại. Trẻ con cởi truồng
ôm chậu đập bì bùm sang nhà nhau chơi, hị hét í ới. Người lớn quây
quanh bếp lửa, chất thêm củi, đun nước pha chè bồm, luộc một nồi sắn
thơm lừng... Đàn ơng rít thuốc lào, đàn bà mang cum thóc nếp ra vị, tính
xem vụ hè này có cần bán lợn mua phân vi sinh không.
Cái lũ dữ dằn thế, làm tơ tướp, gẫy dập cả vườn tược cây cối, nhưng ở
chán rồi cũng phải đi và để lại cả cánh đồng đầy ứ phù sa vàng mỡ. Sau
mùa lũ, sang thu, người ta không phải bỏ cơng cày bừa, cứ chọc lỗ thả hạt
thóc, hạt ngô xuống phù sa là an tâm rồi...
Chân tôi đang đạp trên lớp cỏ mượt như nhung. Bờ sơng khơng có lối bởi
vì một trăm người đi là một trăm lối đâm ngang đâm dọc, ai muốn đi lối
nào thì cứ đạp lên cỏ, lên lau sậy mà đi. Tơi lần xuống bến đị. Đây là cầu
nối giữa Lùng Áng, Phú Linh, Linh Hồ sang đất Đạo Đức, Vị Xuyên. Lên
tỉnh hay về Hà Nội thì cũng phải sang đây. Trong căn lều bên bến có một
người đang cúi đầu vào bếp thổi phù phù. Tôi nhận ra Huyên. Ngày xưa
tôi và Huyên cùng học ở trường huyện, lớn lên tôi được đi xa, cịn Hun
phải bỏ học vì nhà neo người, cha Huyên lái đò mấy năm rồi nhưng hay
đau ốm.
Hun rót cho tơi bát nước chè rồi bóc sắn vùi vào bếp. Gương mặt trịn
trịa trắng ngần kín đáo dưới tấm khăn lanh đen đang được ánh lửa hắt lên
hồng rực. Huyên hỏi tôi, hỏi mà như cười giễu: “Páo ơi, người Hà Nội
còn biết chèo đị qua thác Pắng khơng đấy?” “Có chứ. Qn thì khơng lấy
được vợ đâu Hun à.” “A lúi! Páo vẫn nhớ lời dặn của người già cơ à.
Được... nhưng không bắc đâu. Để Huyên còn chèo đò nữa chứ, vắng
Huyên thì buồn lắm.” Huyên cười thành tiếng. Tiếng cười trong vắt vỡ ra
giữa đôi hàm răng đều như hàng ngô nếp đầu mùa trắng bóng. “Huyên ơi,
hát phươn đi cho Páo nghe với. Lâu quá không được nghe rồi, nhớ lắm?”
“Thôi mà. Mặt trời chưa mọc không hát được đâu...”
Bên kia sơng có tiếng í ới gọi đị. Tơi chỉ nhìn thấy lờ mờ đám người
gồng gánh gì đó hình như rất nặng. “Người Phú Linh, Linh Hồ đi đâu
sớm thế hở Huyên?” “Đi bán cam đấy. Trời sáng là có ơ-tơ đón ở đường
quốc lộ rồi. Năm nay được mùa bán mãi không thấy hết. Đám cưới nào
cũng làm to lắm.” “Hun ơi, bao giờ thì Hun...” “Ơi! Khơng ai thèm
chặn đường đâu Páo à. Xấu quá mà.” “Không phải, tại Hun địi nhiều
bạc trắng q thơi...” Hun lắc đầu quầy quậy, nhanh tay tát nước trong
thuyền, tháo dây neo rồi nhẹ nhàng quay mũi. Hai tà áo dài mềm mại bị
gió hất tung lên...
“Thằng Páo đâu rồi? Páo ơi!” Cha tôi gọi. “Nhanh tay lên nào, sáng tới
nơi rồi.” Tôi chạy tới giúp cha nâng mớ rễ cây, cỏ rác đã đầy ứ những
trứng là trứng. Những dải trứng trơn nhẫy, quấn chặt lấy đám rễ cây, đến
nỗi chỉ túm riêng đám rễ ấy thôi mà xách về có khi cũng không rơi ra
được. Nhưng cha tơi bảo mang trứng về khơng khéo để nó xóc sẽ khơng
nở thành con được. Trong xơ có hai con chép cỡ bàn tay đang ngáp khan,
cha bảo tôi đỡ chúng ra. “Con Mực vồ được lúc nãy đấy. Mất nết quá.”
Con chó Mực đang nằm ẹp bên gốc cây, chừng như biết lỗi, đầu và hai
chân trước ướt sũng. Cha tôi mang hai con cá ra chỗ dịng nước xiết thả
chúng xuống.
Có tiếng gì như tiếng gà gáy, lại như không phải. Nghe lúc gần lúc xa, eo
óc. Tách te! Tách te? “Tiếng con tắc kè đấy phải không cha?” “Tắc kè
đâu ra. Tiếng gà đấy chứ. Tai mắt ra làm sao vậy.” Tiếng gà thật. Mà
Tiếng gáy nghe cô độc, day dứt, tôi thấy lành lạnh sống lưng. Có tiếng gà
nghĩa là có người mới được đưa về đây. Theo phong tục người Tày, mỗi
dịng họ trong bản đều có một khu rừng riêng dành cho người chết, bọn
trẻ trâu chúng tơi gọi là rừng mả. Trong đó rậm rạp âm u, tồn những thân
cổ thụ mấy người ơm, không ai dám bén mảng tới, kể cả lũ trẻ bạo gan,
liều lĩnh nhất. Khi có người chết, trong nhà mồ bao giờ cũng có đủ những
thứ tối thiểu cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày - nồi niêu, gạo, muối... còn
thêm cả một con gà trống cho có bạn. Chả hiểu sao con gà cứ ở mãi trong
đó, một mình, đêm nào cũng eo óc gáy sớm hơn gà nhà. Đi qua khu rừng
để về theo đường bến đò, chẳng ai bảo ai cả cha con tôi đều đi dấn bước
lên. Đây là khu rừng mả của nhà ông ké Huy, con cháu có khi đơng nhất
nhì trong bản...
Vừa ra tới đường mịn cha con tơi đã vấp ngay phải một anh đang đứng
nghếch chân lên chiếc Simson đỏ. Nhìn chằm chằm vào chiếc xô nhựa
cha tôi đang xách, anh ta nháy mắt: “Này bác, bán cho một nửa được
khơng?” “Khơng bán đâu. Thích ni thì cho thơi, lấy cái gì đựng đi. Mà
nhớ thả riêng cho lớn lớn một tí đã nhé.” “Ầy? - Anh kia cười - tơi làm gì
có ao mà ni, ở dưới xi lên sau mà. Nước ăn cịn chả đủ nói gì ni
cá. Mua về cho con lợn nái mới đẻ thơi.” Cha tơi vo trịn chiếc túi anh ta
vừa đưa, ném phịch xuống lối đi: “Thế thì khơng cho được.” Nói rồi ơng
phăm phăm bỏđi mặc anh kia đứng nghệt ra.
Đi tắt qua cánh đồng về nhà cho nhanh, chân tôi giẫm lên những gốc rạ
mới cắt ướt sũng sương muối. Nhà nào ủ một đống rơm giữa ruộng cịn
ngọn khói bốc lên, thi thoảng cơn gió ào tới lại làm cả đống tro than đỏ
rực lên. Hình như những hạt phù sa đã nhuộm những gốc rạ cho nó mầu
vàng xuộm. Chưa ởđâu tôi bắt gặp cái mầu vàng ấy...
Đất trời đang ở cái khoảnh khắc giao hòa giữa ngày và đêm. Sau lưng tôi,
hơi nước từ sông cũng chỉ dâng lên được chừng ấy. Đám gà nhà trong
xóm bây giờ mới thi nhau gáy, đập cánh phành phạch... Cịn xi về mé
dưới, giữa cái đu đưa chín mọng của vườn cam, cái tí tách bật chồi xanh
mướt của nương chè là quầng sáng hắt lên từ nghĩa trang liệt sĩ. Như thể
đã lâu lắm rồi... cái thời đêm đêm từng đoàn xe quân sự phải bật đèn gầm
khi tới đất Vị Xuyên... Và kìa, từ phía bến đị vẳng lên tiếng hát phươn
trong vắt mà thanh, nhẹ như sợi chỉ căng ra giữa cái rét cắt da cắt thịt. Có
lẽ Huyên đã chở hết đám khách Phú Linh mang cam sang bên này.
<i>“Là </i>ớ<i>i!... H</i>ẩ<i>n l</i>ầ<i>u kh</i>ả<i>ng l</i>ưở<i>ng th</i>ế<i>p h</i>ẩ<i>u ma. Ng</i>ọ<i>n c</i>ầ<i>n ph</i>ả<i> bàu </i>đệ<i>p. H</i>ẩ<i>n </i>
<i>l</i>ầ<i>u kh</i>ả<i>ng l</i>ưở<i>ng th</i>ế<i>p h</i>ẩ<i>u b</i>ả<i>n. B</i>ả<i>n muông bàu mi dêu... </i>ớ<i>i a... vai h</i>ẩ<i>n </i>
<i>làu t</i>ẩ<i>u láu. Khít th</i>ả<i>i th</i>ử<i> nuông tam... Khuyên h</i>ẩ<i>u làu kh</i>ả<i>y v</i>ả<i>. Suông </i>
<i>nh</i>ă<i>ng mi nuông ch</i>ắ<i>p...” </i>
(Ngày hôm nay trời không mưa sao anh lại cầm ô vào làng. Ngày hôm
nay trời không nắng sao anh lại cầm ô lên bản... Nếu anh thương em thì
đưa áo em khâu đường chỉ tuột... Anh nhé, đừng phụ công em. Đi xa phải
nhớ về...).
Tơi định chạy trở lại phía sơng nhưng mặt trời đã lên mà vầng trăng vẫn
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
<b>1. </b>
Lạc đường. Con Mốc vẫn cắm đầu chạy. Cho đến khi sắp khuỵu xuống
thì trước mặt nó hiện ra một khe nước. Từ phía dưới, sâu thăm thẳm,
vẳng lên tiếng nước réo ùng ục. Mốc phi thẳng vào tầng tầng lớp lớp
giang già phủ kín mặt khe, bỏ lại sau lưng lũ chó ăn thịt gầm gừ kéo đi
lượt thượt tức tối.
Mốc chìm dần giữa tán giang dày khít và rơi xuống một vụng nước. Nước
trong văn vắt, lặng mà sâu. Nó đang nằm trên đỉnh một ngọn tháp. Chỗ
này có lẽ đã cách xa Pụ Dín lắm. Khơng mấy khi theo chị Pao đi lấy
chuối rừng về cho lợn mà gặp nhiều chuối vàng to chừng này. Chuối rừng
mọc khắp các khe suối, lẫn với giang, cây dong và ngõa, đến mùa thi
nhau nở hoa đỏ ối cả vùng. Nhưng chỉ nhiều chuối đen chứ chuối vàng ít
lắm, người các bản lên chặt về chăn lợn hết, cây bé cũng hết.
Đêm qua, lúc thoát khỏi mấy bàn tay sắp chọc dao vào cổ mình, Mốc đã
phi một mạch khơng kịp nhận ra hướng về nhà, lâu lắm mới dừng lại để
đạp cái rọ mõm ra. Rồi tối trời, lại mệt quá, nó dúi đầu vào một bụi lau
mà ngủ. Sáng nay, cứ nhằm đường hẹp đường rậm mà chạy. Đường rậm
thường khơng có người đi, mà thiếu hơi người thì lũ chó ăn thịt kia cịn
tha hồ tìm.
Mốc uống no nước rồi bò lên bờ, nằm vắt qua một tảng đá đầy rêu. Xung
quanh tối thẫm, khơng có tí ánh mặt trời nào. Mốc nhúng cái chân đang
còn chảy máu ròng ròng xuống nước...
*
**
Từ Pụ Dín nhìn qua mấy quả núi cũng thấy khói nương Pụ Cháng. Mùa
thu hoạch, gió mạnh một tí là có mùi cơm mới bay sang. Vậy mà muốn
đến thăm nhau là phải đi từ lúc mặt trời chưa mọc đến khi mặt trời sắp
lặn, trẻ con không đứa nào đi nổi. Pụ Cháng ở thấp hơn, gần đường ôtô,
đi về chợ huyện chỉ mất nửa ngày. Gần huyện nên trẻ con Pụ Cháng cũng
khôn sớm hơn trẻ con Pụ Dín, nhiều đứa bé tí đã biết nhận mặt đồng tiền
lúc theo mẹ bán bán mua mua ở chợ.
Xa thế nhưng cũng gần, hai bản có nhiều nhà là anh em họ hàng với nhau.
Trước kia Pụ Cháng toàn người họ Giàng, họ Thào; Pụ Dín chỉ có họ Lù,
họ Ly, sau này đi sang nhau lấy dâu nhiều mới thành họ hàng anh em. Lẽ
ra là họ hàng anh em phải hay đến thăm nhau thì bây giờ lại khơng thế.
Người già muốn đến nhưng yếu chân yếu mắt không đi được. Người trẻ
thứ gì cũng khỏe lại khơng muốn đi. Tại cái đầu ít nghĩ đến nhau thì tự
dưng chân cũng mỏi theo thơi mà. Người Pụ Dín nói thế.
Ấy dà, nói thì khơng vừa lịng nhau, khơng nói thì bảo khinh nhau, bảo
khơng có mồm. Biết thế nào cho phải. Người Pụ Cháng lại nói thế.
Mặc kệ thơi. Gió vẫn cứ mang hương cơm mới về Pụ Cháng, lại mang
mùi rượu hoẵng lên Pụ Dín. Trời mưa thì nước mới vẫn chảy từ trên cao
xuống thấp, trời cạn thì chỗ nào cũng khơ như nhau. Trời đất chẳng làm
gì để bản này ghét bản kia, mà người già đêm nào cũng nói đi nói lại ghét
nhau là tự mở cửa cho ma đói vào bụng mình. Từ ngày Pụ Dín, Pụ Cháng
gom lại chưa đầy chục nóc nhà đã thân nhau như mấy đốt ngón tay, cứ
năm nào có người cãi nhau là năm ấy mất mùa. Bây giờ không phải một,
hai người mà cả bản ghét nhau thì cái gì đến đây?
Người trẻ khơng cịn muốn sang đi hội với nhau nữa. Mọi thứ cứ khác
dần đi, bắt đầu từ ngày Pụ Cháng có điện về.
Pụ Cháng nằm ngay cạnh đường lên huyện lị. Lúc người ta kéo điện qua
tiện đường lắp cho Pụ Cháng một trạm hạ thế. Vậy là bỗng chốc cả Pụ
Cháng, nhà lớn nhà bé, nhà giàu nhà nghèo, chỗ nào cũng sáng như ban
ngày. Từ Pụ Dín nhìn xuống thấy như mặt trời không lặn ở Pụ Cháng,
cịn ở Pụ Cháng từ ngày khơng cịn thắp đèn dầu nữa, nhìn lên lại thấy Pụ
Dín tối hơn ngày trước. Có lần gặp nhau ở chợ, bọn con trai Pụ Cháng
còn bảo: "Dạo này Pụ Dín đi ngủ sớm thế. Chẳng thấy ánh lửa gì cả".
Khơng biết chúng nó nói thật bụng hay cố tình trêu tức, nhưng đám con
trai Pụ Dín đã giận tái mặt: "à thì chúng mày khinh bọn tao đấy. Mới sáng
hơn một tí đã học khinh người ở đâu về rồi".
Vậy là cãi nhau. Lúc đầu chỉ nói nặng lời hơn bình thường, nhưng sau cứ
nóng mặt dần lên, khơng giữ được nữa là mở miệng to ra, suýt nữa còn
đánh nhau. May mà bọn con gái gọi về.
Sau lần cãi nhau giữa đám thanh niên ấy, hai bản xa nhau hẳn ra. Không
ai bảo ai nhưng tất cả đều nhận thấy thế. Người Pụ Dín đi chợ huyện
không qua Pụ Cháng nữa mà đi vòng, qua hai quả núi nữa mới xuống đến
đường cái. Mất gần một tháng, bọn con trai con gái Pụ Dín mới dọn xong
đường riêng cho mình. Thấy thế, thanh niên Pụ Cháng đi săn cũng khơng
đi về phía Pụ Dín. Nhưng dần dần, từ ngày có điện về người Pụ Cháng
cũng ít lên núi. Pụ Cháng đã tự mở một cái chợ bé, có máy xay xát, có
thêm cả một cái quán phở nữa, lúc nào cũng ồn ào. Bây giờ, xe ôtô qua
lại, dù lên huyện hay về tỉnh cũng muốn dừng lại Pụ Cháng một lúc. Pụ
Cháng ở ngay sau cổng trời một, quanh năm gió lồng lộng, nhìn xuống
phía dưới là thung lũng tồn sa mộc mọc hoang, đều tăm tắp. Dưới chân
sa mộc tồn hoa cúc đỏ. Dín dần thành nếp, Pụ Cháng thành chỗ nghỉ
Pụ Cháng, Pụ Dín ngày càng không giống nhau, càng xa nhau. Cho đến
khi ngay trung tâm chợ Pụ Cháng có một người đàn ông râu rậm mang
theo vợ từ xuôi lên, mở một qn thịt chó, thì hai bản khơng cịn nối lại
với nhau được nữa.
Bao đời nay, người Pụ Cháng, Pụ Dín ni chó giữ nhà, giữ nương, coi
nó như bạn. Chó lớn lên cùng với người. Có con chó giữ cửa, người lớn
đi làm cứ để trẻ con ở nhà, khơng phải lo gì. Đến mùa bẻ ngơ, nhổ sắn,
mang con chó lên nương làm nhà cho nó ở, rồi người cứ về nhà mà ngủ.
Trẻ con có khi bịđánh vì hư, nhưng con chó thì một câu chửi cũng khơng
phải nghe. Cứ ở với người mãi, chó bố chó mẹ già ốm, lơng rụng, nằm
một chỗ, thì chó con đã kịp lớn lên cả đàn. Cần tiền đến đâu cũng chỉ bán
con gà con lợn, không ai bán chó đi lấy tiền bao giờ.
Vậy mà bây giờ Pụ Cháng lại để người lạ đến giết chó như giết gà thế thì
Pụ Dín khơng chịu được rồi. Cậy giàu, cậy thừa tiền thừa của không cần
chó canh nương nữa đấy mà. Nhưng khơng cần thì thơi chứ, sao lại đem
giết thịt con chó bao nhiêu năm bầu bạn với mình? Tệ quá. ác quá. Người
Pụ Dín giận lắm. Giận mà khơng biết làm gì quay ra lo giữ đàn chó trong
bản, khơng cho đi chơi xa, nhỡ lao xuống Pụ Cháng lại khơng có đường
về.
*
**
Đã mấy đêm rồi, đang dở giấc, nghe tiếng móng chân con Mốc cào cào
vào cánh cửa gỗ Pao lại bật dậy, rút then cho nó vào nhà. Đấy là lúc gần
sáng, tiếng chó bị giết thịt dưới Pụ Cháng bắt đầu vọng lên, nghe rõ lắm.
Đưa con Mốc vào, cho nó nằm ngay dưới chân giường mình, rồi Pao
gì làm nó biết sợ. Chỉ đến bây giờ, nghe tiếng chó tru lên từng đêm mới
thấy con Mốc run bần bật thế này. Sợ hay là uất ức cũng không rõ nữa,
nhưng cứ soi đèn pin vào mặt nó là thấy hai con mắt mở chừng chừng, đỏ
như hai hòn than.
Hôm nào vào phiên chợ, xe qua lại nhiều. Hôm ấy lão chủ quán giết
nhiều chó. Nghe tiếng kêu cũng biết loại chó nào bị giết. Pụ Dín, Pụ
Cháng xưa nay chỉ có mấy loại thơi, ai mà khơng nhận ra được. Chó vàng
chân đen, đi cong kêu như tiếng xé vải; chó đen, tai cụp, đi qt đất
kêu tiếng dài mà dữ; chó khoang trắng khoang đen kêu như tiếng trẻ con
khóc mẹ... Những tiếng kêu từ trong cổ, không há miệng ra được, nghe
càng sợ, dội đi dội lại Pụ Dín mãi.
Nhà Pao ni chó khoang từ đời ơng bà, trước cả ơng bà nữa. ở Pụ Dín,
nhà nào ni loại chó gì thì cứ ni mãi. Chó con chui ra, con nào của
nhà mình thì lấy, con nào của nhà khác thì đợi đến lúc nó biết ăn cơm là
mang đến tận nhà trả. Nhà khác cũng thế. Chó khoang hiền lại chăm, thức
suốt đêm đi hết nương này qua nương khác được. Họ Ly ở Pụ Dín ít
người nên chó khoang ở Pụ Dín cũng ít. Như nhà Pao đây, có mỗi con
Mốc. Thỉnh thoảng có nhà mang chó con đến cho nhưng chỉ ni được
vài ngày là chết dù Pao có nhá cơm cho nó ăn từng bữa. Nhà ít người,
Pao có mỗi con Mốc làm bạn, đi đâu cũng chó nó theo. Con Mốc cao
lừng lững, tai dài dựng đứng, mùa khơ nghe tiếng chân nó chạy trên suối
cạn như tiếng vó ngựa. Bố Pao già yếu rồi, việc canh nương vụ nào cũng
phần con Mốc.
Hồi đầu mùa đông năm Pao lên hai tuổi, mẹ đẻ một lúc hai em, một trai
một gái, nhưng khơng em nào sống được vì yếu quá. Mẹ ra nhiều máu, lại
buồn quá cũng ốm ln từ đấy, khơng cịn làm được việc gì nặng nữa.
Nhà khơng có con trai nên bố Pao là con cả cũng dần dần thành con thứ.
Nhưng buồn bao nhiêu cũng để trong bụng thơi, khơng nói ra vì sợ mẹ
biết lại càng ốm thêm.
Việc nhà dồn hết vào đơi tay bố, lo đủ miệng ăn đã khó còn phải kiếm
thuốc, gọi thầy mo cho mẹ nữa, nên nhà nghèo càng nghèo thêm. Năm
Pao lên tám tuổi thì người già trong họ bắt đầu đến nhà Pao nói chuyện
với bố. Đến buổi tối, lúc cả nhà ăn cơm xong rồi, ngồi bên bếp uống nước
chè. Hơm nào các ơng chú đến thì mẹ Pao cũng chỉ pha nước chè mới rồi
lui vào buồng, để bố Pao ngồi tiếp chuyện. Lúc đầu còn nói xa nói gần,
sau thì các ơng chú nói thẳng ra là cả họ nóng bụng quá rồi, muốn bố Pao
có con trai để lo việc họ sau này. Chú Dín cũng có con trai, nhưng chú
người yếu, da xanh, làm việc gì cũng chỉđược một nửa đã thõng tay đứng
thở, ngày nào cũng ho vài trận. Lấy vợ vào cũng khơng hơn gì. Vợ chú
Dín to gấp đơi chú, làm việc gì cũng một nhoáng đã xong. Mọi việc trong
nhà dồn lên tay thím hết, kể cả việc dạy con. Nhưng xưa nay, việc dạy
con trai thành người lớn có bao giờ lại là việc của mẹ, con trai thì phải
theo bố chứ. Hai đứa nhà chú Dín, tám chín tuổi đẽo con quay gỗ chưa
nổi, bao giờ mới biết tra cán con dao? Bao giờ mới làm việc đàn ơng
trong nhà được, nói gì đến việc họ việc làng. Bố Pao không như chú Dín,
việc gì cũng thạo cũng giỏi, ngày cịn thanh niên cả Pụ Dín khơng ai dám
so tài. Cả họ trông chờ vào bố Pao. Từ hồi hai em Pao mất mọi người lại
đợi mẹ Pao mang bụng, nhưng đợi mãi, đợi mãi không thấy, chỉ thấy mẹ
Pao người càng ngày càng mỏng đi, bé lại. Thế mà bố Pao thì nhanh già
quá, gần bốn mươi mà tóc đã bạc rồi. Bà thím bảo, người nào buồn nhiều,
khổ nhiều thì mau già, nhưng sống lâu. Bố Pao nói, sống lâu mà cứ buồn
mãi, khổ mãi khơng sướng bằng chết sớm. Những câu chuyện nói qua nói
lại thế mẹ Pao nghe hết. Nghe rồi thở dài.
Ngày xưa, ông nội, ông ngoại Pao chơi thân với nhau từ lúc còn rủ nhau
bản khác, cách Pụ Dín mấy cái nương sắn. Lớn lên, hai người lấy vợ cùng
một năm, làm bố trẻ con chỉ trước nhau vài ngày. Hứa với nhau trước nên
lúc mẹ Pao vừa tròn tuổi mười hai là ông ngoại cho về làm dâu họ Ly rồi.
Mẹ Pao là con út, về làm dâu cả, nhưng nhà bên này khơng có con gái
nên ơng bà thương chiều như con gái ruột, việc nặng không bắt làm. Mẹ
Pao cũng lo việc nhà chồng như nhà mình, coi bố mẹ chồng như bố mẹ
mình. Về làm dâu lúc còn bé quá, mấy năm liền con dâu toàn ngủ chung
với mẹ chồng. Sau này mẹ mới kể với Pao, ơng bà nội địi lấy dâu sớm
thế là để giữ phần, sợ một vài năm sau lớn thành con gái rồi lại nhìn thấy
người con trai khác chứ không phải bố Pao. Đến lúc ấy cố ép hai người
lấy nhau cũng khổ.
Hồi mới cưới về, bố Pao cũng chăm cho mẹ Pao như chăm em gái út, đi
rừng gặp hoa gì cũng hái về cho, bắt cả một con sóc con về buộc chân
nuôi trong nhà, con sóc ở mãi rồi cũng quen, bỏ dây ra cũng không đi
nữa. Mẹ Pao kể, hồi bà nội bắt đầu đuổi con dâu sang buồng riêng với
chồng, đêm nào con sóc cũng chen vào nằm giữa hai người, thỉnh thoảng
cào cào cho mỗi người một cái.
Vì mẹ Pao làm dâu mà khơng giống con dâu, bao nhiêu năm họ Ly coi
mẹ con Pao như con gái trong họ rồi, thế nên bây giờ bàn chuyện kiếm vợ
mới cho bố Pao các ông chú mới khơng dám nói thẳng ra, cứ vịng quanh
xa gần mãi, mặc dù bản này đàn ông lấy vợ hai nhiều lắm, vợ cả không đẻ
được con trai là lấy thêm vợ hai thôi, rồi muốn ở chung cũng được mà
thích tách ra ở riêng thì ở, khơng ai ngăn. Dâu nào cũng là dâu, cháu nào
cũng là cháu, cứ mang họ nhà chồng là được đối xử như nhau hết.
Đêm nào cũng thế, mẹ dựa lưng vào vách, ơm Pao trong lịng, khơng cố
tình nghe nhưng câu chuyện của đàn ơng bên ngồi cứ vẳng vào buồng.
- Mày là cái nóc của họ Ly, bây giờ chân cột cha mục mà cái nóc muốn
mục trước, thế có được khơng? Con vợ mày ốm, nó khơng đẻ được nữa,
thì thơi, ép cũng khơng ra. Vậy thì mày phải nghĩ xa xa qua cái ngưỡng
cửa một tý có ai trách mày khơng?
Bố nói:
- Khơng nói nhiều nữa, khơng nói nữa. Nhé! Các ơng chú à, cháu đứng
chỗ thấp, chỗ cao cũng như nhau cả thôi, không xếp lại nữa. Việc làng
việc họ cần đến đâu, cháu làm được thì làm, khơng làm ngay được thì để
sau này anh em thằng Sình thằng Sính làm. Cây nhà mình đang héo, lịng
dạ nào đi tìm cây khác...
Mẹ thở dài, tóc mẹ xõa xuống mặt Pao.
*
**
Buồng riêng của Pao có một lỗ cửa nhìn ra đầu hồi bên phải, phía mặt trời
lặn, cứ mở miếng gỗ che lỗ cửa ấy ra thì căn buồng này là chỗ tối muộn
nhất trong nhà. Mặt trời lặn đến đâu thì cái ô nắng vuông vuông lại nhích
dần lên tường đến đấy, nhưng ô nắng chỉ lên đến chỗ Pao treo cái túi thêu
là dừng lại rồi tắt dần. Mùa đơng, sợ gió vào, Pao cắt một mảnh áo mưa
trắng, lấy que gài vào lỗ cửa để không bị tối. Có mỗi cái lỗ cửa ấy thơi, để
lúc nào khơng có việc là Pao lại ngồi trong giường nhìn ra. Nhìn ra mà
người ở ngồi khơng biết. Vẫn là con đường trâu kéo gỗ về đào thành
rãnh sâu ấy, vẫn cái gốc cây người đi chợ về hay buộc ngựa ấy nhắm mắt
vào cũng thấy rõ từng cái mấu xù xì của nó... Quen mắt thế cứ tưởng nhìn
mãi cũng chán, nhưng mỗi ngày lại nhìn thấy những cái mới. Chiều hơm
trước, Pao cũng ngồi thế này, nhìn qua lỗ cửa thấy trong những người đi
chợ về có một người đội một cái chảo lớn trên đầu cắm cúi leo dốc. Sắp
ấy từ vai trở lên, chỉ nhìn thấy tấm lưng vuông như cái bàn uống nước
nhà mình, thấy đơi chân bám chắc như con tắc kè trên tường, Pao nhìn
theo, nhìn mãi cái bao dao người ấy đeo bên hông. Cái bao dao chạm bạc
hình hoa cúc. Hoa cúc đỏ dày cánh, mọc đầy dưới những gốc sa mộc già,
Pao đánh về trồng trong vườn bao nhiêu lần khơng có lần nào cây sống
được. Chạm được bông hoa ấy trên bao dao gỗ phải là người khéo tay
lắm, Pao vẫn nghĩở Pụ Dín chỉ có bố Pao làm được.
Ở Pụ Dín, con gái tầm tuổi Pao lấy chồng gần hết rồi, Pao cũng có nhiều
người hỏi nhưng chưa nhận lời ai. Bố nóng ruột, nhìn Pao mỗi mùa ngô
lại cao hơn cái vạch bố khắc trên khung cửa một đoạn, chỉ vòng bạc đeo ở
cổ tay phải tháo ra từ lâu rồi, thế mà Pao cứ lùi lũi đi làm, đi chợ, về chợ
một mình, chập tối đã đóng cửa, thả chó ra. Cũng từ khi Pao cao vượt cái
vạch trên khung cửa, hai bố con ít nói chuyện với nhau. Bao nhiêu
chuyện Pao cần hỏi lại không hỏi được bố, bao nhiêu chuyện bố muốn
bàn với Pao lại không bàn được, vậy là quanh ra quanh vào chỉ có con gà,
con lợn, nương ngô, nương lúa làm chuyện nối hai bố con.
Pao chín tuổi thì mẹ mất. Vừa qua mùa gặt, ngô lúa thu về chất đầy nhà
đầy sân. Ngày nắng các em con nhà chú kéo sang phơi hộ, dọn hộ. Nhà ít
người mà thu về nhiều thế, bố Pao đã tính đến tết tha hồ bán đi mua sắm.
Nhưng chưa kịp ăn bữa cơm gạo mới nào thì mẹ đột ngột ốm nặng. Một
ngày, hai ngày, người cứ lả dần đi, cánh tay không nhấc nổi nữa. Rồi mẹ
đi hẳn trong một buổi chiều. Bố đi cắt thuốc dưới Pụ Cháng chưa về, Pao
vừa đuổi gà khơng cho vào bới thóc vừa chạy vào quanh quẩn bên mẹ.
Lúc mẹ dặn Pao, Pao cũng chẳng chú ý nghe, câu được câu mất. Chỉ nhớ
láng máng mẹ bảo nếu có người lạ đến ở nhà mình, thì Pao phải nghe lời
bố hơn, nghe cả lời người ấy nữa. Một lúc sau thì bố Pao đi người khơng,
mà người ốm đã muốn ốm thêm thì khơng thuốc nào chữa được. Nhưng
bố Pao biết được thế thì đã muộn quá rồi.
Hôm ấy, mặt trời bám mãi trên dãy Hoàng Liên không chịu lặn. Nắng
chiều vàng hơn cả ngơ lúa đang tãi đầy ngồi sân, nắng lọt qua khe cửa
chiếu lên mặt mẹ. Nhìn mẹ ngủ, hai mắt nhắm nghiền, vành khăn tuột ra
khỏi đầu Pao không biết rằng mẹ không bao giờ thức dậy nữa. Trên núi,
đột nhiên có tiếng gà rừng gáy tiếng gáy chậm, quấn vào nhau.
Sau ngày mẹ mất, các ông chú thôi không đến tận nhà nói chuyện con trai
với bố Pao nữa. Ai cũng biết mẹ Pao không tự dưng ốm nặng thế. Mẹ đã
đợi đến lúc Pao bắt đầu biết lo việc nhà, đợi đến mùa các ông mối bà mối
hay đến đánh tiếng, đợi đến khi ngô lúa đầy nhà, lợn gà đầy chuồng mới
ốm. Nhưng mẹ không đợi đến lúc bố hết thương mẹ, đến lúc Pao thành
con gái lớn nhiều người để ý, rồi mẹ hẵng đi. Hai bố con Pao thay nhau
khóc trước bàn thờ mẹ...
Pao lớn lên, ít bạn bè. Sáng sớm đi làm với bố, tối về nhà đóng cửa sớm.
Bọn con trai con gái rủ nhau ra bãi cỏ chơi trăng đông lắm, đi qua nhà í ới
gọi Pao, Pao mặc kệ. Pao sợ ánh mắt bọn con trai cứ dán vào lưng vào
gáy Pao mỗi lúc Pao ngang qua chúng nó, Pao khơng thích bọn con gái bị
con trai chịng ghẹo cịn quay lại bng lời đưa đón, Pao muốn tìm một
người như bố mình, vợ khơng đẻ con trai cũng không bỏ đi lấy người
khác. Người ấy còn phải ở rể nhà Pao nữa, bố Pao già quá rồi, Pao không
nỡ bỏđi lấy chồng. Người như thế thì tìm đâu ra. Bố bảo Pao đang nghĩ
dại. ở với bố mãi, đến lúc bố theo mẹ đi nốt thì thành gái già rồi. Gái già
giống cây mía tím ra hoa, cho cũng khơng ai thèm lấy. Lại cịn địi người
ở rể. Thằng đàn ơng đến nhà vợ ở rể giống con chó cụt đi ra đường
khơng dám nhìn ai.
Pao cứ ngồi bó gối trong buồng nhìn qua ô cửa. Chếch sang bên trái là bãi
sớm, bọn con trai đi chơi vẫn phải giắt đèn pin vào cạp quần. Ngoài ấy
chỉ toàn những đứa chưa yêu ai, chưa nhắm ai làm vợ làm chồng chứ yêu
rồi lại không ra đấy. Bọn thanh niên nô nhau đến lúc trăng lặn là kéo nhau
về, ngang qua nhà Pao còn ném đá vào trêu chó. ánh đèn pin như đom
đóm bị về các ngả, các đèn tắt hết là cả bản bắt đầu ngủ.
Cả Pụ Dín lẫn hết vào rừng cây, núi cao, tối đen. Bấy giờ mới thấy cái
vầng sáng dưới Pụ Cháng hắt lên trời rõ lắm. Bốn phía trời tối đen như
nhau nên một mình Pụ Cháng đã sáng càng sáng hơn. Không nghe thấy
tiếng người, chỉ thỉnh thoảng có tiếng cịi, tiếng xe ơ-tơ dừng rồi đi.
Không biết cứ sáng suốt đêm thế thì người ta ngủ vào lúc nào nhỉ. ở Pụ
Dín, chỉ mùa đơng các nhà mới để bếp lửa qua đêm, chỉ khi nào nhà có
người chết mới để đèn. Vậy mà Pụ Cháng thì sáng suốt đêm, nửa đêm cái
vầng sáng thu hẹp một tý rồi về sáng lại mở rộng ra. Sáng như thế chắc
người ta cũng quên cả lúc mặt trời mọc. Từ ngày hai bản tránh mặt nhau
Pao cũng như mọi người ở Pụ Dín, không xuống Pụ Cháng lần nào.
Khơng biết điện sáng như thế thì Pụ Cháng có gì khác ngày xưa, hồi Pao
cịn được bố cho đi theo tìm mua ngựa ấy khơng? Bọn thanh niên Pụ Dín
nghe lời người già, bảo khơng cãi nhau nữa thì khơng cãi nhau nữa, bảo
đừng đánh nhau cũng khơng đánh nhau, khơng ưa thì tránh mặt đi thơi.
Vậy mà vẫn có đứa biết chuyện Pụ Cháng có nhiều người giàu lên, rồi thì
thầm kể cho bạn bè nghe. Còn bảo Pụ Cháng nhiều thứ lạ lắm, chưa nhìn
thấy bao giờ Pao cũng muốn xuống xem Pụ Cháng một lần. Hình như bố
biết, bố bảo: "Bọn trẻ Pụ Cháng bây giờ thành cây khơng có gốc hết rồi.
Ban đêm thức chơi đến khuya, ban ngày thì ngủ, ruộng nương bỏ khơng,
lại còn theo nhau về huyện, về tỉnh, bảo là đi buôn dễ kiếm tiền hơn. Vài
năm nữa, người già chết hết là bùa dán cửa cũng bị chúng nó xé đi thơi".
Pao khơng dám nói gì. Khơng biết bố nghe ai kể mà biết rõ thế. Bố cịn
lại khơng mặc váy nữa mà quay sang mặc quần như đàn ơng. Ơi trời, thế
cịn gọi là con gái làm sao được nữa!
Một buổi chiều, Pụ Dín có hai người khách lạ. Khách là đàn ơng, tìm vào
nhà trưởng bản, bảo muốn lên Pụ Dín để hỏi mua chó. Trưởng bản nói:
- Pụ Dín khơng có chó để bán. Hỏi mua chó ở Pụ Dín cũng giống như hỏi
mua người đấy. Mà người thì có mua bán được khơng?
Người khách trẻ giải thích:
- Ở làng cháu bây giờ trộm cắp nhiều quá, ban ngày cũng mất trộm gà,
lợn; người lớn thì bận đi làm chỉ có trẻ con ở nhà không trông được.
Nghe nói chó khoang, chó vàng... ở Pụ Dín khôn lắm mới định lên nhờ
mọi người giúp cho một ít.
Già bản nghe nói thế xi xi trong bụng mới gọi mấy trưởng họ đến,
bảo mỗi họ giúp khách một con, rồi cịn nói với khách:
- Cứ mang về đi, cần nữa thì lại lên, giúp nhau thì Pụ Dín khơng tiếc đâu.
Nhớ cho chúng nó ăn uống như mình nhé. Khơng tốt với nó là nó bỏ
mình đấy.
Khách mừng quá, vừa cảm ơn vừa mang tiền ra biếu lại mỗi nhà một ít.
Khách cứ dúi vào tay, chối cũng khơng được. Khách mang chó đi rồi, mọi
người giở tiền ra đếm mới thấy nhiều quá. Trời ạ, có một con chó mà lấy
lại bao nhiêu tiền, có khi bán hai, ba quẩy tấu ngơ cũng không được bằng
ấy. Ngại quá.
Khách quay lại nhiều lần nữa. Mỗi lần quay lại còn mang theo bao nhiêu
quà cho tất cả các nhà, người già được thuốc lào, trẻ con được kẹo. Khách
thành người quen với Pụ Dín lúc nào không biết. Bây giờ, không cần
nhắc, mọi người tự khắc thay nhau dắt chó đến cho. Dắt chó đến, nhận
tiền biếu lại, quen dần không ai thấy ngại nữa. Khách vẫn nói với người
- Không phải mua bán đâu, anh em bạn bè lúc nào cần tiền thì giúp nhau
thơi. Ngày tết, nhà nào cũng có bánh mà vẫn mang cho nhau, có ai từ chối
đâu. Cầm một ít tiền cho chúng cháu đỡ ngại. Nhé!
Khách nói thật bụng thế ai mà từ chối được. Pụ Dín ni nhiều chó lắm,
cho đi một ít cũng khơng thấm vào đâu. Mà bao nhiêu lần khách mang
chó đi theo khơng thấy con nào bỏ nhà mới trốn về, chắc ở bản của khách
mọi người cũng đối xử tốt với chúng nó. Thế thì n tâm rồi.
Nhà Pao mới nhận về ba con chó khoang ơng Dín mang sang cho. Lúc
đưa cái quẩy tấu đựng mấy con chó cho Pao, ơng Dín hỏi khẽ:
- Pao à, mày với thằng Khiêm còn chơi với nhau khơng đấy? Bảo nó
mang chó sang đây hộ mà nó khơng nghe...
- Ơi bác này, sao lại hỏi thế?
Pao quay mặt đi, xấu hổ quá. Lâu lâu rồi Pao không gặp Khiêm, quên mặt
Khiêm rồi.
Khiêm là con trai lớn nhà bác Dín. Khiêm hiền lắm, cả bọn dám chặn
đường ghẹo Pao thì lúc nào Khiêm cũng đứng phía sau, chỉ nhìn thơi, mặt
đã đỏ như say rượu. Thế mà Khiêm càng đứng sau thì Pao càng hay đưa
mắt qua vai đứa khác để nhìn. Lúc đầu Pao chỉ định trêu cho Khiêm sợ
thơi, nhưng hai ba lần trêu như thế rồi tự dưng Pao cứ bị ánh mắt Khiêm
đi theo, cả trong lúc ngủ cũng khơng trốn được. Mới chỉ có thế thôi. Pao
cũng không muốn nghĩ đến Khiêm nhiều hơn, Khiêm là con trai một, cả
họ lại trông vào, Pao sợ mình đi vào lối đi của mẹ. Nghĩ đến Khiêm
khơng được như bố mình cịn sợ hơn nữa. Chỉ có cái bao dao chạm hình
Nhà Pao khơng có nhiều chó nên chưa bao giờ mang chó cho khách cả.
Vậy mà lần nào khách lên Pụ Dín cũng đến thăm bố Pao, cho quà. Bố Pao
ngại lắm, mang tam thất ra cho lại, khách không nhận:
- Chúng cháu mang ơn cả Pụ Dín này, bác cho chúng cháu được như
người cùng bản, đừng làm khách với nhau. Q có một ít thơi, tấm lịng
mới q.
Lần này ơng Dín mang chó con tới cho rồi, con nào cũng đẹp, nuôi tới
mùa thu ngô cũng kịp lớn. Ăn cơm tối xong, bố nói với Pao:
- Con gái à, bốđịnh mang con Mốc cho khách...
Pao giật mình:
- Khơng. Khơng được đâu bố! Con Mốc ở nhà mình bao nhiêu năm rồi,
thân với con như chị em, cho cái gì thì cho chứ con Mốc thì khơng được
đâu.
Nghe bố nói nhé. Khách nó tốt với mình bao lâu nay, mình từ chối nhận
q khơng được, mình cho q nó khơng nhận. Ở bản nó, chỉ cần chó
canh nhà thơi. Mình cho nó mang con Mốc đi cũng là làm một việc giúp
người khó khăn, là việc tốt mà. Bao giờ đàn chó Pụ Dín đẻ nhiều con ở
bản nó, nó khắc mang chó về trả mình. Coi như mượn lâu lâu thơi. Nó
bảo bố thế mà.
Pao im lặng, khơng nói gì với bố nữa. Nhưng từ hôm ấy đêm nào Pao
cũng cho con Mốc vào buồng với mình từ sớm. Bố cũng khơng nhắc đến
chuyện ấy thêm lần nào. Bố vẫn chiều Pao mà.
Mùa đông đến rồi. Năm nay làm mùa xong sớm Pao kịp đi lấy củi về chất
đầy quanh nhà. Bằng ấy củi tha hồ đun, đến tết luộc bánh cũng không lo
Năm nay bố yếu đi nhiều, đến bữa chỉ ăn cốđược hai lưng cơm, có hơm
chỉ uống vài chén rượu, gắp mấy gắp rau là đứng lên. Pao vừa lo vừa
buồn, đêm nào cũng mất ngủ vì tiếng ho cứ nén lại trong ngực bố bên kia
vách vọng sang. Gần đây, Pao ép bố vào buồng mà ngủ, khơng ngủ ngồi
nhà nữa. Pao biết bố không muốn ngủ trong buồng vì cứ vào buồng là
nhớđến mẹ, khó ngủ. Nhưng ở ngồi gió quá...
Trời mùa đông tối nhanh, ăn cơm xong đã như nửa đêm rồi. Sương mù
vây quanh, chui cả vào trong nhà, ngấm qua bờ tường đất, bong cả mấy tờ
báo Pao dán tường ra. Cả bản, nhà nào cũng đóng kín cửa từ sớm, sương
mù lại dày, thế nên từ nhà này khơng sao nhìn thấy nhà kia, nếu khơng
nghe tiếng trẻ con khóc quấy mẹ có khi lại tưởng có mỗi nhà mình bị dìm
trong sương mù. Trời càng mù mịt thì cái quầng sáng dưới Pụ Cháng
trông càng lạ mắt. Pao cứ nghĩ Pụ Cháng giống như các quẩy tấu đựng
hết sao trên trời vào đấy. Dưới Pụ Cháng mùa đơng này chắc cũng ít rét
đi nhiều, con gái Pụ Cháng thế nào má cũng hồng như quả lê chín...
Bố bị ngã. Chân run rồi, bước vào cái bàn đạp ngựa cũng trượt, vậy là
ngã thôi. Chỗ nào cũng đau, đau lưng, đau bả vai, đau khuỷu tay, Pao lo
quá khóc suốt cả đêm. Hai hơm sau thì người khách trẻ đến, một mình,
bảo nghe nói bố Pao ngã, mang cho mấy thứ thuốc chỗ nào bó được thì
bó, khơng bó được thì bơi. Khách cịn ở lại nhà Pao, đêm thức đấm lưng
cho bố. Khách ở hai, ba ngày, ở một tuần liền. Bữa cơm nào Pao cũng mổ
gà, kiếm thêm chai rượu cho bốđổ vào bình rượu tắc kè, nhà có thêm một
người thấy đơng hẳn lên. Thuốc của khách tốt quá, bố đi lại được rồi, cố
giữ khách ở lại chơi thêm vài hôm. Khách thấy bố nhiệt tình q cũng
khơng từ chối được. Thấy Pao cầm dao lên rừng khách cũng đi theo, bảo
vác chuối hộ. Hai bắp chân Pao, váy ướt quấn vào, cứ bỏng rát lên, đi
cứ run bắn lên, không làm được việc gì từ đầu đến cuối khi có ánh mắt ấy
nhìn theo mình.
Rồi khách cũng chào bố, xin phép đi. Pao dắt con Mốc ra, đưa cái dây
xích bằng bạc cho khách. Cả đêm trước Pao khơng ngủ, ngồi xoa đầu con
Mốc rì rầm tới sáng. Pao bảo nó, mày phải đi trả ơn cho tao với bố thơi,
khổ hay sướng thì cũng phải nghe lời người ta.
Khách cảm động q, khơng nói được câu gì, dùng dằng mãi khơng muốn
lại. Con Mốc khơng ưa khách ngay từ lần đầu tiên đến nhà, khách muốn
xoa đầu nó cũng khơng được. Pao mắng con Mốc, mắng nó mà nước mắt
cứ chảy ra, con Mốc cũng khóc. Lúc khách kéo con Mốc đi, Pao chạy vào
buồng để khơng phải nhìn theo, nhưng một lúc lại ghé mắt qua lỗ cửa.
Ngoài kia con Mốc vừa đi vừa tru lên từng đợt, nó khóc vì phải xa Pao.
Khách đi rồi mà bố còn nhắc mãi, còn kể lại cho Pao biết người ấy mồ cơi
sớm, ở với ơng chú. Chú thì tốt nhưng thím ác lắm, lúc người ấy cịn bé
suốt ngày bị đánh tím cả mơng. Người tốt mà cũng chịu khổ thế, ông trời
không công bằng, tự dưng Pao thấy thương thương. Nhớ cái chạm tay lúc
đưa dây xích con Mốc cho người ấy mà nóng bừng cả mặt.
Pao quyết định trốn bố xuống Pụ Cháng theo mấy đứa bạn. Thì phải trốn
chứ nói thật ra làm sao bố cho đi. Pao chỉ muốn xem Pụ Cháng ban đêm
có cái gì mà ở Pụ Dín nhìn thấy sáng thế. Mấy đứa bạn nghe ai kể mà cứ
nói chắc chắn rằng dưới Pụ Cháng bán nhiều thứ lắm, ở chợ huyện cũng
khơng có, lại rẻ nữa, mang một quẩy tấu lúa nếp đi bán là mua được bao
nhiêu thứ rồi. Thế thì cứ đi thử một lần cho biết, chúng nó cũng tị mị
Pao gói bộ váy áo đẹp vào khăn, để dưới đáy quẩy tấu, đổ lúa nếp lên
trên. Sáng sớm, chưa nhìn rõ đường mấy đứa bạn đã ném đất gọi cửa. Pao
nói với bố là Pao đi đám cưới ở Pụ Lấu.
Pụ Cháng đông người quá. Bây giờ nhà ai cũng kéo ra gần đường để mở
quán bán hàng. Pao bán được lúa nếp ngay, cầm xấp tiền đi sắm đồ.
Gương, lược, chỉ mầu, chục bát ăn cơm, cả một cái xoong bé để dành nấu
cháo cho bố, mua cho bố cái mũ nồi, một bọc thuốc lào, cái bật lửa... Cứ
mua rồi về nhà khắc có cách nói dối bố. Mua hết tiền được gần đầy một
cái quẩy tấu, đến trước hàng đèn pin còn mua nốt bằng mấy tờ tiền lẻ
được hai cái liền.
Trời tối lúc nào Pao không biết, lúc đứa bạn kéo áo chỉ cho Pao xem cái
bóng điện chói cả mắt người ta treo trên cao, Pao mới biết là mặt trời lặn
lâu rồi. Pao cứ dán mắt vào mấy cái bóng điện, chân bước theo đứa bạn đi
từ đầu chợ đến cuối chợ, thấy chỗ nào cũng sáng như ban ngày, người
làm cứ làm, người chơi cứ chơi, người ăn cứ ăn. Khơng biết như thế thì
người ta ngủ vào lúc nào.
Bọn Pao đi ngang qua một cái quán, trong quán đông người lắm, sợ người
ta trêu, Pao xốc quẩy tấu đi cho nhanh. Chợt Pao giật mình đứng lại vì
nghe tiếng nói quen quá ở ngay chỗ bể nước đang xối ào ào:
- Đêm nay thế nào cũng có xe qua, làm sẵn một con bây giờ nhỉ. Con to
nhất nhé. Con này xịn nhất từ trước tới giờđấy.
Cái gì thế? Người khách. Đúng là người khách trẻ vừa mới ở nhà Pao về
hai, ba hôm nay. Người ấy đang cùng mấy người nữa đè ngửa một con
chó ra tìm cách buộc chân. Con chó khỏe q, giãy mạnh như con bị cày.
Pao nhìn thấy sợi xích bạc lủng lẳng: "Mốc! Mốc ơi!" Pao chạy bổ đến
thứ vào người khách trẻ đang há miệng ra nhìn. Con Mốc vùng ra, lao qua
rãnh nước...
Mặt trời lên cao Pao mới tỉnh, đêm qua Pao đã ngủ gục dưới một gốc sa
mộc già, dưới chân Pao, hoa cúc đỏ bị đè suốt đêm đang vươn dậy. Một
chiếc giày của Pao đã rơi đâu mất, Pao ném nốt chiếc kia xuống vực.
Dãy Hoàng Liên trước mặt, nhìn thì gần mà đi thì xa, cịn Pụ Cháng
muốn trốn cho nhanh lại cứ ở sau lưng mãi. Trong đầu Pao thấp thoáng
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Gió thốc vào người cơ ở chỗ khúc ngoặt như trị đùa của trẻ con. Đi qua
khúc ngoặt, sang mé núi bên này, cơ khơng cịn phải quay nhìn lại phía
sau với hàng đống ý nghĩ lộn xộn trong đầu. Chiều đang dềnh lên, nhanh
như nồi cơm sôi không kịp mở vung. Nhà thấp tối trước, nhà cao tối sau,
càng gần trời càng tối muộn. Nhà của cô ở trên cùng, có mấy viên ngói
mới chèn vào lớp ngói cũở đầu hồi bên phải như một miếng vá khéo.
Sính đứng như chơn chân ở cửa, hai cánh cửa mở toang, ép vào bờ tường.
Hai bàn tay Sính xoắn vào nhau, mắt Sính loang lống ướt.
Sính vẫn cịn nhớ từng lời cơ nói với Sính đêm ấy... “Ngày mai em về
xuôi. Nếu ông trời giữ em ở lại thì em với anh có cố đến gần nhau cũng
chỉ như người say lội ngược đầu nguồn tìm sơng thơi. Cịn nếu ơng trời
thả em đi thì chân em tự khắc biết đường mà đi. Anh đừng tìm em. Chờ
một tuần trăng mà không thấy em lên là em lạc sang đường khác rồi...
Anh khóc đấy à? Đàn ơng mà dễ khóc thế thì khơng làm được việc gì lớn
đâu...”.
Sương đi rồi, Sính cứ ơm cái cột nhà, đập đập đầu mình vào đấy. Sính
ngu dại q. Sính khơng biết nói với cơ ấy được câu nào như ý nghĩ trong
đầu Sính. Có khi nói cơ cũng khơng nghe, nhưng ít ra cũng gửi theo cơ
được cái gì nằng nặng. Cịn bây giờ, Sương đi rồi. Biết đâu trong đầu
Sương khơng có cái mặt Sính, khơng có lời thương lời buồn Sính nói.
Thế thì có cái gì dẫn cơ quay về với Sính được? Leo dốc thì khó chứ
xuống dốc dễ lắm. Chỉ một lúc thơi, trong mắt Sính đã khơng có bóng cơ
Bà cô ngồi ở bậu cửa, cắm cúi nhặt đỗ tương giống, khơng biết có phải tại
mắt kém không mà cứ nhặt lẫn hết cả. Hồi lâu, bà cơ nói với Sính mà
khơng ngẩng mặt lên nhìn:
- Trong bụng con Sương giữ được chén rượu ngày cưới thì nó cịn nhớ
mày, khơng giữ được thì nó qn đường về. Núi rừng này khơng đẻ ra nó
thì khơng bắt được hồn nó ở lại. Một mùa cưới nữa khơng thấy nó về là
tao cưới vợ mới cho mày.
- Bà cơ... - Sính nghẹn giọng - bà cô già rồi, lẩm cẩm rồi. Lời hay không
nói tồn nói lời xấu. Có phải tại bụng bà cơ hay nghĩ xấu khơng? Có phải
vì thế mới không lấy chồng không?
- Mày...
Bà cô chống tay vào đầu gối, khó nhọc đứng dậy. Giũ giũ đám vỏ đậu
tương dính đầy trên váy, miệng lập cập nói khơng ra câu. Giận thằng cháu
q. Có lớn mà khơng có khơn. Mắt to thế kia mà chỉ nhìn thấy hạt đậu
dưới chân váy bà. Con Sương có bùa hay sao mà khiến thằng Sính khơng
cịn là thằng Sính nữa.
Sính thấy bà cơ giận thì bỏ đi. Sính đang buồn q nên lỡ miệng nói bậy
mấy câu, bà cơ giận là phải lắm. Nhưng bà cơ khơng hiểu cho Sính. Sính
nhớ vợ quá mà. Cái giường nằm một nửa, nửa kia có gối mà khơng có
người, gió chạy rầm rập trên mặt chiếu hoa.
Đêm nào Sính cũng phải úp cái gối của vợ vào mặt mới ngủđược. Nhưng
chỉ được hai ba đêm thì cả hai cái gối cưới đều chỉ có mùi thuốc lào,
khơng cịn biết được cái nào vợ Sính vẫn gối nữa. Khơng cịn cái gối của
vợ thì Sính chuyển vào nằm nửa giường bên trong. Vợ Sính có thói quen
lúc nào cũng nằm sát vào vách, Sính cứ kéo vợ nằm lui ra ngồi một lúc
Nhiều hôm hai vợ chồng chỉ nằm hết có nửa giường. Sính nằm vào chỗ
của vợ, cảm thấy cánh tay mềm mềm của vợ vẫn đặt ở chỗ này.
Trong nhà, chỗ nào cũng có dấu tay Sương. Từ cái vung nồi đến bộ ấm
chén uống chè. Trong bụng Sính lúc nào cũng như có người đổ rượu
mạnh vào, rồi thả thêm một que diêm đang cháy nữa. Chỉ có rượu bị đốt
cháy mới bỏng thế. Khơng biết vợ mình đang ởđâu, có ai làm gì xấu cho
vợ mình không? Được một nửa tuần trăng rồi. Bắt đầu mùa mưa nên
khơng thấy trăng mọc, chỉ nhìn vết vạch trên cột nhà mà biết thôi. Mưa
mãi, bà cô sốt ruột vì củi đun sắp hết, cịn Sính lại mong mưa nữa. Mưa
thì trăng khơng đến, Sính cịn chờđợi hơn được.
Trong bản có người ác miệng bảo tại Sính khơng mất đồng bạc trắng nào
nên khơng buộc được chân vợ. Ngày Sính cưới Sương, nhà gái khơng có
ai, chỉ có mấy cơ giáo ởđiểm trong, điểm ngoài đến dự. Đấy cũng là đám
cưới đầu tiên ở Sủng Tráng cô dâu không mặc váy cưới, cũng khơng có lễ
đón dâu, cả bản đến hết, cả những người qn khơng mời cũng đến. Đến
vì Sương. Sương là người nhà của cả Sủng Tráng mà.
Việc Sính lấy được Sương giống như người thợ săn giỏi bắt được con thú
quý, không ai ngạc nhiên. Nhà Sính nghèo, lại chỉ có hai cơ cháu, mọi
việc cho đám cưới cả làng mỗi người một tay lo hết. Bỏ công bỏ việc, cả
Sảng Pả say hai ngày liền. Ai cũng muốn giữ Sương ở lại mãi với Sủng
Tráng mà không nghĩ ra cách. Nay Sương làm dâu Sủng Tráng thì ở lại là
phải q rồi, khơng phải lo gì nữa.
Vậy mà Sương cũng đi. Đã uống chén rượu vợ chồng, khơng đón dâu
nhưng ông chú họ xa cũng đã quay con gà ba vòng trên đầu Sương, thế là
Sương được ma nhà chồng giữ hồn cho rồi. Sao Sương không biết nghĩ
Hơm nào cũng thế, Sính để đến đêm khuya, sắp sang ngày hôm sau rồi
mới cầm dao khắc thêm một vạch lên cột nhà. Sính muốn một ngày dài
thêm nữa ra, nhưng càng muốn thế thì ngày càng ngắn lại. Sính càng làm
nhiều việc để bớt nóng bụng đi thì lửa trong bụng càng cháy mạnh. Một
vạch, hai vạch, ba vạch... mấy ngày đầu Sính cịn đếm, sau khơng đếm
nữa, các vạch khác cũng xít lại gần nhau hơn...
Sính khơng biết, rằng lúc này, Sương đang ở một nơi mà ngựa đi mỏi
chân khơng tới. Cũng như Sính vẫn khơng biết trong đầu Sương nghĩ gì,
khơng biết vì sao Sương xinh đẹp thế lại chịu lấy Sính, người đàn ơng
cuối cùng của một dòng họ nghèo, khơng có một đồng bạc trắng chôn
dưới cột nhà.
*
Sương cũng không ngủ được. Trả trước cho chủ nhà trọ năm nghìn,
Sương gần như bị qua một dãy người để tìm chỗ nằm sát tường, cố dỗ
cho giấc ngủ đến. Sương phải ngủ, để khơng cịn nhớ tí gì của thị trấn
này. Chiều nay, lúc ăn cơm ở bếp tập thể của phịng, ơng trưởng phịng
bảo Sương:
- Cố ở thêm vài năm nữa rồi tôi đặc cách cho về vùng thấp. Giỏi như cô
lại có thâm niên vùng cao, dăm ba loại ưu tiên nữa là bố trí được chỗ làm
ngay thơi.
Nếu là Sương của mấy năm trước thì thế nào gã trưởng phòng cũng đã
nhận được một cái mi múc canh dính đầy mỡ vào mặt rồi. Chưa có một
ngày trọn vẹn ởđiểm trường nhưng trí tuệ nghèo nàn cũng đủ cho gã hình
dung được những cùng cực mà những cơ gái cịn trẻ như Sương phải đối
mặt. Sao có thể tưng tửng như thế?
Bên ngoài bức tường là quán bán phở. Sương hình dung tấm lưng to bè
mặt cơ, rùng mình. Nghe tiếng rao bánh mì, Sương nhỏm dậy. Những đứa
trẻ của cơ coi bánh mì, dù chỉ là thứ bánh cứng quèo, bé như lưỡi mèo,
xin xỉn đen, dính cả cát bẩn, bán ở thị trấn là một món quà đặc biệt. Và
bao giờ những đứa trẻ gái cũng để dành được một mẩu, giấu trong cạp
váy, đến tận hơm sau vẫn tóp tép trong giờ học. Chiều nay Sương quên
không mua. Nhưng đang định bị qua mấy người nằm ngồi thì đã nghe
tiếng bà chủ quát lên xe xé:
- Có biến ngay đi khơng, thằng kia! Không thấy bà mày đang còn bán
hàng đây à? Đi ngay, không bà cho mày khúc xương bây giờ...
Sương lại nằm xuống. Cô ném chiếc gối mây dinh dính hàng trăm thứ mồ
hơi xuống cuối giường, gối đầu lên cánh tay. Bên cạnh Sương, một bà già
đang càu nhàu nói mê, mùi trầu cay nồng phả thẳng vào mặt cơ. Cịn
người ngồi, người ngồi nữa... thì thi nhau ngáy. Tiếng ngáy lẫn với
tiếng quạt trần cũ kèn kẹt làm cho căn phòng đã chật càng chật thêm.
Sương cảm thấy mình đang hít vào trong ngực từng thìa, từng thìa một,
thứ khơng khí hỗn tạp sền sệt. Nằm được một lúc cơ lại bị dậy, khe khẽ
gập đầu gối lại, bó người lại hơn chút nữa để bà già được nằm thoải mái.
ánh điện ngoài quán phở hắt qua khung cửa sổ giăng đầy mạng nhện.
Nhìn những người phụ nữđang ngủ trong mọi tư thế, giống nhau ở gương
mặt mệt mỏi, bất giác Sương thấy thương họ. Ngày mai Sương sẽ ngồi
cùng xe với họ đến ngã ba, Sương rẽ trái cịn họ đi tiếp, có khi vài hôm
sau Sương lại xuống huyện mua hàng của họ.
Bà già cựa quậy, hé đôi mắt kèm nhèm nhìn Sương, giật giật quần cơ:
- Nằm xuống. Cố ngủ đi một tí mà lấy sức con ạ. Ngày mai xe nhiều
hàng, chật lắm đấy. Khéo rồi lại say.
Bà già chép miệng, quờ tay lên đầu giường vớ lấy cái nón úp lên mặt.
Chiếc nón cũng cũ kỹ già nua như chủ của nó. Đã nhiều lần Sương dừng
chân ở bến xe này và ngủở cái nhà trọ này, cùng với những người phụ nữ
quanh năm xuôi ngược, nhưng chưa lần nào cô để ý đến họ. Cô vẫn nghĩ
rằng, trên cõi đời rộng lớn này, mỗi người đã có một quỹđạo, khơng ai đi
lẫn của ai. Đi xa hay gần, vòng rộng hay hẹp, đều đã được ấn định trước.
Và cô cứ đi, theo ý mình, đúng hơn là theo linh cảm lờ mờ của mình. Đã
như vậy hơn hai mươi năm trời. Khơng ngờ có lúc cơ lại nhận ra cuộc đời
không đơn giản thế, mà thật ra điều đó thật ối oăm, lại ở trong một cái
nhà trọ, giống như một cái nồi hầm thế này. Con người, dù tốt dù chưa
tốt, dù đẹp hay không đẹp, dù còn trẻ hay đã qua tuổi trẻ, sớm hay muộn
thế nào cũng có lúc dừng lại, hoặc là đưa người khác đi chung đường với
mình, hoặc tự mình đi vào đường của người ta. Đi mãi, đi đến lúc chết.
Như cô...
Vậy mà cô đã bỏđi. Cô đã bỏ người ấy mà đi. Trong cái buổi chiều thành
phố oi bức, đầy mây đen, bụi xộc qua rèm cửa vào căn phịng mà cơ đã
từng chăm bẵm, ủ ấm. Cô phải thú nhận với mình rằng, thực lịng cơ
khơng muốn lại bỏđi lần nữa.
Sương đưa tay lên đầu, lần ra sau gáy gỡ cái cặp tóc ra. Mớ tóc dày và dài
mắc vào chiếc vịng đeo tay bị kéo cắt dở, gỡ mãi mới ra. Chiếc vòng này
Sính đã dúi vào tay cơ khi cơ nhìn Sính lần đầu tiên, tin cậy trong nỗi sợ
hãi mơ hồ. Chiếc vịng của bà nội Sính để lại cho bà cơ, bà cơ cho Sính để
Sính tặng lại cơ. Chiếc vịng như một thứ đồng hồ đo tình cảm của cơ.
Khi nào cơ vui chiếc vịng sáng lên, trong đêm tối cũng thấy nó lấp lánh.
Khi nào cơ buồn chiếc vịng xám xịt, nặng trĩu. Khi cơ nói điều ấy với
Sính, Sính bảo cơ trẻ con, nghĩ ra đủ thứ mà người lớn không nghĩ được.
Dù sao thì cơ cũng tin, những khi khơng biết mình buồn hay vui cơ lại
bầm cổ tay cơ. Khơng giật ra được thì chộp lấy cái kéo cắt vải định cắt
đứt. “Để tôi ném nó vào bếp lửa. Bùa ngải rừng rú chứ vàng bạc gì!”.
Cơ đã bắt đầu cơng việc của mình trong một căn nhà lợp cỏ gianh, tường
đắp đất cao vút tận mái nhà, chỉ có một lỗ cửa thấp để ra vào, ai cao một
tí là phải cúi mới chui qua được. Mười ba đứa trẻ, lớn nhất mười bốn, bé
nhất lên bảy. Có hai dãy bàn ghế, mỗi bên hai bộ. Bàn ghế là mấy tấm
ván bắc ngang những cọc gỗ đóng thẳng xuống nền đất. Cô bặm môi
bước vào lớp. Khơng sợ gì hết. Mình khơng sợ cuộc sống này. Mình đã
từng chả sợ gì cả cơ mà. Người đến trước cơ đã bỏ đi, chỉ vì tìm đến nơi
khác có nước chảy đầy trong máng vầu.
Mười ba cặp mắt đổ dồn vào cô. Cô vận dụng sự mẫn cảm để tìm một
niềm hy vọng hay cái gì đó tương tự lấp lánh trong những đôi mắt kia,
nhưng không hề thấy.
- Chúng ta bắt đầu nhé. Các em đã học được những gì rồi, cho cơ xem vở
nào.
Cơ dịu dàng. Khi cơ cịn bé, bao giờ cơ cũng mơ ước được nghe những
lời dịu dàng. Bọn trẻ nhìn nhau, khơng nhúc nhích. Cơ bước lại gần, lật
cuốn vởđầu tiên, cuốn thứ hai, cuốn thứ ba... Khơng có một chữ nào.
- Sao lại thế này?
- Xé hết rồi!
- Cho vào bếp cháy rồi...
- Thầy khơng giữđược, giữ chữ làm gì?
- Hôm nay bố mẹ bắt đi mới đi đấy.
Dường như bọn trẻ đang trút giận lên đầu cô. Cô đi như chạy ra ngồi.
Cái gì đó như là sự đổ vỡ đã xảy ra, khơng có âm thanh, khơng có hình
thù.
Ngày thứ hai, cô mặc chiếc áo đẹp nhất và bước vào lớp. Hôm nay sương
muối đã ập xuống, chỉ qua một đêm trở dậy đã thấy cỏ ngồi sân cháy
táp. Bọn trẻ cịn mười đứa, chúng ngồi dồn vào hai cái bàn. Cô thắp đèn
và đóng cửa lớp lại. Ngồi cửa gió rít ù ù như muốn lật tung mái tranh
lên, những bờ tường hình như lung lay muốn ụp xuống. Bọn trẻ cho tay
vào mồm, chốc chốc lại đổi chỗ, đứa ngồi ngoài vào trong, đứa ngồi trong
ra ngoài. Bất chợt đứa bé gái ngồi ngoài ngã xoài ra đất. Trên mình nó chỉ
có một cái áo len cũ, rách hai ống tay, khơng có váy mà quấn bằng một
tấm khăn, chân đi đất. Cô ôm chặt đứa bé, miệng lắp bắp thúc bọn trẻ
sang bếp của cô ôm đống củi sang, mang đèn lại và đổ dầu vào...
Lửa bập bùng cháy ở cuối lớp. Được một lúc thì Xía, tên đứa học trị gái,
tỉnh lại, định chuồi ra khỏi tay cô. Cô giữ chặt lấy nó. Con bé cất giọng
khàn khàn:
- Người em tồn mùi bị, mùi dê, bẩn quần áo đẹp của cơ giáo.
Thấy cơ khơng nói gì nó cựa quậy rồi giật giật cổ áo cơ:
- Cô ơi, em hết lạnh rồi...
Những giọt nước nóng bỏng rơi xuống mặt nó. Bọn trẻ xích lại gần cô.
Những cánh tay nhem nhuốc đầy vết gai cào níu lấy cơ... Lửa reo phần
phật.
Ngày hơm sau Xía mang đến một con gà trống. Để nó gọi cơ giáo dậy.
Con bé bảo vậy.
Từng đêm, cô nằm co đầu gối lên tận cằm và trở mình thật ít để chống lại
cái rét từ trong ra ngồi, từ ngồi vào trong. Gió hoang vu vẫn quấn lấy
con đom đóm từ trên mái tranh dẫn nhau bị xuống vách đất chỗ cô nằm,
đếm không xuể. Chưa bao giờ cơ nhìn thấy đom đóm giữa mùa đơng như
thế này. Con nào cũng vừa to vừa sáng, lại không bay mà bò lồm ngồm
trên vách.
Bọn trẻ thỉnh thoảng lại hỏi bao giờ thì cơ đi. Dường như chúng đã chuẩn
bị sẵn tinh thần để cô chia tay chúng. Mùa đông qua, mùa xuân tới. Nước
chảy về đầy trong các giếng đá, các cô gái mang chăn màn, váy áo ra giặt.
Rồi mùa hè sang, lá ngô xanh nhức mắt. Cô vẫn ở trên đỉnh cao Thượng
Phùng, chưa lần nào xuống núi. Cô cảm thấy dưới kia, qua Xín Cái một
đoạn thơi là cô sẽ gặp lại ngay những gì mà cơ không muốn nhớ đến.
Cánh cửa bị gió giật ra, toang hoang chăn gối, toang hoang gương mặt
khiếp hãi tái ngắt, mắt mở to trừng trừng của mẹ, bên cạnh là người đàn
ông đang ngủ vùi...
Hai mươi ba tổi cơ nhận lời làm vợ Sính. Cơn lũ quét đột ngột tràn về lúc
mờ sáng đã cuốn đi non nửa Thượng Phùng. ở cái nơi đã tưởng là cao
nhất này mà vẫn cịn có thứ khác cao hơn, từ trên trời đổ xuống, đã cuốn
đi của cô hai đứa trẻ. Có lẽ chúng đã trơi xuống dịng Nho Quế bé như sợi
chỉ dưới chân Mã Pì Lèng. Sính bợt bạt sau cơn lũ. Bối rối nhìn cơ như có
lỗi. Anh đã chỉ mang về trả cho cô được bốn đứa. Hai chỗ trống trong lớp
học của cơ anh ngồi thế vào đó. Cái bóng cao lớn của anh in trên tường
lớp trong ánh nắng cuối ngày hắt xiên qua đầu hồi.
Lão trưởng phịng giáo dục huyện nhếch mép hơm cơ về huyện họp tổng
kết. “Nhà cái thằng ấy có bao nhiêu con dê? Ơng bà nó chắc để lại nhiều
bạc trắng lắm nhỉ. Ai cũng như cơ thì ngành giáo dục được nhờ to. Ha...
ha...”.
Lão thù cô. Người ta bảo thế. Vì lẽ ra cơ đã có thể nhận một chân thủ thư
nhàn tênh ở ngay huyện nếu cô chịu nghe lời lão. Nhưng cô đã không làm
Cả bản đã mừng cho Sính, trừ bà cơ. Bản này chưa có dịng họ nào lấy
dâu người Kinh, còn dòng họ nhà bà chỉ cịn mình thằng Sính là con trai,
nhỡ có chuyện gì xấu thì khơng làm lại được. Cũng vì thế mà cả ngày,
Sương lên lớp thì thơi, cứ về nhà là có bà cơ theo sát, bảo phải làm thế
này, khơng được làm thế kia. Nhưng dù có dạy từng tí một như dạy cho
đứa gái mới lớn, dạy từ ngày này qua ngày khác, thì Sương vẫn là con
dâu người Kinh. Xe lanh thì rối, dệt lanh thì lỗi, đồ xơi lúc nào cũng cho
muối... bà cô biết, không phải cháu dâu vụng tay vụng chân, chỉ tại lúc
làm cứ để đầu óc ngồi sân ngồi cửa, dạy nữa cũng thế thơi. Buồn lắm
nhưng khơng mở miệng nói được. Bà cơ nghĩ đành phải đợi đến lúc có
cháu thì dạy cháu thay cho mẹ nó thơi. Nhưng chờ mãi, chờ mãi vẫn chưa
thấy cháu dâu có gì khác. Khơng dám nghĩ gì xa xơi, sợ ý nghĩ dại đến lại
trốn khơng được.
Trời sắp sáng rồi thì phải. Cái quán phở đóng cửa một lúc đã mở lại rồi.
Nhưng khơng cịn nghe thấy tiếng mấy con chó tranh nhau gặm xương
gầm gừ nữa. ở cái bến xe này, người ta thức đêm ngủ ngày. Có hơm ba
giờ chiều Sương đến vẫn chưa thấy nhà trọ mở cửa. Chỉ đến khi xe xuôi
lên, xe ngược xuống, đổ ra tồn người là người thì người ta mới ngủ dậy.
Và sáng hôm sau, bao giờ các xe rời bến hết lại bắt đầu ngủ.
Vậy là mình khơng chợp mắt được tí nào. Sương nghĩ. Có những thứ
người ta muốn nhớ lại không nhớ được, lại có những thứ muốn qn lại
khơng qn được. Nếu như Sương không dừng chân trước cổng nhà Ln
hơm qua, lúc trời đã nhập nhoạng tối, thì bây giờ không phải cố quên.
Sau khi Sương đi, Luân lên tận phòng giáo dục huyện để hỏi thăm xem
Sương được phân cơng vềđâu. Gã trưởng phịng đã bảo Luân:
- Người yêu của chú trúng bùa trai bản rồi, bây giờ có đưa được người về
Ln nhìn bốn phía rừng núi vời vợi thâm u và lủi thủi quay về. Sương
luôn khiến Luân không hiểu nổi. Ngay cả việc Sương bỏ đi, Luân cũng
tưởng Sương chỉ dọa vậy...
Và Sương biết được điều này đúng vào lúc mà Sính đang cố gắng làm tất
cả để hai người gần nhau hơn.
Sính là một trai bản mà khơng phiên chợ nào khơng có vài ánh mắt nhìn
theo muốn cháy lưng áo. Nhưng từ khi có Sương lên dạy học ở bản, Sính
chỉ dừng ánh mắt ở ô cửa lớp học vừa thấp vừa bé. Cô giáo Sương hơn
Sính hai tuổi. Mặc kệ, hơn hai chứ hơn mười tuổi cũng thế thôi. Sau này,
nhiều lần Sương định nói với Sính, tại vì Sính đã lấp chỗ trống của hai
đứa học trò trong lớp mà Sương đồng ý cho Sính lấp cả chỗ trống trong
lịng mình. Nhưng Sương đã khơng nói. Nói Sính cũng khơng hiểu, mà
nếu Sính hiểu được thì khổ cho Sính. Đêm đầu tiên của hai vợ chồng.
Sương nằm ép vào trong tường. Sính rón rén nằm xuống phần giường của
mình. Sính khơng nghĩ ra được cái gì có đầu có cuối, cái khoảng chiếu
hoa ở giữa giường cứ rộng ra, rộng ra mãi. Sính nhích vào một tí cho
khoảng chiếu hẹp lại thì Sương càng dính sát vào tường. Lâu lắm, gần
sáng rồi, ánh sao trên trời lọt qua miếng ngói vỡ soi mờ mờ vào buồng.
Sính he hé mắt nhìn sang thấy Sương đang ngủ, lặng lẽ cởi khuy áo.
Nhưng Sính cũng thấy mặt Sương ướt đẫm... Sính ngồi dậy, xích lại gần
Sương, kéo lại hai vạt áo Sương đã gỡ ra ngang bả vai trắng ngần. Sính
cài lại khuy áo, đỡ hai vai cho Sương nằm xuống.
- Cơ giáo ngủ đi. Tơi khơng làm gì cơ giáo đâu. Đừng khóc nhé. Khơng
muốn làm vợ tơi sao cơ giáo lại nhận vịng bạc, lại uống chén rượu thề?
Ngày mai cơ giáo trả lại vịng bạc cho bà cô rồi đi cũng được, cô giáo à.
Nghe Sính nói thế, như một thứ phản xạ, Sương nhỏm dậy vít cổ Sính
xuống. Mặt Sính đầy râu và tóc, nhịe nhoẹt nước, khơng biết thực ra cô
Ngày nào cũng vậy, Sính dậy sớm gánh nước đổ đầy hai chum lớn nhóm
sẵn bếp cho Sương dậy nấu cơm kịp ăn trước khi học sinh gọi cửa. Buổi
trưa Sương về cũng có cơm nấu sẵn rồi. Buổi chiều Sính hay tạt qua lớp
học xem có cái bàn cái ghế long chân nào thì đóng lại. Nhưng Sính càng
cố gắng Sương càng lặng lẽ... Những đêm dài lê thê trong căn buồng càng
lúc càng lạnh lẽo làm Sính khổ sở.
Thực ra thì mình chờ đợi gì ở Sính chính Sương cũng khơng biết. Mọi thứ
trở nên mù mờ kể từ khi cô bước chân vào căn nhà rộng thênh, tối tăm
tồn mùi khói quanh năm này. Hình ảnh Ln vẫn trở lại. Cố xóa đi cũng
khơng được. Cả cái căn phịng toang hoang kia nữa cũng trở lại. Mỗi lúc
hai thứ đó trở lại cơ thấy mình đã quyết định đúng, quay sang cười với
Sính, qng tay lên vịng cổ cứng cáp của Sính. Nhưng sáng ra, nhìn núi
cao ngất trời như một sự bủa vây, như một sự cầm tù, mọi thứ hoang dại
hẳn đi trong mắt cô. Ngay cả luống cải xanh ngắt, cao ngồng mọc trên
những luống đất rắc đen sẫm tro bếp cô cũng cảm thấy nó khơng phải là
thứ rau dành cho cô. Lấy gương ra soi, tự dưng trên mặt cô có những nốt
tàn nhang bé li ti. Hết rửa nước lạnh đến rửa nước nóng, chà sát tấm khăn
trên mặt cho hai gò má đỏ dừ mà những nốt tàn nhang vẫn không mất đi.
Và bọn trẻ của cơ, vẫn dè sẻn từng mẩu bánh mì giấu trong cạp váy...
Gã trưởng phịng hói đầu vẫn tranh thủ nhuộm tóc mỗi khi về tỉnh cơng
tác khơng lần nào gặp Sương mà khơng xóc xiểm cơ một câu. Một nỗi sợ
hãi mơ hồ luôn luôn đeo bám trong cơ, khơng rõ ra là cái gì. Chỉ biết cô
rất sợ và hoang mang nữa. Và khi Mẫn, cô bạn cùng nhận công tác một
ngày với Sương nói rằng Luân đã lặn lội mấy trăm cây số lên tìm cơ lần
nữa, đang chờ cơ ở dưới tỉnh, thì Sương khơng thể ngồi n được nữa.
Trong một quán cà phê mới mở, bàn ghế cịn mới, vắng hoe, Sương im
lặng nhìn Ln. Ln không khác mấy so với khi họ chia tay nhau, chỉ có
ngày nào, dù Luân có đường bệ hơn thì vẫn khơng lẫn vào đâu được.
Sương chênh chao trên chiếc ghế bọc da, ù tai trước những lời hối hả gấp
gáp của Luân. Dường như Luân sợ khơng kịp nói hết trước khi cô đột
ngột đứng dậy và bỏđi.
Sương rùng mình khi Ln ngồi xích lại, cầm lấy tay cô. Bàn tay Luân
mềm nhũn, ngược hẳn lại với những ngón gầy guộc xanh xao của cơ. Chỉ
có Luân nói:
- Mẹ bảo mẹ sẽ tha thứ hết cho em, miễn là em chịu theo anh về. Em phải
biết chẳng có thằng đàn ơng điên rồ nào trên đời này chịu đi mấy trăm
cây số như anh để tìm em... Mẹ bảo mẹ sẽ để lại tất cả cho hai đứa mình
sau khi mẹ đi. Tất cả, em nghe rõ không? Tất cả. Nghĩa là... Mà, em đeo
cái thứ quỷ quái gì thế này. Bùa ngải chúng nó ám vào em đây... nên em
mới ở lại trên ấy suốt mấy năm trời phải khơng? Đồ mọi rợ, để anh vứt nó
đi.
Và Luân chộp lấy cái kéo to tướng vừa mua ở chợ ra, xọc vào chiếc vòng
bạc trên tay Sương. Sương giằng ra, cái kéo để lại một vết máu dài trên cổ
tay cơ.
*
Sính ốm. ốm vì khơng làm gì. Đàn ơng một ngày không làm việc đã ốm,
đằng này hai ba ngày liền Sính khơng làm nổi việc gì, chân vấp vào lưỡi
cày, dao chặt vào tay, đau bên ngoài, buồn bên trong, vậy là ốm thơi.
Có người đến thăm Sính, mang cho Sính cả một túi đường trắng. Đàn ơng
có vợ rồi mà cịn có một cơ gái đến thăm lại khơng phải họ hàng gì thì lạ
lắm. Lạ nên nhiều người để ý. Để ý rồi xì xào. Người con gái ấy lại đến
đúng vào lúc người trong bản đi làm về. Đàn ông vác bừa đi trước, đàn bà
dắt bò theo sau, ngang qua nhà Sính lúc ấy trơng thấy. Đang nằm trong
- Sương, Sương à? Em về rồi à?
- Sương đâu mà Sương, nhìn kỹ xem nào...
À, thì ra là Vi. Lâu lắm rồi khơng gặp nhưng Sính vẫn nhận ra Vi qua
tiếng nói. Con gái Thượng Phùng khơng ai nói tiếng giống Vi. Chưa thấy
người đã thấy miệng. Con gái mà như thế việc gì cũng dám làm, nhưng
lúc nào cũng làm vội vàng, không nghĩ sâu nghĩ kỹ.
- Nhớ vợ mà cũng ốm được, Lạ thật đấy. Vợ có phải cổ chân cổ tay mình
đâu mà mới vắng một tí đã ốm thế nhỉ?
- Vi về bao giờ thế? - Sính chặn ngang lời Vi - Sính đau đầu q. Vi nói
to như thế mấy câu nữa là Sính vỡđầu ra mất.
- Em mới về, đến thăm anh trước cả thăm ông thăm bà đấy. Về phục vụở
xã vài hôm rồi đi thôi.
- Vi đã thành văn công thật rồi đấy à! Bố mẹ mừng lắm nhỉ. Lấy chồng
giỏi giang nữa là nhất Vi rồi.
- Thôi đừng dạy nữa. Bố mẹ dạy nhiều lắm rồi anh Sính à. Anh cũng biết
tại sao Vi đi xa mà...
Làm sao mình biết được. Sính định nói thế rồi thơi. Vì đúng là Sính biết
tại sao Vi bỏ Thượng Phùng mà đi theo đồn văn cơng hồi ấy. Sính đã từ
chối quả cịn Vi làm dành riêng cho Sính. Quả cịn ấy Vi thức ba đêm liền
mới làm xong. Người như Vi chỉ làm thếđược một lần, bị từ chối là bỏđi
ngay. Vi đi mấy năm trời mới về, đẹp hơn ngày xưa. Hai cánh tay Vi để
trần, khơng cịn vết sẹo nào nữa, trắng như có ai đổ ánh trăng lên. Sính
đưa mắt tránh hai cánh tay Vi, hình như Vi biết, càng cố tình để Sính nhìn
thấy.
Vi ngồi lên mép giường Sính. Sính đã nằm xuống lại ngồi dậy:
Vi ấn vai Sính nằm xuống. Cánh tay Vi như vơ tình áp vào má Sính.
- Nước uống lúc nào chẳng được.
- Nhưng bà cơ về bây giờ...
- Sợ gì bà cơ.
Vi cịn ngồi xích lại tí nữa:
- Em biết chuyện vợ chồng anh Sính rồi. Vợ chồng như thế thà đừng lấy
nhau còn hơn. Vi nói thật nhé, để con chó đi săn thì nó là con chó, bắt nó
gái Thượng Phùng thì thấp nhưng với nó thì cao, cao hơn cả mặt, nó bỏđi
là phải...
- Vi dạy tôi đấy à?
- Anh đừng giấu ý nghĩ của mình vào hai lỗ tai, xấu mặt đàn ông. Bây giờ
Vi về đây này, anh Sính có dám bảo Vi ở lại khơng? Nói một câu đi, Vi
bỏ hết.
- Đừng nói nữa. Thằng Sính chết từ chân đến cổ rồi, cịn hai con mắt thơi.
- Cịn mấy sợi tóc cũng được.
Vi nói nhanh rồi giật chăn ra, đổ xuống người Sính. Người Vi nóng rừng
rực như bếp lị lúc được lửa. Sính vùng vẫy như người bị dìm trong hũ
rượu, nếu có chết chìm cũng khơng ai trách. Chân tay Sính bắt đầu run
bắn lên, mồ hơi vã ra, những ngón tay Sính bấu xuống chiếu hoa. Sính
đang nằm ở phần chiếu của Sương còn Vi lại vắt ngang người Sính,
người Vi mềm mại, bị trên Sính như một con mèo. Vi lần tìm hai bàn tay
Sính, nắm lấy nó. Sính đã để n vì khơng cịn đủ sức gỡ ra. Bất chợt
Sính chồm dậy, hất Vi ngã sang một bên. Chiếc vịng. Khơng có chiếc
vịng, cánh tay Vi trơn như một con rắn...
Chiều đang dềnh lên, nhanh như nồi cơm sơi chưa kịp mở vung. Gió thốc
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Ơng ngồi xuống cạnh nấm đất, lại một năm nữa đã qua, ngôi mộ khơng
khác gì mấy, rừng già đã chở che cho Nhi, đến cả gió mưa dường như
cũng nhẹ nhàng hơn dưới tán lá dày. Bụi bạch yến đang độ nở hoa, những
chùm hoa trắng muốt toả hơng thơm ngát. Ông thắp cho Nhi mấy nén
hương, ngọn khói quẩn quanh vấn viét, Nhi đang về với ơng đây mà. Ơng
lấy trong túi áo ngực ra bộ xà tích bạc, bộ xà tích có một con dao, một cái
nhíp tỉa lơng mày và một cái tăm, tất cả đều nhỏ xíu, bới đất ở nấm mộ
lên, vùi bộ xà tích xuống. Nghĩ thế nào, một lát sau lại bới lên. Đã bao
nhiêu lần vùi xuống rồi bới lên không thể nhớ được nữa. Q khứ là một
cái gì đó khơng sao vùi lấp bởi thời gian được, thậm chí, đơi khi cị trỗi
dậy, sống động hơn cả hiẹn tại với những lo toan cơm áo. Phải chăng, vì
vậy mà ơng khơng muốn chia tay với bộ xà tích, ơng cịn muốn giữ nó ở
bên mình để rồi ngày mai, ngày kia, khi cuộc sống lại đặt ra cho ông một
thử thách nào đó ơng lại có nơi để víu lấy, để vượt qua…
Nguyên dừng xe, ghé vào một chiếclán. Chiếc lán nhỏ lợp lá cọ, thưng
bốn bề bằng nứa bổ, kiểu quán hàng không người bán này có chuối treo
tren cao, cam, mía bày dưới bàn, tỉnh thoảng có cả bánh gù, bánh tẻ, ngơ
nướng… Bộ đội hành qn qua thích ăn gì thì ăn, trong túi có tiền thì để
lại vài đồng, khơng có thì thơi. Nhưng cái qn này hơi khác, bên trong
có một cái giường, đúng hơn chỉ là một chỗ nằm, cũng được làm bằng
nứa, bốn cọc gỗ chôn xuống nền đất, một chiếc bàn gỗ nhỏ để phía trong
cửa sổ, cửa sổ vẫn ở vị trí chống lên. Nguyên đã ghé vào vài nơi, nhưng ở
đâycó cái gì đó hơi khác, khơng hẳn vì nó có dấu hiệu có người ở, mà là
cái gì đó rất khó diễn tả. Dưới nền đất ẩm đầy vỏ hạt dẻ, vỏ ủa sa nhân
xô nhẹ một cái chắc sẽ đổ sập/ Nguyên đi đi lại trong mấy mét vuông sực
mùi ẩm mốc. Và đúng như linh cảm của Nguyên, đầu giường, trên cây cột
vầu già có một cái hốc nhỏ, kht trịn. Ngun thị tay vào, chạm phải
một sợi dây xích. Đó là một bộ xà tích bạc. Trong bộ xà tích có một con
dao, ở chi dao chạm một bơng cúc nhỏ tí. Đó là bộ xà tích mà Nguyên
đã thức hai đêm liền để đánh cho xong, trước khi lên đường. Ngun
bàng hồng. Khơng thể như thế được, khơng thể có một điều gì đó như là
giác mơ xảy ra với anh ngay giữa rừng thế này được. Ngun mang bộ xà
tích ra ngồi trời nhìn thật kỹ, nhất là bơng cúc, bơng cúc này do chính
tay Ngun chạm, có một cánh hơi bị gãy khúc, là do Nguyên thức liền
hai đêm, mỏi mắt q, tay làm khơng chính xác được nữa. Ngun nhìn
quanh, khơng có ai, khơng hề có một tiếng động nào gần đó. Nhìn alị
qn thì mới thấy chẳng có gì bán, mấy sợi dây thừng chắc là để treo
chuối vẫn lòng thịng bên trên cửa sổ. Ngun gọi tống lên:
- Có ai khơng? Có ai ở đây khơng?
Khơng có một ai đáp lại, chỉ có tiếng vọng từ rừng sâu và núi cao, chỉcó
tiếng ọng từ những chịm lá cao rậm rì ken chặt. Ngun vấp phải một mô
những cây sa nhân mọc dày, xanh mướt dưới chân. Là cái gì đây?
Nguyên rùng mình. Gì đây, chẳng lẽ… Khơng phải như thế chứ, Ngun
mới đnag trên đường lên Điện Biên thôi mà, trận đánh còn chưa bắt đầu,
khẩu pháo ba bảy ly còn sau xe kia. Nguyên dùng tay cào nấm đất lên cào
mãi, cào mãi, chỉ có những con dế nâu sẫm làm tổ nháo nhác chỵ ra. Ai
đã nằm lại đây dưới đất sâu cùng những con dế ngày đêm oán thán? Là
ai?
Ông nội Nguyên xưa là một người thợ bạc nổi tiếng cả một vùng, nhưng
đến đời bố Nguyên, đời Ngun thì khơng sống nổi nhờ nghề, phải đi ở
cho nhà giầu. Nguyên sinh ra trong chuồng ngựa, lúc mẹ Nguyên mang
cháo ngô vào cho con ngựa cái mới đẻ ăn. Ơng Sềnh, ơng chủ của cả gia
đình Nguyên rất biết dùng người, không để cho bố mẹ Nguyên, cả
Nguyên nữa đói ăn, thiéu mặc, nhưng cũng không một khắc nào được
ngơi tay. Mẹ Nguyên, muốn vá cái áo cho chồng cho con cũng phải để
đến nửa đêm, khi nồi rượu cuối cùng đã xong. Dù vậy, chưa bao giờ
Nguyên nghĩ đến việc bỏ ông chủ, kiếm sống nơi khác, bố mẹ Nguyên
cũng vậy. Nguyên lớn lên có được sứ vóc hoan người d đỏ như màu lơng
của ngựa tía, vượt núi nhanh như gió và làm việc khơng biết mệt mỏi.
Nhưng dù thế nào thì Nguyên vẫn chỉ là thằng trai đi ở cho nhà giàu.
Phiên chợ nào, ngày hội nào Nguyên cũng chỉ là thằng dắt ngựa cho mấy
thằng con nhà Sềnh. Lúc chúng nó vào hội uống rượu, trêu gái thì
Ngun dắt ngựa đi ăn, rồi chải lơng cho mượt óng, mấy thằng uống rượu
say khướt thì Nguyên lại vác từng thằng đặt lên lưng ngựa, dắt chúng về.
Nguyên mới lớn, mới chỉ biết đến mỗi bữa ba bát mèn mén, một nồi rau
cải, căng bụng lại hùng hục làm.Chỉ cần thế thôi. Không bao giờ Nguyên
thấy được một tienég thở dài nuốt ngược của mẹ, cũng khơng bao giờ biết
có một ánh mắt cha nhìn phía sau mà xuội chân xuội tay khơng thiết làm
gì.
Nhưng có ột ánh mắt khác, dù chỉ nhìn qua khe cửa thơi, thì Ngun lại
biết. Đấy là ánh mắt của con gái út nhà Sềnh. Con Nhi. Con Nhi mười
lăm, kém Nguyên ba tuổi . Con Nhi giống mẹ, lúc nào cũng rụt rè, sợ sệt,
trong khi lẽ ra nó chẳng có gì phải sợ. Con Nhi da trắng hồng, mắt một mí
đen nhức, mơi thì đỏ mọng như chọc kim vào một cái là tứa máu ra ồ ạt.
Không hiểu sao cứ nghĩđến con Nhi là Nguyên lại nghĩđến cái kim khâu
đang nhìn Nguyên qua lỗ cửa sổ trong căm buồng tối om của nó. Thế nào
Nguyên cũng quay lại, mặc dù chả thấy gì ngồi lỗ cửa nhỉnh hơn bàn
tay, đen ngòm, nhưng thế nào Nguyên cũng quay lại. Con Nhi ít đi chơi,
thỉnh thoảng lắm, vào mùa xuân, sau tết, nó mới đi hội bên Tả Vài.
Nguyên cũng đi, vẫn là thằng dắt ngựa, nhưng là dát ngựa cho Nhi. Hai
đứa khong nói gì vói nhau, chỉ thỉnh thoảng nhìn nhau thơi, nhưng mỗi
lần đi trước ngối lại nhì Nhi thì hai chân Ngun lại khơng muốn theo ý
mình nữa chỉ chực khuỵu xuống.
Rồi cũng đến lúc Nguyên cầm được tay Nhi, thì cũng là lúc Nguyên
chuẩn bị trốn nhà Sềnh ra rưng theo Việt Minh. Nhi hỏi:
- Việt Minh là ai?
- Là những người sẽ đánh đuổi hết thằng tây mũi dài đi.
- Nó có súng mà.
- Việt Minh cũng có súng.
- Súng kíp săn thú ấy à?
- Không, súng to chứ. Nguyên nói bừa, mặc dù thâm tâm cũng không
dám chắc Việt Minh có súng to, và to chừng nào.
Nhi đưa cho Ngun hai đồng bạc có hình bà đầm.
- Cầm lấy, lúc nào cần thì có cái mà dùng.
Nguyên nắm chặt ba đồng bạc hoa xoè. Chưa bao giờ Nguyên, thậm chí
là bố mẹ Nguyên được sở hữu đến ba đồng bac thế này. Và hai đêm liền,
Nguyên thức trắng, đánh ba đồng bạc gthành một bỗ xà tích. Trong căn
buồng tối, chỉ cách một lớp vách gỗ và một lớp đất trình tường, Nhi hình
như khơng ngủ, thỉnh thoảng lại ho khẽ, Nguyên cũng ho lại trả lời.
- Nguyên đi đấy à?
- ừ
- Bao giờ về?
- Lâu không?
- Chức là không lâu đâu. Một, hai mùa hội xuân thôi mà.
- Thật không?
- Thật chứ. Việt Minh có nhiều khẩu súng to, rất to, thế này này, đuổi
thằng Tây khó gì.
- Cẩn thận nhé.
- ừ, cẩn thận để còn về với Nhi chứ. Nhi đợi được không?
- Sao lại hỏi thế? Không tin à?
- Tin chứ. Hỏi để biết chắc thôi. Có cái này cho Nhi này.
- Gì thế?
- Cái này, nhưng không được dùng đi hội đâu nhé, đợi Nguyên về mới
được dùng, cho mình Nguyên ngắm thôi.
- Ai dà, Nguyên lấy đau ra bạc đểđánh xà tích thế?
- Mẹ cho đấy, mẹ cho đểđánh xà tích cho vợ.
- Nói dối, mẹ làm gì có.
- Có chứ. Nhi à, ở nhà để ý đến mẹ Nguyên một tý nhé. Khoẻ không sao,
chỉ lo lúc ốm đau thơi.
- Biết rồi.
- Thế thì Ngun đi đây.
- Chờ một tí đã.
- Khơng gì cả, muốn đứng gần Ngun một lúc nữa thơi.
- Nói hay thế. Thật bụng không đấy?
- Thật mà. Nguyên à…
Nhi khóc. Ngun cuống lên khơng biết để chân để tay vào đâu, ơm lây
Nhi. Chỉ ơm thế, hít lấy hít để mùi thơm từ mái tóc đen nhức, một lúc rồi
buông ra, quay đầu chạy thật nhanh vào đêm tối mịt mùng.
Nguyên theo Việt Minh, được đi học chữ, được sang Trung Quốc học lái
xe. Suốt một năm trời, ăn một cái tết bên nước bạn, học xong được mang
một chiếc xe Mônôtôva, kéo theo khẩu pháo cao xạ ba bỷ ly về nước.
Nguyên đã khác quá rồi, gặp bao nhiêu người học được bao nhiêu thứ,
vậy mà không lúc nào Nguyên không nghĩ đến Nhi, đến những giọt nước
mắt nóng bỏng ngấm vào vai áo Nguyên đêm nào. Có người về gần vùng
biết đọc đâu, đọc hộ cho Nhi nghe nhé”. Hàng chục ngày lái chiếc xe có
khẩu pháo dài, nặng như đá phía sau lúc nào Nguyên cũng ước, giá mà
Nhi nhìn thấy khẩu pháo này, Nhi sẽ biết là ngày trước Ngun khơng nói
dối. Việt Minh có nhiều khẩu pháo to thế này thì sẽ đi được thằng Tây
chẳng khó gì. Đường về qua cửa khẩu Lạng Sơn, qua Thái Nguyên qua
Yên Bái, Sơn La, rồi mới lên Điện Biên, Nguyên đã gặp rất nhiều cái
qáun nhỏ nằm lúp xúp ven đường không người bán, thỉnh thoảng cũng
ghé vào, chỉ hi vọng hỏi được thông tin về Nhi.
Đại đội xe kéo pháo của Nguyên được giao nhiệm vụ bảo vệ đèo Lũng
Lô, một con đèo trọng yếu của chiến dịch. Nguyên đã không làm được gì
nhiều, khơng được đặt dù chỉ một quả đạn vào ổ, đó là việc của các pháo
thủ, nhưng Nguyên rất tự hào vì chính Ngun đã mang về được một
khẩu cao xạ ba bảy ly, loại pháo lần đầu tiên xuất hiện trong đội ngũ của
Nguyên đã mang được một khẩu pháo về, một khẩu pháo của Liên Xơ, nó
rất to, to lắm, Nhi khơng nghĩ tới được đâu. Nó có thể bắn từ rất xa, từ
dưới mặt đất chĩa lên trời, nhằm vào máy bay (máy bay ấy, Nhi biết
không) pùm một phát, máy bay nổ tung, cháy đùng đùng. Nhi à, hết chiến
dịch Nguyên sẽ dẫn Nhi đi xem một khẩu pháo như thế, thèm gì súng kíp,
súng kíp chỉ bắn nổi mấy con cầy hương thôi. Nhi nhớ đợi Nguyên về, rồi
một ngày đeo bộ xà tích cho Ngun xem, khơng được để thằng trai nào
nắm tay ở hội xuân đâu nhé. Sắp hết thằng Tây đến nơi rồi, Nguyên cũng
sắp về rồi.
Nhưng hết chiến dịch, quân ta đã chiến thắng giòn dã mà vẫn chưa về
được. Nguyên bị thương, xe Nguyên trúng một quả đạn, bốc cháy,
Nguyên bị bỏng nặng hỏng một mắt, nằm ở trạm quân y tiền phương một
thời gian rồi chuyển về tuyến sau. ở đấy Nguyên gặp một người, một
người mà trong những lúc đau đớn nhất cả về thể xác lẫn tinh thần,
Nguyên đều được người ấy chăm sóc, sự chăm sóc dịu dàng và ân cần
như mẹđối với Nguyên, và cịn như Nhi đối với Ngun.
Ngun khơng thể về ngay được, Nguyên nợ người ta, Nguyên cảm thấy
day dứt nếu cứ thế mà ra viện. nhưng Ngun cũng khơng làm gì được,
hình bóng Nhi khơng lúc nào rời khỏi suy nghĩ của . Cuối cùng, cô y tá ấy
bảo:
- Anh về đi, nếu khơng thấy cơ ấy, hoặc cơ ấy khơng cịn chờ anh nữa thì
quay lại đây với em.
Nguyên mừng quýnh, vội vã xách ba lô về quê.
- Cha con khơng cịn nữa rồi. Ơng ấy chờ mãi mà không thấy con về, sao
chiến thắng lau rồi mà mãi bây giờ con mới về hở Nguyên?
Mẹ Nguyên nắm chặt lấy cánh tay anh, nước mắt ròng ròng. Mẹ tưởng
cát, mẹ tưởng anh không thể về với mẹ được nữa. Cha Nguyên mất vì
một lần gùi thuốc phiện của lão Sềnh sang Sảng Pả bÞ cướp giữa đường.
Cái chết đột ngột của chồng làm mẹ Nguyên như cái cây bị đốn ngang
chừng, đổ gục, chết không chết được mà sống cũng khôg ra sống, từng
ngày, từng ngày một chỉ còn một điểm tựa duy nhất là hy vọng Nguyên
trở về.
Giờ thì Ngun đã về đây. Chính quyền cách mạng đã giải phóng tất cả
những kẻ hầu người hạ trong nhà lão Sềnh, cả nhà lão đã khăn gói ra đi,
bốn năm căn nhà rộng thênh thang được chia cho người làm, cả đất đai
ruộng nương, trâu bò đe ngựa cũng chia đều. Phải khó khăn lắm Nguyên
mới mở miệng được, hỏi mẹ về Nhi.
- Nó đi tìm con mà, hai đứa khơng thấy nhau sao?
- Làm sao lại phải đi tìm con, con bảo Nhi chờ ở nhà cơ mà.
- Ấy, khổ quá nên phải trốn nhà đi thôi.
- Ai làm gì Nhi, ai dám làm gì Nhi hở mẹ?
- Bố mẹ nó chứ ai. Nó gửi mẹ cái này, bảo khi nào con về thì đưa.
Mẹ đưa cho Nguyên một gói nhỏ. Nguyên mở ra, trong lớp vải chàm là
một nắm tóc. Cái đêm chia tay với Nhi dưới gốc cây lê nở hoa trắng muốt
lại hiện về…
Sau khi Nguyên đi, một tháng, hai tháng, mười tháng, một năm, khơng hề
có tin tức gì về, Nhi mỗi ngày một phổng phao xinh đẹp. bà Mẩy dạo này
hay ốm, có cái cục gì đó chồi lên ở bụng, rất đau, ăn không được, ngủ
cũng không được, gày xọp đi. Thỉnh thoảng nửa đêm lại thấy Nhi xuống
nhà ngang, lần đến giường bà, đưa cho một cục gì mềm mềm bằng đầu
ngón tay út. Bà nhấm nháp một tý là đỡ đau ngay. Sau này bà Mẩy mới
Mùa xuân năm ấy, chính là mùa xuân Nguyên được ăn tết ở nước bạn,
nhớ nhà buồn thiu suốt mấy ngày tết, bố me Nhi đón bà mối đến nhà.
Khơng ai nói câu nào với Nhi, chỉ đến khi bà mối về bố mới gọi lên, bảo
hai tháng nữa thì gả chồng. Mười sáu tuổi là lấy chồng được rồi, ba trăm
đồng bạc trắng thách cưới mà nhà trai không kêu ca gì, bảo cho thêm một
trăm nữa là bốn. Nó nhiều bạc trắng thế khơng gả thì gả cho ai. Nhi bảo,
nếu cứ bắt Nhi lấy chồng thì nhà trai chỉ được một xác người khơng thở,
khơng nói, khơng nhìn nữa thơi.
- Thật khơng? Bố Nhi hỏi.
- Thật. Nhi nói như dao sắc chém cột.
- Thế thì phải nhốt mày lại. Nuôi mày lớn chừng ấy thì phải được gả
chồng cho mày chứ, mày chết thi phí cơng, phí thóc của tao à.
Bố Nhi nhốt Nhi lại thật, cho người canh gác ngày đêm nữa. Nhi nghĩ,
nếu chết thì cũng khơng giữ được mình cho Nguyên, khi Nguyên về biết
Nhi đã chết thì Nguyên sống thế nào. Không chết, nhất định không chết.
Bị nhốt ba ngày Nhi bảo bố.
- Lấy chồng cũng được. Nhưng phải cho con một trăm đồng bạc.
- Mày theo chồng về nhà nó, bên ấy thiếu gì bạc trắng mà phải mang ở
nhà đi.
- Mình phải có tiền chứ, mai kia muốn đi chợ mua sám cũng phải xin tiền
chồng à, nó khơng cho thì làm thế nào, nó khinh thì làm thế nào?
Bố Nhi miễn cưỡng đồng ý. Vậy là chỉ cịn có ba trăm đồng, tính ra thì
ni Nhi bằng ấy năm vẫn khơng bị lỗ.
Ngày mai theo chồng về nhà, đêm nay Nhi lại lị dị xng nhà ngang Nhi
đưa cho bà Mẩy năm mươi đồng bạc, bảo bà cất đi, lúc nào cần thì có cái
Đúng đêm đầu tiên về nhà chồng, thằng chồng chưa kịp vào buồng thì
Nhi trốn mất.
Nhi đã đi tìm Nguyên, chỗ nào đang đánh thằng Tây thì Nhi đến. Đi đến
chùn chân, hỏi đến mỏi miệng vẫn khơng tìm ra anh Bàn Văn Ngun.
Vậy thì Nguyên đã gặp Nhi rồi. Nguyên đã nhìn thấy một mảnh vải thêu
chỉ đỏ vương trên vác nứa, lúc ấy Nguyên chỉ cảm thấy có gì rất quen
thuộc, nhưng giờ thì Ngun biết, đó là mảnh khăn vấn đầu của Nhi. Nhi
đã ở lại giữa rừng, dựng quán bán hàng ven đường bộ đội hành quân, hy
vọng gặp được Nguyên. Nhưng Nguyên đến muộn. Nhi nằm đó nhưng
khơng kịp nắm tay Ngun lần nữa, bộ xà tích bạc chưa được đeo trên
cạp váy lần nào còn giấu được trong hốc cột…
Rừng rậm đang cất lên khúc hát muôn thuở về sự hoang dã vĩnh cửu, chỉ
có con người là không chờ đợi được nhau. Tất cả ùa về trong Ngun,
dịng sơng sâu rất trong, núi rất cao và hai đêm dài Ngun cịng lưng
đánh xà tích bvạc. Năm tháng qua đi, căm lán nhỏ đã đổ sập vì mưa gió,
chỉ có Nhi là vẫn cịn đây, năm nào Nguyên cũng trở lại thamư Nhi, bộ xà
tích bạc vẫn còn lấp lánh sáng trong đêm, bộ xà tích này Nhi chưa dùng
lần nào, chỉ đợi đến khi Nguyên về, sẽ cùng Nguyên sang Sảng Pả đi hội
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Từ đây về nhà cịn phải đi bộ một qng xa nữa, cịn sớm, tơi ghé vào
một quán thắng cố. Chợ sang chiều sắp tan, quán vắng tanh. Chủ quán
vừa chùi hai tay đầy mỡ vào vạt áo vừa hỏi, mặt không ngẩng lên:
- Đến ăn muộn thế?
- Ừ, xe tỉnh vừa lên mà. Cho mình xin một bát nhé.
- Cũng chỉ còn một hai bát là hết. Đang định mang về cho trẻ con. Uống
rượu khơng?
- Một ít thơi...
Ngoắng muôi quẹt một cái dưới đáy chảo vét lên vừa xương thịt vừa nước
váng mỡ, đổ vào bát, rồi mặc kệ tơi xì xụp ăn uống, chủ qn xếp đồ vào
quẩy tấu. Tôi ăn được nửa bát thắng cố, uống hết nửa bát rượu, đột ngột
chủ quán hỏi:
- Này, về đâu thế?
- Ởđây thôi...
- Ở phố huyện?
- Ừ.
- Khơng nói thật với nhau rồi. Người Thài Phìn Tủng phải khơng?
Tơi giật mình, st gạt đổ bát thắng cố, căng mắt ra nhìn chằm chằm, một
lúc lâu vẫn chẳng thấy nét nào quen ở người đàn ông râu rậm trước mặt.
- Không quen đâu - Chủ quán mặt vẫn lạnh như ngâm nước - Biết biết
một tý thôi. Lâu quá rồi, không thấy lại nhau một lần, cũng phải nghĩ mãi
mới ra đấy.
Người phụ nữ địu đứa bé sau lưng vẫn lúi húi dọn dẹp từ nãy, nhễ nhại
mồ hơi bước ra ngồi, cắt ngang:
- Tơi đi lấy ít muối. Dọn nhanh lên, tan chợ rồi đấy.
Tôi bỏ dở bát thắng cố, lấy tiền ra trả. Nấn ná thêm:
- Vợ à?
- Ừ. Nó mới đẻ, con trai đấy - Chủ quán trả lời, không giấu giếm sự phấn
khởi, hỏi thêm - Có ngựa về khơng?
- Đi bộ thơi.
- Thế thì... đi nhanh nhanh, không lại ngủ giữa đường.
Ra khỏi quán, đi một đoạn, ngối lại tơi vẫn thấy người đàn ơng cịn đứng
nhìn theo. Khơng quen. Dứt khốt khơng quen tý nào. Tại sao người ấy
lại nhận ra mình? Tơi điểm mặt đàn ơng ở Thài Phìn Tủng, từng cái mặt,
dáng người lướt qua, chẳng thấy có ai giống thế. Ánh mắt kỳ quặc của
chủ quán cứ bám theo mãi như con vắt đói.
Mặt trời xuống nhanh. Hết đường nhựa, vào đường đất ngoằn ngoèo bám
trên triền dốc là thấy ngay cái lạnh ùa tới. Gió dưới vực sâu hun hút thốc
lên. Đúng là phải đi nhanh cho nóng người lên, cũng để không bị muộn
quá lại không nhìn thấy lối đi. Đàn ơng từ chợ về, uống rượu say ngủ
ngay giữa đường. Một quãng lại có một ông - mũ nồi văng ra bên cạnh,
há miệng ngáy hừ hừ, ngựa ngang qua quệt cả đuôi vào mặt.
Từ đây khơng nhìn thấy bản tơi. Phải đi mười một khúc đường vòng như
trước mặt mới về tới. Vừa đi vừa đếm ngược, đến vòng cua cuối cùng
mờ, xam xám. Mặt trời tắt là sương xuống, nhanh như chạy ra từ ống
thổi. Sương che kín hết những đỉnh núi cao, nhìn khơng thấy từng mỏm
tai mèo nhọn hoắt...
Khắp vùng cực bắc này, nhìn phía nào cũng chỉ thấy núi. Núi đá cao
ngang mây trời, nhiều như sao trên dịng sơng Ngân Hà, ngửa mặt đếm
mỏi miệng, mỏi cổ không xuể. Người già trong bản nói, đàn ơng sinh ra
từ núi, cịn đàn bà sinh ra từ suối. Suối ít hơn núi nên đàn bà ít hơn đàn
ơng. Các bản khác con gái lớn lên lo muộn chồng, riêng bản tôi, con trai
mới lo muộn vợ. Mười bảy mười tám tuổi chưa lấy được vợ là muộn rồi.
Đứa con trai nào nhà nghèo, không đủ bạc trắng mang vợ về là phải đi ở
rể. Thằng đàn ông ở rể khổ hơn đứa đàn bà đi làm dâu nhiều. Trong nhà
khơng dám nói to, ra đường khơng dám ngẩng mặt nhìn hàng xóm. Thế
mà vẫn vơ sốđàn ông bản tôi phải đi làm rể.
Tôi gặp Mai đang gùi một gùi đất ngược lên núi. Lâu q rồi mới nhìn
thấy nhau. Xưa, hồi cịn học ở Trường Dân tộc nội trú huyện, Mai là bông
hoa sắp nở rực rỡ nhất trường. Đang học dở thì bố mất, mẹ gọi Mai về lo
việc nhà cùng mẹ. Vậy là bỏ học. Giờ thì ởđây, lấy chồng, đẻ liền ba đứa
con bị xã phạt tính ra mất mấy quẩy tấu ngơ vì vượt kế hoạch. Nhà Mai
có ba mảnh nương nằm trên ba sườn núi quay mặt vào nhau, nhà ở dưới
thung lũng, mặt cịn lại là đường cái, thỉnh thoảng có xe ô-tô chạy qua,
hai đứa con Mai lại líu ríu cõng nhau chạy ra xem, ngã sấp ngửa. Các em
Mai đã đi lấy chồng hết, nhà chỉ có một đàn ông là chồng Mai, con rể cả.
Hai vợ chồng ngày lên rừng, tối về hầm ngô nấu rượu, phiên chợ Lũng
Phìn cho ngựa thồ ra bán, bỗng rượu để nuôi lợn.
Nhà tôi cách nhà Mai một đoạn, tắt qua đường ô-tô, đi vừa mỏi chân thì
tới.
Tơi rời khỏi nhà năm mười sáu tuổi. Trước ngày tôi đi, ông nội dắt ra gốc
ra những đứa như mày. Lúc mày chui ra khỏi bụng mẹ, Mặt trời đang
mọc, đến đúng đỉnh núi ấy. Ngọn núi đẻ ra những đứa khó bảo, lớn lên
thích làm theo ý mình. Thì thơi, cho mày đi. Nhưng đi đâu thì đi, khi nào
đau chân, khi nào không thấy con đường thẳng, con đường sáng thì phải
nhớ lối mà quay về...
Ngọn núi ấy, mỏm nhọn của nó không đủ chỗ cho một con chim lớn đứng
chân. Cái mỏm nhọn hoắt, bé như đầu sừng một con sơn dương oai vệ
vươn lên, khoe khoang sự dũng mãnh.
Có một huyền thoại. Thuở mảnh đất này mới chỉ có rất ít người Mơng
sinh sống, có lần trời làm đại hạn, chỉ có cái nóng và cái khát ngự trị. Một
con rồng ở trên cao, vén mây nhìn xuống, thấy cảnh người Mơng thiếu
nước vơ cùng cực khổ đã móc một con mắt của mình ném xuống. Con
mắt rồng đậu trên một đỉnh núi nhọn hoắt và tạo thành dịng nước mát vơ
ngần. Nhưng vùng lân cận có một bọn muốn chuyển dịng nước về chỗ
chúng, khơng được chúng đã trồng ngay chỗ dịng nước chảy ra một lồi
cây độc, lá cây rụng xuống, ai uống phải dòng nước ấy sẽ ngộ độc mà
chết. Hai anh em nhà nọđi nương về gặp dòng nước ngọt uống lấy uống
để và đã chết ngay đầu nguồn nước. Họ chết đi hóa thành đơi chim muôn
sắc, ngày đêm quanh quẩn bên nguồn nước, nhặt sạch lá độc mỗi khi
chúng rụng.
Nhưng rồi, năm này qua năm khác, trời vẫn làm hạn hán. Có lẽ con rồng
đã già, đã chết, và con mắt của nó dưới trần gian cũng khơng còn sức lực
để tạo ra dòng nước nữa. Tôi và Mai lớn lên trong nỗi khát khao một
nguồn nước tràn đầy, trong vắt, tắm được trong nó, bơi được trong nó và
hai bà mẹ không phải suốt ngày trời mới giặt xong một quẩy tấu quần áo
cho cả nhà.
nước trời... Thỉnh thoảng, khơng cịn tý nước nào để dùng, tôi gùi thùng
qua hai khe núi sang nhà Mai. Mẹ Mai lại chia cho một ít nước để dành
trong bể đá đầu hồi.
Nghỉ đông năm ấy, chúng tôi từ trường nội trú về nhà. Có người đến hỏi
xin Mai làm dâu. Chiều hơm trước, đuổi bị qua thung lũng gặp tơi Mai
bảo:
- Tao sắp lấy chồng rồi, bỏ học thôi...
- Không tiếc à?
- Tiếc chứ, nhưng nhà khơng có người làm, phải lấy nó về mang bò lên
nương...
Mai dắt bò quay đi một đoạn, ngoái lại, mắt ầng ậng nước ngập ngừng:
- Chứ à, sao không bảo bố mẹ sang nhà tao?
Năm ấy cả tôi và Mai đều vừa tuổi mười bốn.
Khơng có một dịng suối nào chảy qua bản tôi. Nước chảy ngầm dưới đá,
người già bảo thế. Thế nên đàn bà Thài Phìn Tủng có ở trong nhà hay đi
ra khỏi nhà chỉ nhìn trên mái tranh có khói bếp bay lên hay khơng mới
biết. Đàn bà Thài Phìn Tủng nói ít làm nhiều, khơng mấy khi buồn cũng
khơng có mấy khi vui. Cúi mặt từ mờ sáng đến đêm khuya. Cái lưng cong
mãi.
Tôi đứng ở sân nhà Mai, nhìn thấy rõ ngọn núi nhọn nhất trên dãy núi
chắn ngang chia Thài Phìn Tủng thành hai nửa. Ngọn núi nhọn, từ chân
lên đến đỉnh mọc kín tam giác mạch. Mây giăng lưng chừng, hoa tam
giác mạch nở rộ, cuối mùa hoa ngả sang mầu hồng sẫm, lẫn vào mây mờ.
Cây tam giác mạch chịu rét giỏi, mùa này chỉ mình nó mọc được. Mảnh
nương ấy mẹ đẻ mới chia cho vợ chồng Mai.
- Cịn ít thơi. Vụ này trồng ngơ giống mới nhưng lại trồng trên nương, cây
ngơ ra bắp ít lắm. Người đủ ăn thì bị ngựa nhịn. Bị ngựa ăn thì người
thiếu.
- Thế thì làm thế nào, xin cứu đói nữa à?
Im lặng. Mai tiến đến gần cái quẩy tấu để ở góc nương, trong ấy đang
phát ra tiếng trẻ con khóc. Đứa út của Mai đấy, mới bốn tháng, trơng nó
bé như cái phích nước. Mai quay người, vạch áo nhét vú vào miệng con.
Đứa bé nín bặt, chỉ cịn tiếng mút chóp chép.
Có tiếng người lao xao dưới đường mịn. Người bản đi chợ Lũng Phìn về,
có người đi mấy ngày mới về. Chồng Mai cũng thế. Mai bảo đi từ ba hôm
trước.
- Sao phiên chợ mà Mai khơng đi cùng chồng? Say rượu thì ai dắt ngựa?
- Nó đi bộ thơi mà.
- Đi bộ thì cũng phải có vợ có chồng chứ?
Mai lại im lặng, thở dài. Lâu lắm mới khẽ khàng:
- Nó đi làm ăn rồi, xa lắm. Chắc Tết cũng không về. Đứa út này đã được
đặt tên đâu. Nó muốn con trai, đẻ nữa thì khơng có gì nộp phạt...
Từ ngày chồng đi, Mai khơng xuống chợ Lũng Phìn ngày nào. Sắp Tết
rồi, trên gác bếp đã thấy chuối khô phơi đầy một giàn. Mai bảo năm nay
thêm trẻ con nhưng bớt người lớn, chắc cũng chỉ làm ít bánh thơi. Trên
nóc bếp lị, cạnh chảo cám đang sơi sùng sục, có một cái mi gỗ. Cái
mi bọn trẻ con rửa bát bữa trưa quên để lại. Cái muôi bằng gỗ pơ mu là
tôi làm cho Mai. Ngày bé, lúc nào Mai cũng ước có một cái muôi thật to.
Tôi chỉ thấy buồn cười, ước gì khơng ước lại đi ước cái mi. Mãi đến
lúc Mai bảo sắp lấy chồng tôi mới làm cho Mai, nhớ ánh mắt có gì như
vào ngón tay trỏ. Vết sẹo vẫn cịn đây. Từ ngày bố mất, nhà khơng có đàn
ơng, cái mi gỗ cũ mịn vẹt một góc cứ phải dùng mãi...
Đứa bé vẫn nằm trong quẩy tấu, đặt cạnh bếp, khơng khóc, cịn hé hai con
mắt ra nhìn tơi chằm chằm. Mẹ nó ra ngồi nhổ một gốc rau cải, chuẩn bị
làm cơm tối. Hai đứa chị hí húi tẽ ngơ. Thấy tơi nhìn cái mũ nồi treo trên
tường đất, đứa lớn bảo:
- Của bốđấy. Đi ban đêm mà, quên cả mũ.
- Có biết bốđi đâu không?
- Biết.
- Đi đâu?
- Người bản đi chợ huyện về, bảo gặp ởđấy.
Mai mắng con:
- Trẻ con biết gì, đừng nói linh tinh.
Mai quay mặt ra cửa, dụi mặt vào tay áo. Tôi chợt nhớ ra cái quán thắng
cố...
- Mai à, có đi chợ huyện sắm Tết khơng?
- Có gì cần mua đâu mà đi - Tiếng Mai nghèn nghẹn, ngập ngừng - Chứ
à, về đi thôi. Sắp tối rồi đấy, về khơng em gái lại tìm. Mai lại sang chơi...
- Ừ mình về...
Tơi định hỏi, Mai không biết thật hay là Mai nói dối bạn. Mai sợ bạn
thương hại Mai. Tơi cịn định kể lại chuyện ăn thắng cố ở chợ huyện
trước khi về Thài Phìn Tủng, nhưng nhìn cái mặt cúi gằm, tóc xù ra ngồi
vành khăn lại không mở miệng được.
Phải cúi người mới khơng chạm đầu vào khung cửa. Khói quẩn trong nhà
mạch, hoa lê đang bật bông trắng. Hoa lê càng trắng thì trời càng lạnh.
Trời chiều mùa đông u ám, không rõ trời, không rõ đất. Mây trên cao tràn
xuống, tam giác mạch chỉ còn thấy mờ mờ, hòa lẫn trong sương. Núi
cũng đã khơng cịn nhìn rõ nữa... Tơi ngối nhìn vào bếp, nói nhanh,
chẳng biết mẹ con Mai có nghe rõ khơng:
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Lâu rồi, dễ đến hàng năm trời nàng khơng có mặt trong một đám đông
nào. Suốt thời kì mang thai, sinh con, cho đến khi con bé đã được sáu
tháng, nàng không đi đâu đến nơi đông người. Nàng cảm thấy không
được tự nhiên cho lắm với một cái bụng to. Khi mang thai, nàng hay ốm,
ln ln mệt mỏi vì mất ngủ, khơng mặc được thứ gì đèm đẹp một tí.
Khi mới sinh con, mẹ chồng nàng bắt nàng kiêng khem đủ thứ, ba tháng
mới được ra khỏi phòng, tai vẫn nút bông và đầu thì bịt khăn. Trong
gương, nàng xanh xao và mỏng như một tờ giấy, trái ngược hẳn với cô
gái mập mạp trước đây. Nhưng giờ thì con bé đã được sáu tháng, đã biết
giơ tay về phía mẹ mỗi khi nàng đến gần.
Hơm nay cơ quan có một cuộc họp lớn, nhiều khách mời quan trọng. Sếp
bảo nàng và hai cô nữa đón khách ở cổng. Nàng trang điểm nhẹ, phớt vài
nhát chổi hồng hồng lên má, và mặc bộ juyp ngắn trên đầu gối màu nâu
tây. Nàng xoay nhẹ trước gương. Chồng nàng vẫn ngủ vùi trong chăn,
đêm trước anh thức đến gần sáng trước máy tính. Dạo này chồng nàng
hay thức khuya. Cuộc sống của hai người từ khi có con bé khơng thay đổi
mấy, ngoại trừ việc nàng hay để nó nằm vào giữa, ngăn đơi cái giường,
và anh thì ln nằm ẹp vào trong vì sợ đè vào con. Mọi chuyện cịn lại
vẫn bình thường. Nhưng một lần gần đây, nàng mở email của chồng, thấy
có một địa chỉ lạ, địa chỉ ấy chiếm hai phần ba số thư ở trong box. Nàng
ngần ngừ một lúc rồi quyết định tắt máy. Nàng có thói quen tơn trọng
chồng, ngay cả tin nhắn trong điện thoại của anh nàng cũng không bao
giờ đọc. Nhưng sau đó, tất cả những đêm chồng nàng ngồi lì trước máy
nàng đều khơng ngủ được. Dịng địa chỉ trong box luôn ln hiện lên
được, đó là một cái tên con gái. Là ai? Ai mà gửi nhiều đến thế, có
chuyện gì khơng nói được thành lời mà lại phải gửi mail? Hộp thư yahoo
ấy chính nàng đã lập cho chồng, lấy ngày sinh của nàng làm password,
chồng nàng biết rõ như vậy, tại sao họ vẫn liên lạc với nhau qua hộp thư
ấy? Là vì anh tin nàng không bao giờ mở, hay thực sự trong mỗi mail ấy
chẳng có gì đáng giấu diếm? Chồng nàng làm ở một cơ quan thiết kế xây
dựng nên thường xuyên phải sử dụng đến máy tính, nhưng hàng đêm anh
ấy ngồi trong phòng làm việc để check mail hay làm việc thật sự thì nàng
khơng biết. Có lần nàng đã pha một cốc sữa, định mang vào phịng anh
đột ngột mà khơng gõ cửa, để xem thực ra thì anh đang làm gì, nhưng
nàng đã cầm cốc sữa nóng và đứng mãi ở cửa mà không dám vào. Vì
nàng cảm thấy xấu hổ, thấy có lỗi với chồng vì khơng tin tưởng anh, hay
vì nàng sợ phải đối diện với một sự thật khủng khiếp nào đó phía sau
cánh cửa kia, cũng không biết nữa. Lần thứ hai, nàng lại mang một cốc
sữa. Nàng bưng cốc sữa nóng bỏng , bốc hơi nghi ngút, thơm ngậy từ
trong bếp ra bằng đôi tay lẩy bẩy. Việc gì phải run lên thế này, khơng
việc gì phải run lên thế này, nàng lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại. Nàng không
gõ cửa mà chỉ đẩy thật khẽ, tay nắm trơn nhẵn không hề phát ra tiếng
động. Chồng nàng đang ở kia, trên chiếc ghế xoay màu ghi, nhưng anh
đang gục xuống bàn, ngáy khe khẽ. Vẻ như anh đã thiếp đi vì quá mệt
mỏi, bàn tay phải vẫn cịn đặt trên con chuột máy tính. Màn hình đang ở
chế độ chờ, những quả tim màu đỏ nối v?i nhau như một con rắn bò
ngoằn ngoèo, chốc chốc lại tách rời ra, nhảy loạn xạ. Nàng đứng tần ngần
sau lưng chồng rồi khẽ đặt cốc sữa xuống bàn, lấy một quyển sách đậy
lên trên rồi rón rén bước ra. Đêm ấy, nàng vẫn không ngủ được. Con bé
úp mặt và ngực nàng nhưng thỉnh thoảng lại quơ tay ra sau tìm ba nó.
Nàng phải để một cái gối vào đó. Nàng yêu chồng, yêu con, yêu gia đình
nếu chồng nàng có bồ, nàng cũng chẳng đau khổ mấy, cũng chẳng lồng
lên mà ăn tươi nuốt sống kẻ ấy như người ta. Nàng nghe và chỉ cười.
Nàng chưa bao giờ đặt mình trong tình huống ấy để mà biết rằng mình sẽ
phản ứng như thế nào.
Hơm qua, đứa bạn phải đứng đón khách cùng nàng hôm nay đã rủ nàng đi
mua cái gì đó mà mặc. Và nàng đã mua được bộ juyp này đây, quả thực là
nó rất hợp với nàng. Sinh con xong nàng đẹp hẳn lên, da dẻ mịn màng và
cơ thể thì mềm mại, vịng eo hơi nở một chút nhưng vẫn tròn trịa lắm.
Nàng ngắm mình trong gương và thở dài khi tiếng ngáy của chồng bất
chợt to hơn bình thường. Con bé đã dậy, nằm trong chăn thị cổ ra, đơi
mắt hấp háy nhìn nàng và miệng thì tủm tỉm cười, cánh tay ba nó vịng
qua làm thành một cái cũi, con bé khơng thể bị ra ngồi mà lăn xuống
sàn nhà được. Hơm nào cũng thế, nàng đi làm thì con đã dậy, cịn bố thì
vẫn ngủ, tay ôm chặt lấy con. Nàng chui vào giường, thò mặt vào và
thơm con, con bé cố rút hai cánh tay trong chăn ra và ôm lấy mặt nàng.
Nàng bảo: “Ngoan nhé, mẹ đi làm đây”. Con bé méo miệng chực khóc,
nàng phải cù vào gáy nó cho nó cười lên, đưa cho nó một cái thiếp mời
màu đỏ. Con bé của nàng rất dễ chơi, cái gì màu sắc sặc sỡ mà vị vún
được là nó thích.
Cái thiếp mời này, cơ dâu và chú rể của nó đã cưới tuần trước. Hôm ấy,
cả nhà nàng đi dự. Con bé thích lắm nhảy chồm chồm trên xe suốt chặng
đường từ nhà đến khách sạn. Nhưng đến nơi, vừa ngồi vào mâm thì nó dở
chứng buồn ngủ, lè nhè khóc và rúc vào ngực nàng thè lưỡi tìm bầu sữa.
Không lẽ vạch áo giữa bàn dân thiên hạ, nàng đành bế con đứng dậy, tìm
vào một góc vắng, cho nó ăn. Con bé ăn xong, ngủ tít thì tiệc cũng đã gần
tàn, nàng đi ngang chỗ chồng ngồi, hích vào anh một cái ra hiệu rồi bế
con ra cửa chính. Nhưng chồng nàng có vẻ chẳng hiểu cái hích của nàng
qua cửa kính thấy rõ là anh uống tới ba cốc bia. Không biết anh đã nhiễm
thói hư tật xấu từ bao giờ, trước kia, giỏi lắm anh chỉ uống nửa cốc là
cùng. Anh hay đi nhà hàng nên quen rồi chăng? Chỉ có hay nhậu nhẹt mới
uống với cái kiểu rất sành điệu thế kia. Chết thôi, thế mà hơm nào anh về
muộn nàng cũng xót đứt cả ruột vì thương chồng vất vả. Hố ra anh đi
nhậu, nhà hàng, rồi quán bar, anh đi với những ai có trời mới biết. Và
ngẫu nhiên, dòng địa chỉ trong box lại hiện lên mồn một. Nàng nhìn con,
nó đang ngủ say, miệng vẫn tóp tép, hai má hồng căng như muốn nứt ra,
nó vẫn rất khối được ngủ trong tư thế bế ẵm, đi rong thế này. Hai mắt
nàng bắt đầu nóng lên, áo nàng xộc xệch vì vừa vén lên cho con bú, một
bên ngực áo ướt sũng vì sữa chảy, nàng thấy mình nhếch nhác ghê gớm,
thế mà cịn phải ơm con đứng chầu chực ở cửa như ăn xin thế này. Nàng
nhìn vào trong, hi vọng anh cảm thấy ánh mắt của nàng mà quay ra,
nhưng không hề, anh vẫn cắm cúi ăn. Kì lạ, làm như bị bỏ đói mấy ngày
khơng bằng. Đồ tồi, đồ tham ăn tục uống! Nàng cáu tiết rủa thầm rồi rút
điện thoại di động gọi tắc xi.
Hai giờ chiều, anh xô mạnh cửa lao vào nhà như một gã điên. “Em làm
sao thế, để anh tìm khắp nơi thiếu nước đào cả thành phố lên, chỉ sợ hai
mẹ con ngã chỗ nào....” Anh gào to, vừa gào vừa nới cà vạt. Nàng mặt
nặng như chì “Anh đi cả giày vào nhà rồi đấy”. “Em... chồng nàng tức tối,
nghẹn cả giọng - em thật quá quắt. Khơng dưng lại bỏ anh ở lại, tí tởn ôm
con về trước”. “Anh bảo ai tí tởn?” . “Là em đấy, chính là em đấy. Em
chán ngồi xe máy, thèm ơ tơ rồi chứ gì. Anh biết, anh kém cỏi, chẳng biết
làm ra cả núi tiền như người ta, mà em thì...”. Thơi đi, anh học thói xiên
xẹo từ bao giờ thế” .” Nhưng... tại sao... tại sao em bỏ anh ở lại mà không
nói câu nào?”. “Anh đi mà hỏi cái máy tính của anh ấy” - nàng buột
Hôm sau, hôm sau nữa hai vợ chồng vẫn mặt nặng mày nhẹ với nhau.
Mọi lần anh vẫn làm lành trước nhưng lần này nàng chờ mãi vẫn chẳng
thấy anh đả động gì. Trừ những lúc nựng con, cịn lại thấy anh là lại thấy
bộ mặt lầm lì, nặng như đeo đá. Một hôm, nàng quyết định đến cơ quan
anh trong giờ làm việc, chỉ để xem anh có ở đó khơng, hay đúng như
nàng dự đốn, lại nhậu nhẹt ở đâu. Anh đang trong phòng làm việc, trước
máy tính, áo khốc vắt sau thành ghế, sơ mi trắng, cà vạt ghi Hàn Quốc.
Lúc nào anh ta cũng tươm tất sạch sẽ từ đầu đến chân, chả ai bảo đã có
vợ, khơng nhờ mình thì nhờ ai, tối nào mình cũng phải chọn sẵn cho anh
ta từ cái cà vạt, là phẳng phiu, thắt sẵn, treo cùng với áo sơ mi, ấy thế mà
lúc mình được nhìn thấy anh ta thì chỉ có quần đùi với áo may ô. Thật bất
công. Anh ta diện đẹp, đến cơ quan và lại làm bạn với máy tính thế kia,
lưng sắp gù rồi, mắt thì cận lồi ra đến nơi, lại check mail cho Đỗ Lệ Hiền
chăng? Cô gái ngồi ở chiếc bàn gần cửa, nãy giờ mải nghe nhạc hay gì đó
bằng hai chiếc tai nghe nhỏ xíu nút vào lỗ tai, giờ mới nhận thấy nàng
đang thập thò. “Chị cần gặp ai?” Nàng bối rối: “Khơng, tơi nhầm phịng,
xin lỗi”. Và thế là nàng ra về, trong lòng đầy ứ lên một cảm giác rất khó
chịu.
Khi nàng đi xuống cầu thang khu chung cư, vào nhà xe lấy xe, mấy bà
hàng xóm béo mập đi tập thể dục về mồ hôi mồ kê đầm đìa nhìn theo
nàng thèm thuồng, một bà hỏi: “Làm thế nào mà nhanh gọn người lại thế
hở cơ?” Nàng cười, khơng nói gì. Mấy ánh mắt đàn ông ngồi bên ấm trà
sớm cũng đuổi theo nàng. Vậy mà, chồng nàng lại khơng nhìn thấy nàng
thế này. Cái địa chỉ trong box lại hiện lên, dolehien, Đỗ Lệ Hiền là ai? Là
ai thế mà hôm nào cũng check mail cho chồng nàng? Cô ta bao nhiêu
tuổi, làm nghề gì? Xinh đẹp khéo léo hay xấu xí vụng về, chắc là khơng
thể xấu xí vụng về, vì chồng nàng khơng thích loại người ấy. Mỗi khi
Cơ ta ăn mặc có đẹp khơng? Nàng kể từ khi có con cũng luộm thuộm tuỳ
tiện hơn thật, đi làm cịn đỡ chứ ở nhà thơi thì tiện gì mặc nấy, thống
mát, thoải mái là được.
Khách khứa nườm nượp suốt buổi sáng, họp xong, một số khách được
mời đi nhà hàng. Nàng cũng không thể vắng mặt trong bữa tiệc đó, vì
nàng là kế tốn, phải chịu trách nhiệm chi tiêu. Nàng rất sợ những buổi
tiệc tùng thế này, mệt mỏi kinh khủng mà có khi tan tiệc về nhà lại phải
ăn thêm mì tơm. Cả chủ cả khách có ba mươi người, nàng hầu như khơng
ăn, chạy qua chạy lại xem cịn thiếu gì, cần bổ sung gì thì gọi phục vụ.
Trong lúc chạy đi chạy lại đó, có tiếng sếp gọi. “Đây là anh Hải, Phó
giám đốc mới của Công ty X, anh ấy muốn mời cô một ly”. “ Em cảm ơn,
nhưng xin lỗi anh, em hiện không được uống rượu”. “Sao thế? Sợ về
chồng phát hiện ra à?”. “Dạ,... khơng phải thế, tại vì em...”, nàng định nói
tại vì nàng cịn đang cho con bú, phải kiêng rượu tuyệt đối, nhưng ánh
mắt Hải đã ra lệnh cho nàng. Nàng cầm ly rượu màu hồng nâng lên, chạm
vào ly của Hải. Lại vẫn ánh mắt ấy làm bàn tay nàng run lên. Nàng tự bảo
mình, này, bình tĩnh lại đi chứ, gái có chồng, một con rồi, sợ gì ai?
Nhưng cũng lúc ấy, lại một giọng nói khác bảo, này, Đỗ Lệ Hiền là ai?
Đỗ Lệ Hiền cũng chả khác gì anh chàng Hải này đâu nhé. Và nàng uống
hết nửa ly rượu. Rượu nhẹ, vị ngọt, chỉ làm nàng hồng đôi má. ánh mắt
Hải cịn chạy theo nàng, đi đến đâu, ngối lại bàn tiệc nàng cũng gặp ánh
mắt ấy. ánh mắt làm bỏng lưng nàng.
Buổi chiều, nàng về nhà trong trạng thái chếnh chống, khơng hiểu do dư
vị của ly rượu màu hồng hay vì cái gì khác, nàng phải chạy xe thật chậm
vì sợ ngã hoặc đâm sầm vào ai đó trên đường. Có cái gì đó như là sự đắc
thắng ẩn hiện trong tâm trí nàng. Bộ juyp nâu tây vẫn cịn phẳng phiu lắm
và cặp má nàng thì hồng hào hơn cả buổi sáng. Về đến khu chung cư,
nhìn xuống. Hơm nay quả thực là trơng nàng rất khác, chính vì thế mọi
người trong chung cư mới nhìn nàng, và có khi lại còn bàn tán nữa. Nghĩ
đến việc mọi người đang xoi mói bàn tán về mình, và có thể cả về chồng
mình nữa, nàng rất khó chịu, đi nhanh qua sân, lên cầu thang cũng nhanh.
Nàng vào nhà, đóng cửa, tháo giày cao gót và cởi ngay bộ juyp ra, mặc
bộđồ ngủ nhàu nhĩ vào người, thật thoải mái, thật dễ chịu. Nàng chuẩn bị
sang nhà trẻ tư đón con và ra chợ xép mua thức ăn ln. Đi ra cửa, nàng
liếc vào gương, lại là nàng đây rồi, tuy má vẫn còn hồng nhưng quần áo
thì đã trả lại cho nàng cái vẻ ngày thường.
Trong lúc đóng cửa, nàng nhìn thấy tấm thẻ internet rơi trên sàn, có lẽ là
chồng nàng mới mua thẻ, tấm cũ đã hết rồi chăng? Cầm tấm thẻ trên tay,
nàng ngần ngừ rồi bước vào phòng làm việc của chồng, mở máy tính,
nhấn nút modem, vào mạng, mở mail... đúng lúc đó thì chng điện thoại
reo, chồng nàng đã đi làm mà quên điện thoại di động ở nhà, nàng mở
máy. “A lô, xin lỗi chị, tôi muốn gặp anh Kiên”. “Dạ, nhà tôi đi làm chưa
về, quên điện thoại ở nhà anh ạ, anh có nhắn gì khơng?”. “ Thế ạ! Phiền
chị nhắn anh tôi là Hiến ở Sài Gịn vừa ra, lúc nào anh về thì gọi cho tơi”.
“ Anh vừa nói anh tên gì ạ? “. “Dạ, Hiến chịạ”. “Có phải Đỗ....” “ Vâng,
Đỗ Lê Hiến, ra anh đã nói chuyện với chị, vợ chồng anh chị tuyệt thật
Nàng muốn hét lên, hét thật to, muốn ôm lấy cổ chồng và giúi anh xuống
ghế nệm, chỉ một tí nữa thơi, tí nữa thơi thì nàng đã uống cả ly rượu chứ
không phải một nửa, và con bé tối nay mà quấy vì khơng được bú thì anh
cứ liệu với nàng.
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Tơi đứng lại giữa lưng chừng núi, đúng ở chỗ con đường mảnh như sợi
chỉ bị ngựa dẫm vỡ mất một miếng chừng non bước chân. Sau lưng, chỉ
hơi dựa vào là vách núi đang nhuốm màu cỏ úa. Trước mặt là khoảng
không mênh mông. Dưới chân là nương ngô, hết nương ngô là vực sâu
hun hút. Ngô đã vào mùa thu hoạch từ lâu nhưng vẫn chưa được thu về.
Cây nào cũng bị bẻ ngọn, phơi những bắp dày hạt nần nẫn. Tranh thủ trời
vẫn cịn vài ngày hanh khơ người ta để ngơ ngồi nương cho khơ kiệt,
đến lúc bẻ về nhà thì từng mảnh áo ngồi của nó đã mỏng tang, nhẹ bỗng.
Dưới chân nương ngô dài hun hút kia, tinh mắt lắm mới nhìn thấy vài mái
nhà bàng bạc nhỏ xíu nép dưới những tán lê già. Mỗi khi đứng ởđây nhìn
xuống Sủng Thài tơi lại có cái cảm giác của lần đầu tiên đến đó. Khơng
giống ai cả, tơi lăn xuống Sủng Thài. Chính là vì cái vết chân ngựa này
đây, cái vết chân ngựa làm cho con đường nhỏ ngoằn ngoèo bám lấy lưng
chừng núi bị vỡ ra một miếng.
Hôm ấy, vừa cầm quyết định trong tay, tôi nhằm con đường dốc đỏ trước
mặt leo lên. Đang loay hoay khơng biết tìm đường đi thế nào thì một
người đàn ông gùi cái chảo lớn sau lưng vượt qua. Tơi gọi với: “Bác gì
ơi, cho cháu hỏi một tí” Người đàn ơng quay lại: “Cơ giáo phải khơng?” -
“Sao bác biết?” - “Chẳng cơ giáo thì có ai lên đây làm gì. Đi đâu thế?” -
“Cháu lên Sủng Thài, bác cho cháu hỏi đường” - “ừm, về luôn đi thôi” - “
Sao lại thếạ?” - “Bao nhiêu người lên rồi lại về, làm khổ trẻ con, học một
tí lại bỏ, học thêm tí nữa lại bỏ, có đứa học được mấy chữ, đi lấy chồng,
đẻ hai đứa con rồi mới có thầy giáo lên dạy tiếp” - “Nhưng cháu ở lại,
hồi rồi tôi cũng theo được người đàn ông ấy qua mấy con dốc dài dằng
dặc. Trời đã tối, nhìn khơng rõ nữa. Người đàn ơng bảo tơi đưa ba lơ cho
ơng ta, rồi nhìn vào cái chảo mà theo. Cái chảo mới, trắng nhờ nhờ, tôi cứ
theo đấy mà bước. Lên dốc, xuống dốc, lại lên, lại xuống... Đến chỗ này,
chính chỗ này đây, đúng lúc cái chảo quay ngang, tôi vừa nghe tiếng
người đàn ông bảo cẩn thận thì huỵch! Chân tơi đã dẫm đúng vào vết
chân ngựa. Tối tăm mặt mày, đau, tức, ù tai, tôi lăn lông lốc, lâu tới mức,
vừa lăn vừa nghĩ, không biết bao giờ mới dừng lại được. Cho đến khi
đâm sầm vào một bụi lau ở chân nương ngô, rúc đầu vào đấy, chân huơ
huơ bên ngoài. Nằm im một lúc, không biết mình cịn sống hay không
đây, tôi phải cắn vào môi một cái, đau nhói. Đâu đó xa lắm, tít trên cao,
người đàn ông gọi ồi ồi: “Cô giáo ơi, ở đâu thế?” Tiếng gọi ấy khó tả lắm,
vừa lo lắng, vừa hoảng sợ, vừa thương, da diết đến thắt cả ruột. Suốt
quãng đường dài đi cùng nhau chưa lúc nào tôi nghe thấy ông ấy gọi bằng
cái giọng lạ như vậy. Tiếng gọi như sắp khóc: “Cịn nói được khơng cơ
giáo ơi, trơi đi tận đâu rồi?”. Về sau này tôi thỉnh thoảng lại nghĩ, nếu như
một ngày nào đó cận kề với cái chết khơng vì bệnh tật, tuổi tác, mà nghe
thấy tiếng gọi ấy có lẽ tơi khơng thể bỏ mà đi được. Tiếng gọi đã khản đi.
Tôi vẫn nằm im trong bụi, gọi với ra. “Cháu ở dưới này, tít dưới này cơ”.
Nói xong thì khóc, khóc ồ. Khơng biết khóc vì cái gì, vì sợ, vì tủi thân
hay cảm động, hay tất cả những cái đó cộng lại. Cho đến lúc ông ấy tụt
xuống, lôi ra khỏi bụi lau, tơi vẫn chưa thơi khóc.
Từ chỗ ngã xuống đến Sủng Thài chỉ còn một quãng ngắn. Người đàn
ông chỉ cho tôi cái chuồng bị đầu tiên, bảo lẽ ra thì tơi phải lăn vào đấy.
Già làng Sủng Thài nhìn tơi, chân đi đất, mặt mũi xây xước, áo rách lỗ
Từ đấy tôi ở lại Sủng Thài, không hề về xi lần nào, có đi xa nhất thì
cũng chỉ là xuống huyện lĩnh lương, ra chợ mua vài thứ đồ dùng. Đã
tưởng tất cả những buồn vui đã lùi xa và có thể sống mãi ở dưới chân
những ngọn núi cao hàng ngàn mét so với mặt nước biển này. Ngay cả
khi đã cầm quyết định chuyển trường về gần huyện lị tơi vẫn cứ nghĩ rằng
mình khó có thể rời khỏi nó. Nhưng giờ thì đứng ở đây, chỗ con đường bị
vỡ ra một miếng này, nếu bước qua thì sẽ không trở lại nữa, đúng là nếu
bước qua nó thì sẽ khơng bao giờ trở lại nữa... lại thấy chỉ có một bước
chân thơi mà chẳng dễ dàng gì.
*
**
Hàng tháng trời tơi khơng sao mở được lớp. Già làng bảo, cứ ở chơi đi,
chán thì về, trẻ con ở đây khơng thích học chữ nữa đâu. Nhưng tơi khơng
về, có về cũng chẳng biết đi đâu. Huy đã lên một điểm trường cách huyện
lị ba mươi cây số về phía tây, giáp biên giới. Huy nhắn nhe, cố lấy vài
năm rồi tìm cách về gần nhau. Có Huy ở bên cạnh suốt mấy năm học sư
phạm tôi đã nhận ra một điều, con người ta khó có thể sống đơn độc
được. Những ngày dài đằng đẵng ở Sủng Thài tôi nhớ Huy vô cùng, nhớ
gương mặt lúc nào cũng rầu rĩ của Huy, nhớ hai bàn tay gầy, trắng xanh,
nhớ cả màu áo sơ mi xanh đậm. Lúc nào Huy cũng mặc áo tối màu, trông
Huy càng gầy guộc. Khi ở gần Huy tôi không tưởng tượng được sự xa
cách lại làm tôi nhớ Huy đến thế. Nhớ chứ không hẳn là cần, giả sử hai
đứa dạy cùng một điểm có khi tơi lại chẳng cần đến Huy.
Sủng Thài không cho trẻ con đi học cịn vì một lẽ, sau vụ thu hoạch chưa
được một tháng, cả bản đã hầu như không cịn đủ ngơ để dành đến vụ sau.
Ngơ giống mới cho hai ba bắp một cây, bắp nào cũng to, nhiều hạt.
Nhưng thu ngô về mừng chưa được bao nhiêu đã phải chứng kiến từng
kiến, ở đâu kéo về không ai biết, chui lên gác bếp, khói hun ngày hun
đêm cũng không sợ, cắn một lỗ xuyên qua mấy lớp áo vào bên trong bắp
ngô, ăn bằng sạch. Nửa tháng sau vụ thu hoạch hầu hết các nhà ở Sủng
Thài đã khơng cịn ngơ ăn. Già làng sống hơn tám mươi năm ở mảnh đất
này chưa bao giờ thấy con mọt về nhiều đến thế. Lúc trước, mọt chỉ thỉnh
thoảng ăn vài quả đậu để làm giống chứ chưa động đến bắp ngô nào.
Tết đến cũng như không, cả làng yên ắng như đang ngủ, cả trẻ con cũng
không dám chạy chơi. Tôi không sao về được, không hiểu vì sao khơng
thể bỏ đi được. Huy lên với tôi trước khi về tết, xẻ lại một nửa tiền tết
phịng mới cho, lẳng lặng ra về. Tơi chạy theo, giúi mớ tiền vào túi cóc ba
lơ, nhìn Huy xuống dốc nhanh đến chóng mặt.
Chỉ tại cái ngô giống mới thơi, hạt nó mềm q nên con mọt thích ăn.
Ngơ răng ngựa người Sủng Thài vẫn trồng trong hốc đá bao nhiêu năm
nay có bị con gì ăn bao giờ. Thu ngơ về, bóc một hai lớp vỏ, buộc túm
mười, mười lăm bắp làm một, xiên qua cây sào, gác lên gác bếp. Cứ để
thế một năm, hai năm, bồ hóng bám đen sì sì, lúc cần lấy xuống tẽ vẫn
vàng ươm, cắn không vỡ. Người Sủng Thài bảo vậy.
Cả Sủng Thài buồn như có đám ma trong làng.
Qua tết, sang xuân, hoa lê bật bông trắng muốt khắp rẻo đất dưới chân
núi, đất trên nương cũng mềm ra. Lại gùi phân bò trộn với tro bếp lên
nương, bỏ vào hốc đá, vùi hạt ngô xuống. Lần này trồng ngô giống cũ,
vượt qua mấy ngọn núi sang bên Sủng Trái vay giống để trồng. Chỉ có hai
nhà ở Sủng Thài tiếp tục trồng ngô giống mới, đấy là nhà trưởng bản và
nhà bố Sài. Bố Sài là người đàn ông đã đưa tôi từ huyện lên Sủng Thài.
Già bản bảo tơi: Mày cịn trẻ người lắm cơ giáo ạ, cái chữ thì biết nhiều
khuyên bà con tiếp tục trồng ngô giống mới, chỉ cần thay đổi cách bảo
quản là khơng lo gì nữa.
Phải một vụ ngô nữa tôi mới mở được lớp học. Trưởng bản chung với
ơng Sài đắp một cái lị nung chum vại. Ngô thu về, phơi khô, tẽ sạch, cho
vào chum, bịt kín, con mọt chỉ biết bám bên ngồi mà khóc. Ngơ giống
mới năm ấy lại được mùa hơn năm trước, người lớn trẻ con hai nhà này
bận tíu tít. Sủng Thài được một phen đứng nhìn, xt xoa khơng nghe lời
cơ Phương góp ý. Vậy là mở được lớp. Vì cơ giáo nó khơng chỉ biết chữ,
cịn biết cả trồng ngơ nữa.
Lớp của tôi đứa bé nhất lên bốn, đứa lớn nhất mười bốn, cố học một năm
rồi lấy vợ. Đứa lớn nhất ấy là thằng Sài, con bố Sài chết vợ. ở Sủng Thài
hàng tháng trời tôi mới biết bố Sài chết vợ. Vợ ông chết lúc đang đau đẻ
đứa thứ ba. “Thầy mo đuổi mãi con ma không chịu đi, cứ đứng đầu
giường. Sang ngày thứ hai thì chịu, bảo đành phải để con ma mang cả
người lớn lẫn đứa trẻ trong bụng đi. Bố khơng lấy vợ mới vì sợ mẹ kế
khơng thương được con mình” . Sài kể. Sài cịn một đứa em gái đã mười
hai, bao giờ Sài mang vợ về thì em gái mới bắt đầu dệt váy áo đợi người
đến đón đi.
*
**
Sài đưa tơi đi đường tắt xuống huyện lị, mang theo một con ngựa để lúc
về nó gùi sách vở. Ngang qua bể nước, Sài dừng lại tìm cách múc nước
cho ngựa uống. Tôi cũng tranh thủ lấy khăn ra rửa mặt. Sài ngồi bệt
xuống phiến đá đám đàn bà vẫn dùng để vị váy. Nhìn tơi, bảo:
- Cơ giáo à... Sài định nói gì rồi ngập ngừng, nói một mình - đẹp thế nhỉ.
- Chân. Cái chân cô giáo ấy, đẹp như không phải chân. Cô giáo cho tao
xem một tí.
- Lại nói tao rồi, phải xưng em chứ.
- ừ. Cho xem một tí.
Tơi nhìn thẳng vào mặt Sài, nó quay đi, lúng túng, khép lại hai vạt áo tà
pủ, giấu diếm bộ ngực lép kẹp. Mười bốn tuổi nhưng lao động nhiều,
chậm lớn, trông Sài chỉ bằng đứa em út của Huy là cùng. Tôi đứng dậy:
- Đi thôi kẻo muộn.
Tôi đi trước, Sài tụt lại đằng sau. Xuống huyện, lấy sách vở xong, tôi và
Sài ghé qua chợ huyện. Sài mua một cái gương giấu vào cạp quần. Tơi
nhìn thấy, hỏi:
- Mua cho vợ sắp cưới à?
- ừ. Nó nhận thì thành vợ.
Lớp học của tơi lủng cà lủng củng, học thì ít, cãi cọ, khóc lóc, cười cợt thì
nhiều. Khơng thể nào dung hồ được mười bảy đứa lớn bé. Tơi chia ra,
một a và một bê. Một a từ tám tuổi trở xuống, một bê từ chín tuổi trở lên.
Vẫn không ổn. Lại chia một a là con gái, một bê là con trai. Nhưng cứ giờ
một bê học là lại có một đứa con gái ở một a chạy đến, ghé mắt qua cửa
sổ, bọn trẻ trong một bê láo nháo cả lên. Cuối cùng, lại dồn chúng về làm
một.
Già bản bảo:
- Thương cơ giáo thì cho chúng nó đi học thơi, biết mấy cái chữ cũng
khơng làm bị đẻ nhiều con hơn được.
Đã sắp đến kì nghỉđơng, chỉ cịn vài buổi nữa là phải thi học kì. Huy lên
- Bên ấy mấy thầy ăn chung bếp với một cô y tá ở trạm xá xã, cô ấy nuôi
được gà, trồng được rau nên cũng đỡ. Huy nói khơng được tự nhiên lắm.
- Vui nhỉ.
- Vui gì. Góp gạo thổi cơm chung thơi mà.
- Có chung thứ gì khác nữa khơng?
Huy im lặng. Dỗi, ra về.
Tôi không ngủđược. Sự đến rồi đi của Huy làm tôi không ngủđược. Huy
định nói gì đó với tơi mà khơng cất được thành lời. Có gì mà khó nói thế.
Biết Huy vẫn rụt rè nhưng với tơi thì chẳng có lý gì mà khơng nói thẳng
ra. Tơi xách xơ ra suối, lấy nước về sáng mai rửa mặt, nấu mì tôm.
Sáng hôm sau, mở nắp cái xô nhựa đựng nước ngoài sân, cái ca chạm
đánh cạch. Nước đã đóng băng thành một lớp mỏng, phải dùng chuôi dao
đập mạnh một cái mới vỡ ra. Trời trở rét nhanh đến thế chứ. Có lẽ bên
Huy còn lạnh sớm hơn. Sương mù mịt phủ kín hai phần ba lớp học, chỉ
nhìn thấy phần dưới nền, trơng khơng ra hình thù gì. Kiểu này phải đẩy
nhanh mấy bài tới rồi cho thi sớm thôi.
Lớp vắng hoe. Lèo tèo có bốn đứa ngồi bốn góc. Đứa nào cũng kẹp chặt
hai tay vào giữa đùi. Tôi phải quay về, cầm sang cây đèn dầu, đóng kín
cửa lớp lại cho đỡ gió.
- Hơm nay vắng q nhỉ. Có em nào biết vì sao các bạn nghỉ nhiều thế
khơng? - Tơi hỏi.
Khơng đứa nào trả lời, chỉ có tiếng xt xoa khe khẽ. Hỏi thêm lần nữa,
bốn cái đầu vẫn cúi gằm, im như thóc. Tơi tiến đến gần May, đứa trò gái
lớn nhất lớp, ngồi dưới cùng:
- May, có nghe cơ hỏi khơng?
- Em có biết vì sao các bạn nghỉ học không?
- Biết.
- Sao không trả lời cô?
- Không biết.
- ô hay, biết rồi lại không biết, là sao?
- Biết nhưng khơng nói được.
- Này, có gì mà khó khăn thế em, cứ nói cơ nghe xem nào.
May lúc lắc cái đầu rối bù. Tôi chạnh lòng. Bao nhiêu lần định gọi con bé
lên, chải cho nó mớ tóc mà qn. Nhìn mới nhớ. Mẹ con bé cịn bận với
bốn đứa em của nó, chắc chưa chải cho nó bao giờ.
Thà, đứa trị bé nhất quay xuống:
- Tại cơ giáo xấu. Bố mẹ bảo cô giáo xấu nên không cho đi học nữa. Bốn
đứa này cũng chỉ học hôm nay nữa thôi...
- Phải đấy. Học nốt hôm nay rồi để cô giáo về huyện thôi - đứa thứ ba lên
tiếng.
- Khơng được nói thế. Cô giáo không làm chuyện xấu thế đâu mà... - Đứa
thứ tư hét lên. Vừa hét vừa nhảy lên đứng trên ghế. Đó là thằng Sài - Tối
hơm qua tao ngủ với bố từ lúc tắt đèn, làm sao bố đi gặp cơ giáo ngồi
guồng nước được. Có đứa nói xấu cơ giáo rồi, khơng được tin thế!
Ba đứa còn lại cúi gằm, im lặng. Chúng đang bối rối quá, không biết tin
ai nữa, ngay cả cô giáo - người mà chúng vẫn nghĩ làm gì, nghĩ gì đều
đúng, thì giờ khơng biết có tin được nữa khơng. Tơi chống váng như bị
ai tát thật mạnh vào mặt, rát bỏng hai bên má, một cơn đau thắt dội ngược
lên. Ba đứa học trò len lén ra khỏi lớp, ra đến sân là chạy thục mạng. Chỉ
cịn tơi và Sài. Sài vẫn đứng trên ghế, nước mắt ròng ròng, hai tay túm lấy
năm học, chỉ để dành đến lớp mới mặc, nhưng cũng đã đứt cúc, hỏng
khố, nó phải túm lại bằng một sợi dây lạt. Tôi cũng đã định sẽ khâu lại
cho nó, nhưng chưa kịp làm. Sài hỏi trong nước mắt:
- Cô giáo nói thật đi, cơ có làm chuyện ấy khơng?
Tơi khơng nhìn được vào mắt Sài. Biết trả lời nó thế nào đây. Tối hơm
qua, đúng là tối hôm qua tôi đã đi ra suối, xách theo cái xô lấy nước.
Nhưng múc nước xong, buồn q nên khơng muốn về ngay, hình bóng
Huy xuống dốc rất nhanh chốn đầy tâm trí. Tơi lang thang ra chỗ cái
guồng để khô, mốc trắng. Lúc ấy, một người đàn ông đi từ rừng xuống, là
bố Sài. Bố Sài xách một túm gà rừng chừng ba bốn con gì đó, gỡ dây, đưa
cho tôi một con, bảo: “Cô giáo cầm lấy về mổ thịt”. Tôi không từ chối,
nhận lấy con gà. Định quay về ln thì bố Sài níu lại, hỏi chuyện thằng
Sài ở lớp, rồi xoay sang chuyện trời đất năm nay rét sớm, cô giáo đã có
đủ củi đun mùa đơng chưa, mai cho thằng Sài mang đến vài cái gộc cây,
ủ cho ấm. Bố Sài cịn muốn nói gì nữa nhưng tơi bảo phải về soạn bài.
Chỉ có thế mà hố thành một cuộc hẹn hò bên cạnh cái guồng nước. Con
gái Sủng Thài đến tuổi lấy chồng chỉ ở trong nhà dệt váy áo, đợi người
đến leo cột nhà, chui qua cửa sổ vào buồng, ưng ai thì theo người ấy. Vậy
mà tơi thì dám hẹn hị với một người đàn ông của làng, người ấy lại đã
từng có vợ, thế thì thật khơng ra gì. Khơng xứng làm cô giáo của trẻ con
nữa rồi.
Sài không đợi câu trả lời của tôi, xách quần chạy ra khỏi lớp.
Không thể như thế được, tơi phải giải thích với làng. Tơi vứt vội cặp sách
vào phịng, xỏ đơi dép rọ, qua suối. Nước suối đang bốc hơi mù mịt, rất
ấm. Tôi vào nhà đầu tiên. Nhà ơng Lìn, bố chồng của chị gái con bé Mai.
Ơng Lìn cũng có hai đứa con đang theo học lớp của tơi. Bà Lìn đẻ nhiều,
ngồi năm mươi vẫn cịn một cái bụng to tướng nữa, qua tết sẽ đẻ. Mấy
cửa, ngay lập tức có tiếng chân chạy rầm rập trên sàn, bồm bộp xuống
cầu thang, rồi lống cái đã có một cành lá xanh gài vào then cổng gỗ.
Cánh cổng khép kín lại ngay trước mặt tơi. Tơi khơng kịp nhận ra ai vừa
gài cành lá xanh, ơng Lìn, bà Lìn, hay đứa con dâu cũng đang chửa vượt
mặt. Tôi đành phải quay đi. Nhưng điều bất ngờ nhất là tất cả các nhà
trong làng, trừ nhà Sài và nhà trưởng bản, khi tơi đến đều có một cành lá
xanh chìa ra, gài trên then cổng gỗ.
Tôi vào nhà trưởng bản. Trưởng bản đang ngồi bên bếp chuốt một mảnh
sừng trâu làm chuôi dao. Trưởng bản vẫn cắm cúi làm, không ngẩng lên:
- Vào ngồi đi.
Tơi ngồi xuống. Nhìn cái mặt lành lạnh của trưởng bản chẳng biết bắt đầu
như thế nào. Trưởng bản hay đi ra ngoài, suy nghĩ cũng thơng thống hơn
người trong làng, nhưng cịn trẻ, nói gì cũng phải nhìn lên nhìn xuống
chán chê.
- Trẻ con bỏ học hết rồi trưởng bản ạ - tôi bắt đầu.
- Có biết tại sao chúng nó bỏ khơng?
- Tôi định đi hỏi người lớn nhưng không nhà nào cho vào, nghe trẻ con
nói thì bực mình thật.
- Chúng nó nói đúng khơng?
- Khơng đúng. Làm sao mà đúng được.
- Thế ra cả làng nói oan cho cơ giáo à.
- Khơng phải thế. Người làng mới chỉ nhìn thấy thơi chứ không hiểu bản
chất trưởng bản ạ.
- ừm, nhìn thấy thế nào thì bảo thế ấy...
Tôi phải bặm môi lại, cầm cái cặp cốđập thật mạnh cho mấy cục than đỏ
đầu gộc củi rơi xuống, nước mắt chỉ trực trào ra.
- Ai bảo mình khơng tin cơ giáo nào - trưởng bản vẫn thủng thẳng - Mình
tin cơ giáo một nửa, tin làng một nửa.
- Tơi có người yêu rồi, trưởng bản cũng biết mà. Bao giờ chuyển công tác
ra huyện tôi sẽ cưới.
- Nhưng cịn cái người chết vợấy thì sao?
- Chả sao hết. ông ấy chỉ là phụ huynh học sinh của tơi thơi.
- Cơ giáo ghét nó à?
- Khơng ghét. Có gì mà ghét ơng ấy.
- Thế thì dễ rồi.
- Dễ thế nào?
- Cô giáo chịu về nhà Sài không?
- Sao lại vềđấy?
- ầy, về làm mẹ nó ấy mà. Về đấy là xong chuyện rồi, chả ai nói gì nữa.
Bố Sài mới bốn mươi tuổi thơi. Đàn ơng bốn mươi cịn như cây sồi trên
núi cao...
Tôi đi như chạy ra khỏi nhà trưởng bản. Lịng dạ ngổn ngang trăm mối.
ơng Sài ấy, sống lùi lũi như cái bóng, một mình nuôi con, râu ria lúc nào
cũng bờm xờm, mặt buồn rười rượi. Mỗi lần tôi đến xem bọn trẻ học
hành thế nào, ngồi tranh thủ khâu cho chúng cái áo, cái quần rách lại lùi
lũi xách dao ra rừng. Thỉnh thoảng thằng Sài mang đến một con gà, một
miếng thịt dúi, vài củ măng, khúc củi, chẳng nói chẳng rằng. Đêm qua,
lúc đưa con gà cho tơi bố Sài cũng khơng nhìn, nhưng lúc tơi quay lưng
Tơi có thể bỏ quách mọi thứ đấy, xách va li về huyện, chẳng ai trách cứ gì
được. Nhưng nỗi xót xa vì sự ngờ vực ẩn hiện trong ánh mắt của mấy đứa
trẻ làm tôi không chịu nổi. Nếu tơi bỏ về, khơng biết chúng cịn ám ảnh
đến bao giờ.
Tôi sống trong tâm trạng bất ổn suốt một tuần lễ. Đương nhiên là lớp học
đóng cửa. Trời ngày càng lạnh, sáng ra những hạt sương rớt xuống từ mái
tranh đã đóng băng trong đêm, nối thành từng chuỗi dài. Ngày rất ngắn,
tuyệt nhiên khơng có nắng, nhưng với tơi lại dài lê thê. Vẫn chưa có nhà
nào chịu mở cửa cho tơi vào. Tơi nằm n trong chăn, nhìn đồng hồ đã
tám rưỡi, tầm này lẽ ra lớp học đã bắt đầu được nửa tiếng. Chân tay mình
mẩy rã rời vì nằm nhiều, lại chẳng ăn uống gì. Tơi sợ mình sẽ chết nếu cứ
nằm như thế, nên quyết định dậy, đi lấy nước vềđun mì tơm.
Mở cửa, tôi gần như vấp phải một đứa bé đang ngồi gục đầu ở cửa. Là
May. Tôi nhận ngay ra mái tóc rối bù của nó. Cái đầu rối ngẩng lên:
- Cô giáo.
- May, sao lại ngồi đây.
- Chờ cô giáo, từ tối hôm qua. May sợ cô giáo ốm, nằm luôn không dậy
nữa. Như thế thì... Mắt con bé ầng ậng nước. Tôi lôi con bé vào.
- Vào đây với cơ đã nào.
Tơi rót cho nó một cốc nước. Nước trong phích nhưng đã nguội ngắt.
May cầm cốc nước định uống, nghĩ thế nào lại đặt xuống bàn. Hai bàn
chân khơng dép nứt tốc, mốc meo, dị dọ vào nhau dưới nền đất. Hồi lâu,
con bé ngẩng lên, nhìn tơi một thống rồi quay đi rất nhanh.
- Cơ giáo, có về huyện khơng, có bỏ Sủng Thài khơng?
- Không. Không muốn đâu - Con bé trả lời vội vã - Cô giáo đừng đi. Cô
giáo đi thì May cũng bỏ Sủng Thài thơi.
- Tại sao thế?
- Tại... cô giáo à, May đã nói với người lớn chuyện cơ giáo đứng ở cạnh
cái guồng.
Tơi sững sờ. Chẳng có cớ gì để con bé này rình mị, rồi xun tạc, nói xấu
tơi cả. May thở dốc, tiếp:
- Em đã nói với người lớn.
- Để cơ hỏi đã nhé. Em nhìn thấy gì?
- Thấy cơ với ơng Sài. Ơng Sài đưa cho cơ con gà.
- Gì nữa?
- Khơng gì nữa.
- Vậy em nói với người lớn thế nào?
- Nói... cơ nắm tay ơng Sài. Cơ ơi, tại vì May giận cơ, May khơng tốt,
May nói sai cho cơ rồi. Tại thằng Sài thích cơ, nó bảo phải có một người
như cơ nó mới chịu lấy làm vợ. Nó cịn mua gương bảo để dành tặng cô
nữa. Thằng Sài ấy, từ lúc mới đẻ ra bố nó đã bảo với bố May là lớn lên
cho hai đứa làm vợ chồng. Sang năm là May lấy chồng được, thằng Sài
cũng thế, đã làm lễ cấp sắc rồi mà.
Con bé nói một thơi một hồi. Tơi định thanh minh:
- Nhưng cơ...
- Cơ khơng thích nó, cơ chỉ thương anh em nó thơi, cơ sắp bằng tuổi mẹ
nó rồi mà. May sai rồi, May nói xấu cơ với người lớn, làng mà biết được
Con bé khóc nức nở. Vậy ra nỗi sợ hãi bị ném xuống sơng đã lấn át tất cả
những tình cảm trái ngược trong nó. Tơi ơm May vào lịng, nó dúi cái đầu
bù xù vào ngực tơi. Con bé vẫn chưa thơi nói:
- Cơ có bỏ về huyện không? Về huyện xa lắm, bỏ về là không quay lại
được đâu...
Vậy là tôi trở lại lớp học, lại đông đủ không thiếu một đứa, thậm chí cịn
thừa ra vì lắm đứa cõng cả em đến lớp. Trong làng không ai đả động đến
chuyện vừa xảy ra nữa. Người làng khơng quen nói lời xin lỗi, chỉ biểu
hiện bằng cách tối tối thắp đuốc qua suối đến chơi với cô giáo, mang cho
quả bí, mớ rau, mấy con gà con...
*
**
Gió vẫn thổi thơng thốc, từng đụn sương lớn nặng trĩu bịđẩy đi, trôi trong
khoảng không như một dịng sơng sâu hun hút. Phòng giáo dục gọi tôi
xuống, đưa quyết định điều động về một xã gần huyện. Lâu rồi tôi không
gặp Huy, tuần trước về huyện gặp Hạnh, đứa bạn thân nhất dạy cách tôi
nửa ngày đi bộ. Hạnh bảo: “Huy bỏ dạy rồi, về huyện mở quầy bán thuốc
tây. Lạ không?”. Khơng. Khơng có gì lạ cả. Chỉ lạ là, tơi chẳng cảm thấy
gì hết, khơng buồn, cũng khơng đau đớn như trước đây vẫn tưởng.
Một buổi tối, bố Sài đến, lại mang tới một con gà rừng nữa. Ngồi mãi,
khơng nói chuyện gì, tơi phải gợi:
- Trong nhà cịn nhiều ngơ, nhiều thóc khơng bác Sài?
- Nhiều. Có mấy con lợn to mổđược rồi, cảđàn dê nữa.
- Thế thì ăn tết vui rồi, bác nhỉ.
- ừm, tết mà. Trẻ con thích lắm đấy. Cơ giáo à...
- Cịn ở Sủng Thài lâu khơng?
- Lâu chứ. Mới được mấy năm thôi mà.
- Có ở hẳn được khơng?
- ở làm sao được. Sủng Thài khơng có chỗ cho người Kinh đâu.
- Muốn ở thì được thơi mà.
- Thật thế à?
- Thật. Muốn thì được thôi.
Tấm lưng vâm váp như một con gấu đi ra cửa, mang theo cả hơi ấm
hoang dã ra khỏi căn bếp tin hin, tự dưng tôi thấy hiu quạnh vô cùng.
Giờđứng đây, nhìn xuống Sủng Thài nằm tít dưới sâu kia, lại nhớ đến lúc
Đỗ<i> Bích Thúy </i>
Truyện ngắn của Tác giả thấm được cái “hồn của núi” để sáng tác nhỏ
này tựa như một câu chuyện dân gian vùng cao đẫm khơng khí sương giá.
Lâu nay thường gặp những truyện ngắn viết đề tài miền núi theo lối
“miền xuôi” hoặc “giả miền núi”. Hy vọng với khả năng quan sát, cảm
nhận tinh tế của mình, cây bút mới Đỗ Bích Thuý sẽ tạo được sự chú ý
của nhiều bạn đọc sau truyện ngắn này.
Mẹ tôi xếp gạo, muối vào gùi, bảo: “Mang lên cho thằng Dìn”. Dìn là em
trai tôi, năm nay mười sáu rồi nên cho nó đi thay một vụ ong trên Phạ
Lấu. ở Tả Chng nhà nào cũng ni ong. Cứ đến vụ ong là cả bản vắng
ngắt vắng ngơ, cịn tồn đàn bà với trẻ con, đàn ơng lên rừng canh ong
hết.
Trời tối hẳn tôi mới tới chỗ Dìn. ở rừng, mặt trời lặn là sương xuống, đè
nặng trình trịch trên tán cây. Dìn dựng lều dưới gốc cây sồi già ngồi bìa
rừng, ong xếp thành dãy ngoài chỗ trống. Sương phủ xuống rất nhanh, chỉ
một lúc đã khơng nhìn thấy tổ ong đâu. Sương tạt cả vào lều. Ngoài mái
lều che tạm bằng lá cọ sương rơi xuống thành giọt.
Dìn vừa chất lửa to đốt cơm lam vừa kể: “Đêm qua có con gì vào ngủ
cùng mà em không biết, sáng nay thấy cịn một túm lơng dính ở cổ”.
“Mày ngủ có quay mặt vào lửa khơng?”. “Lúc đầu thì có, sau mỏi q lại
quay ra ngoài. Nhưng làm sao cơ?”. “Lúc ngủ phải quay mặt vào lửa thì
mới khơng lo ma dại bắt đi”. “Thật thế à?” - giọng Dìn đã bắt đầu run.
“Chứ cịn gì! Ma dại muốn bắt ai thì phải đi vào mồm người ấy mới
xuống bụng lôi ruột ra được. Thế mà lúc ngủ ai cũng mơ được ăn được
mặt vào lửa, nhỡ có há mồm ma dại cũng khơng dám đi qua lửa để vào”.
Dìn run thật sự: “Thế thì hơm qua ma dại đến tìm em rồi. Chắc tại em
không mở mồm nên nó chưa vào đấy thơi”. Nhìn quanh quất ra ngồi
bóng đêm mịt mùng, Dìn hầu như im lặng cho đến lúc đi ngủ. Biết tôi hay
doạ mà khơng lần nào nó nghĩ ra.
Rừng đêm hoang vu. Đầu tháng, trăng chỉ nhú lên mờ mờ chốc lát rồi lặn
mất. Lẫn trong tiếng gió là tiếng nước trườn êm ái trên đá cuội. Mỗi bản
có một con suối riêng, suối nào mang nước về bản ấy. Người già bảo
ngày xưa, lúc con người sống chung với nhau một nơi thì nguồn nước
không phải chia năm sẻ bảy ra thế. Nhưng sau này anh em, con cháu đông
quá phải chia ra, dắt díu nhau chuyển nhà chuyển bản, có khi xa nhau cả
ngày đường. Xa lâu quá thì quen cũng thành lạ, cái gì cũng muốn giành
lấy cho mình, kể cả nguồn nước. Thế là suối Phạ Lấu về Tả Choóng, suối
Nậm Thào về Nậm Thào, suối Sán Thúng về Tả Chải... chỉ còn chung
nhau mỗi cái đầu nguồn...
Đá đỏ làm cho nước như có màu đỏ. Lá rừng rụng xuống cũng ra màu đỏ.
Một đứa bé gái đầu tóc ướt sũng; hai cánh mũi đỏ lự phập phồng, tay
xách ống bương to tướng lò dị đi tới. “Này, lấy nước làm gì sớm thế?”.
“Cháu lấy cho mẹ”. “Mẹ cháu là ai?”. “Bác không biết đâu”. “Biết đấy.
Ai ở Tả Choóng bác cũng biết mà”. “Mẹ cháu khơng ở Tả Chng. Mẹ
cháu ở trên đỉnh Tả Khâu”. “Sao lại ở tận trên ấy?”. Tiếng đứa bé bất
chợt lạc đi, nghe xa xơi như tiếng gió: “Mẹ cháu nằm trên ấy còn rét,
chưa ai phải lo lên nương, xuống đồng nên hội nào cũng đông. Đám con
trai chưa vợ thằng nào cũng cắp sáo vào nách, mặt đỏ bừng bừng từ sáng
sớm đến tối mịt, lân la chỗ này chỗ kia, bắt quen con gái người ta. Bãi Tả
Díu rộng thế, tồn người là người, va vào nhau là quen, đưa sáo lên môi,
đã thành vợ tôi nếu như sau đấy vài hôm, bàn tay hai đứa còn chưa nguội
hơi ấm của nhau, tôi không gặp Lử trên đường dắt ngựa thồ mật ong
xuống huyện. Lử rút dao khỏi bao, đặt lên cổ con ngựa của tơi, ngọng líu:
“Mộ tra mùa o nứa mà cú khô lái đựa e gá ta là vợ đô. Đồ á rác” (Một
trăm mùa ong nữa mày cũng không lấy được em gái tao làm vợ đâu. Đồ
áo rách). Mười năm trước, lúc cả tôi và Lử còn chưa thuộc hết lối lên
rừng, tôi đã từng xui Lử đút con ong bò vẽ vào mồm mà mút. Nhà Lử
giàu nhất Tả Chng, bạc chơn đầy dưới mấy chục cái cột nhà. Cậy thế,
Lử coi khinh đám bạn cùng lứa, có cái gì cũng chơi một mình. Chơi một
mình nên mới khơng biết ong bị vẽ mà đốt thì người lớn cũng lăn ra ốm
mấy ngày liền. Vừa đút con ong vào mồm, Lử đã trợn ngược mắt lên, lăn
đùng ra, chỉ một lúc đã đầy một mồm lưỡi. Tôi chỉ khoái được một lúc rồi
sợ. Sợ quá, bỏ trốn lên lều canh nương mấy ngày liền. Lử đã ngọng càng
ngọng thêm. Từ ấy, cứ anh em tôi ngang qua là Lử xuỵt chó, thế là lại
đánh nhau.
Vậy mà tơi cịn muốn lấy em gái Lử làm vợ mình. Làm thế thì khơng
được rồi. Nhìn mặt nhau cịn nhổ nước bọt thì làm sao gọi anh em với
thằng Lử được. Năm sau Mây lấy chồng. Nhà chồng Mây ở Tả Khâu.
Ngày Mây mặc váy áo đẹp leo dốc lên Tả Khâu, tơi cũng ngược dịng Phạ
Lấu, đến nơi Mây vẫn ngồi cho nước mắt chảy ròng ròng theo dòng nước.
Nước đã trôi đi rồi, cả nước mắt của Mây cũng thế. Nhưng hình bóng
Mây vẫn cịn, vết chân Mây cịn in trên vạt cỏ tím, sợi chỉ màu trên dây
lưng Mây còn mắc ở bụi cây gai...
Đứa bé gái vén váy cúi xuống dịng nước múc đầy một ống bương, ngẩng
lên nói thêm: “Trời lạnh quá, cháu rắc đầy hạt cỏ mà không thấy mọc.
Phải có nước ở đầu nguồn Phạ Lấu này. ở Tả Khâu cũng có nước, nhưng
phải người Tả Khâu...”. Đứa bé lệch người mang ống bương nước quay
đi. Tơi định bảo nó để lại bác mang giúp mà khơng sao nói được.
***
Ngày xưa, nhà thằng Lử chẳng bao giờ có người đi ong, nhưng mùa ong
nào ống mật cũng chất đầy góc nhà. Mật địi nợ, mật ăn vạ, mật mua rẻ...
bố Lử cứ để tất cả đấy, đến khi cả phiên chợ khơng cịn ai bán mật ong
nữa mới cho ngựa thồ xuống. Đã giàu lại càng giàu, bao nhiêu người
nghèo lại nghèo đi. Bao nhiêu năm trời nước dòng Phạ Lấu cạn khơ.
Muốn có nước ăn người lớn trẻ con phải đi cả ngày, ra tận sông mới gùi
về được. Năm ấy bất chợt lũ về. Lũ như bầy hổ đói tranh ăn, dâng cuồn
cuộn, qua một đêm đến sáng đã không thấy làng bản đâu, chỉ loáng
thống nhấp nhơ những mái nhà rũ rượi dưới mưa. Ơng Lù, bố Lử, ngồi
nhìn trâu bị vừa bắt nợ về lóp ngóp bơi đi tứ phía khơng làm gì được, tức
q, mang con dao sáng lống ra đầu hồi, đứng giữa trời mưa mà chửi.
Ông chửi trời, chửi đất, chửi rừng núi, suối sơng. Ơng càng chửi trời càng
mưa lớn. Sau lũ, người nghèo nhìn đồng thấp đồng cao phủ dày một lớp
phù sa đỏ, giẫm lên mềm như đống trấu ủ mà mừng. Mùa tới thế nào
cũng đủ nuôi cả nhà rồi. Hết mưa, người ta mừng thì ơng Lù ốm. Ơậm ba
ngày, bảy ngày khơng dậy được, cả tháng không dậy được. Vợ con đi gọi
thầy mo về. Thầy mo bảo phải chuyển chỗ ở, phải quay hướng nhà. Vậy
là cả nhà gồng gánh bỏ Tả Chng mà đi, khơng nói với ai một lời.
***
Tôi gùi mấy ống mật đầu mùa về bản. Trong gùi có cả viên đá cuội đỏ
bầm như máu. Đi được một đoạn chợt thấy gùi trên vai nặng trĩu như có
ai đi sau vít xuống. Viên đá cuội đã ngả sang màu nâu, chẳng khác gì cuội
Sau lưng tơi, tít xa kia, ngửa mặt lên vẫn thấy Tả Khâu còn sương mù phủ
trắng vấn vít. Những con chim lớn, sải cánh dài, lao vun vút vượt qua
đỉnh núi.
Lần đầu tiên gặp nhau ở hội xuân, Mây bảo: “Nghe tiếng sáo của Sính ai
cũng muốn thành con chim bay thật cao, thành mũi tên lao về phía mặt
trời”. Và tơi đã hứa chỉ thổi sáo cho mình Mây nghe, từ ngày này qua
ngày khác. Ngày Mây theo chồng ngược dốc Tả Khâu, tôi đã ném cây sáo
vào bếp lửa.
Tôi đi như chạy. Dưới kia, sau lớp giang ken dày, nước nguồn Phạ Lấu