Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

truyen ngan do bich thuy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 155 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>GIÓ LÙA QUA C</b>

<b>A </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Có tiếng nổ uỳnh uỳnh như tiếng công nông, tiếng bánh xe lộc cộc trên đá


dăm lao vào ngõ, gạt cánh cổng gỗđánh xoẹt. Thằng mất dạy nào đấy, có


biết nhà ai đây khơng mà láo lếu thế hở? Thằng nào? Bà có ra mà lơi cổ


nó vào đây tơi dạy cho một bài khơng? Con cái nhà ai thế không biết?".


"Bố? Con đây chứ thằng nào. Bố lại đang uống rượu à, may quá, con về
đúng lúc. Đang thèm rượu muốn chết đây bố ạ". "Mày... là mày đấy à?


Rước cái của nợ ấy ở đâu về thế, hay lại trộm cắp của ai, hở? Tao là lao


không để yên đâu nhé! Ngồi xuống, lấy thêm cái chén. Mẹ mày vừa lĩnh


lương hưu, chi hẳn cái đùi với cả đĩa dồi, cứ nhắc mãi không thấy cái mặt


giặc (là mày ấy) đâu cả: Rõ thiêng. Ăn đi, rồi nói tao nghe, mày lấy cái


của nợ ấy ở đâu ra?". "Bố cứ hay đùa, lấy đâu ra? Nửa năm mửa mật của


con đấy chứ lấy ở đâu. Bố có biết của độc là cái gì khơng? Là cái mà cả


Hà Nội chỉ có vài tay thợ biết sửa nó như thế nào, thay thế phụ tùng ở
đâu, là cái mà chỉ nhìn đã biết cái thằng người ngồi trên nó là loại gì,


là...". "Là loại đầu trộm đi cướp, loại thích chít khăn tang lao như điên



lúc nửa đêm ấy hả. Gì thì gì, con tao hay khơng phải con tao, hễ cứ ngồi


trên cái của nợ ấy trông đã khơng đứng đắn, khơng tử tế, đã là loại thích


chơi lười làm, loại khơng coi thiên hạ ra gì, loại...". "Thôi nào, bố! Bố cho


con ăn vài miếng đã, kẻo lại phụ lòng mẹ. Ăn xong rồi con với bố nói


chuyện cái xe. Con mời bố một chén. Mẹ mua rượu nhà ai mà thơm thế,


mai con xuôi, mẹ kiếm cho con vài lít nhá. Tuần sau thằng Bờm trịn sáu


tháng, đám bạn con thế nào cũng đến, cho chúng nó chết tại trận".


Xong bữa, bố khơng cịn nhớ gì đến cái xe nữa, bố ngủ mất rồi. Bố bao


giờ cũng thế, uống vào là ngủ, là khơng biết trời đất gì nữa. Mẹ bảo đấy


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

chồng mẹ chỉ có đánh đẫy một giấc, xong, khơng ị ê gì. Sống ở đất rượu


mà như bố, đàn ơng chỉ có một. Làng có bao nhiêu ơng chồng thì bố là


tấm gương của bấy nhiêu ông. Ngẫm ra, mẹ là người đáng được tự hào


nhất ở làng. Anh cả làm ra nhiều tiền, mua một cái nhà to tướng, sau cơn


sốt đất này dưới Hà Nội, anh có cả tỷ bạc trong tay. Trong cái nhà bốn


tầng to thù lù ấy, anh trang bị cho chị dâu cả với thằng cháu đích tơn của



ơng bà đến tận răng mọi thứ đồ dùng hiện đại, bóng lống, gõ vào đâu


cũng kêu coong coong. Bà hãi nhất là phải xuống đấy, thơi thì chúng mày


thỉnh thoảng đưa cháu về cho tao hít hà một tí, đừng bắt tao phải xuống ở


trong cái nhà ấy. Tao phát bệnh ra mất.


Anh thứ chưa lấy vợ, ở một mình trong căn hộ bé như cái lỗ mũi tít trên


tầng năm một khu chung cư. Mắt cận bảy tám đi ốp, nói nửa câu sách vở


nửa câu, cứ như tung hoả mù trước mặt người ta. Mấy ơng đồ Nho cịn


sót lại trong làng, hễ thấy anh thứ về là chèo kéo đến nhà đàm đạo chữ


nghĩa bằng được.


Cậu út có cái thú mua bán, đổi chác xe máy, mỗi lần về làng lại cưỡi một


cái xe mới. Thôi thì đủ kiểu, nhưng nhất thiết là cái nào cũng phải nổ thật


to. Như hôm nay đây, cái xe to như xe bị nghênh ngang giữa làng, hàng


xóm được một mẻ nghe chó sủa điếc lai. Mẹ chẳng ưa gì cái xe kềnh


càng, đúng như bố bảo, ngồi trên cái xe ấy, người tử tế mấy cũng thành ra


khơng tử tế. Nhưng nó lại bảo mẹ, vụ khoai tây này, cả làng gom lại, bán


được giá đi nữa thì cũng chỉ bằng nửa cái xe ấy thôi. Nghe ù cả tai. Nhiều


tiền thế thì biết nói gì nữa. Nhưng thiếu gì cách để khoe tiền, tại sao lại


phải mua một cái xe như thế mà đi. Thanh niên bây giờ lạ thật, mất liền


mua cái khơng tử tế vào mình thì chỉ có chúng nó. Thật khơng thể hiếu


nổi.


Đêm, khuya hẳn rồi mà nó cịn dong ra ngõ, đánh thức bọn trẻ con hàng


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

sông. "Chúng mày có đứa nào biết chị Thơm, con ông Vạn lái đị


khơng?". "Biết chứ sao không. Chị Thơm ngày nào chẳng mang ngô sang


chợ huyện từ sớm tinh mơ". "Nhưng chị Thơm không phải là con ông


Vạn nữa rồi". "Sao lại không phải là con ông Vạn nữa? Chúng mày chỉ


huyên thiên". "Thật mà. Chị Thơm thành con ông Tỉnh từ lâu rồi, bây giờ


sang ở hẳn bên huyện bán thịt rồi. Con dâu ơng Tỉnh chẳng ở đấy thì ở
đâu". "Con dâu à, thế thì phải nói rõ là chị ấy đi làm dâu nhà người ta


chứ". "Anh út ơi, ông Q. bảo lẽ ra ông ấy hỏi chị Thơm cho anh mà, phải


không? Anh mà lấy chị Thơm, chở lợn cho chị ấy bằng cái xe này thì


sướng phải biết, nhỉ . Chồng chị Thơm ngày nào chẳng chở lợn bên này



về mổ, nhưng chỉ chở bằng xe Min thôi".


Dịng sơng chảy dưới ánh trăng giữa tháng sóng sánh vàng. Con đị của


ơng Vạn lấp ló ánh đèn. Sau cái đận chở đầy người quá bị lật, xã khơng


cho chèo đị nữa, ơng Vạn chuyển sang nghề đánh cá. Con gái đi lấy


chồng, nhà bỏ không, ông gần như xuống thuyền ở hẳn, đêm cũng ngủ


dưới thuyền. Khơng chở người thì ơng chở lợn, những con lợn béo nung


núc, cậu con rể gom từ khắp các làng bên này sông, mang sang chợ hóa


kiếp. Sáng nào qua sơng nó cũng dúi cho ơng gói lịng cịn nóng hơi hổi


trong lá chuối, kiếm chai rượu nữa là ông say sưa cả ngày. Hơm nào hứng


lên thì giăng lưới, quăng chài. Ơng bảo ông là người sướng, sướng nhất


làng. "Cậu về đấy à, xuống làm với tơi chc rượu. Này, ngày xưa tơi mà


gả con Thơm cho cậu thì giờ sao nhỉ, cậu lại lơi nó xuống tít Hà Nội ấy,


coi như tơi mất con cịn gì. Nó hận tôi lắm, cái đận ấy Nhưng đâu phải tại


tôi, đúng khơng cậu? Có dun số cả đấy cậu ạ, các cụ nhà mình nói cấm


có sai. Hồi cậu đi, con Thơm địi nhảy sơng tự tử. Con nhà lái đị mà nhảy



sơng tự tử thì chết thế quái nào được. Nó quẫn quá quên mất đấy mà. Cứ


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Con Thơm nhà này...". Ơng già nói một thôi một hồi chợt chững lại, nâng


chén dốc thẳng vào miệng đánh ực. "Thơm thế nào, bác? Sao bác khơng


nói tiếp? Cơ ấy khổạ? Vì cái gì? Kìa... bác...". "Vì cái gì à? Chả vì cái gì,


cũng chả khổ. Chồng mổ lợn, vợ bán, tiền nong rủng rẻng, có gì mà khổ...


Nhưng mà... vẫn chưa có con. Chồng nhận tại chồng, vợ tranh tại vợ,


không đứa nào chịu đi khám xem thực hư thế nào. Sốt cả ruột. Thôi, uống
đi. Uống đi nào, mấy khi cậu về...".


Theo hai anh "bỏ làng", xuôi Hà Nội, đánh vật với cái mác ngoại tỉnh,


học đủ thứ cốt để không thất nghiệp, cốt để mở mày mở mặt cho thiên hạ


biết tay, cốt để bố mẹ không phải làm gì lúc tuổi già mà vẫn đủ ăn đủ


tiêu, trong nhà lúc nào cũng có dăm trăm bạc phịng khi hiếu hỉ không


phải lo chạy quanh như nhà người la. Lúc chưa có cứ tưởng chỉ cần như


thế là đủ, là mãn nguyện, nhưng có rồi lại thấy còn thiếu bao nhiêu thứ.


Thế là cứ lao đầu vào mọi chỗ, không bỏ qua một cơ hội nào. Khơng phải



là tham lam, dứt khốt khơng phải là tham lam. Mà đã là một cái gì đó


như thói quen, như ngồi lên một cái xe là phải lao đi, quen rồi, dừng lại


không chịu được. Nhưng cũng không ngờ đến lúc lao đi mãi rồi, đến lúc


khơng coi cái gì ra gì nữa, khơng cịn sợ ai nữa, khơng cịn phải lo thiếu


thốn bất cứ thứ gì nữa, thì cũng là lúc thấy chính mình thừa ra. Có ai như


mình khơng, hai ơng anh mình có như mình khơng, khơng biết nữa. Cái


thằng đàn ơng mà cũng có lúc buồn viển vơng, mơ hồ như đàn bà thì thật


chẳng ra gì. Biết thế, nên cố giấu. Chỉ có mẹ là nhận ra. Lúc nào đột


nhiên về nhà, dù là nửa đêm, mẹ cũng không hỏi tại sao lại về, tại sao lại
đêm hơm mị mẫm thế. Sự im lặng của mẹ thật vô cùng dễ chịu. Trên đời


này có hai người làm nó ln cảm thấy dễ chịu khi ở bên cạnh, đó là mẹ


và thằng con trai nửa tuổi. Cái thằng bé khôn sớm đến lạ lùng. Nửa đêm,


nghe tiếng xe nổ ình ình của bố là thế nào cũng dứt vú mẹ chồm dậy mở


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

và một không hiểu gì cả đã làm thằng đàn ơng gần ba chục buổi đầu cân


bằng những lúc chống chếnh nhất, những lúc đã nghĩ đến một lối thoát


nhẹ nhàng... Nếu khơng có hai con người ấy thì khơng biết đã ra sao rồi.



Hầu như không ngày nào ăn được hai bữa cơm ở nhà. Khuya khoắt lắm


mới xong việc để về. Vợ như ô-sin, dỗ con ngủ rồi gà gật ngay cạnh cửa,


chờ tiếng xe về để mở cổng, đểđẩy giúp vào trong nhà. Tự dưng khó chịu


kinh khủng, nhìn thấy mâm cơm đậy lồng bàn khơng thể khơng cáu um


lên. "Đã bảo ăn thì cứăn, phần làm gì. Về được thì người ta khắc về đúng


bữa, sao lại cứ phải chờ?". "Ăn một mình em khơng nuốt được". "Trời ạ,


nhàn cư sinh đỏng đảnh đấy à? Hay tại xem phim Hàn Quốc nhiều q


mà sinh hội chứng lãng mạn...". "Ơ kìa, sao tự dưng chỉ có chuyện ấy mà


anh cũng cáu với em? Anh...". Khóc. Dấm dứt. Nức nở. Sụt sịt. "Trời ơi,


nhà cửa thế này thì tơi về làm gì, cơ có biết cả ngày ngồi kia tơi mệt mỏi


thế nào khơng? Có im ngay đi khơng. Tôi đã vung tay trước mặt cô bao


giờ chưa, thử xem cả xóm này có thằng chồng nào tử tế hơn tôi không?


Tại sao cô không biết làm cái gì đó để mỗi lúc về nhà tơi khơng thấy tức


ngực khó thở thế này? Tơi có bắt cơ làm gì nặng nhọc đâu, có bắt cơ phải


tằn tiện chắt bóp đâu, mà sao có mỗi cái việc ấy cũng không làm được!".



"Nhưng việc ấy cụ thể là việc gì, anh phải bảo thì em mới biết chứ...".


"Nếu biết là việc gì thì tơi tự làm cho xong. Tôi là chồng chứ không phải


là vợ. Trời sinh ra đàn bà các cô để làm vợ, thế thì cơ phải biết là mình


cần làm gì trong gia đình chứ...". "Em phát điên lên mất thôi anh ơi, em


xin...". "Không phải chờ cô. Tơi đã điên rồi đây này...".


Cố ghìm để khơng to tiếng mà thằng cu con đã ngủ vẫn nhổm dậy trong


màn, đầu ngọ ngoạy, miệng ô a không rõ muốn nói cái gì. Tự dưng chùng


người xuống: Rệu rã như một cỗ máy đã hết thời hạn sử dụng. Hình như


mình cần một sự bảo trì bảo dưỡng nào đấy, nếu khơng thì chỉ ngay ngày


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

được, có khi chỉ thay một cái sơ mi mới là đủ phục hồi. Nhưng sự rữa nát


bên trong thì thật kinh khủng. Khơng nhìn thấy, chỉ cảm thấy. Máu chảy


chậm rù rì trong huyết quản, thở mà như không thở, mọi ý nghĩ chìm


nghỉm trong một cái vũng lầy đặc sền sệt. Cũng có thể nó chưa đến nỗi


rữa nát, cũng có thể nó mới chỉ là dấu hiệu cho một căn bệnh tâm thần


nào đó. Sợ, rồi lại không sợ. Lại sợ. Căn nhà thành ra trống huếch trống



hoác, thành ra lạnh lẽo, xa lạ từ bao giờ thế khơng biết. Ơm riết lấy con.


Thằng bé theo thói quen rúc vào ngực bố tìm bầu sữa. Cọ mớ râu lởm


chởm vào má nó. Thật khơng thể hình dung được, cái thằng người râu ria


cóc cáy như mình mà cũng đã từng bé tí thơm tho, ấm mềm thế này. Con


người mà cứ được bé mãi thì sung sướng quá. Nào, ngủ đi con. Ngủ đi.
Đêm nay con ngủ với bố nhé. Ngủ đi là hết đói thơi con ạ. Ngày xưa bố


cũng thế đấy. Lúc nào đói khơng chịu nổi nữa thì đi ngủ. Rúc đầu vào
đống rơm mà ngủ. Thế mà giờ lắm người lại phải ngủ để quên no đi đấy


con ạ. No q cũng khó chịu khơng kém gì đói q, có khi cịn khó chịu


hơn.


Sáng, mở mắt ra, vợ đã lấy kem đánh răng vào bàn chải, khăn mặt ngâm


trong nước nóng, bày sẵn trên bàn ăn ba món để thích chọn thứ nào thì


chọn. Xong bằng ấy việc thì ngồi vào một góc, lặng lẽ chờ, mặt như lá


chuối hơ lửa, đợi chồng ăn xong để lấy tăm, lấy nước, rồi vào phòng


chuẩn bị quần áo, giày, tất. Vậy mà mỗi buổi sáng phải khoác vào người


mớ quần áo thơm tho phẳng phiu lại thấy mất tự tin đến nỗi ra khỏi nhà là



phải ghé ngay vào một quán nước chè nào đó vệ đường, đứng lên ngồi


xuống cho nó nhàu nhĩ đi một tí. ấy vậy mà khơng sao mở miệng nói
được một câu, đại loại như, thằng tơi sao thì cứ để vậy, rơm rác quen rồi,
đừng có cố gột rửa tôi như thế. Khốn khổ, đến mấy cái thứ mặc trên


người cũng biết làm thế nào để hành mình, vợ chả tội tình gì thì biết trút


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Cơ quan đơng nghìn nghịt. Con gái trẻ lượn ra lượn vào như bươm bướm.


Không hiểu sao cơ quan này lại lấy lắm con gái thế khơng biết. Sểnh ra


một cái là thấy thì thụt lơi trong ngăn kéo ra nào son nào phấn, hí húi bơi


quệt, cứ như khơng có son phấn thì thành ngợm cả. Hầu như không ngày


nào thống kê được mình đã làm những việc gì từ sáng, đã gặp những ai,
đã nói những câu dài ngắn thế nào. Chỉ biết đến tối mịt, có khi gần nửa
đêm vẫn đang ở một chỗ nào đó hồn tồn khơng phải của mình. Đã


thành một cỗ máy rồi, đã khơng làm chủ được mình nữa rồi, đã phải vận


hành hết công suất rồi. Không ngày nào không ước ao sóng điện thoại tự


dưng mất tiệt đi, đừng có rung bần bật trong túi quần nữa. Điện thoại đã
đổi đến lần thứ mười mấy, đã là loại bé tí như đồ chơi trẻ con rồi, mà cái


sự rung của nó trong túi quần vẫn khơng giảm bớt khó chịu đi tí nào. Mỗi



lần thấy buồn buồn ở hông là một lần giật thồn thột, lại muốn ngừng cả


thở. Càng ngày càng mất lịch sự, càng vắn tắt, càng tiết kiệm cơng nói


cơng nghe.


Cái cục bực bội không lúc nào chịu rời đi cho, hễ cứ về đến nhà là nó lại


cồm cộm lên, ứ đến cổ. Vợ ti tỉ khóc. Tối nào cũng ti tỉ khóc. Mà cái


giống, khóc thì khóc cho thoả, khóc thoải mái một lần cho hết cơn đi còn


dễ chịu. Đằng này lại cứ giấu giấu giếm giếm, mím mơi mím lợi, lại cứ


chạy ra chạy vào toa lét, mặt mũi thì đỏ tía cả lên. Người ta làm gì mình
đâu mà phải khóc. Nhà cao cửa rộng khơng thiếu thứ gì, lại ở vị trí mà


bao nhiêu người nhiều tiền thừa của bây giờ muốn có. Hoa ư, cây cảnh ư,


chim chóc ư, chó mèo õng ẹo ư... đủ hết. Vậy mà lại rũ người ra như


bông hoa héo là làm sao? "Cả ngày chỉ có mỗi việc trơng con, dạy con, cơ


mà để thằng bé ảnh hưởng đến thần kinh thì liệu hồn. Hay tại tôi hay cáu


gắt, tôi không biết ngọt ngào như trong phim, trong tiểu thuyết hở?".


"Anh... sao anh không cố hiểu em, không cố thông cảm với em?". "Trời


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

rúc về nhà được mấy tiếng đồng hồ mà lại còn phải làm cái công việc



hiểu cô hay sao? Cô làm vợ kiểu gì thế? Vợ gì mà khơng biết thương


chồng, xót chồng hở? Mà cơ thì có gì khó hiểu đâu cơ chứ. Cái đầu cô lúc


nào cũng sạch sẽ thơm tho thế kia thì đựng được thứ gì trong ấy? Tôi đã


không yêu cầu cô phải lo nghĩ việc lớn việc bé gì, cơ chỉ có mỗi một


trọng trách là ngồi đấy, trông con, đợi tôi về rồi mở cổng. Hay là ngày


mai tơi th người chun mở cổng, đóng cổng thay cơ nữa? Này, cơ thật


là có vấn đề mất rồi...". "Nhưng... em thực ra là cái gì trong nhà này anh


có khái niệm được khơng? Có khơng?". Và lần này thì khóc to, khóc thật


sự, khóc khơng giấu giếm nữa. Khóc đến nghẹn thở, mặt mũi đỏ tía, tóc


xù cả ra. Mở toang tất cả cửa kính cửa chớp, cho gió lùa vào khắp nhà,


bật tất cả quạt lên nữa. Sao vẫn nặng nề bức bối thế này. Cô ơi, tôi quỳ


xuống lạy cơ đây này. Cơ làm gì tơi thì làm ngay đi, giết tôi cũng được,


nhưng đừng bắt tôi phải làm cái mà tơi khơng biết nó là cái gì. Cơ cũng


khơng biết nó là cái gì cơ mà...".


***



Mấy bà mẹ chạy khắp làng ời ời gọi trẻ con về đi ngủ, đã có người dóng


dả như hát hay: "Đâu có cái loại người nào lại thế chứ, nửa đêm nửa hơm


rồi cịn tha con người ta đi, đúng là cái đồ dở hơi, rửng mỡ".


Ơ hay, mình làm gì mà để người ta chửi thế. Về thôi nào, chúng mày lên


xe hết đi, bám cho chắc vào. Bây giờ mong cái xe nổ bé tiếng đi một tí thì


nó lại kêu to hơn, như trêu tức, giữa đêm thanh vắng. Bầy chó lại được


một mẻ sủa inh ỏi.


Bên cánh cổng đang mở sẵn, mẹ đứng nép vào một bên, chờ cái xe to như


xe bò phi vào sân rồi cài then. Nó đã mua cái xe này chỉ vì muốn có tiếng


nổ thật to, có lúc cịn tháo cả ống xả ra. Phố xá càng đông người càng


thấy mình cơ quạnh, mình thừa ra, nên cứ phải có cái gì thật náo động


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

ngay lập tức vứt quách cái xe đi... "Mẹ à, con nhớ thằng Bờm quá. Có khi


con khơng ngủ nhà nữa đâu, con về với nó đây". Mẹ lại ra mở cổng, với


tay xoa nhẹ lên vai, nắm nắm mấy cái. Mắt mẹ ầng ậng nước trong bóng


tối lờ mờ dưới tán cây hồng xiêm mười mấy năm tuổi... Giờ mới thấy, đôi



mắt thằng Bờm mỗi lúc mở to trong màn nhìn ra, giống mắt mẹ vơ cùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>GIĨ KHƠNG NG</b>

<b>NG TH</b>

<b>I </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


<i>V</i>ớ<i>i c</i>ả<i>m quan tinh t</i>ế<i> và ngơn ng</i>ữ<i> nhu</i>ầ<i>n nh</i>ị<i>, </i>Đỗ<i> Bích Thúy d</i>ườ<i>ng nh</i>ư
đ<i>ã soi rõ m</i>ọ<i>i ngõ ngách </i>đờ<i>i s</i>ố<i>ng tình c</i>ả<i>m c</i>ủ<i>a nh</i>ữ<i>ng con ng</i>ườ<i>i vùng </i>
<i>cao, l</i>ậ<i>t lên nh</i>ữ<i>ng l</i>ớ<i>p v</i>ẻ đẹ<i>p sâu </i>đằ<i>m trong tâm h</i>ồ<i>n h</i>ọ<i>. "Gió khơng </i>
<i>ng</i>ừ<i>ng th</i>ổ<i>i"- ti</i>ế<i>p n</i>ố<i>i m</i>ạ<i>ch </i>đề<i> tài s</i>ở<i> tr</i>ườ<i>ng c</i>ủ<i>a ch</i>ị<i> - là m</i>ộ<i>t truy</i>ệ<i>n ng</i>ắ<i>n </i>
<i>gi</i>ả<i>n d</i>ị<i> và sâu s</i>ắ<i>c. </i>


Thào Mí Chà ở Lũng Pục là một thằng trai đẹp, trán cao, vuông, lông


mày rậm, mắt sáng, hai hàm răng rất trắng và miệng cười làm chết người,


bọn con gái ở Lũng Pục rất nhiều đứa thích nó, nhưng nó là một con ngựa


chỉ thích ăn cỏ trong vườn hàng xóm. Cái thằng hư thế không biết, nó


khơng giống bố nó là ơng Thào Mí Sùng một tí nào. Mấy hơm nay người


Lũng Pục xơn xao ca lên vì chuyện thằng Chà tự dưng mất tích. Nhà ơng


Sùng như có đám, cả Lũng Pục cũng như có đám theo. Người Lũng Pục


xưa nay vẫn thế, mấy chục nóc nhà sống với nhau như anh em ruột thịt,


một con bò cày nhà ai bị ngã núi thì cả bản xúm lại góp mỗi người một ít



tiền cho nhà ấy mua ngay một con bò mới, huống hổ lần này lại là chuyện


mất ích của thằng con trai duy nhất nhà ơng Sùng. Bọn thanh niên bổ đi


tìm, sang Pải Lủng, sang Cao Mã Pờ, sang Khâu Bủng, chỗ nào có nhiều


con gái đẹp là tìm đến, ba ngày sau thì đưa được thằng Chà say khướt về.


- Tìm thấy nó ởđâu thế? Người già nhao nhao, mắt vằn lên vì tức giận.


- Ây dà, nó uống rượu ở nhà một đứa gái góa bên Cao Mã Pờ...


- Cái gì? Uống rượu ở nhà một đứa gái góa à? Trời đất ơi, gầu Mơng ơi là


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Thế này thì khơng được rồi, khơng được rồi. Mỗi người một câu thi nhau


trút xuống đầu thằng Chá. Trong khi bố nó, ơng Sùng như già đi hàng


chục tuổi, ngồi gục một góc bên cạnh chai rượu ngơ đã cạn, mẹ nó nằm


như một tấm váy ướt trong buồng. Đứa chị thì mặt tái xanh, cầm khăn lau


mặt cho thằng em vẫn đang say sưa ngủ, bọt mép sùi cả ra.


*


Năm mười tám tuổi ông Sùng đã lấy bà Kía, ở với nhau bảy năm mới đẻ
được một đứa con gái, là cái Sèn. Nhưng cái Sèn đã lớn mà mãi khơng có



em, mẹ chồng bà Kía đã đi khắp cả vùng Quản Bạ, Yên Minh, lên cả
Đồng Văn, Mèo Vạc, mang về đủ thứ thuốc mà con dâu cứ như con bị
đực, khơng đẻ nữa. Trước lúc chết, bà gọi con dâu vào buồng:


- Phải có một đứa con trai, con dâu à, nếu khơng thì sau này... bà già khóc


nấc lên, hai giọt nước mắt hiếm hoi lăn ra từ hai hốc mắt trũng sâu. Bằng


mọi cách phải có một đứa con trai, phải giữđược đất của họ Thào ở Lũng


Pục, phải có người thờ cúng tổ tiên, nhớ chưa.


Bà Kía nước mắt rịng rịng khơng mở miệng nói được câu nào, chết lặng


nhìn mẹ chồng ra đi. Bà Kía gần nhưđược mua về nhà chồng. Bố mẹ chết


sớm, Kía ở với chú thím, chú thím nghèo, đơng con, từ sáng sớm đến đêm


khuya chỉ biết hùng hục làm lo đổ đầy ngô xay vào chõ mèn mèn cho lũ


con gần chục đứa đang tuổi ăn tuổi lớn, thế nên Kía khơng được dạy dệt


vải, thêu thùa, khâu vá, Kía chỉ giỏi cầm cái cày đi sau con bị và bỏ hạt


ngơ xuống hốc đá mà thôi. Bố mẹ chồng đã phải bỏ ra hai trăm đồng bạc


trắng để lấy được Kía về làm dâu. Ngày đầu tiên về nhà chồng, mẹ chồng


dẫn Kía xuống bếp. Ở bếp có con ma bếp, ma bếp cai quản việc sinh đẻ



của đàn bà và phu hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Vì thế khơng được dẫm


chân lên bếp lị, khơng được gõ vào thành bếp, lúc nào muốn nhấc chảo


cám lợn ra phải cho một hòn đá vào giữa... tất cả những điều đó bà mẹ


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

với một đứa con dâu mới về. Ở nhà chồng Kía được thương u, được
đùm bọc, được chăm sóc khi ốm đau, ngày Kía đẻ con Sèn bố mẹ chồng


làm một cái lễ cúng ma buồng to lắm, to như cúng cho một thằng cháu


trai. Con Sèn lớn nhanh, rất ngoan nhưng dù thế nào nó vẫn không phải là


con trai. Bố chồng, rồi mẹ chồng đã lần lượt đi theo ông bà tổ tiên, mà


Kía vẫn cịn một món nợ chưa trảđược.


Ngày ngày Kía hùng hục giành làm hết việc, lúc nào cũng dựng sẵn một


thùng rượu ngơ ở góc nhà và vài tảng thịt khô trên gác bếp để chồng gọi


bạn đến chơi. Kía sợ chồng buồn, chồng buồn thì Kía càng có lỗi q. Kía


cũng buồn, buồn lắm, vừa buồn vừa thương bố mẹ chồng chết chưa nhắm
được mắt, thương chồng sắp đến tuổi ông mà chưa được làm bố một


thằng con trai, nhưng cái buồn giấu tận đáy lịng khơng làm phai mờ đi


nhan sắc của người đàn bà miền núi một con, cặp má đỏ hồng, da căng



mịn, mái tóc rất dày và hai cánh tay khỏe mạnh, Kía vẫn làm chồng mệt


lử sau mỗi đêm uống rượu với thịt bị khơ.


Mẹ chồng chết đã nửa năm, một đêm, Kía cầm lấy tay chồng, khẽ khàng:


- Mình tìm cho bố nó một người vợ nữa nhé?


Chồng Kía ngồi bật dậy:


- Cái gì, vừa nói cái gì thế?


- Mình tìm thêm cho bố nó một người vợ nữa. Phải đẻ một đứa con trai


bố nó à, mình đã hứa với tổ tiên rồi, bằng mọi giá phải có một đứa con


trai để sau này cịn có người thờ cúng, có người giữ đất.


Chồng đưa tay bịt mồm Kía, Kía gạt ra, nói tiếp, rất nhanh:


- Nghe mình, mình sẽ tìm một đứa gái tốt, một đứa gái biết đẻ mình sẽ coi


nó như em gái mình, mình sẽ bảo nó cách làm vợ...


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

- Nghe đây này, có chết tơi cũng khơng lấy ai nữa, có chết ngay bây giờ


tôi cũng không cho bất cứ người nào bước chân vào nhà này, nhớ chưa.


Kía nghẹn giọng: .



- Mình đã hứa với bà nội con Sèn rồi... biết làm thế nào?


- Làm thế nào thì mặc kệ, tơi khơng biết.


- Nhưng... mình đã đưa nó về đây rồi.


- Cái gì? Đưa ai vềđây?


- Là đứa gái con nhà Lừ bên Cao Mã Pờ. Mình mang nó về đây rồi, nó
đang ngủ với con Sèn đấy.


- Ái chà, vợ mình đã coi mình như con lợn con dê rồi đây, định mang


mình đi lấy giống hở. Đâu nó đâu, xem cái mặt dày thế nào mà dám bước


chân vào nhà này.


Kía khơng kịp níu áo thì chồng Kía đã sồng xộc bước ra ngoài, xông


thẳng đến trước cửa buồng con gái. Nhưng cũng lúc ấy, cánh cửa phía


trước kèn kẹt mở ra, rồi tiếng bước chân dẫm lên đống đỗ tương phơi dở


ngoài hiên lạo xạo vội vã... Người mà Kía định đưa về làm vợ hai cho


chồng đã nghe thấy hai vợ chồng nói chuyện với nhau, bỏđi mất rồi.


Chồng Kía ra bếp ngồi, vớ lấy cái điếu cày rít sịng sọc, một lúc sau lại


lấy thêm chai rượu, rót uống một mình cho đến sáng.



Từ đấy, Kía khơng dám nhắc đến chuyện tìm vợ mới cho chồng nữa. Mà


không lấy thêm vợ nữa cho chồng thì lấy đâu ra con trai cho họ Thào cơ


chứ. Mỗi lần đưa con đi hàng mấy cây số ra suối tắm giặt Kía lại đằm


mình trong nước suối, chỉ mong nó làm cho mình xấu xí đi, khô héo đi.


Tại sao một người đàn bà không đẻ được nữa lại cứ nở ra như một bông


hoa chuối đỏ rực, căng mọng thế này? Nhưng nước suối, cả những mớ lá


cây úa vàng cháy trong lịng nó cũng khơng làm Kía khơ héo đi. Giá mà


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Một buổi chiều, đã muộn rồi nhưng Kía vẫn cố nán lại trên nương để bẻ


nốt chỗ ngô. Năm nay ngô được mùa, bắp nào cũng to, dày hạt, cầm nặng


trình trịch, năm nào cũng được thế này thì người Mơng khơng bao giờ lo
đói. Đang lúi húi bẻ ngơ thì một người đàn ơng xuất hiện ngay trước mặt


Kía. Là Vàng Chỉn Tờ trên Khâu Bủng. Kía biết người này, người này có


họ xa với nhà chồng. Vàng Chỉn Tờ nhìn Kía cười cười:


- Muộn rồi sao chưa về hở chị dâu?


- Cũng đang định về đây. Lâu lâu không thấy chú đến chơi, ông bà trên ấy



có khỏe khơng?


- Khỏe, khỏe lắm. Em cũng khỏe, chị có tin khơng?


- Chú nói gì thế, khó hiểu q.


Tờ sán lại gần, nhìn Kía cười cười nuốt nước bọt ừng ực. Kía lùi lại, nhìn


quanh. Trời đang sẫm dần, cả một dải nương ngô đã vắng ngắt. Tờ vẫn


cười:


- Thấy bảo anh Sìn dạo này khơng khỏe, muốn có con trai mà mãi chưa
được.


- Từ từ rồi khắc có, đi đâu mà vội.


Kía lúng búng mấy câu nhưng Tờ đã sấn đến, đè nghiến Kía xuống đất.


Kía gào thét, giãy dụa, Tờ cười hềnh hệch, nước dãi rớt ra thành dòng:


- Để em cho một đứa con trai, chị dâu à, nghe em, em cho một đứa con


trai, khỏi phải lo lấy vợ mới cho chồng.


Trời tối đen, nương ngô rất rậm và cao, tiếng gào thét của Kía bị át đi bởi


tiếng gió từ trong thung lũng đang phả ra ào ạt... Mãi cho đến khi có tiếng


trẻ con thét lên bên cạnh, tiếng gậy đập lẹt đẹt ngay bên trên Kía. Là cái



Sèn, bố đi đám cưới để Sèn ở nhà một mình, sợ q nó đã mị lên nương


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Nếu khơng có Sèn ở bên cạnh đêm ấy thì có lẽ Kía đã khơng về nhà, đã ra


bờ vực và nhảy xuống. Chỉ có một nơi nào đó sâu thẳm, tối đen mới có


thể xoa dịu nỗi tủi nhục mỗi lúc một dâng lên trong lịng Kía. Nhưng con


Sèn cịn bé q, khơng thể nào để nó lại được.


Sau hơm ấy Kía bị ốm, hằng tháng liền không dậy được, cũng không ăn


nổi thứ gì. Cứ cầm lấy bát cháo thì cái mặt đầy dãi rớt của thằng Tờ lại


hiện lên, cơn buồn nôn lại ào đến. Sùng đã đưa thầy Sa man về nhà,


nhưng thầy Sa man cũng chịu, và khơng cần phải dầm mình dưới suối


nữa thì Kía cũng đã khơ héo đi như một quả đậu giống để trên gác bếp


Nhưng trong lúc mê lúc tỉnh, điều kinh hoàng nhất mà Kía cảm thấy lại là


một sự sống đang hình thành trong bụng mình. Đúng vậy, đó là điều kinh


hồng nhất mà Kía phải đối mặt. Cái sự sống rất bé nhỏ ấy, đúng là nó,
đang cựa quậy, dần thành hình hài trong bụng Kía. Ơi trời ôi, nếu mà nó


mang cái mặt giống như cái mặt đầy rớt rãi và đơi mắt đục ngầu thì sao?



Nếu mà nó giống hệt như thế thì sao? Hàng ngày Kía sẽ phải nhìn thấy


nó, đối diện với nó, ơm ấp nó, trời ơi, thế thì có tội lớn q, thế thì có chết


khơ bảy lần có chết ướt mười lần cũng khơng gột rửa hết.


Thế mà không để ý đến nỗi sợ hãi vô ngần của Kía, đứa bé cứ lớn dần lên


trong bụng. Phải bỏ nó đi thơi, khơng thể để nó ra đời được. Nó là ma


quỷ, nó là rắn rết, nó là hổ báo, lợn rừng, nó khơng phải người, nó khơng
được ra đời, khơng thể để nó ra đời rồi mang họ Thào được. Đêm khuya,


trời rét căm căm, Kía mị mẫm ra vườn cải, phía sau chuồng dê, Kía lấy


một cái khăn to, quấn chặt lấy bụng rồi bám lấy dóng chuồng dê nhảy


chồm chồm, nhảy đến mệt lử mồ hơi vã ra đầm đìa. Nhưng đứa bé, dai


dẳng như một sợi mây, dứt khốt khơng rời khỏi Kía. Đã thế tao sẽ nhịn
ăn, nhịn ăn cho mày chết đói. Kía lẩm bẩm. Nhưng chồng Kía khơng để


cho Kía nhịn, nếu Kía khơng ăn thì Sùng cũng khơng thể ăn được, nếu


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

mèn cịn đầy nguyên, nghe bố nói với mẹ mà nước mắt rịng rịng. Khốn


khổ q, vậy là Kía đành phải để đứa bé lớn lên trong bụng mình.


Một đêm tối trời, mưa rả rích, Kía lên cơn đau bụng. Đứa bé sắp ra rồi,



chồng Kía vẫn ngồi khoanh chân bên bếp uống rượu với thịt bị khơ, hai


gị má tái xanh, tóc rối bù. Ở trong buồng Kía khơng dám gọi chồng. Một


nỗi sợ hãi cộng với tủi nhục, cộng với đau đớn tột cùng làm Kía khơng


cất nổi tiếng gọi. Kía bám lấy mấy mép giường, nghiến răng, cong mình


lên và rồi đứa bé trơi tuột ra khỏi bụng mẹ. Nó khóc váng lên. Trong lúc


lơ mơ Kía chỉ nhận thấy ánh mắt lấp lánh của con Sèn bên ánh đèn dầu,


cịn chồng Kía đang ơm đứa bé, nhìn chăm chăm vào mặt nó.


Đó là một thằng bé trai có khn mặt sáng như ánh trăng. Kía nhìn con


chim bé tí như quả ớt chỉ thiên của nó mà tối tăm mặt mày. Vậy là nỗi sợ


hãi lớn nhất của Kía đã hiển hiện ngay trước mặt. Thằng bé sẽ là người
đàn ông nối dõi của dòng họ Thào ở Lũng Pục. Chồng Kía vừa đào lỗ


chơn nắm nhau của nó ở chân cột nhà chính vừa nói:


- Chỉ tại mày mà tí nữa tao mất vợ, phải ăn cho khỏe, lớn cho nhanh để


thay tao làm trụ cột cái nhà này, đừng có để cho bố mẹ mày phải khổ vì


mày nghe chưa.


Thằng bé như nghe được lời Sùng nói, tiếp tục khóc váng lên. Tiếng khóc



của nó làm chấn động cả Lũng Pục, ánh đuốc lập loè từ mấy chục nóc nhà


tỏa ra, người Lũng Pục ùa đến xem mặt thằng bé. Mừng quá, mừng cho


nhà Sùng quá, người tốt như thế mà khơng có con trai nối dõi thì ơng trời


thật là không phải.


Cứ thế, thằng Chá lớn lên nhanh như thổi. Năm nó một tuổi, trịn trùng


trục như một cái cối xay. Trong lễ mừng tuổi nó, Sùng đưa cho nó một


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

đã được bố nó giao cho trọng trách làm chủ gia đình, và phải trở thành


một thằng trai giỏi giang, thạo việc.


*


Đã lâu rồi, Sùng không làm cái việc của một người chồng với vợ. Thằng


Chá đã lớn rồi, nó thơi khơng cịn bú mẹ nữa, nhiều đêm nằm giữa một


bên con, một bên chồng Kía thao thức không ngủ được. Cái mùi mồ hôi


rất thân thuộc ở ngay bên cạnh, Kía chỉ mong được vùi mặt vào đấy mà


hít hà cho thoả, nhưng Sùng luôn luôn ngủ rất nhanh và rất say. Sùng đã


quên vợ rồi sao? Hay tại Kía bây giờ khơng còn được như trước nữa?



Suốt thời gian mang thằng Chá trong bụng, sinh nó xong, Kía đã như một


cái cây bị phơi khơ, có phải vì thế mà Sùng khơng cịn muốn gần gũi vợ


nữa? Nhưng sâu thẳm nhất, sau mỗi lần trằn trọc vật vã, là một nỗi sợ hãi


khôn tả. Nỗi sợ hãi nằm sẵn trong lịng Kía, thỉnh thoảng lại trỗi dậy.


Kía nằm nhích lại gần, xoay người khe khẽ, vịng tay ơm lấy cổ chồng.


Sùng chưa ngủ, bằng chứng là hơi thở của Sùng dồn dập, lồng ngực Sùng


dưới cánh tay Kía phập phồng. Kía phả một hơi thở thật nóng vào mặt


Sùng, nhưng Sùng chỉ quay lại ơm lấy Kía, vỗ vỗ vào vai như dỗ trẻ con


ngủ rồi thơi. Nằm trong vịng tay chồng một lúc lâu, tự dưng Kía thấy tủi


thân q, Kía chuồi ra, quay lại ơm lấy con, lặng lẽ khóc. Sau lưng Kía,


Sùng thở dài thườn thượt. Tất cả những vồ vập, hồ hởi của Sùng trước
đây giờđã khơng cịn bóng dáng. Chẳng lẽ... chẳng lẽđiều Kía lo sợ nhất,


Sùng đã biết chuyện xảy ra trong nương ngô, lại là sự thật? Nghĩ đến đấy


Kía bủn rủn chân tay. Khơng thể như thế này mãi được, Kía phải hỏi cho


ra nhẽ, hoặc là Sùng cứ đuổi mẹ con Kía đi, hoặc là Sùng phải chửi rủa,



phải đánh đập, chứ Sùng đừng như một cục đá thế này. Kía quay phắt lại,


lay chồng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

- Ngủ rồi. Có chuyện gì à?


- Ừ, có chuyện. Bố nó à...


- Gì thế?


- Có phải bố nó... bố nó... biết...


- Ầy dà, có chuyện gì mà ấp úng mãi thế, nói tuột ra xem nào.


Trong bóng tối Kía bấu chặt mấy ngón tay vào tấm chăn. Kía đang run


bắn lên. Nếu như Sùng chưa biết thì sao? Có thể Sùng chưa biết lắm chứ,


nếu khơng thì làm sao khi Kía sinh một đứa con khơng phải con đẻ của


Sùng, Sùng lại yêu thương nó, nâng niu nó đến thế, mỗi khi thằng bé


nghịch dại, người mắng nó, cầm roi vụt vào mơng nó khơng phải Sùng


mà là Kía. Nghĩđến đấy, ý định hỏi cho rõ lại trôi tuột đi trong đầu Kía.


*


Thế là thằng Chá cứ lớn lên trong nỗi sợ hãi sâu thẳm của mẹ nó. Nó



khơng hề biết điều đó, chỉ biết rằng nó được nng chiều, và vì nó là


thằng con trai nối dõi dịng họ nên vai trị của nó rất quan trọng, mỗi khi


nó ốm đau thì cả họ cuống lên lo lắng, gà vịt lũ lượt theo nhau đến kêu


inh tai dưới bếp. Nó chẳng biết làm gì hết. Việc nhà bố nó, mẹ nó, chị nó


làm tất, nó chỉ việc mặc quần áo đẹp, cắp cây sáo vào nách và ngồi trên


lưng con ngựa tía rong ruổi hết chợ này đến chợ khác. Và vì nó có một


cái mặt rất đẹp, lại thổi sáo hay như dứt ruột người ta ra nên ở đâu đám


con gái cũng vây quanh nó, đứa nào được nó liếc cho một cái thì mất ngủ


mấy đêm liền.


Trước Tết, nó bảo sang Cao Mã Pờ chơi với mấy thằng bạn trai. Mẹ nó


bảo:


- Tết đến nơi rồi, nhà nào cũng lắm việc, mày chơi với ai. Không đi đâu


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Nó cãi:


- Đã hẹn chúng nó rồi, khơng đi khơng được.


Bà Kía nhìn thằng con trai câng mặt cãi lại, tức lộn ruột, định cho nó một



cái tát thì ơng Sùng ngăn lại:


- Để nó đi cũng được, sửa nhà có một tí thơi, bố với chị Sèn làm một lúc


là xong. Ông Sùng quay sang Sèn:
- Sèn à, cho nó đi, nhỉ?


Sèn gật đầu. Vậy là thằng Chá nhảy tót ra cửa, chỉ một lống tiếng lục lạc
đeo trên bờm ngựa đã xa tít.


Nó đi chơi đến sáng mùng một tết mới về đến nhà, mặt gầy xọp đi, quần


áo xộc xệch, đầu tóc rối bù, chân đi đất. Khơng thấy nó dắt ngựa theo, bà


Kía hỏi, nó thản nhiên:


- Chơi bạc, gán cho chúng nó rồi.


Nói xong, chui lên gác ngơ ngủ một mạch ba ngày liền. Nó khơng biết


con ngựa ấy đối với bố nó quan trọng thế nào. Đấy là con ngựa mà người


bạn thân nhất của ông Sùng đã để lại tặng ông trước khi chết. Một con


ngựa tía đẹp hiếm thấy ở vùng núi đá này, chân dài, bụng thon, ức nở,


bờm dài và lúc nào cũng mượt óng. Ơng Sùng đã chăm bẵm con ngựa


suốt mấy năm trời, cho đến khi thằng Chá lớn thì ơng đã nhường cho nó.



Con ngựa chỉ làm đẹp cho nó thơi, nhìn nó cưỡi trên lưng ngựa, cả hai lao


như bay trên triền núi chênh vênh, đứa gái nào cũng mê tít. Vậy mà chỉ vì


thua bạc, hết tiền, nó gán ln con ngựa cho người ta.


Bà Kía leo lên gác gọi thằng Chá dậy, nó dúi đầu vào trong đống ngơ dứt


khốt khơng ra. Nó đã thức liền mấy đêm liền, giờ phải ngủ, khơng ngủ


thì chết mất. Bà Kía cầm chân cố lơi nhưng nó cứ ì ra, đành hậm hực


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

nhọn còn nguyên trong bao da, cả cái đèn pin nữa, đi ra cửa. Bà Kía giật


mình:


- Ơng đi đâu đấy, đang Tết mà.


- Có một tí việc, tơi phải đi.


- Nhưng việc gì chứ?


- Ừm, đàn bà biết gì mà hỏi.


Ơng Sùng đi hết đêm, đến sáng hơm sau thì vềđến nhà, dắt theo con ngựa


tía. Thằng Chá vẫn cịn ngủ như chết trên gác ngơ, bà Kía định leo lên lơi


nó dậy nữa thì ơng Sùng bảo:



- Kệ nó, để cho nó ngủ.


- Phải cho nó một trận mới được. Tức q đi thơi, ai lại để bố già thế này


phải đi chuộc ngựa cơ chứ.


- Thôi mà, đằng nào cũng lấy được ngựa về rồi.


- Phải đấy, làm sao ông lấy được ngựa? Mang tiền đi chuộc à?


- Làm gì có tiền. Có mỗi cái này thơi.


Ơng Sùng chìa con dao nhọn ra. Bà Kía rùng mình:


- Ơng... làm gì chúng nó?


- Chẳng làm gì cả, chỉ giơ cái này ra là chúng nó khắc phải trả. Nhưng chỉ


dọa được một lần thơi, lần sau thì chắc chúng mang con ngựa đi bán luôn


chứ không chờ mình đâu.


Thằng Chá nằm trong đống ngơ nghe hết câu chuyện. Nó khơng dám dậy,


biết ăn nói với bố thế nào, con ngựa quý thế mà loáng một cái nó gán


ln cho mấy thằng bên Cao Mã Pờ, như nó là bố thì có khi chặt chân


thằng con trai rồi.



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Bà Kía ốm. Thầy Sa man đến gọi hồn về, gọi mãi không được, thầy Sa


man bảo:


- Chắc là phải để bà ấy theo tổ tiên thôi.


Thêm chuyện thằng Chá sang Cao Mã Pờ ăn ngủ ở nhà một đứa gái góa


nữa, bà Kía càng khơng thể dậy được.


Ơng Sùng ngồi bên cạnh vợ, tay nắm chặt tay vợ, râu tóc đã bạc trắng sau


mấy đêm liền khơng ngủ. Ơng hỏi rất khẽ:


- Có mệt lắm khơng?


Bà Kía hơi lắc đầu:


- Không mệt đâu, chỉ buồn ngủ thôi.


- Không được ngủ đâu, bà vợ à, không được ngủ đâu. Phải cố thức, nhé.


Bà Kía chớp mắt thay cho cái gật đầu. Bà cũng biết, mình khơng được


ngủ, nếu mà ngủ thì sẽ khơng dậy nữa. Nghe giọng chồng như sắp khóc


bà thấy thương chồng quá. Bà biết mình sắp đi theo tổ tiên rồi. Trước lúc
đi nhất định bà sẽ nói sự thật cho ơng Sùng biết. Phải nói cho ơng ấy biết


thì bà mới nhắm mắt được, sang bên kia mới dám nhìn mặt bố mẹ chồng.



Nhất định bà sẽ nói.


- Đừng ngủ, bà vợ nhé. Không được ngủ đâu. Bà có dặn gì tơi, con Sèn


với thằng Chá khơng?


Bà Kía nghe chồng hỏi, nhưng khơng trả lời, nắm nắm lấy mấy ngón tay


khơ khốc của chồng. Bên ngoài tiếng con Sèn rấm rứt khóc vọng vào.
Đêm đã khuya lắm, bà Kía vẫn chưa ngủ, khơng phải bà cố thức mà vì bà


tiếc, bà không muốn ngủ chẳng ởđược với chồng với con bao lâu nữa mà


ngủ thì tiếc quá. Bà chỉ nhắm mắt nằm đấy thôi. Thằng Chá mấy hôm nay


lại đi chơi rồi, không biết bao giờ mới về. Nhà chỉ có con Sèn với ơng


Sùng đi ra đi vào. Ông Sùng vén chăn lại cho vợ rồi bước ra ngồi. Con


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

- Khơng ngủ à Sèn, để mai làm cũng được mà.


Sèn không trả lời, hỏi lại bố:


- Mẹ ngủ hay thức thế bố?


- Ngủ rồi. Thức mãi thì cũng phải ngủ chứ.


Ông Sùng lấy điếu cày, cho một cục thuốc lào to tướng vào nõ điếu, châm



lửa hút liền mấy hơi, phả khói mù mịt:


- Sèn à, có chuyện này bố phải nói mới được.


Giọng Sèn chợt thảng thốt:


- Chuyện gì thế bố?


- Chuyện này... lâu lắm rồi, cũ lắm rồi, bố định khơng bao giờ nói cho


con biết, nhưng giờ... mẹ sắp bỏ bố con mình để đi theo ơng bà rồi, bố


phải nói thơi...


- Bố à, có chuyện gì mà bố phải giấu lâu thế. Có chuyện gì mà con không


biết?


- Sèn à, sau này, lúc con đi ấy chồng rồi, không biết bố như thế nào... ơng


Sùng thẫn thờ nhìn ra ngồi cửa tối đen, ngồi đó từng đợt gió rét mướt
đang thổi mấy cái vỏ ngơ trên sân đá lạt sạt. Sèn nhìn ông hoang mang.


- Sèn à, thằng Chá ấy, thằng Chá em con ấy, nó khơng phải là con đẻ của


bố. Con biết khơng? Nó khơng phải là con đẻ của bố đâu, thật đấy. Giờ


mẹ sắp đi rồi, bố định hỏi xem mẹ có muốn cho nó đi nhận bố đẻ khơng.


Cả con nữa, con có muốn thế không? Con là con gái lớn, bốđể con quyết


định đấy. Có nên hỏi mẹ con khơng hở Sèn?


Mọi dồn nén của bao nhiêu năm đã phút chốc vỡ vụn ra làm Sèn bải hoải,


rụng rời. Mười bảy năm nay lúc nào Sèn cũng nơm nớp lo một ngày bố


biết sự thật, bố sẽ giết chết mẹ, giết chết thằng Chá mất. Cũng chỉ vì thế


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

còn ai bênh mẹ, bênh em. Thằng Chá ấy, cho dù nó mất nết, cho dù nó là


một thằng trai hư hỏng thì nó cũng là em của Sèn, là ruột thịt của Sèn.


Mỗi khi thằng Chá làm sai việc gì Sèn lại nhăm nhăm bênh nó. Sèn chỉ sợ


bố hắt hủi nó thì mẹ lại tủi thân. Cái buổi chiều ngồi nướng ngơ năm nào


ám ảnh Sèn cho đến giờ, Sèn không tin vào người đàn ơng nào hết ngồi


bố Sèn ra, nhưng ngay cả bố, Sèn cũng không dám nghĩ rằng bố chịu
đựng được. Sèn gục đầu vào vai bố khóc nức lên:


- Bố à, bốơi.


Sèn chỉ kêu được thế. Bố Sèn đang bấu chặt mấy ngón tay gầy guộc vào


vai Sèn, như thể Sèn là chỗ nương tựa cuối cùng trước khi bố như một


con ngựa dũng mãnh ngã xuống vực sâu.


Trong lúc ấy, ở trong buồng, bà Kìa lặng lẽ kéo chăn lên ngang mặt,



nhắm chặt mắt và thở thật chậm. Gió vẫn đang rít lên bên ngồi, những


mảnh vỏ ngô bị cuốn lên, đập cả vào tường nhà lẹt xẹt...


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<b>CON DÊ B</b>

<b>N M</b>

<b>T </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Hơm nay nhà Thèn Kháy Chỉ ở Chín Chải cưới vợ cho con trai. Ai chà,


cưới đứa đầu tiên có khác, mổ hẳn hai con bị, mâm bát linh đình từ ba


ngày trước, người ra người vào nườm nượp.


Buổi sáng, Thèn Kháy Chỉ giao cho thằng con đang học lớp bảy trường


nội trú huyện mang giấy bút ra ngồi đằng sau cái bàn gỗ kê ngồi cổng,


cịn thằng em nó thì cầm một cái túi trước là túi đựng cám con cị mua về


ni lợn cưới đứng bên cạnh, miệng túi mở sẵn ra. Thế là thành lệ rồi.


Trước, đi đám cưới, người làng có gì thì mang nấy, chục con gà con nhốt


trong lồng làm giống cũng được, một cái chảo cũng được, thậm chí nhà


nghèo quá thì vót cho mấy cái cặp bếp, mấy cái mi, thìa gỗ. Bây giờ thì


theo nhau, đi mừng đám cưới bằng tiền. Nhiều ít, giàu nghèo gì cũng đưa



tiền hết.


Thằng Chính nhận tiền, đếm, vừa ghi vào giấy vừa nói to: Ơng Dùng ở


Chín Chải: năm nghìn; bà Phường ở Sính Lủng: mười nghìn... Ghi xong,
đưa tiền cho thằng em, thằng em bỏ luôn vào túi cám con cị. Hai anh em


chúng nó ngồi đếm đếm ghi ghi được một lúc thì mặt trời lên cao, nắng


rọi xuống bỏng cả mặt. Người thì mỗi lúc một đơng, thỉnh thoảng thằng


Chính dừng lại, vặn vẹo cổ tay cho đỡ mỏi. Anh Dí ở Chín Chải: Hai...


hai... hai trăm nghìn đồng. Thằng Chính lắp bắp rồi hô to. Đám người
đứng sau chờ đến lượt ồ lên, rồi một người, hai người mở miệng: "Ai chà,


con nhà giàu mà". "Phải rồi, hai trăm nghìn chứ hơn nữa cũng chẳng là gì
đâu". "Nhưng làm thế chẳng phải đập vào mặt bằng này người già hay


sao?". "Ừm, khoe đấy. Giàu mà không lấy được vợ thì giàu làm gì?".


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

tức quá lườm người nói một cái rồi nghênh ngang đi vào trong nhà.


Người vừa nói là Chảo A Chai người Xà Tủng Chứ.


Thằng Dí ấy, đúng là con nhà giàu. Từ bé đến lớn mỗi bữa nó ăn một bát


thịt đầy, cơm chỉ dính mấy hạt dưới đáy bát. Bố nó, Thèn Văn Dấn bảo,



tao khổ mãi rồi, giờ phải để chúng mày sướng. Cứ ăn đi, ăn được bao


nhiêu tốt bấy nhiêu. Nhưng không biết tại sao, ăn nhiều thế nhưng thằng


Dí vẫn khơng lớn được. Mười sáu tuổi mà chỉ bằng đứa mười ba, chân


tay, mặt mũi trắng như cỏ mọc trong nhà.


Thèn Văn Dấn, một buổi sáng ngồi ăn thịt chó dưới phố huyện thấy mấy


thằng trai phóng xe máy vèo vèo, phụt khói vào mặt mình, bèn đặt chén


rượu đánh cộp xuống bàn, đưa tay lên mồm chùi chùi, lẩm bẩm: "Phải


rồi, phải rồi". Nói xong, đứng dậy trả tiền rồi lên ngựa đi một mạch về


Chín Chải. Lại từ Chín Chải ơm một bọc tiền quay xuống phố huyện.


Năm nay thảo quả được mùa, mấy cọc tiền cao lừng lững xếp đầy trong


tủ lấy đi chục triệu chỉ vơi một ít. Dấn lững thững cưỡi ngựa đến thẳng


hàng xe máy, chỉ vào một chiếc màu đỏ. Ai chà, đúng là nhà giàu đi mua


dê, cái xe giá sáu triệu đồng, Dấn trả luôn, khơng nói một câu. Chủ hàng


xe máy cười tít mắt, sai thằng con: "Đi đổ đầy bình xăng rồi đưa bác về


tận nhà, nghe chưa". Thế là Dấn buộc ngựa vào cái cọc sắt trước cửa hàng



xe máy, leo lên sau xe, phóng về Chín Chải. Đấy là cái xe máy đầu tiên


xuất hiện ở Chín Chải.


Dân Chín Chải vứt cày vứt bừa nháo nhào chạy đến xem cái xe mới cịn


bóng lừ. Mấy ơng già đưa tay sờ, miệng xuýt xoa. Dấn nói to: "Cái xe này


mình mua cho con trai đấy, đứa gái nào muốn làm vợ nó thì ngồi ở chỗ


này". Nói xong, đưa tay vỗ vỗ lên yên xe, cười kha kha.


Thế là từ đấy, phiên chợ nào thằng Dí cũng dắt xe từ gầm sàn ra, nổ máy
ầm ĩ rồi phóng vèo vèo ra đường nhựa. Nó bé người quá, ngồi trên yên xe


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

đứa gái, mỗi phiên một đứa, đứa nào cũng mặt đỏ nhừ, cười tít mắt.


Qua sáu phiên chợ thì vợ chồng Dấn phải đi tìm bà mối, nhờ hỏi vợ cho


con trai.


Bà mối đến nhà Thào Chá Cáy. Hai vợ chồng Cáy đang ngồi tẽ ngô


giống. Thấy bà mối vào, lẳng lặng đứng dậy, khơng nói khơng rằng. Bà


mối ậm ừ lấy giọng:


- Ơng Cáy bà Cáy à, nhà ơng Dấn túng bấn quá không biết nhờ vả đâu,


nay nhờ tơi đến nói với ơng chia cho ít thóc giống.



Ơng Cáy:


- Thóc thì có đấy nhưng khơng được tốt lắm, gieo nó xuống cịn phải mất


cơng chăm bón nhiều, khơng dám chia cho nhà ấy đâu.


Bà mối:


- Hạt giống chưa tốt nhưng có mảnh đất tốt, có tấm lịng rộng rãi thì


khơng sợ gì mất mùa ơng ạ.


Bà Cáy:


- Không dám đâu, không dám đâu. Nhờ bà về nói hộ, núi ấy cao q, nhà


này khơng trèo được.


Bà mối cầm chén nước, uống ực:


- Thế là ông bà chê rồi, tôi về vậy. Nhưng... tại sao chứ, chê thằng Dí bé


quá hay là...


Bà Cáy đứng dậy, đi ra góc nhà, vớ con dao dài, ngồi xuống thái dọc


mùng xoèn xoẹt. Ông Cáy hút mấy điếu thuốc lào, thấy bà mối vẫn chưa


chịu đứng dậy, bèn chép miệng:



- Nói cũng khó, khơng nói cũng khó. Thế này, tháng trước con Kía nhà


này bị ốm, tơi phải đi mời ông then về, ơng then bảo nó phải lấy một


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

- Dê trắng thì khó gì - Bà mối hấp tấp - Mấy con cũng được, dễ thôi mà...


- Không phải dê trắng bình thường, phải là dê trắng có bốn con mắt kia.


- Ầy, làm gì có dê bốn mắt?


- Là hai con mắt giả mọc bên trên này này, màu đen. Ơng Cáy đưa ngón


tay trỏ to tướng chỉ lên trên lông mày. Bà mối gật gật đầu, uống thêm


ngụm nước rồi ra về.


Chuyện nhà Cáy từ chối bà mối không gả con gái đã ngay lập tức ầm ĩ lên
ở Chín Chải. Thằng Dí thì phát ốm, cái xe máy đỏ chót dựng ở đầu hồi,


gà nhảy lên cục tác, phân vãi đầy trên yên cũng mặc kệ. Tìm đâu ra dê


bốn mắt bây giờ? Vợ chồng Thèn Văn Dấn nhìn thằng con trai cả ốm lăn


lóc cũng lừ đừ theo. Nếu mà có con dê ấy thì bao nhiêu tiền cũng mua,


khơng tiếc gì. Chỉ cần nó khỏi ốm, nó tươi tươi cái mặt lên, nó lại phóng


xe vù vù là được. Nhưng thằng Dí mỗi lúc một rũ ra như tàu chuối héo.



Trong khi đó thì con dê bốn mắt lại đang được buộc ở cổng nhà Cáy. Con


dê ấy của thằng Chảo A Chay người Xà Tủng Chứ. Chảo A Chay biết Kía


từ lâu, mê lắm, phiên chợ nào cũng lẽo đẽo dắt ngựa theo sau, nhưng từ


khi Kía ngồi sau cái xe đỏ chót của Dí, mặt đỏ dừ, mắt nhắm tít thì Chay


chịu, khơng sao đuổi kịp. Giờ thì... hà hà, Chay biết chuyện nhà Cáy, dắt


ngay con dê trong chuồng nhà mình ra, múc gần hết nước trong bể đá tắm


cho nó trắng tinh ra. Riêng hai con mắt giả thì lấy than tơ thêm cho đen


óng. Xong, Chay dắt con dê nghênh ngang trên đường núi, xuống Chín


Chải. Không cần bà mối, không cần bố mẹ, bố mẹ Chay chết hết rồi,


Chay ở với chú thím từ lâu, thế là Chay tự đi hỏi vợ.


Nhưng Chay khơng được đón ở nhà Kía. Bố mẹ Kía đồng ý, nhưng Kía


thì cầm một con dao nhọn hoắt, sáng lống, ngồi lì trong buồng, nói vọng


ra:


- Bố mẹ mà cho thằng ấy vào nhà là con đâm dao vào bụng, chết luôn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

- Mày đâm tao trước rồi muốn làm gì thì làm.



Nói xong, xơ cửa xơng vào. Nhưng Kía đang vén áo lên, chĩa mũi dao


thẳng vào bụng:


- Bố vào là con đâm ngay.


Ông Cáy sợ q, lại quay ra.


Kía khơng thích Chay. Đúng là Kía khơng thích Chay. Ngồi trong buồng


từ sáng đến tối, không ăn không uống mấy ngày liền, Kía chỉ nhìn ra lỗ


cửa mà nghĩ đến Dí thơi. Khơng phải vì Dí có cái xe máy đâu. Kía tự biết


mình, khơng phải Kía thích Dí vì Dí có cái xe máy, hay lúc nào trong cạp


quần cũng có một cục tiền dày cộp, mà vì cái gì cũng khơng biết nữa. Cái


mặt Dí trắng q, chân tay cũng trắng, người già bảo loại ấy không biết


làm, chỉ biết ăn. Mặc kệ, Kía vẫn thích thì làm thế nào. Dí có một cái đài


thu băng bé tí, phiên chợ nào Kía cũng hát cho Dí thu vào đấy, Dí bảo,
đêm về khơng nghe được Kía hát thì Dí khơng ngủ được. Kía hát:


Mây nắng bảo anh đi, mây mưa bảo anh về/Em đưa anh đến con đường


rẽ, con đường rẽ thụt sâu/Mây nắng bảo anh đi, mây mưa bảo em quay


lại/Anh buông tay em, tay như rụng/Như lá tre, lá gỗ lả tả rụng/Anh bỏ



tay em, tay như rơi/Như lá tre, lá gỗ lả tả rơi...


Dí đã cầm tay Kía rồi, làm sao Kía bng ra được nữa.


Một đêm, Kía đợi bố mẹ ngủ rồi lẻn dậy, tìm đến nhà Dí. Dí đang nằm


bẹp trong buồng, nghe tiếng rít lên lanh lảnh, ngay lập tức như chẳng ốm
đau gì nữa, vùng ngay dậy. Là tiếng gọi của Kía đấy, khơng lẫn đi đâu
được, chỉ có Kía mới biết nhét hai ngón tay vào mồm mà rít lên như vậy.


Dưới ánh trăng lờ mờ, hai đứa nắm chặt tay nhau. Kía khóc rịng rịng,


Kía đã mệt quá rồi, Dí cũng hết cả sức, cứ thế này thì chết mất. Kía hỏi:


- Nhà tìm được dê chưa?


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

- Thế mà lại có một con buộc ở cửa nhà mình.


Dí thảng thốt:


- Của ai? Của ai thế? Ai đã đến hỏi Kía làm vợ thế? Bố mẹ Kía nhận lời


rồi à?


Kía lắc đầu:


- Bố mẹ mà nhận lời thì Kía chết ln.


- Khơng được đâu. Chờ mình, bố mẹ mình thế nào cũng tìm được.



- Nhưng mình sợ lắm.


- Sợ gì?


- Sợ tìm khơng thấy, lại đi thích người khác.


- Khơng, Dí chỉ thích Kía thơi. Kía có chờ Dí khơng?


- Có chứ.


- Kía ơi, con dê ấy... của ai?


- Của thằng A Chai ở Xà Tủng Chứ.


Thế là Kía khỏi ốm. Biết Kía thật bụng thương mình, chờ mình thì gì mà


khơng khỏi ốm. Thế nên hôm đám cưới nhà Thèn Kháy Chỉ Dí mới đi
được chứ. Và Dí đã gặp thằng Chay, cái thằng có con dê bốn mắt.


Chẳng biết thế nào nhà chủ lại xếp cho Dí và Chay ngồi một mâm, một


mâm toàn thanh niên. Uống rượu, ngà ngà say, Chay xích lại gần Dí:


- Đã tìm được dê chưa?


- Hỏi làm gì. Dí xẵng giọng. Chay cười hề hề:


- Khơng tìm được đâu, đi hết dãy Hồng Liên cũng khơng có con thứ hai
đâu. Hỏi vợ khác đi thôi.



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

- Mình nói thật đấy mà, khơng lấy được nó đâu. Nhường cho mình là hay


nhất.


Dí chồm dậy, định tát Chay, nhưng Chay tóm được, vặn cho một cái, Dí


kêu oai ối.


Trên đường về, Dí đi trước, đứng đợi Chay dưới gốc một cây dẻ, chìa ra


trước mặt Chay một cục tiền dày cộp:


- Bán cho tao.
Chay thủng thẳng:


- Bán gì?


- Con dê, con dê bốn mắt của mày.


- Không bán đâu.


- Chê ít à?


- Khơng chê, cũng khơng bán. Phải để hỏi vợ chứ.


- Nhưng nó khơng thích mày.


- Lâu lâu khắc thích. Chờ mày lâu q nó khắc phải thích tao.



Chay nghênh ngang bỏ đi, mặc Dí đứng nghệt dưới gốc cây dẻ.


Mùa hè qua, mùa thu qua, mùa đông năm nay đến sớm, cây cỏ chết khô,


rau trong vườn các nhà cũng khơng cịn xanh được nữa. Mùa này là mùa


gia súc dễ ốm vì đói, mà đã ốm thì rất dễ chết vì bệnh tật. Đàn dê nhà


Chay đã phải bán gần hết cho mấy quán thắng cố vì chú thím sợ chúng


chết. Chỉ cịn mỗi con dê trắng của Chay. Chay dắt con dê trắng đi tìm cỏ.


Phải ăn cỏ khơ lâu ngày, lơng nó đã dựng cả lên, cái bụng chửa sắp đẻ mà


cũng hóp lại. Gió từ dưới sâu thốc hun hút, sương mù giăng giăng khắp


nơi, con dê vẫn cặm cụi nhặt từng lá cỏ cịn sót lại. Sờ bụng con dê thấy
đã căng căng, Chay định về thì Dí đến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Chay nhìn Dí cười khẩy:


- Đợi nó đẻ con rồi tao bán cho, chịu khó ni hai ba năm là được con dê


to thơi mà.


Dí bặm mơi, nhìn Chay chằm chằm.


- Sao thế, lại định đánh nhau à? Đồ trẻ con, trẻ con mà cũng đòi lấy vợ.


Năm nay mày mười hai, hay mười ba. Hở ?!



Chay cúi xuống, vuốt vuốt lưng con dê, cười ha ha.


Con dê đang đứng chênh vênh trên mép vực, chẳng để ý gì, vẫn cặm cụi


nhặt cỏ. Nó sắp đẻ rồi, nếu khơng đủ ăn thì nguy cơ sẽ không đẻ được.
Đột ngột, tiếng cười của Chay tắt lịm. Dí đã xơng đến như một con trâu
điên nhưng không phải xông vào Chay mà là xông vào con dê, Dí đẩy


mạnh, con dê chới với rồi lăn tịm xuống vực.


Chay ngồi khóc hu hu ở mép vực. Cịn Dí lững thững quay về. Dí khơng


nói cho Chay biết, Dí vừa đến nhà Kía. Lâu lâu khơng thấy Kía đến chỗ


hẹn, thấy nhớ quá, Dí phải đi tìm. Nhà Kía hơm nay có khách, khách


khơng ở Chín Chải cũng khơng ở Xà Tủng Chứ. Có một con ngựa tía cao


to lừng lững, lơng óng mượt buộc ở gốc cây lê, phải là một người trai rất


cao lớn, bắp chân, bắp tay cuồn cuộn mới cưỡi nổi con ngựa ấy. Không


biết người ấy có mang đến con dê bốn mắt nào khơng nhưng tận mắt Dí
đã thấy Kía mặt đỏ nhừ, mắt cười tít với người ta. Có con dê hay khơng


có con dê này thì cũng thế thơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>TI</b>

<b>NG </b>

Đ

<b>ÀN MÔI SAU B</b>

<b> RÀO </b>

Đ

<b>Á </b>




Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Dựng xong căn lều trên mảnh nương mới được người bạn nhường cho,


ông Chúng mang mấy chiếc nồi bé sang, cả gạo, muối, dầu thắp, cả một


con trong đàn chó canh nhà. Lúc bà hỏi ông, định đi luôn không về hay


sao mà mang lắm thứ thế, ông bảo phải qua sông, lại cũng xa nữa, nên


thỉnh thoảng ông phải ở lại. Thực ra chính ơng cũng biết đó chỉ là cái cớ,


chứ nếu ơng đi vắng thường xun thì nhà ơng như thiếu tường đất, mưa


khơng biết lấy gì che, gió khơng biết lấy gì chống. Chưa kể gần đây thỉnh


thoảng lại có nhà trong bản bị mất trộm dê lợn, có nhà đã mất cả bị. Thế


mà cánh cổng gỗ vào nhà đã có từđời ơng bà, chưa một lần thay, cài then


thì cũng chỉ để đánh lừa mắt thôi, người khoẻ xô nhẹ là bật ra ngay rồi.


Chẳng phải ông không biết lo việc nhà, chẳng phải ông bỏ đi để hàng


ngày được rượu thịt một mình. Lúc này ơng thấy trong nhà mình khó ở


q, giống như trời sắp dơng mà mấy ngày liền khơng mưa được. Nhìn


dáng con May ngồi thái dọc mùng trắng cho lợn mới thấy thời gian trôi đi



nhanh quá, thằng Trài cũng cao hơn con dao quắm dựng góc nhà rồi. Chỉ


phải lo cho hai đứa con một vài năm nữa thôi, đến lúc chúng như cánh


chim rời tổ thì với ơng sống hay chết, no hay đói, giàu hay nghèo cũng


chẳng cần phải nghĩ đến nữa. Cả bà chắc cũng nghĩ như ơng thơi...


Ơng Chúng sang nương, mấy ngày đầu nhà vắng quá, bữa cơm nào cũng


mang thừa bát đũa. Đến tối May sang ngủ chung với mẹ già. Thường thì


cứ phải đến lúc May chập chờn ngủ rồi mẹ già mới vào. Hôm nào mẹ


cũng phải đi một vòng xem lại cửa cổng, dập hết than trong bếp lị, mang


chó ra buộc gần chuồng ngựa. Lúc mẹ già vào, May ôm lấy mẹ thật chặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Đêm nay May đi ngủ muộn, phần vì nhà đã vắng càng vắng - thằng Trài


mang ngựa đi lấy giống, mẹ già đi xem bệnh cho trẻ con nhà Chứ - phần


vì ngồi kia, sau bờ rào đá, có tiếng đàn môi tự dưng cất lên, gọi mãi, gọi


mãi. Tiếng đàn ấy may gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần nào cũng đuổi sau


lưng, May đi nhanh thì theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ


lại dám theo về tận nhà người ta nữa. Đã mấy lần May đứng dậy, ngập



ngừng định đi ra cửa mà chân cứ run lên lại ngồi xuống. Chiếc khăn thêu
được vài đường đã nhầm, kim lại đâm vào ngón tay mấy lần. Sau rồi May


cũng giữ được chân mình mặc kệ tiếng đàn mơi ấy, dội lửa vào gộc củi


rồi vào buồng. Tiếng đàn còn quanh quẩn bên ngoài mãi mới chịu đi.


Tiếng bước chân ngựa cũng ngập ngừng. Đi ngựa là người ở xa đến rồi.
Đi xa mà đứng lâu như thế dưới sương có khi lại ốm.


May nằm mãi cũng chẳng ngủ được. Trên gác nhà, con mèo mẹ tha đàn


con đi đi lại lại suốt, lục sục trong đống ngơ bắp. Nhà khơng có đủ người,


gió lùa từ đầu hồi này tới đầu hồi kia, nghe mỏi cả tai. Nhằm mắt rồi mở


mắt, May cố khơng nhìn vào cái hịm gỗ to lù lù góc buồng. Trong cái


hòm ấy mẹ già cất một bộ váy áo đẹp lắm, thêu bảy màu như cầu vồng,


mẹ bảo bao giờ con May lấy chồng thì mẹ cho mang theo. Vậy mà mới
đêm hôm qua, lúc gần sáng May thức giấc lại thấy mẹ già mở hòm lấy bộ


váy áo ấy ra. Mẹ già định mặc váy áo đẹp đến thế đi đâu? Hết mùa cưới


rồi, họ hàng chắc cũng khơng cịn ai cưới vợ cưới chồng cho con nữa. Mẹ


già đi đâu? Hay là mẹ già định đi hội chợ 27 tới đây? Nếu thế thì... thì sao


hở May? Có phải vì bố bỏ sang nương khơng? Hay vì bố biết mẹ già định


đi hội chợ tháng 3 năm nay mà bố đi? Lâu lâu không nghĩ đến chuyện bố


mang gạo muối sang bên kia sông Nho Quế, bây giờ nghĩ lại mới thấy có
điều gì đó khơng bình thường, không giống như việc đàn ông các nhà


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

càng thấy khó tìm lối ra, càng khó ngủ. Tự dưng May lo lo, không rõ


mình lo gì, nhưng như có ai đốt lửa trong bụng. Ngoài hè, giọt sương
đọng trên mái tranh rơi xuống bể nước đá cạn khô càng lúc càng to, nghe


giống tiếng mưa lác đác.


Năm nay trời rét đậm hơn mọi năm, lại rét muộn nữa. Rét muộn thì sẽ rét


lâu rét dài, tháng ba tháng tư có nắng rồi vẫn rét. Ra giêng hoa đào hoa lê


mới đua nhau nở, ai cũng bảo năm nay Tết mùng năm tháng năm sẽ mất


vui. Nhưng Tết mùng năm còn lâu mới tới, trời thay đổi tính nết thì con


người khổ, khổ vì gieo hạt ngô lúa xuống đất mãi vẫn chưa thấy lá chồi


lên. Đất càng ngày càng khô đi. ở những nương đá mới xếp đất xẹp dí


xuống, đợi hạt giống đâm mầm lá lên mới bón thêm phân được. Nhưng lo


thì cứ lo vậy thôi, hội 27 vẫn chẳng kém vui hơn mọi năm đâu.Có tiếng


chó đầu nhà rên ư ử, đi quẫy đập vào tường đất lạch phạch. Ơng Chúng



về. Mẹ già mới về trước một lúc lập cập ra mở cửa, xuýt xoa:


- Về sớm thế? Sao không để sáng hẳn ra, sương tan cho đỡ lạnh.- ừ... -


Tiếng ông khàn khàn - Cũng định thế. Nhưng có mấy người trên Xíu cái


xuống sớm, bảo cho đi nhờ thuyền sang bên này, tiện thể về ln. ở nhà


có việc gì khơng?- Vẫn thế thơi, chỉ có mấy thanh chuồng ngựa sắp gãy.


Hơm nào ông về lâu lâu thì sửa nhé.


- Được rồi, cứ để đấy, tí nữa tơi sửa ln.ở nhà này thứ gì cũng cũ, cũng


già. Cả cái chuồng ngựa cũng thế. Ngày xưa bố ông Chúng dựng bằng gỗ


lim từ lúc con trai út chưa ra đời. Mấy chục năm rồi, khơng nhớ đã có bao


nhiêu đời ngựa, bây giờ mới hỏng cần phải sửa là bền q cịn gì.Trời


sáng hẳn, ơng Chúng đi một vòng quanh nhà, xem kỹ chỗ chồng ngựa


chuồng dê rồi mang dao, cưa ra sửa luôn. Bà ra theo ơng, xem có cần gì


thì giúp. Vừa làm ông Chúng vừa bảo vợ:


- Mẹ già này, năm nay xuân muộn, người đi chợ 27 đông lắm, nấu được ít


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

- Khơng phải nấu cũng cịn đầy kia kìa. Trước Tết nhà Sùng nhờ nấu mấy



nồi cho nó lấy con dâu mới, sau họ hàng giúp nhiều quá lại không dùng
đến.


- Thế thì bà mang ngựa thồđi bán nhé.


Giọng nói của ơng có gì khang khác, bà cảm thấy thế. Rượu nhà mình tự


nấu, để bao lâu cũng được, càng để lâu uống càng ngon. Mà từ giờ đến


Tết năm sau cịn có bao nhiêu dịp cần đến rượu, sao ơng lại giục bà đi


bán. Bà nhìn mãi sang ông nhưng ông vẫn cắm cúi làm, như khơng để ý,


như chỉ vơ tình nói ra chuyện đi chợ bán rượu. Ai cũng biết mang rượu đi


chợ 27 để người bán người mua uống cùng với nhau. Uống cho say rồi


người mua không nhớ trả tiền cũng được, mà nhớ nhưng trong túi chỉ còn


vài đồng không đủ mua túi muối, mang ra trả cũng được. Chợ ngày 27


nhưng từ 21, 22 đã lác đác có người, có rượu. Cả năm cúi mặt ngồi


nương, cúi mặt vì hạt ngơ hạt đậu, về nhà cúi mặt vì con lợn con gà, mãi


mới có lúc thảnh thơi. Khơng bị trẻ con quấn chân nên ở chợ mọi người


tha hồ chơi, tha hồ uống rượu. Đàn ông quên dao, quên nỏ, đàn bà quên


chảo cám, quên cái đũa cả, chẳng ai chê cười.



Giữa ông Chúng với vợ đúng là có bao nhiêu thứ khó nói ra thành câu


thành tiếng. Tất cả cũng chỉ tại một người mới đến, rồi lại đi trước Tết. Đi


ln thì thơi, đằng này còn hẹn ra xuân sẽ quay lại. Nếu đúng lời hẹn thì


người ấy cũng sắp quay lại rồi.


Trước Tết một tháng, đúng hôm mẹ già với May làm bánh khảo thì nhà


có khách. Khách ấy là mẹ Hoa. Lúc May ra mở cổng, May nhận ra mẹ


Hoa ngay, nhưng mẹ Hoa cứ đứng nhìn May mãi, nhìn khơng chớp mắt.


May khơng nghĩ mình lớn đến mức khó nhận ra thế. Ngay lúc ấy May đã


quay lưng đi như chạy vào nhà ngay, mặc kệ mẹ Hoa kéo lê cái túi to
đùng trên đất đi sau. Người May tự dưng nóng bừng lên, hai đầu gối run


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

thứ trong nhà lên, sẽ chẳng có thứ gì được ở yên chỗ của mình nữa. Sao


tự dưng mẹ Hoa lại về, sao không đi luôn. Chị em May đã sắp quên


chuyện cũđi, giờ lại phải nhớ hay sao?


Mẹ Hoa đi vào trong nhà, cúi đầu chào bốđang ngồi bên bàn uống nước.


Bố May nhìn ra:- à... lại về nhà đấy!- Vâng... mẹ Hoa lí nhí, đầu cúi thấp



hơn nữa, tay mân mê hai cái quai túi đặt trước mặt.


- Về làm gì? Bố hỏi mà như khơng hỏi


- Em... em về chơi thôi. Xem mọi người thế nào.


- Thế nào à? Chẳng thế nào hết. Người lớn thì già đi, trẻ con thì lớn lên...


Bố nói như khơng có người đứng nghe ngay trước mặt. Bố gọi May, gọi


thằng Trài. Chỉ mình thằng Trài vào, cịn May đứng đầu hồi, như khơng


nghe tiếng bố.


Mẹ già đi ra, bảo mang củi ướt ngoài chuồng ngựa vào cho mẹ gác lên


bếp lò, ghé vào tai May nói như mắng:


- Khơng được thế con gái à. Mẹ Hoa chứ có phải người lạ gặp ngoài
đường đâu. Lâu quá nó mới về nhà, nhưng con gái vẫn khơng qn đâu,


phải thế không?


May quay lại trả lời mẹ già:


- Con còn nhờ hơn cả mẹ, mẹ già ạ. Nhớ hết. Nhớ cả con bò bị người ta


dắt đi...- ầy, chuyện cũđừng nhắc nữa. Cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên


quên phải biết quên. Hôm qua trời mưa nước suối đục, nhưng không đục



mãi được. Con người cũng thế...Mặc kệ mẹ già nói gì thì nói, May cũng


khơng tự bắt mình qn được. May chạy ra chạy vào, hùng hục mang tất


cả số củi ướt ngoài chuồng ngựa vào chất cao gần chạm gác bếp ở sau lò.


Một thanh củi rơi cả vào chảo cám đang sôi sùng sục. Mặc kệ. Mồ hôi túa


ra trên mặt May, áo vay bê bết đất. Chuyến cuối cùng, thằng Trài đứng


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

- Chị là đứa trẻ con bốn, năm tuổi à?


May mím mơi. Thằng Trài người thì to thật đấy nhưng ý nghĩ thì bé, bây


giờ đã dám nói cái giọng ấy với chị nó rồi cơ đấy. May giằng tay em ra,


mang số củi ướt vào phía sau bếp lị, cầm lấy thanh củi trong chảo cám


quấy tung cả lên.


Mẹ già về làm vợ ông Chúng đã hơn hai chục năm. Ngày ấy cả vùng này


biết tiếng cô Mao đẹp người nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới


khơng ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cơ. Cả


vùng cũng chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu như


bố mẹ Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu nhà Chúng. Trước ngày



cưới, cả đêm tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức


trắng. Mờ sáng thì con ngựa ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất


lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn mơi nghe rất xa. Mao ngồi dậy, nhìn qua ô


cửa bé bằng hai bàn tay, thấy ngoài trời mù mịt sương ập xuống mảnh


sân, vườn, nhìn từ nhà ra bờ rào đã không thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa


kia lại giống như mũi tên xuyên qua thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa kia


lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày đặc, lao đến. Tiếng đàn mơi


buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hơm ấy Mao khơng bao giờ


nghe tiếng đàn Mơi dành cho riêng mình nữa.


Sau ngày cưới một năm, hai năm, rồi ba năm, chờ mãi mà vợ chống Mao


vẫn chưa có con. Lúc đầu nhà chồng còn chạy tìm thầy tìm thuốc sau


thấykhơng làm được gì đành thơi. Bố chồng, mẹ chồng nối nhau đi,


thương con dâu như con gái nên khơng đành mở miệng bảo con trai đi


tìm vợ mới, dù cả họ chỉ còn mỗi một người đàn ơng trẻ nhất là Chúng.


Cịn lại hai vợ chồng, bao nhiêu lần Mao nói với Chúng, hay là Chúng để



Mao về nhà mẹ đẻ, cho Chúng đi lấy vợ mới, nhưng Chúng không nghe.


Chúng phải giữ lấy Mao như giữ cánh cửa trong nhà mình. Chúng biết


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

có việc phải ra khỏi nhà Chúng cũng đều cố gắng nhanh nhanh cho xong


việc để còn về. Chúng sợ Mao ở một mình lại buồn, sợ Mao đắp nửa


chăn, nằm nửa giường lạnh không ngủđược.


Năm ấy, người ta mở đường lên Thượng Sơn, cả bản nhà nào cũng phải


có một người ra khuân đất đá. Ngày nào Mao cũng dậy sớm đồ xôi,


nướng gà cho Chúng ăn no, cịn gói để Chúng mang theo ăn trưa luôn.


Nhưng càng ngày con đường càng xa, làm xong không kịp về nhà, Chúng


phải mang gạo đi, đến cơng trường góp nấu cơm chung với người ta. Vài


ba hôm Chúng mới tranh thủ về được một lần. Lần nào cũng động viên


Mao chịu khó ở một mình ít ngày nữa, đường sắp xong rồi.


Nhưng cũng phải hết mùa khơ thì con đường nối mấy xã với nhau mới


hoàn thành. Căn nhà rộng vắng bóng Chúng lâu quá nên chỗ nào cũng


lành lạnh, ngày Chúng về Mao đang ốm, đã mấy hơm liền khơng ăn uống



gì.


Nhưng Chúng khơng về một mình. Đi theo Chúng cịn có một người cùng


trong đội dân công. Người ấy là một cô gái trẻ, trẻ hơn Mao mấy tuổi,


người miền xuôi.


Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của mình sang căn buồng của mẹ chồng trước


kia. Căn buồng thường xuyên được Mao quét dọn, nhưng thiếu người ở


nên cứ như cái nhà hoang. Lúc Mao mang cái hòm riêng từ ngày về nhà


chồng ra thì Chúng đứng ở cửa buồng, đưa tay ra như muốn giữ Mao lại.


Mao nhìn vào mắt Chúng, nhìn thẳng. Chúng khơng chịu được ánh mắt


Mao phải quay mặt để Mao bước ra. Đêm hôm ấy Chúng ngồi gọt chuôi


dao bên bếp lị, muộn lắm mà khơng đi ngủ. Mao dọn dẹp nhà cửa xong


cũng khơng đi ngủ mà mang bó mùng trắng ra thái. Hai người khơng ai


nói gì, chỉ nghe tiếng dao thái vào thân mùng phầm phập. Mao đứng dậy,
đổ dọc mùng vào chảo cám, cúi xuống đẩy mấy gộc củi vào sâu trong


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

Nhưng hai người ngồi cạnh nhau rồi mà Chúng vẫn cứ gọt mãi, gọt mãi



cái chi dao, gọt cả vào ngón tay, máu gứa ra. Đưa ngón tay bị đứt lên


miệng, Chúnh khơng biết bắt đầu như thế nào. Mao vẫn nhìn chằm chằm


vào bếp lửa, ánh lửa hắt lên mặt Mao đỏ hồng, tự dưng Chúng thấy sờ sợ


Mao, thà Mao cứ nói gì thật to với Chúng cịn hơn.


Từ hơm ấy nhà có ba người. Ba người ngủ ở ba cái giường, ba góc nhà.


Ba người khơng mấy lúc nói chuyện với nhau, Mao dưới bếp, Hoa trên


nhà, Chúng ngoài vườn, chỉ bữa cơm mới ngồi gần nhau. Đêm nào cũng


nghe thấy tiếng kọt kẹt từ ba cái giường. Dậy sớm hay dậy muộn thì cả ba


người đều quầng hai mắt. Sống thế thì khổ quá, rồi đến lúc ốm cả thì sao?


Một đêm, Chúng ngồi dậy, đi đến cửa buồng bên phải, cửa buồng cài chặt


bên trong, Chúng đứng một lúc lâu, khe khẽ ho, nhưng cửa vẫn đóng kín


cũng khơng nghe thấy tiếng người trong buồng thức dậy. Lúc ấy, buồng


bên trái tự dưng có tiếng khóc. Tiếng khóc của người đang úp mặt xuống


gối. Cửa buồng bên ấy lại không cài, chỉ khép hờ. Trời lạnh mà mồ hơi vã


ra đầm đìa trên mặt Chúng...



Sau khi con bé May ra đời, Hoa ở lại chứ không bỏ đi như Chúng nói với


Mao. Nhưng đúng là Hoa không quen làm nương, không biết trỉa đậu,


vun đậu, nhóm cái bếp lị cũng khơng nổi. May được hơn hai tháng tuổi


thì mẹ Hoa để May ở nhà với mẹ già rồi xuống phố huyện mở sạp hàng


bán giày vải, thỉnh thoảng mới về.


May bé như con mèo con. Từ sáng đến tối khuya, lúc nào cũng nằm trong
địu trên lưng mẹ già. Không biết bao nhiêu lần May ngậm hai bầu ngực


mẹ già, nhay đến bật máu vì thèm sữa. May lên hai tuổi, còn chưa trèo


qua được bậu cửa thì mẹ Hoa đẻ thêm thằng Trài. Thằng Trài lại ngồi


trong địu, thay chỗ của May, lại nhay bầu vú chưa bao giờ có sữa của mẹ


già.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

lại đi. Lần nào về cũng mang cho hai chị em May cả túi kẹo màu to


tướng, cả giày dép áo quần. Nhưng lần nào cũng vậy, chị em May lại


mang kẹo ra đổ vào máng ngựa, quần áo cũng không mặc đến, mặc váy


áo mẹ già dệt quen rồi. Quần áo mẹ Hoa mang về cứđể mãi trong hòm...


Năm May lên mười một tuổi, em Trài lên chín thì mẹ Hoa về nhà lần cuối



cùng rồi đi hẳn. Lần ấy mẹ Hoa ăn cơm rồi ngủ lại một đêm với ba mẹ


con. Bố May đi săn không về, chị em May đi ngủ sớm, sáng hôm sau


thức dậy đã không thấy mẹ Hoa đâu. Mẹ già cũng chỉ bảo là mẹ Hoa đi


sớm lắm, khắc tự dậy mở cửa rồi đi. Cũng đêm ấy, con bò cày bị mất


trộm, ai đó đã tháo thanh cài cửa chuồng, dắt bị đi. Nhà chỉ có một con


bị cày, mất bị thì người phải làm thay bò thôi. Gần trưa hôm ấy ông


Chúng mới đi săn về, May ôm lấy chân bố, kể chuyện mẹ Hoa về, chuyện


mất trộm bò. Khơng thấy bố và mẹ già nói gì với nhau về chuyện ấy. Mấy
đêm liền bố May không ngủ, ngồi uống rượu khan ngoài hè, xung quanh


là đàn chó con lớn con bé nằm chồng lên nhau.


Vụ mùa năm ấy, vụ sau nữa, hai bố mẹ May phải mang cuốc đi cuốc đất


thay bò. Bàn tay mẹ già đã chai càng thêm chai thêm, vết chai dày cộp


như miếng cháy trong nồi cám. Đêm nào mẹ già cũng lấy hai bàn tay đầy


vết chai ấy xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ.


Mẹ Hoa đã đi suốt bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng, ai cũng nghĩ là mẹ



Hoa không bao giờ về nữa. Mấy lần ông Chúng xuống huyện cũng không


thấy Hoa ngồi bán hàng ở đó. Bằng ấy ngày tháng, đủ cho bọn trẻ con sắp


thành người lớn cả rồi, Hoa còn trở lại. Chẳng lẽ giống như người đi mãi


mà không tới được nơi cần đến, không cịn sức nữa nên quay về tìm chỗ


nghỉ chân?


Mẹ Hoa về làm cái gia đình đang yên ổn như tổ chim trên cao lộn tung cả


lên. Hoa đã nói những gì ơng Chúng chẳng nhớ hết, vì ơng khơng muốn


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

với thằng Trài về xuôi thăm họ hàng, ăn Tết, thì ơng đã qt lên. Nhà ông


không phải vườn ổi hoang, ai thích đến hái thì cứ hái như trẻ chăn bị.


Nói với ơng khó q thì mẹ Hoa tìm mẹ già. Sau một đêm, thức dậy ông


thấy hai mắt mẹ già trũng xuống, tay bưng chậu cám run như phải cảm.


Ông cứ chờ xem bà có nói gì với mình khơng nhưng bà im lặng mãi, cắm


cúi làm, không buồn ngẩng mặt lên.


Mẹ già thì tránh mắt ơng, ơng lại tránh mắt mẹ Hoa. Mẹ Hoa vẫn đẹp như


bông lê đang độ nở rộ ngày trời ấm. Mẹ Hoa chỉ kém mẹ già mấy tuổi mà



trông như con gái của mẹ già. Có lúc mẹ Hoa nhìn ơng, nhìn muốn cháy


cả mặt. Lúc mẹ Hoa vén quần rửa chân, để lộ hai bắp chân tròn hơn cả


bắp chân con May, thì ơng xua tất cả những ý nghĩ lạ sắp đến trong đầu


mình đi. Mẹ Hoa lại vào ngủ trong buồng trái, không cần ai bảo. Từ ngày


mẹ Hoa đi, ơng ngủ một mình ở đấy. Bà Mao lấy cớ đã ngủ quen bên kia


với bọn trẻ con, dứt khốt khơng chuyển đồ sang lại nữa.


Ông lại ngồi uống rượu khan. Lưng áo ông lạnh buốt. Sau lưng ông là cửa


buồng trái khép hờ, trước mặt là ngọn đèn cạn dầu, ngọn lửa cháy đã có


mùi khét của bấc.


Mẹ Hoa khơng sao nói chuyện được với May. May tránh mặt mẹ đẻ. May


bảo với bố, mẹ Hoa chỉ như con thú hoang ở đâu lạc vào nhà mình thơi,


lúc nào khơng muốn ở nữa thì đuổi đi. May biết, lúc nào phía sau, bên


cạnh mình cũng có ánh mắt mẹ Hoa nhìn mình. Thằng Trài khác May, nó
đã chịu nói chuyện với mẹ Hoa. May đâm ra ghét cả Trài, hai chị em


cũng khơng nói chuyện với nhau nốt. Lúc nào May cũng chỉ thấy hai bàn


tay khô như hai cành mua cong queo, đầy vết chai dầy như miếng cháy



trong chảo cám của mẹ già trước mắt mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

trong ngực. Hai mắt mẹ Hoa - đôi mắt mà mẹ già vẫn bảo là thứ để người


khác nhìn vào nhận ra May - đơi mắt ấy đỏ như chảy máu, mí mắt sưng


to, hai gị má mẹ Hoa trắng nhợt. Nhưng May vẫn khơng nói với mẹ Hoa


một lời nào, miệng May như có ai khâu chặt lại.


May đã quay mặt đi, tránh ánh mắt mẹ Hoa, May khơng đủ sức nhìn lâu


hơn. Mẹ Hoa đã đi, một lúc đã không thấy đâu giữa những triền ngô xơ


xác vừa qua vụ thu hoạch. May vùng chạy ra khỏi nhà, chạy về phía con


suối nằm rất sâu trong rừng. Mẹ già đang giặt ở đấy, váy áo ướt đã phơi
đầy trên những tảng đá lớn trên bờ suối. May chạy xuống, ngã dúi vào mẹ


già, khóc ồ lên:


- Đi... đi rồi, mẹ già ơi! Mẹ Hoa ấy...


Mẹ già ôm lấy vai May. Nước suối lạnh buốt đập vào gờ đá, bắn ướt chân


váy hai mẹ con. Mẹ già khe khẽ thở dài...


May gặp người ấy rồi. Có một tối ngồi trong nhà, nghe tiếng đàn mơi gọi



mãi, giục mãi. May đã liều bước chân ra cổng. Người ấy ở Thượng Sơn


xuống, còn trẻ lắm, hơn May một, hai tuổi là cùng, nhưng May chỉ đứng


cao đến vai người ấy. Dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ May khơng nhìn
được rõ mặt, nhưng cảm thấy rất rõ ánh mắt như có lửa của người ấy nhìn


mình như thế nào. Đêm đầu tiên May chỉ dám đứng một lúc, run quá,


chạy vội vào nhà, May sợ mình đứng thêm nữa thì ngã mất. Dần dần đỡ


sợ hơn, May đứng thêm một lúc, có hơm sương rơi ướt vành khăn mới


vào nhà. Giờ thì May đã nhận lời đi hội chợ hai bảy với người ấy.


Ngày mai Chử đợi May ở ngã ba, từ ngã ba đến chợ còn một đoạn nữa,
đến nơi chắc trời cũng tối rồi. Cả đêm May khơng sao ngủ được. Đã cố


tình đi ngủ muộn mà đến lúc vào giường, nằm mãi vẫn chưa thấy gà gáy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

già khơng nói gì, chỉ dặn đến nhà người khác phải nhớ chào hỏi người


già, không được đi ngủ trước người già như ở nhà mình.


Trời mờ sáng May đã dắt ngựa ra. Con ngựa đen như hiểu ý May, ngoan


ngoãn để May đặt yên lên lưng.


May run quá, chỉ sợ gặp người quen trong bản, người ta lại kể với bố mẹ



thì thế nào cũng bị mắng vì tội nói dối. Nhưng sợ thì cũng cứ đi, có người
đi cùng mình cịn sợ cái gì. Không ngờ ở chợ ấy May gặp đến 3, 4 đứa


bạn gái cùng bản, đứa nào cũng đi với một anh con trai lạ. Nhìn thấy


nhau, khơng đứa nào nói gì, cứ làm như không quen, quay mặt đi mới


tủm tỉm cười. Đêm xuống, có một thanh niên đốt đống lửa to ở giữa bãi


cịn, ai có cái gì mang theo thì bỏ ra ăn chung. May và bạn May cũng


buộc ngựa một góc rồi ra đấy ngồi cùng. Xung quanh đống lửa càng lúc


càng đơng người, tồn con trai con gái trẻ. Giờ thì khơng thấy ai xấu hổ


nữa. Má đám con gái đỏ rực nhưng là vì ánh lửa. Ai cũng như mình thì


việc gì phải xấu hổ.


Sáng hơm sau, đúng ngày 27 tháng 3, mặt trời mãi mới nhô lên sau cánh


rừng đỏ rực. Chử kéo tay May ra phía người ta ngồi thành hàng dài, rượu
đựng trong can to để trước mặt. Nhưng ngồi uống rượu lâu cả buổi thì chỉ


có người già thơi, bọn thanh niên ghé qua một tí rồi tìm chỗ khác, ít bị


người ta nhìn thấy mà ngồi.


Vừa ngồi xuống một hàng rượu, chưa kịp nói gì với người bán thì đột



nhiên May kéo Chửđứng bật dậy:
Đi! Đi chỗ khác. Nhanh lên.


Vừa nói May vừa kéo Chử đi như chạy, xa chỗ bán rượu càng nhanh càng


tốt. May vừa nhìn thấy, May khơng nhìn nhầm, nhất định May không


nhầm, người mặc váy áo màu như cầu vồng ấy là mẹ già. Mẹ già đang


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

tấu có phải là bạn cũ của mẹ già? Là người thề không bao giờ chơi đàn


môi nữa từ ngày mẹ già đi làm dâu, có phải người ấy khơng?


May kéo Chử đi, cịn Chử nhìn May, nhìn mãi khơng nói được câu gì.


Nhà Chử chỉ có hai bố con. Mẹ Chử chết bệnh từ khi đứa con trai đang


bám bậu cửa tập đi. Lên sáu tuổi, Chử đã được bố dạy thổi kèn, lên mười


tuổi Chử đã theo bố lên nương. Biết chuyện, bạn May có đứa đùa, bảo


May về nhà ấy làm dâu thì sướng, vì Chử thổi kèn cịn hay hơn cả bố, vì


May khơng phải chiều mẹ chồng...


Muộn lắm May mới về tới nhà. Mẹ già đang ngồi hong tay trước cửa bếp


lò mới bén lửa, giục May lấy nước ấm đi rửa chân tay. Mẹ già đã mặc bộ


váy áo ở nhà nhưng lại quên thay thay khăn. May ngồi xuống bên cạnh.



Mẹ già bảo bố đưa mẹ Hoa xuống phố huyện chưa về, mẹ Hoa mới lên


chiều hôm qua. Mẹ Hoa lại lên. Chuyện ấy có đáng nghĩ đến khơng? Sao


mẹ già chẳng nói gì thêm? May ngập ngừng:


- Mẹ già định... định thế nào?


- Thế con gái bảo mẹ phải làm gì? Mẹ già quay sang nhìn May rồi lại


quay đi, cằm tì lên hai đầu gối, tay cầm thanh củi dụi mãi vào bếp lò đang


cháy to dần, một lúc lâu mới tiếp:


- Con gái à, làm dâu mà khơng làm mẹ thì chỉ là cục đá kê chân cột nhà


chồng thôi. ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là cục đá


kê cột thế thơi...Nghe mẹ già nói May ứa nước mắt ra. Vậy là hai mươi


năm nay mẹ già vẫn nghĩ đến chỉ là cục đá, mẹ già không nhận chị em


May hay sao? Mẹ già định trả chị em May cho mẹ Hoa như người ta


mượn ngựa rồi trả ngựa hay sao? Trả xong rồi thì mẹ già làm gì nữa?


Chẳng lẽ bằng ấy tuổi rồi còn định sang nhà khác tiếp tục làm cục đá kê


cột? May kéo ghế ngồi xích lại gần mẹ già hơn một tí, khơng biết nói gì



</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Khuya rồi vẫn khơng thấy bố về. Bây giờđường tốt rồi, người ta đi về chỉ


mất chưa hết nửa ngày, vậy mà bố đi lâu thế? Chẳng ai bảo ai nhưng hai


mẹ con đều có ý chờ, chờ đến tàn gộc củi mới đi ngủ. Nhưng vừa nằm


một lúc, chập chờn ngủ thì May nghe có tiếng đàn mơi cất lên. Tiếng đàn
ở ngay ngồi cổng gỗ chứ khơng gọi ở đầu nhà như lần trước. May định


mặc kệ, vừa mới chào nhau, mùi tóc quen quen còn chưa bay hết, lại


buồn ngủ nữa. Nhưng tiếng đàn cứ gọi mãi, gọi mãi, mà tiếng đàn môi
đêm nay cũng có gì khang khác, dài hơn trầm hơn, ngập ngừng hơn, vẫn


tràn qua bờđá vừa dày vừa cao như suối chảy. Nghe bao nhiêu lần mà lần


nào May cũng hồi hộp, tim đập thình thịch. Đột nhiên mẹ già khẽ khàng


ra khỏi chăn, chắc lúc đi ngủ mẹ qn chưa buộc con chó ra ngồi chuồng


ngựa rồi. Đợi mẹ mở cửa, May cũng tung chăn ra. Ra bảo Chử về đi thôi.


Về nghỉ mai còn đi làm chứ.


May đi như chạy ra sân, đầu va cả vào dây phơi treo đậu tương định ra rồi


vào luôn để mẹ già không biết. Nhưng vừa đi qua sân bất chợt May sững


lại. Ngay trước mặt May, cách chỉ hai bước chân là mẹ già. Mẹ già quay



lưng lại phía May, đầu cúi xuống, tấm khăn tuột trên vai, tay mẹ già đang


nắm chặt thanh gỗ gài hai cánh cổng...


May bíu lấy gốc cây lê, cố thở thật khẽ. ánh trăng cuối tuần mờ quá. Gió


lạnh từ trong khe núi ào ra, mấy chiếc lá lê già cịn sót lại rụng nốt, quệt


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<b>SAU NH</b>

<b>NG MÙA TR</b>

Ă

<b>NG </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Khơng hẹn trước mà lần nào trở về tôi cũng gặp trúng mùa trăng. Mùa


trăng có ý nghĩa với người miền núi nhiều lắm. Thường thì người ở trên


nương cứ thấy khói bếp dưới bản bay lên là bảo nhau về, nhưng vào mùa


trăng thì ai cũng cố nán lại. Thêm một gùi, hai gùi cũng cố, vì người già


bảo hạt lúa, bắp ngô cuối ngày bao giờ cũng mẩy hơn, chắc hơn buổi


sáng. Thế nên nhiều hơm về đến nhà thì trẻ con đã ngồi chờ cơm gà gật


bên bếp.


Đã mấy lần trăng lên rồi trăng tàn tôi không về. Mấy mùa trăng là mấy


lần mẹ mang mẹt thuốc ra phơi, rồi lại mang vào cất đi. Ngày tiễn tôi đi,



cha tơi bùi ngùi: "Mày đi thì tốt cho cái thân mày chứ ởđây mãi cũng như


tao, như anh mày thôi, tóc bạc, mỏi chân, cũng chỉ có chín bậc cầu thang


với cái ngưỡng cửa. Cố mà học lấy cái khôn vào đầu nhưng phải nhớ giữ


cái lưng cho thẳng, giữ cái đầu khơng cúi xuống... Lìn à". Lúc ấy, nhìn


vào mắt cha, tơi đã định khơng đi, nhưng cha đẩy tơi lên xe. Khơng ngờ
đó là lần cuối cùng tơi nhìn thấy cha. Vào đời, chưa kịp học lấy cái khôn


vào đầu cho "mắt sáng ra, cho miệng rộng ra" để mang về khoe với cha


chì cha đã ra đi, sau cái chết đột ngột của anh Lân tơi. Từ đó, mỗi khi nhớ


về căn nhà rộng thênh thang của mình, tơi khơng hình dung nổi nó ra sao


khi thiếu vắng bàn tay sắp đặt kỹ lưỡng của cha.


Về đến con suối đầu bản tôi gần như vấp phải một người đang ngồi trên


phiến đá rộng như mặt bàn. Một chàng trai còn rất trẻ, hai bắp vai vồng


lên dưới lớp áo tà phủ cịn thơm mùi lá nhuộm. "Làm gì mà ngồi ở đây


một mình thế?". "Ngồi chơi trăng lên thôi". "A, lại thổi khèn gọi con gái


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

cạnh anh ta, để nguyên cả giày sục xuống suối. Nước suối ấm, chầm



chậm uốn quanh bãi lanh mọc cao hơn đầu người. Vì thế về bản phải lội


hai lần trên cùng một con suối. Ngày nhỏ, anh em tôi với lũ bạn cứ nằm


xồi ra, để nước cuốn trơi từ trên xuống dưới bãi lanh, đập nước mỏi chân


vài lần là biết bơi.


Một tốp con gái đi nương về lội ào qua mặt tôi, phảng phất mùi của lá dẻ


khô, mùi nương đồi, mùi cỏ cháy, bng lời chịng ghẹo. "Hơm nay lại có


thêm một người nữa à. Anh gì ơi, đến Vần Chải tìm ai đấy?". "Chắc là


tìm đứa con gái đẹp nhất rồi". "Thế thì khơng có đâu. Con gái Vần Chải


ai cũng đẹp như nhau mà". Tiếng cười rộ lên, khuất sau bãi lanh rồi vẫn


nghe tiếng cười, cả tiếng hát cất lên: "... Dêu hẩn lầu tẩu lốc, bản nuông


bàu mi lóc. Lóc hẩn lầu tẩu lải, bản nng bàu mi vai..." (Bản em khơng


có nắng, lấy trời râm làm cảnh đẹp. Bản em khơng mưa phùn, thì chàng
ơi hãy về)... Tiếng hát bay lên, dội vào vách núi cao ngất, xao động cả
đêm đang xuống. Tôi đi qua bãi lanh, cảm giác hơi ấm của đám con gái


vừa đi qua vẫn còn phảng phất.


Đến đoạn suối thứ hai, định lội ào qua rồi về nhà mình ln thì tơi bắt gặp



một người đang dầm mình dưới chỗ nước sâu. Trên bờ, một gùi củi cao


ngất dựng cạnh bụi cây. Tôi ngồi thụp xuống sợ bất chợt người con gái


quay lại nhìn thấy mình thì khó xử quá. Trăng đã bắt đầu lên phía sau


ngọn Tạ Đú làm cả đoạn suối sáng bừng lên. Người con gái có đơi bờ vai


rất tròn, cái cổ cao mà trắng như đá núi vỡ. Tôi nghe rõ cả tiếng khoả


nước... Đang định đứng dậy, quay lại chỗ ban nãy, chờ cho cô gái đi


trước rồi mới về. Thì cơ gái đã đứng lên. Tơi cứng đờ như thằng ăn trộm


bị bắt quả tang. Cô gái ú ớ không thành tiếng một lúc rồi kêu lên: "Ơi,


chú Lìn. Chú Lìn phải khơng? Làm chị hết cả hồn. Chú về sao không báo


trước cho mẹ mừng?". Tơi líu ríu: "Chị dâu! Sao đi nương về muộn thế,


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

khác". "Đưa gùi em mang cho." "Thôi, chú không gùi được đâu. Lâu lâu


khơng gùi cái gì thì đau vai lắm.". Chị cúi xuống xốc gùi củi lên vai. Gùi


củi cồng kềnh lại nặng nên cả người chị phải lao về đằng trước. Đi sau,


tơi nhận ra hơi nóng từ cơ thể chị làm cho váy áo ướt như có sương mù


bay lên. ở miền núi, con gái phải tập gùi từ lúc 8, 9 tuổi. Gùi mãi, đủ thứ



trên lưng, già rồi vẫn gùi nên bao giờ lưng cũng cịng sớm hơn lưng đàn


ơng. Chị dâu tơi cịn phải gùi nhiều hơn người khác, gùi thay cả mẹ, thay


cả tôi. Chẳng biết đến bao giờ mới thôi không phải gùi nữa. Từ sáng sớm
đến tối mịt, cái lưng chỉ thẳng ra mỗi lúc ngủ.Hai chị em mải miết đi,


phía sau tiếng khèn lá đã cất lên.


Nhà tơi có ba anh em, anh cả, tôi và em gái út. Tôi với anh giống nhau y


hệt. Ngày nhỏ, nghe hàng xóm hay đùa bảo mẹ tơi phải lấy nhọ nồi bơi


lên mặt một đứa để cịn biết đâu là anh, đâu là em. Hai đứa đã cãi nhau


mà cãi không xong là đánh nhau. Vì chẳng đứa nào chịu nhận mình là


người phải đánh dấu. Lớn lên tí nữa thì tơi lại cao vượt lên. Mười tám


tuổi anh Lân mới chỉ đứng đến tai tôi. Ngày anh cưới vợ, tôi đã biết cầm


dao chọc tiết con lợn gần một tạ, anh em thơi khơng cịn cãi cọ nữa.


Nhưng tơi đi chưa đầy năm thì anh bị lợn rừng húc chết trong một đêm


lên nương canh ngơ. Cha tơi đau buồn suốt mấy tháng trời vì chưa kịp có


cháu nội. Khơng riêng gì cha mà cả họ đều trông chờ vào anh Lân.


Nhưng chị dâu lúc ấy còn đứng thấp hơn cái khung cửa vài gang tay, một



tay tôi cũng đủ sức nhấc bổng chị lên. Khơng biết có phải vì thế mà anh


chị chưa kịp có con hay không?


Tôi bước lên cây cầu thang quen thuộc, kịp nhận ra sự thiếu vắng bóng
đàn ơng ngay trong ngơi nhà của mình. Một bậc cầu thang bị vỡ ra một


miếng từ bao giờ chưa có ai thay, cái cặp tre cời bếp cháy nham nhở gần
đến tay cầm vẫn cố dùng, cần giã gạo long ra, để chỏng chơ... ở nhà thì


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

ơng, đàn bà có đến cũng chỉ được ở dưới bếp, trưởng họ có nói gì khơng


thuận tai cũng phải nghe theo. Lâu nay mẹ tôi đau yếu thế, chắc chị dâu


cũng chẳng bao giờ mặc váy áo đẹp đi đâu.Mẹ sờ nắn khắp người tôi, bắt


tôi ngửa hai bàn tay xem vết chai còn hay mất, nhìn tơi chăm chăm suốt


bữa ăn. Dường như mẹ vẫn chưa hết ngỡ ngàng vì sự trở về đột ngột của


tơi. Tơi đã xa ngơi nhà của mình quá lâu, lâu đến nỗi quên cả chỗ ngồi


của mình trên tấm phản lớn nhất bên bếp.


Chị dâu mở tủ, lấy gói chè gói kỹ trong mấy lần giấy ra pha. Chị biết tôi


nghiện chè, mà phải thứ chè nhà tự sao lấy. Thỉnh thoảng có người xuôi,


tôi lại nhận được chè chị gửi. Chè ở đây mọc hoang. Dưới thấp người ta



còn chặt đi để lấy chỗ trồng thứ khác chứ trên cao, tít trên đỉnh núi mặc


kệ, muốn lớn đến đâu thì lớn. Mùa xn nhà nào có người hay uống chè


lại mang gùi lên lấy về mà sao. Đi hai lần là đủ chè uống cả năm, uống
đến mùa xn năm sau.


Mí quấn lấy tơi một lúc lại bỏ sang ơm cổ chị dâu địi đi ngủ. Ngày chị về


nhà tơi Mí mới được hơn 2 tuổi vẫn chưa rời vú mẹ, nó quấn quýt với chị


cho đến giờ. Cả nhà chỉ mỗi mình Mí dứt khốt khơng gọi chị dâu mà gọi


chị gái, mẹ nói thế nào cũng khơng nghe.


Tơi bảo với mẹ rằng lần này tơi về để đón mẹ xuống ở với tơi, lần sau thì
đón cả chị dâu, cả em Mí, tơi muốn mọi người ở bên mình, muốn mọi


người hết khổ. Mẹ nắm chặt đôi tay trên đầu gối: "Đấy là những gì mày


học được từ khi ra khỏi nhà phải khơng Lìn? Mắt mày sáng ra bằng nào


tao chưa thấy, chỉ thấy mày quên hết lời cha mày dặn thôi, quên cả lời


hứa khi nào tinh như con cắt lúc rời tổ mày sẽ về, sẽ lấy vợ, có nhiều con


trai. Mày nói ở quê khổ quá à? Khổ mà tao vẫn sống đến giờ, khổ mà trẻ


con vẫn lớn được! Khơng có ai chết vì khổđược đâu, chỉ có chết vì trong



</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Tơi muốn bảo mẹ rằng ý tôi không phải như mẹ nghĩ, nhưng không mở


miệng được. Mẹ không cần tôi cho mẹ cuộc sống khác, mẹ cần một đứa


con trai để ngày mưa gió có người dọi nhà, có người chèn cửa. Chị dâu


khẽ khàng lên tiếng: "Chuyện ấy để mai hẵng nói, chú Lìn đi nghỉ kẻo


mệt". Chịđã trải chiếu, mang chăn ra chỗ ngủ cho tôi từ lúc nào. Mệt, đau


nhừ, mỏi rã rời mà không sao ngủđược.


Đã gần giữa thu, trời bắt đầu lạnh, những cơn gió hun hút luồn qua vách


nứa. ánh trăng sáng trắng lọt qua ô cửa nhỏ, hắt cả một quầng sáng vào


trong nhà. Cả bản tơi nằm gọn trong một thung lũng, bốn phía là rừng,


qua rừng đến nương ngô, nương lúa, qua nương lại đến rừng rồi đến bản


khác? Bản ở dưới thung lũng nên ngập trong ánh trăng. Ban đêm, những


nếp nhà sàn lô nhô lẫn vào rừng cây trông không rõ đâu là nhà, đâu là


những tán cây rậm rì, cao vút. Giữa mùa, trăng cứ rọi vào nhà cả đêm,


trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau. Đêm trời càng gió, trăng càng


sáng thì hơm sau càng nắng to.Hồi còn ở nhà, mùa trăng nào tôi cũng



bám áo anh Lân tìm đến nhà nào có con gái đẹp thổi sáo suốt đêm. Anh


Lân thổi khèn lá tài lắm, phiên chợ nào cũng có con gái quấn theo mãi, tối


không về được. Thế mà về bản, đứng ở đầu hồi nhà người ta có khi ba
đêm liền cũng không thấy ai ra. Ba đêm khơng được thì bảy đêm, bảy
đêm cũng không được là hỏng rồi, sang nhà khác thôi. Lần anh đến nhà


chị dâu tôi bây giờ cũng hết đêm thứ bảy mà khơng được gì đã định bỏ.


Cả ngày hơm sau anh bỏ cơm, gắt om xòm. Đến đêm thứ tám lại mang


mũ nồi giấu dưới gối, đi. Đêm thứ chín, trăng lên muộn lắm, tơi đã thiu


thiu ngủ lại thấy anh dậy mặc áo. Anh bảo: "Thôi đêm nay mày đừng theo


tao nữa, muộn rồi. Tao đi, có khi ngủ ln ngồi rừng khơng về". Gần


sáng thì anh về, lật chăn ra, bắt tôi dậy để anh cho xem chiếc khăn tay


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

rào rào ngồi sơng, tiếng trâu thở phì phì đuổi muỗi, tiếng chim lợn rít lên


cuối rừng... và càng rõ hơn tiếng khèn lá từ ngoài suối vọng vào. Tiếng


khèn lúc gần lúc xa, lúc như tiếng gió dài lê thê, lúc ào ào như nước lũ,


lúc cao vun vút, rộn rã như cánh chim buổi sớm... Tiếng khèn như thế nói
được nhiều điều lắm, đủ để cơ gái nào đó hiểu rằng chàng trai sẵn sàng



làm tất cả vì cơ, đổi tất cả những gì mình có để lấy ánh mắt của cơ, bán


tất cả để mua nụ cười của cô. Chàng trai ấy sợ đôi chân cô dẫm phải đá


sắc lên nương, sợ gai cào tay cô, làm rách vành khăn của cô lúc vào rừng.


Chàng trai ấy nhìn cơ cười để vui, nhìn cơ khóc để buồn... Khơng biết


chàng trai có đơi tay nổi bắp cuồn cuộn ấy gọi ai.


Đột nhiên có tiếng cọt kẹt của sàn nhà. Chị dâu từ trong buồng rón rén


bước ra, vừa đi vừa vấn lại mái tóc dài đến eo lưng. Tự dưng tôi run bần


bật, một cảm giác đau buốt nhói lên phía ngực. Tơi nhắm nghiền mắt.


Hẫng hụt, như người rơi xuống đáy sông sâu hun hút...


Kéo chăn lên ngang mặt, chỉ hở hai con mắt tôi cố nén để không vùng


dậy. Nhưng chị dâu chỉđi ra bếp thổi lửa, mang lanh ra quấn. ánh lửa bập


bùng hắt lên gương mặt trịn của chị. Hình như đến giờ tơi mới thực sự


hiểu ra vì sao ngày xưa anh Lân có thể thổi khèn lá tới đêm thứ chín. Đơi


gị má căng, đỏ rừng rực, khuy áo bên trên bật ra trễ nải, để lộ ba ngấn cổ


cao trắng ngần, khuôn ngực phập phồng nhè nhẹ... Tiếng khèn mỗi lúc



một réo rắt, đôi tay chị quấn lanh nhanh hơn, cuống quýt mà ánh mắt thẫn


thờ. Được một lúc, chịđứng dậy với thúng ngơ trên gác xuống tẽ... Tiếng


gà rừng tít thăm thẳm xa đã eo óc gáy. Răng cắn chặt mơi tê dại. Lát sau


tôi thiếp đi mãi đến lúc nghe tiếng cối xay ngô rền rĩ dưới gầm sàn mới


tỉnh dậy. Chị dâu đã trở lại vẻ hoạt bát, thậm chí tơi khơng dám tin chắc


có tiếng khèn đêm qua, nếu như cuộn lanh không rối tung nằm đó... Chị


mang ấm nước nóng ra pha cho tôi rửa mặt: "Đêm qua ngủ có phải co


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

à. Lâu quá mới ngủ được một giấc ngon như thế". Chị dâu cười. Tơi thấy
đầu óc váng vất.Trời cịn chưa sáng rõ chị dâu đã xay ngô xong. Mẹ tôi


bảo: "Năm nay nhà mình làm cốm được đấy con dâu?". "Vâng, có chú


Lìn về mà!". ở q tơi, mùa cốm là mùa hội. Sáng mười bốn âm lịch, mặt


trời còn chưa lên đã mang đòn gánh lên nương lúa cao nhất "tan" lúa về.


Buổi chiều, đàn ông xuống gầm sàn tìm chỗđắp bếp đất, đàn bà nhóm lửa


nướng thóc non. Đêm xuống trăng lên thì con trai con gái trong bản kéo


nhau tới giã cho từng nhà. Giã cốm thâu đêm, hết cốm thì cho rơm vào


giã, giã để cịn được ngắm nhau, được nói lời hay với nhau mà không sợ



ai nghe mất. Thế nên sáng hơm sau về nhà có ai hỏi đêm qua giã được


mấy mẻ cốm, cốm năm nay có ngon hơn năm trước không cũng chẳng


biết. Mấy năm rồi, đến mùa cốm chị dâu chỉ mang một cum sang gửi


hàng xóm lấy cốm cho cái Mí ăn chứ nhà khơng làm.Chị dâu đi đến trưa


mới về, bốn cum thóc nếp cịn xanh mọng nặng trĩu hai đầu đòn gánh. Mẹ


kêu lên: "ấy da, lấy về nhiều thế con dâu? Định cho thằng Lìn ăn cốm


thay cơm thay thịt hay sao?". "Để chú Lìn khỏi qn mùi núi rừng thơi


mẹ à".Chập tối, hai chị em đắp bếp, nướng thóc, xếp sẵn một lượt vào cối


dài thì đám thanh niên tới, chia ra mỗi bên hai, ba đứa con trai con gái


xen nhau. Đứa con gái có cái lúm đồng tiền cất tiếng hát, hát xong, bọn


con trai nhấc chày lên, lúc con trai giã xuống, bên kia con gái nhấc lên.


Vừa giã vừa chòng ghẹo nhau, thỉnh thoảng lại rúc rích cười. Một đứa


con gái nói to, át cả tiếng chày thụm thụp: "Chị Lân à, làm sao con gái có


chồng rồi mà cứ đẹp mãi, ngày càng đẹp thế". "Em nói ai?". "Cịn ai nữa.


Bao nhiêu đứa muốn hỏi chị đun nước lá gì gội đầu mà tóc đen thế, nhiều



thế, đun củi gì mà má hồng thế đấy!". "Chỉ nói lung tung thôi. Chị già rồi


mà". "Không già tí nào đâu chị ơi. Cứ đẹp mãi thế lại khối người Vần


Chải khổ thôi". "Bậy quá. Không được đùa thế đâu". Mặc kệ, tiếng cười


vẫn cứ lanh lảnh. Chị dâu bối rối, sảy mẹt cốm vãi cả ra ngoài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

rừng thì đám thanh niên giã xong, lại lũ lượt kéo nhau sang nhà khác.


Cịn một mình chị dâu lúi húi dọn dẹp. Chị khe khẽ hát. Bất chợt tiếng


khèn lá đêm trước lại dội lên, chị luống cuống bê thúng cốm đi như chạy


lên cầu thang, suýt vấp ngã. Chị cài chặt then cửa, lao vào buồng, tơi cịn


nghe tiếng thở dồn dập rất lâu.


Mẹ tôi ra khỏi buồng, đến trước bàn thờ cha tôi. Tôi chỉ nghe được tiếng


thở dài nén rất nặng trong lồng ngực mỏng manh của mẹ. Sau khi làm hai
đám ma, trong nhà tôi hầu như khơng cịn gì. Bị, dê, gà, lợn mổ để thầy


mo cúng làm lễ hết, ngô lúa cũng hết. Cha tơi mất tháng trước thì tháng


sau trời nắng to, nắng ghê gớm, nắng từ lúc mặt trời chưa lên hẳn đến lúc


mặt trời sắp lặn. Nắng từ ngày này sang ngày khác, già bản tụ tập tất cả



bô lão trong làng lập dần cầu khấn mà trời vẫn không cho một giọt mưa.


Trên nương, ngô vừa ra bắp bằng chuôi dao đã khô quắt lại, lúa ngả sang


màu trắng, bông phất phơ như lau. Rừng già lách tách tiếng vỏ cây vỡ


nứt. Rồi cháy, cháy khủng khiếp, cháy ba ngày ba đêm, thiêu trụi mấy


cánh rừng, đến sáng thứ tư thì thơi. Đứng dưới bản nhìn lên chỉ còn thấy


một màu đen của cây cháy. Đột ngột, kinh hồng q, khơng ai cịn khóc
được.


Nương sắn chưa đầy năm cũng nằm trong vùng cháy. Chị dâu mang dao,


mang gùi đi từ sáng sớm đến trưa mới về, gùi một gùi sắn đã chín, củ nào


cũng chỉ như ngón chân cái. Mí hớn hở ăn, rồi say, nơn ra máu. Nó ốm,


tóc rụng trơ cả da đầu, nằm ẹp như một con mèo con, chỉ còn thấy hai hốc


mắt. Mẹ cũng kiệt sức, ngồi bó gối bên giường Mí mấy đêm liền, đến lúc


chị dâu đỡ mẹ nằm xuống, đôi chân vẫn co như đang ngồi. Ban đêm, lúc


mọi người ngủ, chị dâu đốt đuốc ra suối lật từng viên đá lên tìm cua. Sáng


sớm, lúc mọi người chưa dậy, chị đã mang ống bương qua hai quả núi đi


lấy nước... Những ngày tháng ấy nếu không có chị dâu khơng biết điều gì



</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

xanh, phủ dần màu đen của tro than. Như một sự trả nợ, vụ ấy trời cho
được mùa, lúa ngơ mang về khơng cịn chỗđể.


Chú tơi đến chơi, bảo là "để xem bao giờ thằng Lìn mới chịu lấy vợ". Chú


thím cố mãi cũng chỉ tồn con gái. Tưởng có mỗi chuyện ấy thơi nhưng
đến lúc ăn cơm xong, đợi chị dâu mang bát đi rửa chú mới nói: "Chị à,


con dâu ngày càng đẹp ra đấy, khéo mà giữ kẻo mang tiếng họ Bàn".


"Chú nói gì? Nó đi đâu mà phải giữ. Đi từ nhà lên nương, từ nương về


nhà, mặt chỉ biết cúi xuống nhìn lối đi...". "Chị khơng biết rồi...". "Biết


cái gì?". "Người già mà ngủ say được thế sao chị dâu? Ngủ say quá nên


không nghe đêm trăng nào cũng có đứa đến gần nhà thổi khèn lá! Đứa ấy


gọi ai? Gọi cái Mí chín, mười tuổi à? Con gái có chồng, cái bụng mà


không nghĩ lung tung thì má khơng như hoa dào thếđâu".


Tiếng nước xối ào ào rồi lặng yên. Mẹ liếc nhìn chú, lại nhìn ra cửa. Chị


dâu khệ nệ bưng chồng bát vào, nước bắn lên váy ướt lem nhem, dính vào
đơi bắp chân trịn. Con gái miền núi có đơi bắp chân đẹp là nhớ quấn xà


cạp lúc đi làm, lúc ra khỏi cửa, chỉ đệm mới tháo ra. Chú tôi vê điếu



thuốc lào phả khói mù mịt, ngồi thêm lúc nữa rồi lẳng lặng ra về. Chị dâu


rút nắm đuốc trên gác bếp châm lửa, đưa chú xuống cầu thang. Ngày


trước, chú là người phản đối việc anh trai tơi địi cưới chị. Chú chê chị bé,


chê con gái mà ngực lép, lông mày rậm là không biết làm dâu, là có lúc


cãi bố mẹ chồng. Sau này, khi anh tôi rồi cha tơi mất, chính chú lại là


người thương chị dâu nhất, chuyện gì cũng nói như với con gái. Thế mà


bây giờ...


Chú Phin về rồi, mẹ bảo tôi: "Mày mới về, nghe chú nói, biết thế, đừng


nghĩ xấu cho nó". "Mẹ nghĩ thế nào?". "Tao làm dâu họ Bàn, nó cũng là


dâu họ Bàn, chết đi làm ma họ Bàn. Muốn gì cũng khơng được đâu".


Chị dâu ngồi vào khung cửi. Chị bảo cố dệt để còn kịp đi phiên chợ tới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

ngồi sơng, trên rừng, khơng ai thức cạnh khung cửi. Nghe tiếng lạch


xạch, lúc gấp gáp, lúc trễ nải tôi không sao ngủđược.


Tiếng khèn lá vẫn réo rắt từng đêm, từng đêm. Đêm nào chị dâu cũng


ngồi bên khung cửi, đống lanh trắng chất đầy hai quẩy tấu không hết.



Từng đêm, từng đêm ấy, tôi nằm cứng đơ như khúc gỗ, nghiến mỏi hàm


răng nhìn chị hai lần, ba lần đứng lên mang dây lanh ra buộc cửa, buộc


thêm, thêm mãi, thành một đống rối tung to xù. Khơng biết có phải tại


ánh trăng hắt từ bên ngoài vào hay khơng mà tơi thấy mặt chị đã khơng


cịn hồng, mà tái xanh, cặp mắt như mắt người say rượu. Đêm thứ tư, đêm


thứ năm... đến đêm thứ bảy thì tơi vùng dậy, lao như một con thú ra cửa,


giằng tay chị ra khỏi mớ dây lanh bùng nhùng. Chị giằng co với tôi, sợi


lanh thô cứng cửa vào tay chị bật máu...


Tôi không nhớ mình đã nói gì để thằng con trai cịn rất trẻ, tóc ướt sũng


sương đêm ấy lủi thủi bỏ đi. Lúc trở về nhà, chị dâu đang đứng ở chân


cầu thang, mắt nhìn chằm chằm vào bàn tay đang nắm chặt của tôi. Tôi đi


qua chị khơng nói một lời nào, run lên vì hơi nóng rừng rực đang tốt ra


từ đơi cánh tay trần phơi dưới ánh trăng, từ đôi mắt thăm thẳm của chị.


Chú Phin ốm, bảo tôi lên canh nương thay chú vài hôm. Tôi mang dao


quắm, đèn pin đi. Nương ở xa nên chắc sẽ ở lại luôn đến hôm nào chú



khỏi mới về. Buổi chiều, chị dâu lên, mang theo cá nướng với thịt dê. Chị


cắm cúi dọn nồi niêu, chăn màn, khơng nói câu nào. Mãi đến lúc chị định


về, tôi cũng mới mở miệng được: "Chị dâu à, em bảo thằng Sìn đem khèn


lá đi nơi khác mà thổi. Nhìn vào mắt nó em khơng chịu được...". Chị dâu


run run: "Chị khơng nghĩ đến thằng Sìn bao giờ đâu, chú đừng lo". "Thế


thì chị dâu nghĩđến ai? Ai hở chị dâu? Người ấy có ở Vần Chải khơng?".


"Chú đừng hỏi nữa, chị xin...". Chị dâu khóc. Tiếng khóc bật ra như thác


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

trong lòng. Nước mắt chảy ròng ròng trên gương mặt bợt bạt, rớt xuống
ướt ngực áo...


Cuối mùa trăng, tôi lại đi. Mẹ vẫn không một lời ngăn cản, mẹ mặc tôi.


Tiễn tơi đi chỉ có chị dâu với em Mí. Đến chỗ con suối chảy qua chị dừng


lại, cúi nhặt một viên sỏi đưa cho tôi: "Chú mang đi để khỏi qn đường


về Vần Chải". Tơi cố nhìn chị, mắt chị rưng rưng, lấp lánh ánh trăng mờ


xa cuối rừng chưa kịp lặn. Chị quay đi. Gió sớm từ trong khe núi lùa ra


thông thốc làm váy chị, váy em Mí xịe ra.


Tơi mím mơi bước đi. Bãi lanh còn đẫm sương đêm quệt vào mặt lạnh



buốt. Ra đến đoạn suối bên ngoài lại nhìn thấy ngay trước mặt, trên phiến
đá rộng, một người đang gục đầu lên hai cánh tay vòng trên đầu gối.


Xung quanh, lá rừng bị xé tung tơi tả. Sìn! Đúng là Sìn. Ngẩng đầu lên


nhận ra tơi hình như nó định đứng dậy, định chạy đi, nghĩ sao lại ngồi


n. Đầu tóc, quần áo Sìn ướt sũng, râu mọc tua tủa trên gương mặt tím


tái...


Tơi đi qua Sìn. Hịn sỏi trong tay bỏng rát. Trăng cuối mùa vẫn chưa kịp


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<b>NG</b>

<b>I </b>

ĐẮ

<b>NG </b>

<b> TRÊN NÚI </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Mẹ và thằng Sinh đón tơi ở ngã ba, nơi chân dốc dẫn lên ngôi nhà sàn.


Ngôi nhà nằm chênh vênh trên cao kia. Già nua cũ kỹ và nhỏ nhoi. Khi


nào nhớ về mẹ, tơi cũng hình dung thấy ngơi nhà với chín bậc cầu thang,


nơi chân tơi run rẩy, chập chững đi ra cuộc đời và từ cuộc đời đầy giông


bão trở về.


Mắt tôi tự dưng mờ đi. Tôi luýnh quýnh: “ềm! ềm vẫn khoẻ đấy ư?Trời



ôi, con lo biết chừng nào là lo!”. “Biết tao khoẻ thì cịn lâu mày mới về,


phải khơng Din?”. “Kìa… con xin ềm. ềm đừng nói với con thế. Con vừa


về tới nơi… ềm có thương con…”. Mẹ tơi ngoảnh mặt đi, lặng thinh.


Tiếng thở dài nhè nhẹ mà hun hút như cơn gió quặn lồng ngực tơi.Thằng


Sinh ơm cổ, dí cái mũi ươn ướt vào má tôi: “Bác ơi, bà bây giờ lẩm cẩm


rồi. “Hư nào!”. “Thật… Bố cháu bảo thế mà”.


Nhà tơi chỉ có hai chị em, tơi với em Dân. Cha tôi hy sinh khi tôi mới


mười tuổi, mẹ tôi ở vậy nuôi mẹ chồng, cả đàn em chồng lít nhít với hai


chị em tơi. Rồi bà tôi mất, các cô các chú lấy vợ lấy chồng, tôi đi xa, em


Dân lấy vợ sớm rồi cũng đi nốt, bỗng chốc mà mẹ gần như chỉ có một


mình. May mà em Dân lấy vợ quê, từ ngày có thằng Sinh mẹ tơi cũng


khuây khỏa.


Mẹ đi trước, tay dắt thằng Sinh chậm chạp leo dốc. Tôi thảng thốt, chẳng


lẽ lưng mẹ đã còng thật rồi ư? Dấu vết thời gian chính là nó, đã hiện diện


khắc nghiệt trên dáng vóc mẹ khơng nấn ná, khơng gượng nhẹ. Đơi chân



cũng khơng cịn chiều theo ý mẹ và con đường như dài hơn, dốc hơn,


khấp khểnh hơn. Ngày xưa, cũng trên con đường cheo leo dốc này, tơi đặt


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

Có lần cả hai chị em ngã dúi dụi, mặt vục vào đất cát, khơng khóc thành


tiếng. ấy thế mà bà nội biết, không cho mẹ đánh đứa nào. Về sau em Dân


bảo: “Lúc ấy em thương mẹ quá. Đến cả cái quyền dạy con cũng bị cấm
đoán”. ý em trách bà nội. Bà nội tơi có tiếng khắc nghiệt với con dâu ở Tả


Choóng bây giờ. ấy thế mà rồi bà cũng chỉở với con dâu cả cho đến cuối
đời chứ không chịu đi với đứa con trai, con gái nào.


Em dâu đi nương về, ngả vội gánh thóc nếp xuống cầu thang: “Chị Din đã


về rồi này! Ơi, tí nữa thì em dâu khơng nhận ra đấy. Ngày càng đẹp gái


như bơng hoa thì khổ trai bản thôi”. Em dâu cười, cái lúm đồng tiền xốy


sâu trên má. Em dâu kém tơi bốn tuổi. Ngày em về làm dâu, nhà tơi có


bao nhiêu trai bản uống rượu say không về được. Người Tả Choóng bảo


nhờ em Dân có cái chữ hơn người nên ơng Dìn mới chịu gả con gái cho


mà chỉ lấy ba mươi, chứ người như thế phải lấy cả trăm mới xứng. Trăm
đồng bạc trắng, trăm cân gà, trăm cân lợn, trăm lít rượu ngơ, khơng phải


nhà giàu mấy đời thì chịu thơi, làm đến chết cũng khơng trả hết nợ. Ngày



có em dâu tơi khấp khởi mừng, ít ra cũng an tâm phần nào khi đi xa. Hình


như em sinh ra để làm dâu nhà tôi. Em giống mẹ tôi từ nết ăn ở trở đi. Có


em, mẹ có thêm một đứa con gái. Một đứa con gái mà mẹ mong mỏi chứ


không như tôi. Tôi không nghe được mẹ muốn gì. Tơi vùng vẫy và tơi ra
đi. Có những lúc mệt mỏi rã rời vì cuộc mưu sinh nơi xứ người tôi chỉ


thèm được vùi mặt vào ngực mẹ mà khóc cho thoả thuê. Nhưng rồi vẫn


cứ xa mẹ, xa hơn và lâu hơn.


Gánh thóc nếp có tới bốn cum vậy mà em dâu chỉ xốc nhẹ một cái đã vắt


trên vai, bước thoăn thoắt lên cầu thang, để lại chín vết chân ướt vững


chãi, đều đặn. Cầm lấy cum thóc, em dẻo tay lật ngửa, x nó ra như


bơng hoa trên sàn phơi đầu hồi. Cạnh đó có tới mấy chục cum đều đặn và
đã xếp sẵn từ bao giờ. “Năm nay được nhiều thóc nếp khơng em?”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

về quê lấy chồng không, chị Din?”. “Bây giờ không ai muốn lấy người


hai sáu tuổi đâu em ơi. ế mất rồi”. “Cây cao khắc có người khoẻ trèo chị


Din à’.


Tôi cất đồ đạc, cầm lấy địn sóc theo em dâu lên nương mang nốt số thóc


đã “tan” về. Em dâu bước đi nhanh thoăn thoắt, mặc những cành gai chìa


ra quệt vào đơi bắp chân trịn vo. “Năm nay nhà nào cũng bỏ nương


xuống dưới kia làm ruộng nước rồi. Cả lúa nếp cũng cấy dưới ấy, nhiều


giống mới bây giờ mang đập như thóc tẻ được, khơng phải vị. Nhưng bà


nội thằng Sinh bảo vẫn phải gieo một ít thóc cũ để cịn đồ xôi, làm bánh


rằm, với lại để phần đợi chị Din…”.


Nương lúa đã đổ rạp xuống ở phần “tan” xong. Mai kia khô rồi chỉ cần


châm lửa đốt là sạch sẽ, trỉa luôn được vụ mới. Chiều chậm chạp đổ


xuống từng vạt núi vàng sậm, cả những cánh rừng sồi, rừng dẻ mướt óng


phía xa. Gió trườn trên những triền núi; từng cơn, từng cơn, cuốn theo


mùi khói bếp từ những căn nhà bàng bạc, thấp thống phía bản người Phù


Lá.


Một thằng bé, mặt mũi lọ lem lùa đàn dê đơng nghìn nghịt từ đỉnh núi


chạy xuống. Ngang qua chỗ tơi nó khựng lại, đơi mắt hiền lành giương


lên tị mị. Tơi mỉm cười thân thiện: “Em, tên là gì?”. “…”. “Nhà em ở



ngay bên suối phải không?”. Tôi hỏi vậy bởi lúc lội qua con suối đầu làng
đã thấy một ngôi nhà trông giống trại chăn dê, từng dãy chuồng kế tiếp


nhau san sát. Nhưng thằng bé khơng nói gì ngồi những âm thanh u ơ rụt


rè. Đột nhiên nó chìa cho tơi một mớ cỏ tím ngăn ngắt, lè lưỡi trêu chọc


rồi quay đi, roi vung lên vun vút. Em dâu khe khẽ: “Thằng Câm đấy. Có


khi chị khơng nhớ. Ngày chị cịn ở nhà nó vẫn mang cá lên bán cho mẹ.


Nay thì ở mỗi nhà một vài ngày. Gần hai mươi tuổi rồi mà khơng lớn


thêm được là mấy… Nó đưa cho chị cái gì thế? Ngải đắng à? Đi xa thế


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

thuộc xộc lên. Chính cái thứ hương cay cay, ngòn ngọt, nhằng nhặng
đắng đã theo riết tơi, đã níu tơi với cả qng đời thơ ấu bình n. Có vậy


mà từ lúc nào bước chân về bản tôi nghĩ mãi không ra mình thấy thiếu


thứ gì mà cứ chơng chênh, trống trải. Nắm rau ngải thằng Câm mang về
đã bắt đầu héo và nóng sực.


Mãi tới lúc lên đèn em Dân mới về, thồ theo một can dầu sau xe. Trông


em già và đen đi nhiều. Cứ tưởng làm cán bộ xã thì nhàn rỗi… Mâm cơm


có canh măng giang nấu với thịt ếch, thịt gà rang lá chanh và ngải đắng


xào mẻ. Nhìn đĩa rau ngải tôi thèm mà không dám gắp, sợ hết. Để rồi đến



cuối bữa vẫn còn nguyên. Em dâu ngạc nhiên: “Sao chị bảo thích rau ngải


lắm?”. “ừ…nhưng…”. “Nhưng lâu rồi, lâu quá rồi không ăn cái đắng như


thế nên quên, phải không?”. Mẹ tôi, vẫn cái giọng dằn dỗi.


Tôi lặng im. Dân nén thở dài. Trên mâm gỗ, đĩa rau ngải cứ nhoà dần,


nhoà dần đi… Tôi nghe quặn lên từ trong tiềm thức tiếng thác lũ thượng


nguồn ào ạt, tiếng vỏ cây rừng mùa khô vỡ ra lách tách, tiếng con nai tác


mẹ ngẩn ngơ, thăm thẳm và cả những cơn gió mùa dài lê thê hun hút trên


mái nhà. Năm ấy… Trời làm đất đai cạn kiệt, tôi theo mẹ đem ống bương
đi qua hai quả núi, cách Tả Choóng nửa ngày trời mới lấy được thứ nước
đầy rêu trong một cái vũng nhỏ. Rét căm căm, sương muối trút xuống


từng tảng, sáng ra thấy cây cối đầy lá úa, dây bí ngồi vườn chưa kịp ra


quả đã khô quắt queo, mẹ gieo hạt cải cả tháng chưa thấy mọc. Khơng có


hai thứ ấy, người q tơi khơng cịn bất cứ thứ rau gì cho mùa đơng. Một


ngày, hai ngày, rồi cả tháng, bữa nào cũng chỉ có sắn nạo ăn với muối.


Em Dân khóc ngằn ngặt, rồi bà, rồi mẹ cũng ứa nước mắt. Chiều hôm ấy


mẹ ra vườn quơ lấy một nắm ngải đắng, bà bảo: “Đừng liều thế, mẹ Din”.



Mẹ tôi ngập ngừng: “Con dê ăn được chắc mình cũng ăn được ềm à!”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

người ta chỉ lấy về khi trong nhà có người ốm, đem nướng trên phiến đá


nung rồi để gối đầu chứ chưa ai ăn bao giờ.


Mẹ đem luộc rồi xào mẻ. Mẻ chua, muối mặn, vậy mà ngải vẫn nhằng


nhặng đắng. Tôi cịn cố nuốt được vài ngọn chứ em Dân thì nhè ngay ra,


lại khóc. ấy thế nhưng tỉnh người ra thật, dần dần vài bữa rồi quen, ruột


gan đỡ xót đi. Bà gắp một bát đem sang hàng xóm. Thế rồi cả bản theo


nhau hái về ăn thay rau. Người ta càng hái thì ngải càng đâm nhiều ngọn,


mặc cho những đợt gió mùa tới tấp ùa về, quất ràn rạt trên mặt đất. Trên


nương, trong vườn, cả dưới gầm sàn chỗ cái ang nước khô vênh, chỗ nào


cũng thấy ngải, như một sự bù đắp cho sự khắc nghiệt của đất trời…


Sinh đã ngủ khoèo, trật cả cái bụng tròn phinh phính ra phía bếp lửa. Mẹ


tơi mang mảnh lưới đan dở ra làm tiếp, em dâu vừa đun cám vừa vị thóc


nếp. Dân ngồi rít thuốc lào. Trên bếp, nồi cám bắt đầu sôi lục bục mẹ mới


cất tiếng: “Dân à! Nói gì với chị mày thì nói đi chứ. Mong nó về lắm



mà!”. Em dâu nhẩn nha: “Đi làm cán bộ nói mãi cho người ngồi nghe
được mà nói với chị gái thì khó thế à”. Dân ngọ ngoạy, lúng búng: “Chị


Din về lâu lâu được thì mai em mới nói. Để chị nghỉ đã…”. “Chị khơng


về lâu được đâu. Một hai ngày lại đi thơi. Cịn bao nhiêu việc dưới


kia…”. Dân vốn thế. Người ngoài chả nể ai về nhà lại sợ chị. Từ bé tới


giờ khi nào tôi cũng đầy quyền uy. Đâu muốn thế. Chả gì, cha tơi là


trưởng họ, được mỗi đứa con trai…


Dân diễn đạt một cách vất vả, thỉnh thoảng lại liếc mẹ, nhưng mẹ khơng


tỏ thái độ gì. Ra em đang mâu thuẫn với mẹ, giữa cái mới và cái cũ. Xã
đang đốc thúc các làng, các bản thực hiện quy ước nếp sống văn hoá, phải


thay đổi cách ăn ở sinh hoạt, cả một số phong tục bị xem là lạc hậu…


nhưng Dân, một trong những người cần gương mẫu thì vấp phải mẹ, như


vấp vào ngưỡng cửa nhà mình. Khó xử, nan giải là phải. Chẳng biết mấy


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

Mẹ giục đi ngủ, mở hòm ra lấy bộ váy từ ngày tơi chưa đi. “Cịn biết cách


mặc khơng?”. “Dạ… nhưng tóc ngắn thế này làm sao mà vấn được khăn
đây ềm?” Mẹ tôi thở dài: “Mày lớn quá, tao không giữ nổi mày thật rồi.



Núi rừng cao thế cũng không ngăn được bàn chân mày. Sau này tao chết
đi rồi mày có trở lại Tả Chng khơng? Mày lấy người thế nào làm chồng


hả Din? Sao mày khơng đưa nó về để tao xem tay, xem mặt? Mày sợ nó


khinh mày, khinh q mày, phải khơng? Đời tao có khi không biết đến


chén rượu của con rể lớn bé thế nào…”.


Giờ thì tơi khóc nức lên. Lâu rồi khơng khóc được như thế. Tơi biết nói gì


với mẹ khi tơi đã ra đi vì khát vọng của mình, đã giãy giụa ra khỏi những


mịt mùng heo hút, đã sợ bị “định giá” như mẹ, như em dâu… thì cịn có


thể thanh minh, giãi bày gì cho vừa lịng mẹ? Tơi ghì xiết lấy tấm thân bé


nhỏ và lạnh của mẹ. Đâu hết rồi mẹ ơi những ấm nồng, đầy đặn ăm ắp


sức sống? Đâu rồi bầu ngực tròn căng của người vợ gố? Đâu rồi mái tóc
đầy những mùi thơm của lúa, mùi cay nồng của ngải đắng, mùi mặn mòi


của cỏ tranh bịđốt cháy?…


Đêm thanh vắng, tiếng nước chảy trong máng vầu róc rách. Khơng biết từ


ngày tôi đi đã mấy lần em Dân phải thay máng rồi. Bất chợt tiếng tắc kè


bật lên khắc khoải. Tơi rưng rưng nhớ cha. Ngày cha tơi cịn sống ông đã



từng bắt tắc kè về nuôi. Chỉ cần thả vài con tắc kè non lên mái nhà hôm


trời mưa là nó ở lại ln, thơi khơng đi nữa. Có lúc đàn tắc kè sinh sơi
đến gần chục con, dạn người, lơ láo bò qua bò lại trên bậu cửa. Hôm nào


chúng kêu tiếng lẻ là trời nắng, tiếng chẵn là trời mưa, cha tôi cứ theo đó


mà cắt đặt việc nhà. Chiến tranh biên giới nổ ra, cả nhà bồng bế nhau đi


sơ tán, chỉ cha tôi ở lại cùng dân quân du kích xã mà ơng phụ trách. Cho
đến khi tạm ngưng tiếng súng thì chúng tơi trở về. Cha tơi đã hy sinh. Căn


nhà cũ tan hoang, mốc thếch, đàn tắc kè bỏđi từ bao giờ. Bà nội ứa nước


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

trong số chúng có con nào là hậu duệ của đàn tắc kè nhà tôi? Đếm mãi mà


không nghe rõ tiếng chẵn hay lẻ. Mẹ tôi than mấy năm gần đây mưa nắng


thất thường, mùa vụ cũng lúc được lúc mất.


“Din ơi, mày vẫn thức đấy chứ?”. “Vâng! ềm bảo gì con?”. “Mai mày nói


với thằng Dân, bảo nó khơng muốn ở nhà thì xuống xã mà ở”. “ấy chết!


Sao ềm nói thế? ý em Dân khơng dám như vậy đâu”. Mẹ nghèn nghẹn:


“Hơn sáu mươi năm nay tao như con suối chảy xuôi. Sắp ra đến sông lớn


rồi, sắp theo cha chúng mày rồi, giờ nó bắt rẽ ngang, bắt chảy ngược…



Nó… thằng Dân ấy…”. “Nhưng con thấy có gì rối rắm lắm đâu mà
ềm…”. “Hừ! Khơng à! Mày cũng giống nó thơi, Din à. Bao nhiêu năm


nay người ở trên sàn nhà, trâu, ngựa, ngan, ngỗng ở dưới gầm sàn, tự


dưng em mày đòi mang trâu ra ngoài vườn, con trâu mẹ ốm lên ốm


xuống, cho uống bao nhiêu muối không khỏi. Ngỗng đang ở yên thế tự


nhiên lại lùa ra, sáng nào cũng phải đi tìm, con ngủ chỗ này, con ngủ chỗ


khác… Cả mày, cả nó đều tập ngồi, tập đi ở trên sàn nhà mới lớn được


chừng ấy, bây giờ còn mang bộ bàn ghế về. Nó bảo hay có khách nên


phải lịch sự. Lịch sự là cái gì? Khách nào cũng mặc quần áo đẹp, đi cả


giày lên nhà. Ngồi uống nước thì quay lưng vào bàn thờ ông bà, thấy trẻ


con thì vỗ má, xoa đầu… Thế mà lúc tao mở miệng ra thì nó bảo để rồi


phá cái nhà này đi, làm nhà ngói mà ở. Tao ốm, bảo mổ dê, gọi thầy mo


về đuổi con ma đi, nó lắc đầu quầy quậy, đưa cho một nắm thuốc xanh


xanh đỏ đỏ… Bây giờ khơn rồi, cái gì cũng muốn theo người xi. Tao


khơng cần. Tao khơng có đứa con nào như thế. Tao chết ở đây”. Lồng


ngực mong manh của mẹ căng lên, những nhịp đập hối hả, ngắt quãng.



Mẹ khóc khơng có nước mắt. Tuổi già đã mang đi những giọt đau đớn


cuối cùng của đời người.


Hồi lâu, mẹ cựa mình len ra khỏi đơi tay tơi, mẹ vén lại chăn. Tơi chồng


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

đẻ. Dặn mẹ Sinh nhớ xúc trấu khô mà ủ chắc lại quên rồi”. Lúc chiều ông


Tào ở mãi Ngàm Đăng Vài sang đòi đặt tiền trước để con nghé lớn tí nữa


thì bắt đi. Trâu trắng không dùng cày được, người ta kiêng. Nhưng bán đi


thì tiếc, lại thương con trâu mẹ. Thế nên ông kia nói mãi mà mẹ vẫn chưa


chịu cầm tiền.


Tôi không sao ngủ được. Càng đêm càng lạnh. Thời tiết ở đây vốn thế,


ban ngày nắng đến mấy, có khơ rang cả mái nhà dày hàng gang tay thì
đêm vẫn lạnh. Quanh năm không khi nào phải cất chăn. Tấm chăn tôi
đang kéo lên đến cằm nặng trình trịch, toả ra một thứ mùi của ký ức.


Ngày chuẩn bị về làm dâu, mẹ tôi mười sáu tuổi, mẹ tôi đã dệt cả tháng


trời mới xong tấm chăn, còn chưa kể những khăn và váy áo. Mẹ kể đêm
đầu tiên, rét lắm, nhưng mẹ dứt khốt khơng chịu đắp chung chăn với


cha, để rồi cha phải bỏ ra bếp ngồi hút thuốc lào đến sáng. Mẹ về làm dâu



là về không, hầu như chẳng có gì vì ơng ngoại mất sớm, mẹ ở với chú


thím. Thế nên chỉ như thân con mèo nem nép bên bếp nhà chồng, từ sáng
đến tối không biết ngẩng mặt lên, đến bữa không dám ăn no, đến năm


mười tám tuổi mà bé quắt hơn cả lúc lấy chồng. Chị cả tôi ra đời chưa
đầy tháng thì mất vì viêm phổi, mãi hơn chục năm sau mới có tơi…
Ở vùng núi bao giờ mùa đông cũng đến sớm. Khi những chiếc lá đào, lá


mận đầu tiên rụng xuống thì dịng suối bắt đầu cạn, nước chảy dưới phần


ngầm của lớp đá cuội trắng trơ. Gió từ trong khe núi ùa ra, mang theo hơi


lạnh đến ghê người của đá và lá cây lúa. Thân ngải đắng bắt đầu khô lại,


rễ bám chặt lấy lớp đất chai cứng và ngả sang màu nâu đen vì sương


muối. Nhiều ngày, nhiều tuần, có khi cả tháng trời khơng có nắng, giữa


tuần trăng đêm cũng chỉ lờ mờ. Đây là quãng thời gian ít việc nhất trong


năm. Đám con gái chỉ quanh quẩn ở nhà xe lanh đơi gị má bắt lửa đỏ au.


Ngồi nương chỉ cịn trồng tam giác mạch. Hạt tam giác mạch ăn khơng


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

thì sắc biếc sắc hồng càng rực rỡ. Cả dải núi, nương nhà này nối với


nương nhà kia cứ bừng lên như một màu tam giác mạch ngợp trời. Cả


nương tam giác mạch có khi chỉ được lưng quẩy tấu hạt nhưng nhà ai



cũng trồng. Dễ lắm. Đợi cây ngơ thu hoạch xong, trời bắt đầu rét thì quãi


tam giác mạch xuống. Cỏ không mọc nổi nhưng tam giác mạch thì nảy


mầm lên xanh mướt, thế nên chả ai chịu đểđất không.


Cho đến khi ngựa đập móng lộp cộp đầu hồi, hoa lê bật bơng trắng như


tuyết thì xn sang. Các ơng bố đeo bao dao ra khỏi nhà tìm trong bản,


ngồi bản, ai có lợn to thì chung mổ ăn Tết. Xn sang đấy nhưng trời


còn rét mãi tới tháng ba tháng tư, trẻ con đuổi bò xuống thung lũng vẫn


chưa chịu bỏ bùi nhùi rơm ở nhà, mặt đứa nào cũng nứt tốc cả ra. Chỉ có
đất bắt đầu tơi mềm, bò dê được ăn cỏ tươi và nước thì bắt đầu chảy đầy


máng vầu trở lại. Sau Tết Nguyên đán có khi hội bản này nối sang bản kia


cả tháng trời. Chợ nào cũng đông nghìn nghịt, tồn con trai con gái mặc
đẹp, đeo đầy vòng bạc, mua sắm thì ít mà ngắm nhau thì nhiều. Ngày


xưa, cha tơi cũng nhìn thấy mẹ tôi vấn đầu trong một phiên chợ như vậy.


Trở vào, mẹ không đi nằm mà ra bếp ngồi, cơi lò cho cháy lên, lại mang


lưới ra đan. ánh lửa chập chờn hắt lên mẹ, lên mái tóc bạc, lên gương mặt
đã kín vết nhăn như thực, như hư. Một nỗi sợ từ đâu ùa vào tơi. Hình ảnh



chiếc áo quan mở nắp mà thằng Sinh với lũ bạn nhảy ra nhảy vào đùa


nghịch hiện lên mồn một. Mẹ tôi đã chuẩn bị cho sự ra đi lâu nhất, mãi


mãi như thế từ cách đây năm, sáu năm. Ba con dê đổi lấy một khúc gỗ dẻ


rất lớn mà em Dân dùng trâu kéo về…


Tôi ra ngồi với mẹ. Lát sau gà gáy eo óc thì em dâu cũng dậy kiễng chân


với mẹt muối sấy trên gác bếp xuống lật trở cho đều. Sắp tới rằm tháng


bảy ăn to lắm. Nhà nào nghèo mấy thì trẻ con cũng phải có bộ quần áo


mới, trong nhà có ít nhất hai thứ bánh gù, bánh chuối và chõ xôi đỏ hoặc


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

Nậm tụ tập đánh khăng đánh cù, lúc đói bụng thì chạy vào bất cứ nhà nào


cũng được ăn bánh đầy bụng. Tháng bảy hay mưa nhưng cứ mười bốn,


mười rằm là tạnh ráo. Đàn ông đi uống rượu nhà bạn bè có khi say mấy


ngày liền khơng về.


Em dâu nhắc: “Rằm tháng bảy năm nay thế nào chị Din cũng phải về đấy


nhé. Hai cái rằm rồi, làm bao nhiêu bánh ăn mãi không hết. Làm ít bà bảo


sợ chị Din về, nhỡ có bạn đi cùng thì khơng đủ, thế là cứ cố nhiều bột,



nhiều chuối… ấy da…”. Tơi nhìn mẹ. Muốn hỏi có phải ềm chỉ làm mặt


giận vậy thơi chứ lúc nào cũng thương con gái nhất, nhưng mẹ dường như


chẳng để ý gì.


Chưa tỏ mặt người, em Dân đã đi, bảo phải lên họp ở trên huyện. Dân


nhìn tơi, hình như muốn nói gì nhưng ngần ngừ rồi thôi, xách cặp đi,


tiếng xe Min nổ phành phạch xa dần. Gương mặt buồn buồn của đứa em


trai mới lớn ngày nào còn tranh với chị từng củ sắn nướng cứ dằn vặt tôi.


Nghe đâu người ta còn muốn cất nhắc Dân lên huyện nhưng em không


muốn đi. Dân khác tôi, gắn chặt với nơi mình sinh ra, khơng sao rời đi
được dù có nhiều cơ hội cho bản thân vươn lên. Tôi vừa thương vừa biết
ơn Dân, em gánh cả phần trách nhiệm của tôi đối với mẹ, hẳn cha tôi dưới


kia cũng mừng.


Sinh dậy, chả rửa mặt gì, lơi tơi xuống cầu thang: “Mình đi tìm ngỗng về


khơng thì bà lại mắng bố Sinh”. “Tìm ở đâu kia?”. “Sinh biết mà. Đi


nhanh nào”. Sinh kéo tôi chạy một mạch tới suối, chỗ cái cối nước đang


thì thụp giã. Cả bầy ngỗng đang ngủở đấy thật, co một chân, húc đầu vào



cánh, bị đánh thức chúng nhốn nháo ầm ĩ. Bản tôi, nhà nào cũng ni


ngỗng thay cho chó canh nhà. Chỉ cần hai con ngỗng là cứ việc mở toang


cửa ngõ đi làm cả ngày.


Hai bác cháu lùa ngỗng về tới nhà thì mẹ tơi đã đứng ở chân cầu thang,


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

tảng lờ, liến láu: “Cháu với bác Din đi tìm ngỗng về. Chúng nó ngoan


lắm éme à. Chỉ cần làm một cái nhà be bé ngoài máng nước cho chúng nó


là xong. éme ơi… - nó ngập ngừng - éme đừng mắng bố cháu, đừng giận


bố cháu nữa, tội nghiệp lắm. éme nhé! éme gật đầu đi. Gật như Sinh đây


này”. Thằng bé làm động tác gật đầu mấy cái. Mẹ tơi nhìn thằng bé, mắt


hấp háy như có ánh cười. Thằng Sinh giống em Dân tôi y hệt, từ nước da


ngăm ngăm, đơi mắt một mí đến hai mớ tóc hơi quăn kết chặt vào nhau.


Nó thực sự là hiện thân của Dân hai chục năm về trước… hình như thằng


Sinh đang cố gắng làm cái việc mà bố nó loay hoay mãi khơng biết xử trí


thế nào. Và mẹ tơi thì tin cậy nó. Có lẽ vì thằng bé còn đang trong vòng


tay bà, nối bà với những đứa con dang đôi cánh bay cao và bay xa.



Dưới chân cầu thang, nơi mẹ tôi và thằng Sinh đang đứng. Có một phiến
đá rất lớn. Phiến đá màu xanh, bốn năm người đứng lên vẫn đủ chỗ. Cha


tơi đã kéo nó từ dưới chân suối lên sau một cơn lũ lớn. Chính trên phiến
đá này tôi đã gặp cha lần cuối cùng, nghe ơng dặn dị rồi tơi khóc rịng


rịng, mãi mới buông vạt áo ông ra. Sau này, không biết đã bao nhiêu lần


tôi đứng vào chỗ của cha hồi đó, mặt hướng lên phía Tây Cơn Lĩnh cao


vời vợi, sương mù phủ trắng, mà cảm thấy như một sự ấm áp, một nguồn


sinh lực nào đó, để có thểđi những bước vững vàng ngồi kia.


Mặt trời lên. Đỏ như một quầng lửa. Báo hiệu một ngày rất nắng. Cứ


nắng như thế thì chỉ ba ngày là thóc nếp khơ, n tâm xếp lên gác bếp.


Năm nào cũng vậy, sau mùa thu hoạch bao giờ trên cái gác chạy dài từ
đầu nhà đến cuối nhà cũng đầy chật lúa ngô. Ngô túm thành từng túm


treo lủng lẳng, lúa xếp bên trên. Được mùa, có khi lúa năm ngối chưa ăn


hết thì lúa năm nay đã về, cứ thế xếp lên. Mẹ tôi kể ngày xưa, nhà ông bà


nội cịn có những cum thóc tuổi nhiều hơn chú út.


Có tiếng leng keng, lịch kịch, thì ra thằng Câm đang lùa dê lên núi. Nó


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

nó”. “Làm gì cơ chứ. Mình nó vẫn chăn mà. Với lại, xa lắm cơ chị Din


ạ”. “Xa mấy chị cũng tới được. Chị muốn tìm ngải đắng…”. “Thì bảo nó


lấy cho. Việc gì phải đi cho mệt ra”. “Không. Chị muốn tự hái về”. Mẹ


lẩm bẩm: “Ngày xưa… ngải bò vào đến gầm sàn, dỗ mãi không ăn. Làm


sao giờ lại thèm khát đến thế hở!”.


Câm hớn hở ra mặt. Cặp mắt anh ánh đàn ông lấp lánh trên gương mặt


thoắt buồn, thoắt vui. Chắc đi mãi một mình nó cũng buồn. Chúng tơi đi


ngược về phía mặt trời. Mặt trời đang ở phía sau dãy núi kia, mới chỉ thấy


những tia nắng hình nan quạt hắt lên. Con đường đầy những vết chân dê


càng lúc càng dốc, những con bọ gậy bò lổm ngổm trên đám lá vàng ướt


sũng sương đêm. Càng lên cao rừng càng âm u. ở những cánh rừng như


thế này trời tối khi nào đám trẻ mải chơi không kịp biết. Trên đầu, tán cây


ken dày khít, ong bay vù vù. Vất vả lắm tôi mới theo kịp Câm. Đàn dê


không cần đuổi cũng đã chạy trước, sục vào những bụi cây gai mịt mùng.


Và đây, tôi đang đứng trên đỉnh của một trong những ngọn đồi hùng vĩ


nhất Tây Cơn Lĩnh. Gió lồng lộng thổi như muốn cuốn tơi bay lên cao…



Và kia, ồ ra trước tơi, xanh rợp, tím ngắt, bàng bạc trắng, dập dềnh như


những con sóng là cả triền núi mơn mởn ngải đắng vừa thức dậy từ sương


mù. Tôi lao vô tri vào đấy, úp mặt lên nó, một trạng thái nửa mê nửa tỉnh,


tựa hồ quay về những năm tháng rất xa. Những năm tháng mà có lúc


tưởng như nó chỉ cịn phảng phất trong cuộc sống cuồn cuộn chảy, dữ dội


vật lộn hôm nay. Tơi gặp cha tơi ở đây. Ơng vẫn cường tráng, vâm vấp,


tôi rúc vào ông như một con gấu non…


Tôi đã trở về nơi tôi sinh ra. Nơi mặt trời lên muộn nhất và đi ngủ sớm


nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

Đ

<b>ÊM CÁ N</b>

<b>I </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Tơi sinh ra ở núi rừng. Tơi ăn học ở thành phố. Núi rừng là tuổi thơ tôi.


Thành phố là tuổi thanh xuân của tôi. Núi rừng ở sau lưng. Thành phố
đang ở trước mặt. Tơi đang đi từ phía trước mặt về phía sau lưng. Đi về


dịng Lơ, dịng sơng q tơi... Nửa đêm. Tơi giật mình chồng tỉnh mới


biết mình mơ. Tơi cảm thấy có ai đó đang mơn man những ngón tay mềm



trên mặt mình. Ra là ánh trăng. Trăng cuối tháng lên muộn, mới đang chỉ


lấp ló trên đỉnh Thúng Khiếu, lọt những tia sáng ngả xanh qua vách nứa.


Gió vẫn rít lên khe khẽ, trăng càng sáng thì trời càng thêm lạnh. Mùi


thuốc nam cịn tươi bà tơi đem phơi sương bay vào dễ chịu...


Giữa sàn, bếp lửa vẫn còn ấm sực nhờ hai gộc củi lớn chụm vào nhau
đang ngun ngút cháy không thành ngọn. Trong gia đình người Tày lửa


không bao giờ được tắt. Khi nào bếp không có lửa ắt là điềm gở. Người


già chọn con dâu, chỉ cần nhìn cách chụm củi, cách vun bếp là đủ biết có


khéo, có đảm hay khơng.


Có ánh đèn pin loang lống, cha tơi lục sục trở dậy. “Po khó ngủ hở Po?”


“Khơng. Tao đi ra sơng.” “Làm gì cơ?” “Cịn làm gì nữa. Đang mùa cá


chép đẻ mà.” “A, Po đi lấy trứng về thả.” “Mày còn nhớ à. Tưởng cơm


thịt Hà Nội làm mày quên rồi chứ. Con ơi! Mày là người của núi rừng...”


Cha nói như dằn dỗi. Ơng lẳng lặng đưa cho tôi cây đèn pin khác, cây đèn


có đai sẵn, đeo vừa lên trán. Ơng với bao dao trên vách, cầm thêm chiếc



xô nhựa phăm phăm ra cửa...


Sông quê tôi đây. Những lần nhắm mắt nhắm mũi đạp xe qua cầu trên


sông Tô Lịch tôi lại thảng thốt nhớ đến quay quắt dịng Lơ q mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

mấy hớp nước rồi mới lôi vào. Vậy mà chị vẫn không tài nào bơi được.


Cũng tại chị tôi nhát quá, cầm con chuồn ngô, vạch áo lên cả chục lần mà


cứ dấm dứ mãi khơng dám để nó cắn...


Dịng sơng lọt giữa hai bên là trùng trùng dãy núi vắt đầy mây trắng


xuyên qua đất Vị Xuyên. Quanh năm bóng núi cao vời vợi hắt xuống làm


dịng sơng dường như càng thêm sâu thăm thẳm. Đêm nay, trăng núi hạ


tuần nhuộm cho cả lịng sơng ánh u tịch, trầm mặc. Gió lạnh chạy đuổi


nhau ào ào, hun hút trên mặt sơng u u huyền bí. Sóng nước dềnh lên ì oạp


do con nước vấp phải ghềnh đá rải rác giữa dòng. Năm nào cũng vậy, cứ


vào độ này - quãng tháng chạp ra giêng - là mùa cá chép nổi lên tìm chỗ
đẻ trứng. Cá chép là thứ cá vừa khôn vừa dại, quanh năm kiếm ăn dưới
đáy sâu, hiếm khi quăng chài, câu hay đánh dậm, đánh đó mà tóm được


chúng. Ấy vậy mà cũng chỉ nó mới đem cái sự sinh nở duy trì nịi giống
đầy thiêng liêng ngoi lên trên mặt nước mà khoe với thiên hạ. Người bản



tơi ít ăn cá chép. Người già bảo rằng cá chép là loài chúa tể, quyết định sự


tồn vong của lồi cá sơng, đem nó lên đĩa là một hành động phạm thượng.


Thế nên khi đánh bắt được cá chép người ta có thể vì tiền mà đem bán


chứ ít khi ăn. Cũng vì thế mà khúc sơng này hình như nhiều cá chép hơn


cả, chúng không bị săn lùng ráo riết cho mấy quán ăn bình dân dưới phố


huyện. Hàng năm, cả bản ra sơng vớt trứng cá đem về thả trong ao. Cuối


năm, dịp ơng Táo lên chầu trời là vừa kịp có cá chép bằng bàn tay phục


vụ cho người tỉnh, người huyện mang ra sơng phóng sinh.


Hai cha con tôi tắt đèn, ngồi nấp sau bụi lau sậy um tùm. Dưới chỗ chúng


tôi ngồi chỉ chừng một tầm với thôi, đàn cá chép đang bắt đầu tụ tập


quanh đám rễ cây buông xuống nước mềm mại, ấm áp. Độ nửa giờ sau,


khi vầng trăng trịn nhơ lên tới ngọn cây trám giữa thơn Nùng thì bắt đầu


có tiếng lóc tóc lách tách. Cha tơi thì thầm: “Bắt đầu rồi đây.” Dần dần,


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

thành tiếng quẫy đạp ùm ũm. Tơi nín thở dõi theo ánh đèn pin đã che


khuất hai phần ba bằng ngón tay trỏ của cha tơi, khơng tin nổi vào mắt



mình. Bầy cá dễ có đến cả trăm con lúc nhúc chen vào giữa đám rễ cây,


bên ngồi, những con khác nối đi nhau lượn thành vịng trịn. Bất chợt


cha tơi vung dao, miệng lầm bầm: “Mất dạy khơng nào!” Thì ra có mấy


gã bống, cá chuối đang tìm cách len vào, mồm há ra đón lõng những dịng


trứng vừa tn ra chưa kịp quấn vào đám rễ cây. Sau cái vung tay của cha


tôi, lũ cá chuối, bống kia biến mất. Bầy cá chép vẫn mê mải quấn quýt


bên nhau.


Tơi để cha ngồi lại một mình rồi xi xuống mé dưới. Khơng riêng gì cha


con tơi mà người trong bản xuống lấy trứng cá cũng đông lắm. Bụi cây


nào cũng thấy có tiếng nói chuyện rì rầm. Bản tơi bám dọc theo nửa bờ


bên này, phần ruộng nương tương đối bằng phẳng chạy vào chân núi độ


nửa cây số. Bên kia sông là nương ngô, sắn của người Dao ở Lùng Áng.


Họ làm nhà chênh vênh giữa lưng chừng núi. Thời điểm này thu hoạch


nương rẫy xong rồi họ thường vào rừng sâu kiếm mật ong...


Bản tôi ở dưới thấp, trong thung lũng. Mà thung lũng thì như cái lòng



chảo, hứng lấy mùn trên núi, mưa lũ đưa về nên đất đai màu mỡ, trồng


cấy thứ gì cũng lên như thổi. Rừng chẻ ra muôn khe suối lớn nhỏ chảy


ngoằn ngoèo qua bản làng, ra sông. Mùa cạn, trẻ con kéo nhau ra úp mặt


xuống lịng suối tập bơi. Nhưng cũng chính những khe nước nhỏ này lại


là những cánh cửa mở ra đón nước lũ tràn vào bản bạo liệt và hung dữ


mỗi mùa mưa.


Ở rừng, mùa mưa thường đến sớm. Trên này mùa mưa chán chê rồi mà


dưới xi có khi vẫn cịn khơ hạn. Trước mùa mưa, cua bị lổm ngổm từ


suối lên, sáng ra thấy cua bậu kín cả chân cầu thang. Ấy là lúc ngô lúa,
đậu lạc ngoài đồng phải mau mau mang về. Biết vậy mà hầu như năm nào


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

quá. Thời điểm ấy những cơn mưa như trút nước nối tiếp nhau kéo dài lê


thê. Một ngày... hai ngày... một tuần... rồi hai tuần... nước đỏ ngầu nhấn


chìm các con suối. Nước tràn vào đồng thấp, nước leo lên đồng cao, nuốt


chửng cả những gò đồi trồng đỗ đen, đỗ xanh lá đã ngả vàng. Nước dâng


mãi, dâng mãi ngập đến ba bậc cầu thang thì dừng lại. Trẻ con cởi truồng



ôm chậu đập bì bùm sang nhà nhau chơi, hị hét í ới. Người lớn quây


quanh bếp lửa, chất thêm củi, đun nước pha chè bồm, luộc một nồi sắn


thơm lừng... Đàn ơng rít thuốc lào, đàn bà mang cum thóc nếp ra vị, tính


xem vụ hè này có cần bán lợn mua phân vi sinh không.


Cái lũ dữ dằn thế, làm tơ tướp, gẫy dập cả vườn tược cây cối, nhưng ở


chán rồi cũng phải đi và để lại cả cánh đồng đầy ứ phù sa vàng mỡ. Sau


mùa lũ, sang thu, người ta không phải bỏ cơng cày bừa, cứ chọc lỗ thả hạt


thóc, hạt ngô xuống phù sa là an tâm rồi...


Chân tôi đang đạp trên lớp cỏ mượt như nhung. Bờ sơng khơng có lối bởi


vì một trăm người đi là một trăm lối đâm ngang đâm dọc, ai muốn đi lối


nào thì cứ đạp lên cỏ, lên lau sậy mà đi. Tơi lần xuống bến đị. Đây là cầu


nối giữa Lùng Áng, Phú Linh, Linh Hồ sang đất Đạo Đức, Vị Xuyên. Lên


tỉnh hay về Hà Nội thì cũng phải sang đây. Trong căn lều bên bến có một


người đang cúi đầu vào bếp thổi phù phù. Tôi nhận ra Huyên. Ngày xưa


tôi và Huyên cùng học ở trường huyện, lớn lên tôi được đi xa, cịn Hun



phải bỏ học vì nhà neo người, cha Huyên lái đò mấy năm rồi nhưng hay
đau ốm.


Hun rót cho tơi bát nước chè rồi bóc sắn vùi vào bếp. Gương mặt trịn


trịa trắng ngần kín đáo dưới tấm khăn lanh đen đang được ánh lửa hắt lên


hồng rực. Huyên hỏi tôi, hỏi mà như cười giễu: “Páo ơi, người Hà Nội


còn biết chèo đị qua thác Pắng khơng đấy?” “Có chứ. Qn thì khơng lấy
được vợ đâu Hun à.” “A lúi! Páo vẫn nhớ lời dặn của người già cơ à.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

Được... nhưng không bắc đâu. Để Huyên còn chèo đò nữa chứ, vắng


Huyên thì buồn lắm.” Huyên cười thành tiếng. Tiếng cười trong vắt vỡ ra


giữa đôi hàm răng đều như hàng ngô nếp đầu mùa trắng bóng. “Huyên ơi,


hát phươn đi cho Páo nghe với. Lâu quá không được nghe rồi, nhớ lắm?”


“Thôi mà. Mặt trời chưa mọc không hát được đâu...”


Bên kia sơng có tiếng í ới gọi đị. Tơi chỉ nhìn thấy lờ mờ đám người


gồng gánh gì đó hình như rất nặng. “Người Phú Linh, Linh Hồ đi đâu


sớm thế hở Huyên?” “Đi bán cam đấy. Trời sáng là có ơ-tơ đón ở đường


quốc lộ rồi. Năm nay được mùa bán mãi không thấy hết. Đám cưới nào



cũng làm to lắm.” “Hun ơi, bao giờ thì Hun...” “Ơi! Khơng ai thèm


chặn đường đâu Páo à. Xấu quá mà.” “Không phải, tại Hun địi nhiều


bạc trắng q thơi...” Hun lắc đầu quầy quậy, nhanh tay tát nước trong


thuyền, tháo dây neo rồi nhẹ nhàng quay mũi. Hai tà áo dài mềm mại bị


gió hất tung lên...


“Thằng Páo đâu rồi? Páo ơi!” Cha tôi gọi. “Nhanh tay lên nào, sáng tới


nơi rồi.” Tôi chạy tới giúp cha nâng mớ rễ cây, cỏ rác đã đầy ứ những


trứng là trứng. Những dải trứng trơn nhẫy, quấn chặt lấy đám rễ cây, đến


nỗi chỉ túm riêng đám rễ ấy thôi mà xách về có khi cũng không rơi ra
được. Nhưng cha tơi bảo mang trứng về khơng khéo để nó xóc sẽ khơng


nở thành con được. Trong xơ có hai con chép cỡ bàn tay đang ngáp khan,


cha bảo tôi đỡ chúng ra. “Con Mực vồ được lúc nãy đấy. Mất nết quá.”


Con chó Mực đang nằm ẹp bên gốc cây, chừng như biết lỗi, đầu và hai


chân trước ướt sũng. Cha tôi mang hai con cá ra chỗ dịng nước xiết thả


chúng xuống.


Có tiếng gì như tiếng gà gáy, lại như không phải. Nghe lúc gần lúc xa, eo



óc. Tách te! Tách te? “Tiếng con tắc kè đấy phải không cha?” “Tắc kè
đâu ra. Tiếng gà đấy chứ. Tai mắt ra làm sao vậy.” Tiếng gà thật. Mà


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

Tiếng gáy nghe cô độc, day dứt, tôi thấy lành lạnh sống lưng. Có tiếng gà


nghĩa là có người mới được đưa về đây. Theo phong tục người Tày, mỗi


dịng họ trong bản đều có một khu rừng riêng dành cho người chết, bọn


trẻ trâu chúng tơi gọi là rừng mả. Trong đó rậm rạp âm u, tồn những thân


cổ thụ mấy người ơm, không ai dám bén mảng tới, kể cả lũ trẻ bạo gan,


liều lĩnh nhất. Khi có người chết, trong nhà mồ bao giờ cũng có đủ những


thứ tối thiểu cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày - nồi niêu, gạo, muối... còn


thêm cả một con gà trống cho có bạn. Chả hiểu sao con gà cứ ở mãi trong
đó, một mình, đêm nào cũng eo óc gáy sớm hơn gà nhà. Đi qua khu rừng
để về theo đường bến đò, chẳng ai bảo ai cả cha con tôi đều đi dấn bước


lên. Đây là khu rừng mả của nhà ông ké Huy, con cháu có khi đơng nhất


nhì trong bản...


Vừa ra tới đường mịn cha con tơi đã vấp ngay phải một anh đang đứng


nghếch chân lên chiếc Simson đỏ. Nhìn chằm chằm vào chiếc xô nhựa



cha tôi đang xách, anh ta nháy mắt: “Này bác, bán cho một nửa được


khơng?” “Khơng bán đâu. Thích ni thì cho thơi, lấy cái gì đựng đi. Mà


nhớ thả riêng cho lớn lớn một tí đã nhé.” “Ầy? - Anh kia cười - tơi làm gì


có ao mà ni, ở dưới xi lên sau mà. Nước ăn cịn chả đủ nói gì ni


cá. Mua về cho con lợn nái mới đẻ thơi.” Cha tơi vo trịn chiếc túi anh ta


vừa đưa, ném phịch xuống lối đi: “Thế thì khơng cho được.” Nói rồi ơng


phăm phăm bỏđi mặc anh kia đứng nghệt ra.


Đi tắt qua cánh đồng về nhà cho nhanh, chân tôi giẫm lên những gốc rạ


mới cắt ướt sũng sương muối. Nhà nào ủ một đống rơm giữa ruộng cịn


ngọn khói bốc lên, thi thoảng cơn gió ào tới lại làm cả đống tro than đỏ


rực lên. Hình như những hạt phù sa đã nhuộm những gốc rạ cho nó mầu


vàng xuộm. Chưa ởđâu tôi bắt gặp cái mầu vàng ấy...


Đất trời đang ở cái khoảnh khắc giao hòa giữa ngày và đêm. Sau lưng tôi,


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

hơi nước từ sông cũng chỉ dâng lên được chừng ấy. Đám gà nhà trong


xóm bây giờ mới thi nhau gáy, đập cánh phành phạch... Cịn xi về mé



dưới, giữa cái đu đưa chín mọng của vườn cam, cái tí tách bật chồi xanh


mướt của nương chè là quầng sáng hắt lên từ nghĩa trang liệt sĩ. Như thể
đã lâu lắm rồi... cái thời đêm đêm từng đoàn xe quân sự phải bật đèn gầm


khi tới đất Vị Xuyên... Và kìa, từ phía bến đị vẳng lên tiếng hát phươn


trong vắt mà thanh, nhẹ như sợi chỉ căng ra giữa cái rét cắt da cắt thịt. Có


lẽ Huyên đã chở hết đám khách Phú Linh mang cam sang bên này.


<i>“Là </i>ớ<i>i!... H</i>ẩ<i>n l</i>ầ<i>u kh</i>ả<i>ng l</i>ưở<i>ng th</i>ế<i>p h</i>ẩ<i>u ma. Ng</i>ọ<i>n c</i>ầ<i>n ph</i>ả<i> bàu </i>đệ<i>p. H</i>ẩ<i>n </i>
<i>l</i>ầ<i>u kh</i>ả<i>ng l</i>ưở<i>ng th</i>ế<i>p h</i>ẩ<i>u b</i>ả<i>n. B</i>ả<i>n muông bàu mi dêu... </i>ớ<i>i a... vai h</i>ẩ<i>n </i>
<i>làu t</i>ẩ<i>u láu. Khít th</i>ả<i>i th</i>ử<i> nuông tam... Khuyên h</i>ẩ<i>u làu kh</i>ả<i>y v</i>ả<i>. Suông </i>
<i>nh</i>ă<i>ng mi nuông ch</i>ắ<i>p...” </i>


(Ngày hôm nay trời không mưa sao anh lại cầm ô vào làng. Ngày hôm


nay trời không nắng sao anh lại cầm ô lên bản... Nếu anh thương em thì
đưa áo em khâu đường chỉ tuột... Anh nhé, đừng phụ công em. Đi xa phải


nhớ về...).


Tơi định chạy trở lại phía sơng nhưng mặt trời đã lên mà vầng trăng vẫn


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

<b>NGỒI C</b>

<b>A TR</b>

<b>I CH</b>

Ư

<b>A SÁNG </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


<b>1. </b>



Lạc đường. Con Mốc vẫn cắm đầu chạy. Cho đến khi sắp khuỵu xuống


thì trước mặt nó hiện ra một khe nước. Từ phía dưới, sâu thăm thẳm,


vẳng lên tiếng nước réo ùng ục. Mốc phi thẳng vào tầng tầng lớp lớp


giang già phủ kín mặt khe, bỏ lại sau lưng lũ chó ăn thịt gầm gừ kéo đi


lượt thượt tức tối.


Mốc chìm dần giữa tán giang dày khít và rơi xuống một vụng nước. Nước


trong văn vắt, lặng mà sâu. Nó đang nằm trên đỉnh một ngọn tháp. Chỗ


này có lẽ đã cách xa Pụ Dín lắm. Khơng mấy khi theo chị Pao đi lấy


chuối rừng về cho lợn mà gặp nhiều chuối vàng to chừng này. Chuối rừng


mọc khắp các khe suối, lẫn với giang, cây dong và ngõa, đến mùa thi


nhau nở hoa đỏ ối cả vùng. Nhưng chỉ nhiều chuối đen chứ chuối vàng ít


lắm, người các bản lên chặt về chăn lợn hết, cây bé cũng hết.


Đêm qua, lúc thoát khỏi mấy bàn tay sắp chọc dao vào cổ mình, Mốc đã


phi một mạch khơng kịp nhận ra hướng về nhà, lâu lắm mới dừng lại để
đạp cái rọ mõm ra. Rồi tối trời, lại mệt quá, nó dúi đầu vào một bụi lau



mà ngủ. Sáng nay, cứ nhằm đường hẹp đường rậm mà chạy. Đường rậm


thường khơng có người đi, mà thiếu hơi người thì lũ chó ăn thịt kia cịn


tha hồ tìm.


Mốc uống no nước rồi bò lên bờ, nằm vắt qua một tảng đá đầy rêu. Xung


quanh tối thẫm, khơng có tí ánh mặt trời nào. Mốc nhúng cái chân đang


còn chảy máu ròng ròng xuống nước...


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

*
**


Từ Pụ Dín nhìn qua mấy quả núi cũng thấy khói nương Pụ Cháng. Mùa


thu hoạch, gió mạnh một tí là có mùi cơm mới bay sang. Vậy mà muốn
đến thăm nhau là phải đi từ lúc mặt trời chưa mọc đến khi mặt trời sắp


lặn, trẻ con không đứa nào đi nổi. Pụ Cháng ở thấp hơn, gần đường ôtô,
đi về chợ huyện chỉ mất nửa ngày. Gần huyện nên trẻ con Pụ Cháng cũng


khôn sớm hơn trẻ con Pụ Dín, nhiều đứa bé tí đã biết nhận mặt đồng tiền


lúc theo mẹ bán bán mua mua ở chợ.


Xa thế nhưng cũng gần, hai bản có nhiều nhà là anh em họ hàng với nhau.


Trước kia Pụ Cháng toàn người họ Giàng, họ Thào; Pụ Dín chỉ có họ Lù,



họ Ly, sau này đi sang nhau lấy dâu nhiều mới thành họ hàng anh em. Lẽ


ra là họ hàng anh em phải hay đến thăm nhau thì bây giờ lại khơng thế.


Người già muốn đến nhưng yếu chân yếu mắt không đi được. Người trẻ


thứ gì cũng khỏe lại khơng muốn đi. Tại cái đầu ít nghĩ đến nhau thì tự


dưng chân cũng mỏi theo thơi mà. Người Pụ Dín nói thế.


Ấy dà, nói thì khơng vừa lịng nhau, khơng nói thì bảo khinh nhau, bảo


khơng có mồm. Biết thế nào cho phải. Người Pụ Cháng lại nói thế.


Mặc kệ thơi. Gió vẫn cứ mang hương cơm mới về Pụ Cháng, lại mang


mùi rượu hoẵng lên Pụ Dín. Trời mưa thì nước mới vẫn chảy từ trên cao


xuống thấp, trời cạn thì chỗ nào cũng khơ như nhau. Trời đất chẳng làm


gì để bản này ghét bản kia, mà người già đêm nào cũng nói đi nói lại ghét


nhau là tự mở cửa cho ma đói vào bụng mình. Từ ngày Pụ Dín, Pụ Cháng


gom lại chưa đầy chục nóc nhà đã thân nhau như mấy đốt ngón tay, cứ


năm nào có người cãi nhau là năm ấy mất mùa. Bây giờ không phải một,


hai người mà cả bản ghét nhau thì cái gì đến đây?



</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

Người trẻ khơng cịn muốn sang đi hội với nhau nữa. Mọi thứ cứ khác


dần đi, bắt đầu từ ngày Pụ Cháng có điện về.


Pụ Cháng nằm ngay cạnh đường lên huyện lị. Lúc người ta kéo điện qua


tiện đường lắp cho Pụ Cháng một trạm hạ thế. Vậy là bỗng chốc cả Pụ


Cháng, nhà lớn nhà bé, nhà giàu nhà nghèo, chỗ nào cũng sáng như ban


ngày. Từ Pụ Dín nhìn xuống thấy như mặt trời không lặn ở Pụ Cháng,


cịn ở Pụ Cháng từ ngày khơng cịn thắp đèn dầu nữa, nhìn lên lại thấy Pụ


Dín tối hơn ngày trước. Có lần gặp nhau ở chợ, bọn con trai Pụ Cháng


còn bảo: "Dạo này Pụ Dín đi ngủ sớm thế. Chẳng thấy ánh lửa gì cả".


Khơng biết chúng nó nói thật bụng hay cố tình trêu tức, nhưng đám con


trai Pụ Dín đã giận tái mặt: "à thì chúng mày khinh bọn tao đấy. Mới sáng


hơn một tí đã học khinh người ở đâu về rồi".


Vậy là cãi nhau. Lúc đầu chỉ nói nặng lời hơn bình thường, nhưng sau cứ


nóng mặt dần lên, khơng giữ được nữa là mở miệng to ra, suýt nữa còn
đánh nhau. May mà bọn con gái gọi về.



Sau lần cãi nhau giữa đám thanh niên ấy, hai bản xa nhau hẳn ra. Không


ai bảo ai nhưng tất cả đều nhận thấy thế. Người Pụ Dín đi chợ huyện


không qua Pụ Cháng nữa mà đi vòng, qua hai quả núi nữa mới xuống đến
đường cái. Mất gần một tháng, bọn con trai con gái Pụ Dín mới dọn xong
đường riêng cho mình. Thấy thế, thanh niên Pụ Cháng đi săn cũng khơng
đi về phía Pụ Dín. Nhưng dần dần, từ ngày có điện về người Pụ Cháng


cũng ít lên núi. Pụ Cháng đã tự mở một cái chợ bé, có máy xay xát, có


thêm cả một cái quán phở nữa, lúc nào cũng ồn ào. Bây giờ, xe ôtô qua


lại, dù lên huyện hay về tỉnh cũng muốn dừng lại Pụ Cháng một lúc. Pụ


Cháng ở ngay sau cổng trời một, quanh năm gió lồng lộng, nhìn xuống


phía dưới là thung lũng tồn sa mộc mọc hoang, đều tăm tắp. Dưới chân


sa mộc tồn hoa cúc đỏ. Dín dần thành nếp, Pụ Cháng thành chỗ nghỉ


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

Pụ Cháng, Pụ Dín ngày càng không giống nhau, càng xa nhau. Cho đến


khi ngay trung tâm chợ Pụ Cháng có một người đàn ông râu rậm mang


theo vợ từ xuôi lên, mở một qn thịt chó, thì hai bản khơng cịn nối lại


với nhau được nữa.


Bao đời nay, người Pụ Cháng, Pụ Dín ni chó giữ nhà, giữ nương, coi



nó như bạn. Chó lớn lên cùng với người. Có con chó giữ cửa, người lớn
đi làm cứ để trẻ con ở nhà, khơng phải lo gì. Đến mùa bẻ ngơ, nhổ sắn,


mang con chó lên nương làm nhà cho nó ở, rồi người cứ về nhà mà ngủ.


Trẻ con có khi bịđánh vì hư, nhưng con chó thì một câu chửi cũng khơng


phải nghe. Cứ ở với người mãi, chó bố chó mẹ già ốm, lơng rụng, nằm


một chỗ, thì chó con đã kịp lớn lên cả đàn. Cần tiền đến đâu cũng chỉ bán


con gà con lợn, không ai bán chó đi lấy tiền bao giờ.


Vậy mà bây giờ Pụ Cháng lại để người lạ đến giết chó như giết gà thế thì


Pụ Dín khơng chịu được rồi. Cậy giàu, cậy thừa tiền thừa của không cần


chó canh nương nữa đấy mà. Nhưng khơng cần thì thơi chứ, sao lại đem


giết thịt con chó bao nhiêu năm bầu bạn với mình? Tệ quá. ác quá. Người


Pụ Dín giận lắm. Giận mà khơng biết làm gì quay ra lo giữ đàn chó trong


bản, khơng cho đi chơi xa, nhỡ lao xuống Pụ Cháng lại khơng có đường


về.


*
**



Đã mấy đêm rồi, đang dở giấc, nghe tiếng móng chân con Mốc cào cào


vào cánh cửa gỗ Pao lại bật dậy, rút then cho nó vào nhà. Đấy là lúc gần


sáng, tiếng chó bị giết thịt dưới Pụ Cháng bắt đầu vọng lên, nghe rõ lắm.
Đưa con Mốc vào, cho nó nằm ngay dưới chân giường mình, rồi Pao


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

gì làm nó biết sợ. Chỉ đến bây giờ, nghe tiếng chó tru lên từng đêm mới


thấy con Mốc run bần bật thế này. Sợ hay là uất ức cũng không rõ nữa,


nhưng cứ soi đèn pin vào mặt nó là thấy hai con mắt mở chừng chừng, đỏ


như hai hòn than.


Hôm nào vào phiên chợ, xe qua lại nhiều. Hôm ấy lão chủ quán giết


nhiều chó. Nghe tiếng kêu cũng biết loại chó nào bị giết. Pụ Dín, Pụ


Cháng xưa nay chỉ có mấy loại thơi, ai mà khơng nhận ra được. Chó vàng


chân đen, đi cong kêu như tiếng xé vải; chó đen, tai cụp, đi qt đất


kêu tiếng dài mà dữ; chó khoang trắng khoang đen kêu như tiếng trẻ con


khóc mẹ... Những tiếng kêu từ trong cổ, không há miệng ra được, nghe


càng sợ, dội đi dội lại Pụ Dín mãi.



Nhà Pao ni chó khoang từ đời ơng bà, trước cả ơng bà nữa. ở Pụ Dín,


nhà nào ni loại chó gì thì cứ ni mãi. Chó con chui ra, con nào của


nhà mình thì lấy, con nào của nhà khác thì đợi đến lúc nó biết ăn cơm là


mang đến tận nhà trả. Nhà khác cũng thế. Chó khoang hiền lại chăm, thức


suốt đêm đi hết nương này qua nương khác được. Họ Ly ở Pụ Dín ít


người nên chó khoang ở Pụ Dín cũng ít. Như nhà Pao đây, có mỗi con


Mốc. Thỉnh thoảng có nhà mang chó con đến cho nhưng chỉ ni được


vài ngày là chết dù Pao có nhá cơm cho nó ăn từng bữa. Nhà ít người,


Pao có mỗi con Mốc làm bạn, đi đâu cũng chó nó theo. Con Mốc cao


lừng lững, tai dài dựng đứng, mùa khơ nghe tiếng chân nó chạy trên suối


cạn như tiếng vó ngựa. Bố Pao già yếu rồi, việc canh nương vụ nào cũng


phần con Mốc.


Hồi đầu mùa đông năm Pao lên hai tuổi, mẹ đẻ một lúc hai em, một trai


một gái, nhưng khơng em nào sống được vì yếu quá. Mẹ ra nhiều máu, lại


buồn quá cũng ốm ln từ đấy, khơng cịn làm được việc gì nặng nữa.



Nhà khơng có con trai nên bố Pao là con cả cũng dần dần thành con thứ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

Nhưng buồn bao nhiêu cũng để trong bụng thơi, khơng nói ra vì sợ mẹ


biết lại càng ốm thêm.


Việc nhà dồn hết vào đơi tay bố, lo đủ miệng ăn đã khó còn phải kiếm


thuốc, gọi thầy mo cho mẹ nữa, nên nhà nghèo càng nghèo thêm. Năm


Pao lên tám tuổi thì người già trong họ bắt đầu đến nhà Pao nói chuyện


với bố. Đến buổi tối, lúc cả nhà ăn cơm xong rồi, ngồi bên bếp uống nước


chè. Hơm nào các ơng chú đến thì mẹ Pao cũng chỉ pha nước chè mới rồi


lui vào buồng, để bố Pao ngồi tiếp chuyện. Lúc đầu còn nói xa nói gần,


sau thì các ơng chú nói thẳng ra là cả họ nóng bụng quá rồi, muốn bố Pao


có con trai để lo việc họ sau này. Chú Dín cũng có con trai, nhưng chú


người yếu, da xanh, làm việc gì cũng chỉđược một nửa đã thõng tay đứng


thở, ngày nào cũng ho vài trận. Lấy vợ vào cũng khơng hơn gì. Vợ chú


Dín to gấp đơi chú, làm việc gì cũng một nhoáng đã xong. Mọi việc trong


nhà dồn lên tay thím hết, kể cả việc dạy con. Nhưng xưa nay, việc dạy



con trai thành người lớn có bao giờ lại là việc của mẹ, con trai thì phải


theo bố chứ. Hai đứa nhà chú Dín, tám chín tuổi đẽo con quay gỗ chưa


nổi, bao giờ mới biết tra cán con dao? Bao giờ mới làm việc đàn ơng


trong nhà được, nói gì đến việc họ việc làng. Bố Pao không như chú Dín,


việc gì cũng thạo cũng giỏi, ngày cịn thanh niên cả Pụ Dín khơng ai dám


so tài. Cả họ trông chờ vào bố Pao. Từ hồi hai em Pao mất mọi người lại
đợi mẹ Pao mang bụng, nhưng đợi mãi, đợi mãi không thấy, chỉ thấy mẹ


Pao người càng ngày càng mỏng đi, bé lại. Thế mà bố Pao thì nhanh già


quá, gần bốn mươi mà tóc đã bạc rồi. Bà thím bảo, người nào buồn nhiều,


khổ nhiều thì mau già, nhưng sống lâu. Bố Pao nói, sống lâu mà cứ buồn


mãi, khổ mãi khơng sướng bằng chết sớm. Những câu chuyện nói qua nói


lại thế mẹ Pao nghe hết. Nghe rồi thở dài.


Ngày xưa, ông nội, ông ngoại Pao chơi thân với nhau từ lúc còn rủ nhau


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

bản khác, cách Pụ Dín mấy cái nương sắn. Lớn lên, hai người lấy vợ cùng


một năm, làm bố trẻ con chỉ trước nhau vài ngày. Hứa với nhau trước nên


lúc mẹ Pao vừa tròn tuổi mười hai là ông ngoại cho về làm dâu họ Ly rồi.



Mẹ Pao là con út, về làm dâu cả, nhưng nhà bên này khơng có con gái


nên ơng bà thương chiều như con gái ruột, việc nặng không bắt làm. Mẹ


Pao cũng lo việc nhà chồng như nhà mình, coi bố mẹ chồng như bố mẹ


mình. Về làm dâu lúc còn bé quá, mấy năm liền con dâu toàn ngủ chung


với mẹ chồng. Sau này mẹ mới kể với Pao, ơng bà nội địi lấy dâu sớm


thế là để giữ phần, sợ một vài năm sau lớn thành con gái rồi lại nhìn thấy


người con trai khác chứ không phải bố Pao. Đến lúc ấy cố ép hai người


lấy nhau cũng khổ.


Hồi mới cưới về, bố Pao cũng chăm cho mẹ Pao như chăm em gái út, đi


rừng gặp hoa gì cũng hái về cho, bắt cả một con sóc con về buộc chân


nuôi trong nhà, con sóc ở mãi rồi cũng quen, bỏ dây ra cũng không đi


nữa. Mẹ Pao kể, hồi bà nội bắt đầu đuổi con dâu sang buồng riêng với


chồng, đêm nào con sóc cũng chen vào nằm giữa hai người, thỉnh thoảng


cào cào cho mỗi người một cái.


Vì mẹ Pao làm dâu mà khơng giống con dâu, bao nhiêu năm họ Ly coi



mẹ con Pao như con gái trong họ rồi, thế nên bây giờ bàn chuyện kiếm vợ


mới cho bố Pao các ông chú mới khơng dám nói thẳng ra, cứ vịng quanh


xa gần mãi, mặc dù bản này đàn ông lấy vợ hai nhiều lắm, vợ cả không đẻ
được con trai là lấy thêm vợ hai thôi, rồi muốn ở chung cũng được mà


thích tách ra ở riêng thì ở, khơng ai ngăn. Dâu nào cũng là dâu, cháu nào


cũng là cháu, cứ mang họ nhà chồng là được đối xử như nhau hết.


Đêm nào cũng thế, mẹ dựa lưng vào vách, ơm Pao trong lịng, khơng cố


tình nghe nhưng câu chuyện của đàn ơng bên ngồi cứ vẳng vào buồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

- Mày là cái nóc của họ Ly, bây giờ chân cột cha mục mà cái nóc muốn


mục trước, thế có được khơng? Con vợ mày ốm, nó khơng đẻ được nữa,


thì thơi, ép cũng khơng ra. Vậy thì mày phải nghĩ xa xa qua cái ngưỡng


cửa một tý có ai trách mày khơng?


Bố nói:


- Khơng nói nhiều nữa, khơng nói nữa. Nhé! Các ơng chú à, cháu đứng


chỗ thấp, chỗ cao cũng như nhau cả thôi, không xếp lại nữa. Việc làng



việc họ cần đến đâu, cháu làm được thì làm, khơng làm ngay được thì để


sau này anh em thằng Sình thằng Sính làm. Cây nhà mình đang héo, lịng


dạ nào đi tìm cây khác...


Mẹ thở dài, tóc mẹ xõa xuống mặt Pao.


*
**


Buồng riêng của Pao có một lỗ cửa nhìn ra đầu hồi bên phải, phía mặt trời


lặn, cứ mở miếng gỗ che lỗ cửa ấy ra thì căn buồng này là chỗ tối muộn


nhất trong nhà. Mặt trời lặn đến đâu thì cái ô nắng vuông vuông lại nhích


dần lên tường đến đấy, nhưng ô nắng chỉ lên đến chỗ Pao treo cái túi thêu


là dừng lại rồi tắt dần. Mùa đơng, sợ gió vào, Pao cắt một mảnh áo mưa


trắng, lấy que gài vào lỗ cửa để không bị tối. Có mỗi cái lỗ cửa ấy thơi, để


lúc nào khơng có việc là Pao lại ngồi trong giường nhìn ra. Nhìn ra mà


người ở ngồi khơng biết. Vẫn là con đường trâu kéo gỗ về đào thành


rãnh sâu ấy, vẫn cái gốc cây người đi chợ về hay buộc ngựa ấy nhắm mắt


vào cũng thấy rõ từng cái mấu xù xì của nó... Quen mắt thế cứ tưởng nhìn



mãi cũng chán, nhưng mỗi ngày lại nhìn thấy những cái mới. Chiều hơm


trước, Pao cũng ngồi thế này, nhìn qua lỗ cửa thấy trong những người đi


chợ về có một người đội một cái chảo lớn trên đầu cắm cúi leo dốc. Sắp


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

ấy từ vai trở lên, chỉ nhìn thấy tấm lưng vuông như cái bàn uống nước


nhà mình, thấy đơi chân bám chắc như con tắc kè trên tường, Pao nhìn


theo, nhìn mãi cái bao dao người ấy đeo bên hông. Cái bao dao chạm bạc


hình hoa cúc. Hoa cúc đỏ dày cánh, mọc đầy dưới những gốc sa mộc già,


Pao đánh về trồng trong vườn bao nhiêu lần khơng có lần nào cây sống
được. Chạm được bông hoa ấy trên bao dao gỗ phải là người khéo tay


lắm, Pao vẫn nghĩở Pụ Dín chỉ có bố Pao làm được.


Ở Pụ Dín, con gái tầm tuổi Pao lấy chồng gần hết rồi, Pao cũng có nhiều


người hỏi nhưng chưa nhận lời ai. Bố nóng ruột, nhìn Pao mỗi mùa ngô


lại cao hơn cái vạch bố khắc trên khung cửa một đoạn, chỉ vòng bạc đeo ở


cổ tay phải tháo ra từ lâu rồi, thế mà Pao cứ lùi lũi đi làm, đi chợ, về chợ


một mình, chập tối đã đóng cửa, thả chó ra. Cũng từ khi Pao cao vượt cái



vạch trên khung cửa, hai bố con ít nói chuyện với nhau. Bao nhiêu


chuyện Pao cần hỏi lại không hỏi được bố, bao nhiêu chuyện bố muốn


bàn với Pao lại không bàn được, vậy là quanh ra quanh vào chỉ có con gà,


con lợn, nương ngô, nương lúa làm chuyện nối hai bố con.


Pao chín tuổi thì mẹ mất. Vừa qua mùa gặt, ngô lúa thu về chất đầy nhà
đầy sân. Ngày nắng các em con nhà chú kéo sang phơi hộ, dọn hộ. Nhà ít


người mà thu về nhiều thế, bố Pao đã tính đến tết tha hồ bán đi mua sắm.


Nhưng chưa kịp ăn bữa cơm gạo mới nào thì mẹ đột ngột ốm nặng. Một


ngày, hai ngày, người cứ lả dần đi, cánh tay không nhấc nổi nữa. Rồi mẹ
đi hẳn trong một buổi chiều. Bố đi cắt thuốc dưới Pụ Cháng chưa về, Pao


vừa đuổi gà khơng cho vào bới thóc vừa chạy vào quanh quẩn bên mẹ.


Lúc mẹ dặn Pao, Pao cũng chẳng chú ý nghe, câu được câu mất. Chỉ nhớ


láng máng mẹ bảo nếu có người lạ đến ở nhà mình, thì Pao phải nghe lời


bố hơn, nghe cả lời người ấy nữa. Một lúc sau thì bố Pao đi người khơng,


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

mà người ốm đã muốn ốm thêm thì khơng thuốc nào chữa được. Nhưng


bố Pao biết được thế thì đã muộn quá rồi.



Hôm ấy, mặt trời bám mãi trên dãy Hoàng Liên không chịu lặn. Nắng


chiều vàng hơn cả ngơ lúa đang tãi đầy ngồi sân, nắng lọt qua khe cửa


chiếu lên mặt mẹ. Nhìn mẹ ngủ, hai mắt nhắm nghiền, vành khăn tuột ra


khỏi đầu Pao không biết rằng mẹ không bao giờ thức dậy nữa. Trên núi,
đột nhiên có tiếng gà rừng gáy tiếng gáy chậm, quấn vào nhau.


Sau ngày mẹ mất, các ông chú thôi không đến tận nhà nói chuyện con trai


với bố Pao nữa. Ai cũng biết mẹ Pao không tự dưng ốm nặng thế. Mẹ đã
đợi đến lúc Pao bắt đầu biết lo việc nhà, đợi đến mùa các ông mối bà mối


hay đến đánh tiếng, đợi đến khi ngô lúa đầy nhà, lợn gà đầy chuồng mới
ốm. Nhưng mẹ không đợi đến lúc bố hết thương mẹ, đến lúc Pao thành


con gái lớn nhiều người để ý, rồi mẹ hẵng đi. Hai bố con Pao thay nhau


khóc trước bàn thờ mẹ...


Pao lớn lên, ít bạn bè. Sáng sớm đi làm với bố, tối về nhà đóng cửa sớm.


Bọn con trai con gái rủ nhau ra bãi cỏ chơi trăng đông lắm, đi qua nhà í ới


gọi Pao, Pao mặc kệ. Pao sợ ánh mắt bọn con trai cứ dán vào lưng vào


gáy Pao mỗi lúc Pao ngang qua chúng nó, Pao khơng thích bọn con gái bị


con trai chịng ghẹo cịn quay lại bng lời đưa đón, Pao muốn tìm một



người như bố mình, vợ khơng đẻ con trai cũng không bỏ đi lấy người


khác. Người ấy còn phải ở rể nhà Pao nữa, bố Pao già quá rồi, Pao không


nỡ bỏđi lấy chồng. Người như thế thì tìm đâu ra. Bố bảo Pao đang nghĩ


dại. ở với bố mãi, đến lúc bố theo mẹ đi nốt thì thành gái già rồi. Gái già


giống cây mía tím ra hoa, cho cũng khơng ai thèm lấy. Lại cịn địi người
ở rể. Thằng đàn ơng đến nhà vợ ở rể giống con chó cụt đi ra đường


khơng dám nhìn ai.


Pao cứ ngồi bó gối trong buồng nhìn qua ô cửa. Chếch sang bên trái là bãi


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

sớm, bọn con trai đi chơi vẫn phải giắt đèn pin vào cạp quần. Ngoài ấy


chỉ toàn những đứa chưa yêu ai, chưa nhắm ai làm vợ làm chồng chứ yêu


rồi lại không ra đấy. Bọn thanh niên nô nhau đến lúc trăng lặn là kéo nhau


về, ngang qua nhà Pao còn ném đá vào trêu chó. ánh đèn pin như đom
đóm bị về các ngả, các đèn tắt hết là cả bản bắt đầu ngủ.


Cả Pụ Dín lẫn hết vào rừng cây, núi cao, tối đen. Bấy giờ mới thấy cái


vầng sáng dưới Pụ Cháng hắt lên trời rõ lắm. Bốn phía trời tối đen như


nhau nên một mình Pụ Cháng đã sáng càng sáng hơn. Không nghe thấy



tiếng người, chỉ thỉnh thoảng có tiếng cịi, tiếng xe ơ-tơ dừng rồi đi.


Không biết cứ sáng suốt đêm thế thì người ta ngủ vào lúc nào nhỉ. ở Pụ


Dín, chỉ mùa đơng các nhà mới để bếp lửa qua đêm, chỉ khi nào nhà có


người chết mới để đèn. Vậy mà Pụ Cháng thì sáng suốt đêm, nửa đêm cái


vầng sáng thu hẹp một tý rồi về sáng lại mở rộng ra. Sáng như thế chắc


người ta cũng quên cả lúc mặt trời mọc. Từ ngày hai bản tránh mặt nhau


Pao cũng như mọi người ở Pụ Dín, không xuống Pụ Cháng lần nào.


Khơng biết điện sáng như thế thì Pụ Cháng có gì khác ngày xưa, hồi Pao


cịn được bố cho đi theo tìm mua ngựa ấy khơng? Bọn thanh niên Pụ Dín


nghe lời người già, bảo khơng cãi nhau nữa thì khơng cãi nhau nữa, bảo
đừng đánh nhau cũng khơng đánh nhau, khơng ưa thì tránh mặt đi thơi.


Vậy mà vẫn có đứa biết chuyện Pụ Cháng có nhiều người giàu lên, rồi thì


thầm kể cho bạn bè nghe. Còn bảo Pụ Cháng nhiều thứ lạ lắm, chưa nhìn


thấy bao giờ Pao cũng muốn xuống xem Pụ Cháng một lần. Hình như bố


biết, bố bảo: "Bọn trẻ Pụ Cháng bây giờ thành cây khơng có gốc hết rồi.



Ban đêm thức chơi đến khuya, ban ngày thì ngủ, ruộng nương bỏ khơng,


lại còn theo nhau về huyện, về tỉnh, bảo là đi buôn dễ kiếm tiền hơn. Vài


năm nữa, người già chết hết là bùa dán cửa cũng bị chúng nó xé đi thơi".


Pao khơng dám nói gì. Khơng biết bố nghe ai kể mà biết rõ thế. Bố cịn


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

lại khơng mặc váy nữa mà quay sang mặc quần như đàn ơng. Ơi trời, thế


cịn gọi là con gái làm sao được nữa!


Một buổi chiều, Pụ Dín có hai người khách lạ. Khách là đàn ơng, tìm vào


nhà trưởng bản, bảo muốn lên Pụ Dín để hỏi mua chó. Trưởng bản nói:


- Pụ Dín khơng có chó để bán. Hỏi mua chó ở Pụ Dín cũng giống như hỏi


mua người đấy. Mà người thì có mua bán được khơng?


Người khách trẻ giải thích:


- Ở làng cháu bây giờ trộm cắp nhiều quá, ban ngày cũng mất trộm gà,


lợn; người lớn thì bận đi làm chỉ có trẻ con ở nhà không trông được.


Nghe nói chó khoang, chó vàng... ở Pụ Dín khôn lắm mới định lên nhờ


mọi người giúp cho một ít.



Già bản nghe nói thế xi xi trong bụng mới gọi mấy trưởng họ đến,


bảo mỗi họ giúp khách một con, rồi cịn nói với khách:


- Cứ mang về đi, cần nữa thì lại lên, giúp nhau thì Pụ Dín khơng tiếc đâu.


Nhớ cho chúng nó ăn uống như mình nhé. Khơng tốt với nó là nó bỏ


mình đấy.


Khách mừng quá, vừa cảm ơn vừa mang tiền ra biếu lại mỗi nhà một ít.


Khách cứ dúi vào tay, chối cũng khơng được. Khách mang chó đi rồi, mọi


người giở tiền ra đếm mới thấy nhiều quá. Trời ạ, có một con chó mà lấy


lại bao nhiêu tiền, có khi bán hai, ba quẩy tấu ngơ cũng không được bằng
ấy. Ngại quá.


Khách quay lại nhiều lần nữa. Mỗi lần quay lại còn mang theo bao nhiêu


quà cho tất cả các nhà, người già được thuốc lào, trẻ con được kẹo. Khách


thành người quen với Pụ Dín lúc nào không biết. Bây giờ, không cần


nhắc, mọi người tự khắc thay nhau dắt chó đến cho. Dắt chó đến, nhận


tiền biếu lại, quen dần không ai thấy ngại nữa. Khách vẫn nói với người


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

- Không phải mua bán đâu, anh em bạn bè lúc nào cần tiền thì giúp nhau



thơi. Ngày tết, nhà nào cũng có bánh mà vẫn mang cho nhau, có ai từ chối
đâu. Cầm một ít tiền cho chúng cháu đỡ ngại. Nhé!


Khách nói thật bụng thế ai mà từ chối được. Pụ Dín ni nhiều chó lắm,


cho đi một ít cũng khơng thấm vào đâu. Mà bao nhiêu lần khách mang


chó đi theo khơng thấy con nào bỏ nhà mới trốn về, chắc ở bản của khách


mọi người cũng đối xử tốt với chúng nó. Thế thì n tâm rồi.


Nhà Pao mới nhận về ba con chó khoang ơng Dín mang sang cho. Lúc
đưa cái quẩy tấu đựng mấy con chó cho Pao, ơng Dín hỏi khẽ:


- Pao à, mày với thằng Khiêm còn chơi với nhau khơng đấy? Bảo nó


mang chó sang đây hộ mà nó khơng nghe...


- Ơi bác này, sao lại hỏi thế?


Pao quay mặt đi, xấu hổ quá. Lâu lâu rồi Pao không gặp Khiêm, quên mặt


Khiêm rồi.


Khiêm là con trai lớn nhà bác Dín. Khiêm hiền lắm, cả bọn dám chặn
đường ghẹo Pao thì lúc nào Khiêm cũng đứng phía sau, chỉ nhìn thơi, mặt
đã đỏ như say rượu. Thế mà Khiêm càng đứng sau thì Pao càng hay đưa


mắt qua vai đứa khác để nhìn. Lúc đầu Pao chỉ định trêu cho Khiêm sợ



thơi, nhưng hai ba lần trêu như thế rồi tự dưng Pao cứ bị ánh mắt Khiêm
đi theo, cả trong lúc ngủ cũng khơng trốn được. Mới chỉ có thế thôi. Pao


cũng không muốn nghĩ đến Khiêm nhiều hơn, Khiêm là con trai một, cả


họ lại trông vào, Pao sợ mình đi vào lối đi của mẹ. Nghĩ đến Khiêm


khơng được như bố mình cịn sợ hơn nữa. Chỉ có cái bao dao chạm hình


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

Nhà Pao khơng có nhiều chó nên chưa bao giờ mang chó cho khách cả.


Vậy mà lần nào khách lên Pụ Dín cũng đến thăm bố Pao, cho quà. Bố Pao


ngại lắm, mang tam thất ra cho lại, khách không nhận:


- Chúng cháu mang ơn cả Pụ Dín này, bác cho chúng cháu được như


người cùng bản, đừng làm khách với nhau. Q có một ít thơi, tấm lịng


mới q.


Lần này ơng Dín mang chó con tới cho rồi, con nào cũng đẹp, nuôi tới


mùa thu ngô cũng kịp lớn. Ăn cơm tối xong, bố nói với Pao:


- Con gái à, bốđịnh mang con Mốc cho khách...


Pao giật mình:



- Khơng. Khơng được đâu bố! Con Mốc ở nhà mình bao nhiêu năm rồi,


thân với con như chị em, cho cái gì thì cho chứ con Mốc thì khơng được
đâu.


Nghe bố nói nhé. Khách nó tốt với mình bao lâu nay, mình từ chối nhận


q khơng được, mình cho q nó khơng nhận. Ở bản nó, chỉ cần chó


canh nhà thơi. Mình cho nó mang con Mốc đi cũng là làm một việc giúp


người khó khăn, là việc tốt mà. Bao giờ đàn chó Pụ Dín đẻ nhiều con ở


bản nó, nó khắc mang chó về trả mình. Coi như mượn lâu lâu thơi. Nó


bảo bố thế mà.


Pao im lặng, khơng nói gì với bố nữa. Nhưng từ hôm ấy đêm nào Pao


cũng cho con Mốc vào buồng với mình từ sớm. Bố cũng khơng nhắc đến


chuyện ấy thêm lần nào. Bố vẫn chiều Pao mà.


Mùa đông đến rồi. Năm nay làm mùa xong sớm Pao kịp đi lấy củi về chất
đầy quanh nhà. Bằng ấy củi tha hồ đun, đến tết luộc bánh cũng không lo


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

Năm nay bố yếu đi nhiều, đến bữa chỉ ăn cốđược hai lưng cơm, có hơm


chỉ uống vài chén rượu, gắp mấy gắp rau là đứng lên. Pao vừa lo vừa



buồn, đêm nào cũng mất ngủ vì tiếng ho cứ nén lại trong ngực bố bên kia


vách vọng sang. Gần đây, Pao ép bố vào buồng mà ngủ, khơng ngủ ngồi


nhà nữa. Pao biết bố không muốn ngủ trong buồng vì cứ vào buồng là


nhớđến mẹ, khó ngủ. Nhưng ở ngồi gió quá...


Trời mùa đông tối nhanh, ăn cơm xong đã như nửa đêm rồi. Sương mù


vây quanh, chui cả vào trong nhà, ngấm qua bờ tường đất, bong cả mấy tờ


báo Pao dán tường ra. Cả bản, nhà nào cũng đóng kín cửa từ sớm, sương


mù lại dày, thế nên từ nhà này khơng sao nhìn thấy nhà kia, nếu khơng


nghe tiếng trẻ con khóc quấy mẹ có khi lại tưởng có mỗi nhà mình bị dìm


trong sương mù. Trời càng mù mịt thì cái quầng sáng dưới Pụ Cháng


trông càng lạ mắt. Pao cứ nghĩ Pụ Cháng giống như các quẩy tấu đựng


hết sao trên trời vào đấy. Dưới Pụ Cháng mùa đơng này chắc cũng ít rét
đi nhiều, con gái Pụ Cháng thế nào má cũng hồng như quả lê chín...


Bố bị ngã. Chân run rồi, bước vào cái bàn đạp ngựa cũng trượt, vậy là


ngã thôi. Chỗ nào cũng đau, đau lưng, đau bả vai, đau khuỷu tay, Pao lo


quá khóc suốt cả đêm. Hai hơm sau thì người khách trẻ đến, một mình,



bảo nghe nói bố Pao ngã, mang cho mấy thứ thuốc chỗ nào bó được thì


bó, khơng bó được thì bơi. Khách cịn ở lại nhà Pao, đêm thức đấm lưng


cho bố. Khách ở hai, ba ngày, ở một tuần liền. Bữa cơm nào Pao cũng mổ


gà, kiếm thêm chai rượu cho bốđổ vào bình rượu tắc kè, nhà có thêm một


người thấy đơng hẳn lên. Thuốc của khách tốt quá, bố đi lại được rồi, cố


giữ khách ở lại chơi thêm vài hôm. Khách thấy bố nhiệt tình q cũng


khơng từ chối được. Thấy Pao cầm dao lên rừng khách cũng đi theo, bảo


vác chuối hộ. Hai bắp chân Pao, váy ướt quấn vào, cứ bỏng rát lên, đi


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

cứ run bắn lên, không làm được việc gì từ đầu đến cuối khi có ánh mắt ấy


nhìn theo mình.


Rồi khách cũng chào bố, xin phép đi. Pao dắt con Mốc ra, đưa cái dây


xích bằng bạc cho khách. Cả đêm trước Pao khơng ngủ, ngồi xoa đầu con


Mốc rì rầm tới sáng. Pao bảo nó, mày phải đi trả ơn cho tao với bố thơi,


khổ hay sướng thì cũng phải nghe lời người ta.


Khách cảm động q, khơng nói được câu gì, dùng dằng mãi khơng muốn


đi. Con Mốc mọi lần nghe lời Pao là thế, lần này cứ giằng xích ra địi ở


lại. Con Mốc khơng ưa khách ngay từ lần đầu tiên đến nhà, khách muốn


xoa đầu nó cũng khơng được. Pao mắng con Mốc, mắng nó mà nước mắt


cứ chảy ra, con Mốc cũng khóc. Lúc khách kéo con Mốc đi, Pao chạy vào


buồng để khơng phải nhìn theo, nhưng một lúc lại ghé mắt qua lỗ cửa.


Ngoài kia con Mốc vừa đi vừa tru lên từng đợt, nó khóc vì phải xa Pao.


Khách đi rồi mà bố còn nhắc mãi, còn kể lại cho Pao biết người ấy mồ cơi


sớm, ở với ơng chú. Chú thì tốt nhưng thím ác lắm, lúc người ấy cịn bé


suốt ngày bị đánh tím cả mơng. Người tốt mà cũng chịu khổ thế, ông trời


không công bằng, tự dưng Pao thấy thương thương. Nhớ cái chạm tay lúc
đưa dây xích con Mốc cho người ấy mà nóng bừng cả mặt.


Pao quyết định trốn bố xuống Pụ Cháng theo mấy đứa bạn. Thì phải trốn


chứ nói thật ra làm sao bố cho đi. Pao chỉ muốn xem Pụ Cháng ban đêm


có cái gì mà ở Pụ Dín nhìn thấy sáng thế. Mấy đứa bạn nghe ai kể mà cứ


nói chắc chắn rằng dưới Pụ Cháng bán nhiều thứ lắm, ở chợ huyện cũng


khơng có, lại rẻ nữa, mang một quẩy tấu lúa nếp đi bán là mua được bao



nhiêu thứ rồi. Thế thì cứ đi thử một lần cho biết, chúng nó cũng tị mị


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

Pao gói bộ váy áo đẹp vào khăn, để dưới đáy quẩy tấu, đổ lúa nếp lên


trên. Sáng sớm, chưa nhìn rõ đường mấy đứa bạn đã ném đất gọi cửa. Pao


nói với bố là Pao đi đám cưới ở Pụ Lấu.


Pụ Cháng đông người quá. Bây giờ nhà ai cũng kéo ra gần đường để mở


quán bán hàng. Pao bán được lúa nếp ngay, cầm xấp tiền đi sắm đồ.


Gương, lược, chỉ mầu, chục bát ăn cơm, cả một cái xoong bé để dành nấu


cháo cho bố, mua cho bố cái mũ nồi, một bọc thuốc lào, cái bật lửa... Cứ


mua rồi về nhà khắc có cách nói dối bố. Mua hết tiền được gần đầy một


cái quẩy tấu, đến trước hàng đèn pin còn mua nốt bằng mấy tờ tiền lẻ
được hai cái liền.


Trời tối lúc nào Pao không biết, lúc đứa bạn kéo áo chỉ cho Pao xem cái


bóng điện chói cả mắt người ta treo trên cao, Pao mới biết là mặt trời lặn


lâu rồi. Pao cứ dán mắt vào mấy cái bóng điện, chân bước theo đứa bạn đi


từ đầu chợ đến cuối chợ, thấy chỗ nào cũng sáng như ban ngày, người



làm cứ làm, người chơi cứ chơi, người ăn cứ ăn. Khơng biết như thế thì


người ta ngủ vào lúc nào.


Bọn Pao đi ngang qua một cái quán, trong quán đông người lắm, sợ người


ta trêu, Pao xốc quẩy tấu đi cho nhanh. Chợt Pao giật mình đứng lại vì


nghe tiếng nói quen quá ở ngay chỗ bể nước đang xối ào ào:


- Đêm nay thế nào cũng có xe qua, làm sẵn một con bây giờ nhỉ. Con to


nhất nhé. Con này xịn nhất từ trước tới giờđấy.


Cái gì thế? Người khách. Đúng là người khách trẻ vừa mới ở nhà Pao về


hai, ba hôm nay. Người ấy đang cùng mấy người nữa đè ngửa một con


chó ra tìm cách buộc chân. Con chó khỏe q, giãy mạnh như con bị cày.


Pao nhìn thấy sợi xích bạc lủng lẳng: "Mốc! Mốc ơi!" Pao chạy bổ đến


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

thứ vào người khách trẻ đang há miệng ra nhìn. Con Mốc vùng ra, lao qua


rãnh nước...


Mặt trời lên cao Pao mới tỉnh, đêm qua Pao đã ngủ gục dưới một gốc sa


mộc già, dưới chân Pao, hoa cúc đỏ bị đè suốt đêm đang vươn dậy. Một



chiếc giày của Pao đã rơi đâu mất, Pao ném nốt chiếc kia xuống vực.


Dãy Hoàng Liên trước mặt, nhìn thì gần mà đi thì xa, cịn Pụ Cháng


muốn trốn cho nhanh lại cứ ở sau lưng mãi. Trong đầu Pao thấp thoáng


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

<b>NG</b>

ƯỠ

<b>NG C</b>

<b>A CAO </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Gió thốc vào người cơ ở chỗ khúc ngoặt như trị đùa của trẻ con. Đi qua


khúc ngoặt, sang mé núi bên này, cơ khơng cịn phải quay nhìn lại phía


sau với hàng đống ý nghĩ lộn xộn trong đầu. Chiều đang dềnh lên, nhanh


như nồi cơm sôi không kịp mở vung. Nhà thấp tối trước, nhà cao tối sau,


càng gần trời càng tối muộn. Nhà của cô ở trên cùng, có mấy viên ngói


mới chèn vào lớp ngói cũở đầu hồi bên phải như một miếng vá khéo.


Sính đứng như chơn chân ở cửa, hai cánh cửa mở toang, ép vào bờ tường.


Hai bàn tay Sính xoắn vào nhau, mắt Sính loang lống ướt.


Sính vẫn cịn nhớ từng lời cơ nói với Sính đêm ấy... “Ngày mai em về


xuôi. Nếu ông trời giữ em ở lại thì em với anh có cố đến gần nhau cũng



chỉ như người say lội ngược đầu nguồn tìm sơng thơi. Cịn nếu ơng trời


thả em đi thì chân em tự khắc biết đường mà đi. Anh đừng tìm em. Chờ


một tuần trăng mà không thấy em lên là em lạc sang đường khác rồi...


Anh khóc đấy à? Đàn ơng mà dễ khóc thế thì khơng làm được việc gì lớn
đâu...”.


Sương đi rồi, Sính cứ ơm cái cột nhà, đập đập đầu mình vào đấy. Sính


ngu dại q. Sính khơng biết nói với cơ ấy được câu nào như ý nghĩ trong
đầu Sính. Có khi nói cơ cũng khơng nghe, nhưng ít ra cũng gửi theo cơ
được cái gì nằng nặng. Cịn bây giờ, Sương đi rồi. Biết đâu trong đầu


Sương khơng có cái mặt Sính, khơng có lời thương lời buồn Sính nói.


Thế thì có cái gì dẫn cơ quay về với Sính được? Leo dốc thì khó chứ


xuống dốc dễ lắm. Chỉ một lúc thơi, trong mắt Sính đã khơng có bóng cơ


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

Bà cô ngồi ở bậu cửa, cắm cúi nhặt đỗ tương giống, khơng biết có phải tại


mắt kém không mà cứ nhặt lẫn hết cả. Hồi lâu, bà cơ nói với Sính mà


khơng ngẩng mặt lên nhìn:


- Trong bụng con Sương giữ được chén rượu ngày cưới thì nó cịn nhớ


mày, khơng giữ được thì nó qn đường về. Núi rừng này khơng đẻ ra nó



thì khơng bắt được hồn nó ở lại. Một mùa cưới nữa khơng thấy nó về là


tao cưới vợ mới cho mày.


- Bà cơ... - Sính nghẹn giọng - bà cô già rồi, lẩm cẩm rồi. Lời hay không


nói tồn nói lời xấu. Có phải tại bụng bà cơ hay nghĩ xấu khơng? Có phải


vì thế mới không lấy chồng không?


- Mày...


Bà cô chống tay vào đầu gối, khó nhọc đứng dậy. Giũ giũ đám vỏ đậu


tương dính đầy trên váy, miệng lập cập nói khơng ra câu. Giận thằng cháu


q. Có lớn mà khơng có khơn. Mắt to thế kia mà chỉ nhìn thấy hạt đậu


dưới chân váy bà. Con Sương có bùa hay sao mà khiến thằng Sính khơng


cịn là thằng Sính nữa.


Sính thấy bà cơ giận thì bỏ đi. Sính đang buồn q nên lỡ miệng nói bậy


mấy câu, bà cơ giận là phải lắm. Nhưng bà cơ khơng hiểu cho Sính. Sính


nhớ vợ quá mà. Cái giường nằm một nửa, nửa kia có gối mà khơng có


người, gió chạy rầm rập trên mặt chiếu hoa.



Đêm nào Sính cũng phải úp cái gối của vợ vào mặt mới ngủđược. Nhưng


chỉ được hai ba đêm thì cả hai cái gối cưới đều chỉ có mùi thuốc lào,


khơng cịn biết được cái nào vợ Sính vẫn gối nữa. Khơng cịn cái gối của


vợ thì Sính chuyển vào nằm nửa giường bên trong. Vợ Sính có thói quen


lúc nào cũng nằm sát vào vách, Sính cứ kéo vợ nằm lui ra ngồi một lúc


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

Nhiều hôm hai vợ chồng chỉ nằm hết có nửa giường. Sính nằm vào chỗ


của vợ, cảm thấy cánh tay mềm mềm của vợ vẫn đặt ở chỗ này.


Trong nhà, chỗ nào cũng có dấu tay Sương. Từ cái vung nồi đến bộ ấm


chén uống chè. Trong bụng Sính lúc nào cũng như có người đổ rượu


mạnh vào, rồi thả thêm một que diêm đang cháy nữa. Chỉ có rượu bị đốt


cháy mới bỏng thế. Khơng biết vợ mình đang ởđâu, có ai làm gì xấu cho


vợ mình không? Được một nửa tuần trăng rồi. Bắt đầu mùa mưa nên


khơng thấy trăng mọc, chỉ nhìn vết vạch trên cột nhà mà biết thôi. Mưa


mãi, bà cô sốt ruột vì củi đun sắp hết, cịn Sính lại mong mưa nữa. Mưa


thì trăng khơng đến, Sính cịn chờđợi hơn được.



Trong bản có người ác miệng bảo tại Sính khơng mất đồng bạc trắng nào


nên khơng buộc được chân vợ. Ngày Sính cưới Sương, nhà gái khơng có


ai, chỉ có mấy cơ giáo ởđiểm trong, điểm ngoài đến dự. Đấy cũng là đám


cưới đầu tiên ở Sủng Tráng cô dâu không mặc váy cưới, cũng khơng có lễ
đón dâu, cả bản đến hết, cả những người qn khơng mời cũng đến. Đến


vì Sương. Sương là người nhà của cả Sủng Tráng mà.


Việc Sính lấy được Sương giống như người thợ săn giỏi bắt được con thú


quý, không ai ngạc nhiên. Nhà Sính nghèo, lại chỉ có hai cơ cháu, mọi


việc cho đám cưới cả làng mỗi người một tay lo hết. Bỏ công bỏ việc, cả


Sảng Pả say hai ngày liền. Ai cũng muốn giữ Sương ở lại mãi với Sủng


Tráng mà không nghĩ ra cách. Nay Sương làm dâu Sủng Tráng thì ở lại là


phải q rồi, khơng phải lo gì nữa.


Vậy mà Sương cũng đi. Đã uống chén rượu vợ chồng, khơng đón dâu


nhưng ông chú họ xa cũng đã quay con gà ba vòng trên đầu Sương, thế là


Sương được ma nhà chồng giữ hồn cho rồi. Sao Sương không biết nghĩ



</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

Hơm nào cũng thế, Sính để đến đêm khuya, sắp sang ngày hôm sau rồi


mới cầm dao khắc thêm một vạch lên cột nhà. Sính muốn một ngày dài


thêm nữa ra, nhưng càng muốn thế thì ngày càng ngắn lại. Sính càng làm


nhiều việc để bớt nóng bụng đi thì lửa trong bụng càng cháy mạnh. Một


vạch, hai vạch, ba vạch... mấy ngày đầu Sính cịn đếm, sau khơng đếm


nữa, các vạch khác cũng xít lại gần nhau hơn...


Sính khơng biết, rằng lúc này, Sương đang ở một nơi mà ngựa đi mỏi


chân khơng tới. Cũng như Sính vẫn khơng biết trong đầu Sương nghĩ gì,


khơng biết vì sao Sương xinh đẹp thế lại chịu lấy Sính, người đàn ơng


cuối cùng của một dòng họ nghèo, khơng có một đồng bạc trắng chôn


dưới cột nhà.


*


Sương cũng không ngủ được. Trả trước cho chủ nhà trọ năm nghìn,


Sương gần như bị qua một dãy người để tìm chỗ nằm sát tường, cố dỗ


cho giấc ngủ đến. Sương phải ngủ, để khơng cịn nhớ tí gì của thị trấn



này. Chiều nay, lúc ăn cơm ở bếp tập thể của phịng, ơng trưởng phịng


bảo Sương:


- Cố ở thêm vài năm nữa rồi tôi đặc cách cho về vùng thấp. Giỏi như cô


lại có thâm niên vùng cao, dăm ba loại ưu tiên nữa là bố trí được chỗ làm


ngay thơi.


Nếu là Sương của mấy năm trước thì thế nào gã trưởng phòng cũng đã


nhận được một cái mi múc canh dính đầy mỡ vào mặt rồi. Chưa có một


ngày trọn vẹn ởđiểm trường nhưng trí tuệ nghèo nàn cũng đủ cho gã hình


dung được những cùng cực mà những cơ gái cịn trẻ như Sương phải đối


mặt. Sao có thể tưng tửng như thế?


Bên ngoài bức tường là quán bán phở. Sương hình dung tấm lưng to bè


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

mặt cơ, rùng mình. Nghe tiếng rao bánh mì, Sương nhỏm dậy. Những đứa


trẻ của cơ coi bánh mì, dù chỉ là thứ bánh cứng quèo, bé như lưỡi mèo,


xin xỉn đen, dính cả cát bẩn, bán ở thị trấn là một món quà đặc biệt. Và


bao giờ những đứa trẻ gái cũng để dành được một mẩu, giấu trong cạp



váy, đến tận hơm sau vẫn tóp tép trong giờ học. Chiều nay Sương quên


không mua. Nhưng đang định bị qua mấy người nằm ngồi thì đã nghe


tiếng bà chủ quát lên xe xé:


- Có biến ngay đi khơng, thằng kia! Không thấy bà mày đang còn bán


hàng đây à? Đi ngay, không bà cho mày khúc xương bây giờ...


Sương lại nằm xuống. Cô ném chiếc gối mây dinh dính hàng trăm thứ mồ


hơi xuống cuối giường, gối đầu lên cánh tay. Bên cạnh Sương, một bà già
đang càu nhàu nói mê, mùi trầu cay nồng phả thẳng vào mặt cơ. Cịn


người ngồi, người ngồi nữa... thì thi nhau ngáy. Tiếng ngáy lẫn với


tiếng quạt trần cũ kèn kẹt làm cho căn phòng đã chật càng chật thêm.


Sương cảm thấy mình đang hít vào trong ngực từng thìa, từng thìa một,


thứ khơng khí hỗn tạp sền sệt. Nằm được một lúc cơ lại bị dậy, khe khẽ


gập đầu gối lại, bó người lại hơn chút nữa để bà già được nằm thoải mái.


ánh điện ngoài quán phở hắt qua khung cửa sổ giăng đầy mạng nhện.


Nhìn những người phụ nữđang ngủ trong mọi tư thế, giống nhau ở gương


mặt mệt mỏi, bất giác Sương thấy thương họ. Ngày mai Sương sẽ ngồi



cùng xe với họ đến ngã ba, Sương rẽ trái cịn họ đi tiếp, có khi vài hôm


sau Sương lại xuống huyện mua hàng của họ.


Bà già cựa quậy, hé đôi mắt kèm nhèm nhìn Sương, giật giật quần cơ:


- Nằm xuống. Cố ngủ đi một tí mà lấy sức con ạ. Ngày mai xe nhiều


hàng, chật lắm đấy. Khéo rồi lại say.


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

Bà già chép miệng, quờ tay lên đầu giường vớ lấy cái nón úp lên mặt.


Chiếc nón cũng cũ kỹ già nua như chủ của nó. Đã nhiều lần Sương dừng


chân ở bến xe này và ngủở cái nhà trọ này, cùng với những người phụ nữ


quanh năm xuôi ngược, nhưng chưa lần nào cô để ý đến họ. Cô vẫn nghĩ


rằng, trên cõi đời rộng lớn này, mỗi người đã có một quỹđạo, khơng ai đi


lẫn của ai. Đi xa hay gần, vòng rộng hay hẹp, đều đã được ấn định trước.


Và cô cứ đi, theo ý mình, đúng hơn là theo linh cảm lờ mờ của mình. Đã


như vậy hơn hai mươi năm trời. Khơng ngờ có lúc cơ lại nhận ra cuộc đời


không đơn giản thế, mà thật ra điều đó thật ối oăm, lại ở trong một cái


nhà trọ, giống như một cái nồi hầm thế này. Con người, dù tốt dù chưa



tốt, dù đẹp hay không đẹp, dù còn trẻ hay đã qua tuổi trẻ, sớm hay muộn


thế nào cũng có lúc dừng lại, hoặc là đưa người khác đi chung đường với


mình, hoặc tự mình đi vào đường của người ta. Đi mãi, đi đến lúc chết.


Như cô...


Vậy mà cô đã bỏđi. Cô đã bỏ người ấy mà đi. Trong cái buổi chiều thành


phố oi bức, đầy mây đen, bụi xộc qua rèm cửa vào căn phịng mà cơ đã


từng chăm bẵm, ủ ấm. Cô phải thú nhận với mình rằng, thực lịng cơ


khơng muốn lại bỏđi lần nữa.


Sương đưa tay lên đầu, lần ra sau gáy gỡ cái cặp tóc ra. Mớ tóc dày và dài


mắc vào chiếc vịng đeo tay bị kéo cắt dở, gỡ mãi mới ra. Chiếc vòng này


Sính đã dúi vào tay cơ khi cơ nhìn Sính lần đầu tiên, tin cậy trong nỗi sợ


hãi mơ hồ. Chiếc vịng của bà nội Sính để lại cho bà cơ, bà cơ cho Sính để


Sính tặng lại cơ. Chiếc vịng như một thứ đồng hồ đo tình cảm của cơ.


Khi nào cơ vui chiếc vịng sáng lên, trong đêm tối cũng thấy nó lấp lánh.


Khi nào cơ buồn chiếc vịng xám xịt, nặng trĩu. Khi cơ nói điều ấy với



Sính, Sính bảo cơ trẻ con, nghĩ ra đủ thứ mà người lớn không nghĩ được.


Dù sao thì cơ cũng tin, những khi khơng biết mình buồn hay vui cơ lại


</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

bầm cổ tay cơ. Khơng giật ra được thì chộp lấy cái kéo cắt vải định cắt
đứt. “Để tôi ném nó vào bếp lửa. Bùa ngải rừng rú chứ vàng bạc gì!”.


Cơ đã bắt đầu cơng việc của mình trong một căn nhà lợp cỏ gianh, tường
đắp đất cao vút tận mái nhà, chỉ có một lỗ cửa thấp để ra vào, ai cao một


tí là phải cúi mới chui qua được. Mười ba đứa trẻ, lớn nhất mười bốn, bé


nhất lên bảy. Có hai dãy bàn ghế, mỗi bên hai bộ. Bàn ghế là mấy tấm


ván bắc ngang những cọc gỗ đóng thẳng xuống nền đất. Cô bặm môi


bước vào lớp. Khơng sợ gì hết. Mình khơng sợ cuộc sống này. Mình đã


từng chả sợ gì cả cơ mà. Người đến trước cơ đã bỏ đi, chỉ vì tìm đến nơi


khác có nước chảy đầy trong máng vầu.


Mười ba cặp mắt đổ dồn vào cô. Cô vận dụng sự mẫn cảm để tìm một


niềm hy vọng hay cái gì đó tương tự lấp lánh trong những đôi mắt kia,


nhưng không hề thấy.


- Chúng ta bắt đầu nhé. Các em đã học được những gì rồi, cho cơ xem vở



nào.


Cơ dịu dàng. Khi cơ cịn bé, bao giờ cơ cũng mơ ước được nghe những


lời dịu dàng. Bọn trẻ nhìn nhau, khơng nhúc nhích. Cơ bước lại gần, lật


cuốn vởđầu tiên, cuốn thứ hai, cuốn thứ ba... Khơng có một chữ nào.


- Sao lại thế này?


- Xé hết rồi!


- Cho vào bếp cháy rồi...


- Thầy khơng giữđược, giữ chữ làm gì?


- Hôm nay bố mẹ bắt đi mới đi đấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

Dường như bọn trẻ đang trút giận lên đầu cô. Cô đi như chạy ra ngồi.


Cái gì đó như là sự đổ vỡ đã xảy ra, khơng có âm thanh, khơng có hình


thù.


Ngày thứ hai, cô mặc chiếc áo đẹp nhất và bước vào lớp. Hôm nay sương


muối đã ập xuống, chỉ qua một đêm trở dậy đã thấy cỏ ngồi sân cháy


táp. Bọn trẻ cịn mười đứa, chúng ngồi dồn vào hai cái bàn. Cô thắp đèn



và đóng cửa lớp lại. Ngồi cửa gió rít ù ù như muốn lật tung mái tranh


lên, những bờ tường hình như lung lay muốn ụp xuống. Bọn trẻ cho tay


vào mồm, chốc chốc lại đổi chỗ, đứa ngồi ngoài vào trong, đứa ngồi trong


ra ngoài. Bất chợt đứa bé gái ngồi ngoài ngã xoài ra đất. Trên mình nó chỉ


có một cái áo len cũ, rách hai ống tay, khơng có váy mà quấn bằng một


tấm khăn, chân đi đất. Cô ôm chặt đứa bé, miệng lắp bắp thúc bọn trẻ


sang bếp của cô ôm đống củi sang, mang đèn lại và đổ dầu vào...


Lửa bập bùng cháy ở cuối lớp. Được một lúc thì Xía, tên đứa học trị gái,


tỉnh lại, định chuồi ra khỏi tay cô. Cô giữ chặt lấy nó. Con bé cất giọng


khàn khàn:


- Người em tồn mùi bị, mùi dê, bẩn quần áo đẹp của cơ giáo.


Thấy cơ khơng nói gì nó cựa quậy rồi giật giật cổ áo cơ:


- Cô ơi, em hết lạnh rồi...


Những giọt nước nóng bỏng rơi xuống mặt nó. Bọn trẻ xích lại gần cô.


Những cánh tay nhem nhuốc đầy vết gai cào níu lấy cơ... Lửa reo phần



phật.


Ngày hơm sau Xía mang đến một con gà trống. Để nó gọi cơ giáo dậy.


Con bé bảo vậy.


Từng đêm, cô nằm co đầu gối lên tận cằm và trở mình thật ít để chống lại


cái rét từ trong ra ngồi, từ ngồi vào trong. Gió hoang vu vẫn quấn lấy


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

con đom đóm từ trên mái tranh dẫn nhau bị xuống vách đất chỗ cô nằm,
đếm không xuể. Chưa bao giờ cơ nhìn thấy đom đóm giữa mùa đơng như


thế này. Con nào cũng vừa to vừa sáng, lại không bay mà bò lồm ngồm


trên vách.


Bọn trẻ thỉnh thoảng lại hỏi bao giờ thì cơ đi. Dường như chúng đã chuẩn


bị sẵn tinh thần để cô chia tay chúng. Mùa đông qua, mùa xuân tới. Nước


chảy về đầy trong các giếng đá, các cô gái mang chăn màn, váy áo ra giặt.


Rồi mùa hè sang, lá ngô xanh nhức mắt. Cô vẫn ở trên đỉnh cao Thượng


Phùng, chưa lần nào xuống núi. Cô cảm thấy dưới kia, qua Xín Cái một
đoạn thơi là cô sẽ gặp lại ngay những gì mà cơ không muốn nhớ đến.


Cánh cửa bị gió giật ra, toang hoang chăn gối, toang hoang gương mặt



khiếp hãi tái ngắt, mắt mở to trừng trừng của mẹ, bên cạnh là người đàn


ông đang ngủ vùi...


Hai mươi ba tổi cơ nhận lời làm vợ Sính. Cơn lũ quét đột ngột tràn về lúc


mờ sáng đã cuốn đi non nửa Thượng Phùng. ở cái nơi đã tưởng là cao


nhất này mà vẫn cịn có thứ khác cao hơn, từ trên trời đổ xuống, đã cuốn
đi của cô hai đứa trẻ. Có lẽ chúng đã trơi xuống dịng Nho Quế bé như sợi


chỉ dưới chân Mã Pì Lèng. Sính bợt bạt sau cơn lũ. Bối rối nhìn cơ như có


lỗi. Anh đã chỉ mang về trả cho cô được bốn đứa. Hai chỗ trống trong lớp


học của cơ anh ngồi thế vào đó. Cái bóng cao lớn của anh in trên tường


lớp trong ánh nắng cuối ngày hắt xiên qua đầu hồi.


Lão trưởng phịng giáo dục huyện nhếch mép hơm cơ về huyện họp tổng


kết. “Nhà cái thằng ấy có bao nhiêu con dê? Ơng bà nó chắc để lại nhiều


bạc trắng lắm nhỉ. Ai cũng như cơ thì ngành giáo dục được nhờ to. Ha...


ha...”.


Lão thù cô. Người ta bảo thế. Vì lẽ ra cơ đã có thể nhận một chân thủ thư



nhàn tênh ở ngay huyện nếu cô chịu nghe lời lão. Nhưng cô đã không làm


</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

Cả bản đã mừng cho Sính, trừ bà cơ. Bản này chưa có dịng họ nào lấy


dâu người Kinh, còn dòng họ nhà bà chỉ cịn mình thằng Sính là con trai,


nhỡ có chuyện gì xấu thì khơng làm lại được. Cũng vì thế mà cả ngày,


Sương lên lớp thì thơi, cứ về nhà là có bà cơ theo sát, bảo phải làm thế


này, khơng được làm thế kia. Nhưng dù có dạy từng tí một như dạy cho
đứa gái mới lớn, dạy từ ngày này qua ngày khác, thì Sương vẫn là con


dâu người Kinh. Xe lanh thì rối, dệt lanh thì lỗi, đồ xơi lúc nào cũng cho


muối... bà cô biết, không phải cháu dâu vụng tay vụng chân, chỉ tại lúc


làm cứ để đầu óc ngồi sân ngồi cửa, dạy nữa cũng thế thơi. Buồn lắm


nhưng khơng mở miệng nói được. Bà cơ nghĩ đành phải đợi đến lúc có


cháu thì dạy cháu thay cho mẹ nó thơi. Nhưng chờ mãi, chờ mãi vẫn chưa


thấy cháu dâu có gì khác. Khơng dám nghĩ gì xa xơi, sợ ý nghĩ dại đến lại


trốn khơng được.


Trời sắp sáng rồi thì phải. Cái quán phở đóng cửa một lúc đã mở lại rồi.


Nhưng khơng cịn nghe thấy tiếng mấy con chó tranh nhau gặm xương



gầm gừ nữa. ở cái bến xe này, người ta thức đêm ngủ ngày. Có hơm ba


giờ chiều Sương đến vẫn chưa thấy nhà trọ mở cửa. Chỉ đến khi xe xuôi


lên, xe ngược xuống, đổ ra tồn người là người thì người ta mới ngủ dậy.


Và sáng hôm sau, bao giờ các xe rời bến hết lại bắt đầu ngủ.


Vậy là mình khơng chợp mắt được tí nào. Sương nghĩ. Có những thứ


người ta muốn nhớ lại không nhớ được, lại có những thứ muốn qn lại


khơng qn được. Nếu như Sương không dừng chân trước cổng nhà Ln


hơm qua, lúc trời đã nhập nhoạng tối, thì bây giờ không phải cố quên.


Sau khi Sương đi, Luân lên tận phòng giáo dục huyện để hỏi thăm xem


Sương được phân cơng vềđâu. Gã trưởng phịng đã bảo Luân:


- Người yêu của chú trúng bùa trai bản rồi, bây giờ có đưa được người về


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

Ln nhìn bốn phía rừng núi vời vợi thâm u và lủi thủi quay về. Sương


luôn khiến Luân không hiểu nổi. Ngay cả việc Sương bỏ đi, Luân cũng


tưởng Sương chỉ dọa vậy...


Và Sương biết được điều này đúng vào lúc mà Sính đang cố gắng làm tất



cả để hai người gần nhau hơn.


Sính là một trai bản mà khơng phiên chợ nào khơng có vài ánh mắt nhìn


theo muốn cháy lưng áo. Nhưng từ khi có Sương lên dạy học ở bản, Sính


chỉ dừng ánh mắt ở ô cửa lớp học vừa thấp vừa bé. Cô giáo Sương hơn


Sính hai tuổi. Mặc kệ, hơn hai chứ hơn mười tuổi cũng thế thôi. Sau này,


nhiều lần Sương định nói với Sính, tại vì Sính đã lấp chỗ trống của hai
đứa học trò trong lớp mà Sương đồng ý cho Sính lấp cả chỗ trống trong


lịng mình. Nhưng Sương đã khơng nói. Nói Sính cũng khơng hiểu, mà


nếu Sính hiểu được thì khổ cho Sính. Đêm đầu tiên của hai vợ chồng.


Sương nằm ép vào trong tường. Sính rón rén nằm xuống phần giường của


mình. Sính khơng nghĩ ra được cái gì có đầu có cuối, cái khoảng chiếu


hoa ở giữa giường cứ rộng ra, rộng ra mãi. Sính nhích vào một tí cho


khoảng chiếu hẹp lại thì Sương càng dính sát vào tường. Lâu lắm, gần


sáng rồi, ánh sao trên trời lọt qua miếng ngói vỡ soi mờ mờ vào buồng.


Sính he hé mắt nhìn sang thấy Sương đang ngủ, lặng lẽ cởi khuy áo.



Nhưng Sính cũng thấy mặt Sương ướt đẫm... Sính ngồi dậy, xích lại gần


Sương, kéo lại hai vạt áo Sương đã gỡ ra ngang bả vai trắng ngần. Sính


cài lại khuy áo, đỡ hai vai cho Sương nằm xuống.


- Cơ giáo ngủ đi. Tơi khơng làm gì cơ giáo đâu. Đừng khóc nhé. Khơng


muốn làm vợ tơi sao cơ giáo lại nhận vịng bạc, lại uống chén rượu thề?


Ngày mai cơ giáo trả lại vịng bạc cho bà cô rồi đi cũng được, cô giáo à.


Nghe Sính nói thế, như một thứ phản xạ, Sương nhỏm dậy vít cổ Sính


xuống. Mặt Sính đầy râu và tóc, nhịe nhoẹt nước, khơng biết thực ra cô


</div>
<span class='text_page_counter'>(106)</span><div class='page_container' data-page=106>

Ngày nào cũng vậy, Sính dậy sớm gánh nước đổ đầy hai chum lớn nhóm


sẵn bếp cho Sương dậy nấu cơm kịp ăn trước khi học sinh gọi cửa. Buổi


trưa Sương về cũng có cơm nấu sẵn rồi. Buổi chiều Sính hay tạt qua lớp


học xem có cái bàn cái ghế long chân nào thì đóng lại. Nhưng Sính càng


cố gắng Sương càng lặng lẽ... Những đêm dài lê thê trong căn buồng càng


lúc càng lạnh lẽo làm Sính khổ sở.


Thực ra thì mình chờ đợi gì ở Sính chính Sương cũng khơng biết. Mọi thứ



trở nên mù mờ kể từ khi cô bước chân vào căn nhà rộng thênh, tối tăm


tồn mùi khói quanh năm này. Hình ảnh Ln vẫn trở lại. Cố xóa đi cũng


khơng được. Cả cái căn phịng toang hoang kia nữa cũng trở lại. Mỗi lúc


hai thứ đó trở lại cơ thấy mình đã quyết định đúng, quay sang cười với


Sính, qng tay lên vịng cổ cứng cáp của Sính. Nhưng sáng ra, nhìn núi


cao ngất trời như một sự bủa vây, như một sự cầm tù, mọi thứ hoang dại


hẳn đi trong mắt cô. Ngay cả luống cải xanh ngắt, cao ngồng mọc trên


những luống đất rắc đen sẫm tro bếp cô cũng cảm thấy nó khơng phải là


thứ rau dành cho cô. Lấy gương ra soi, tự dưng trên mặt cô có những nốt


tàn nhang bé li ti. Hết rửa nước lạnh đến rửa nước nóng, chà sát tấm khăn


trên mặt cho hai gò má đỏ dừ mà những nốt tàn nhang vẫn không mất đi.


Và bọn trẻ của cơ, vẫn dè sẻn từng mẩu bánh mì giấu trong cạp váy...


Gã trưởng phịng hói đầu vẫn tranh thủ nhuộm tóc mỗi khi về tỉnh cơng


tác khơng lần nào gặp Sương mà khơng xóc xiểm cơ một câu. Một nỗi sợ


hãi mơ hồ luôn luôn đeo bám trong cơ, khơng rõ ra là cái gì. Chỉ biết cô



rất sợ và hoang mang nữa. Và khi Mẫn, cô bạn cùng nhận công tác một


ngày với Sương nói rằng Luân đã lặn lội mấy trăm cây số lên tìm cơ lần


nữa, đang chờ cơ ở dưới tỉnh, thì Sương khơng thể ngồi n được nữa.


Trong một quán cà phê mới mở, bàn ghế cịn mới, vắng hoe, Sương im


lặng nhìn Ln. Ln không khác mấy so với khi họ chia tay nhau, chỉ có


</div>
<span class='text_page_counter'>(107)</span><div class='page_container' data-page=107>

ngày nào, dù Luân có đường bệ hơn thì vẫn khơng lẫn vào đâu được.


Sương chênh chao trên chiếc ghế bọc da, ù tai trước những lời hối hả gấp


gáp của Luân. Dường như Luân sợ khơng kịp nói hết trước khi cô đột


ngột đứng dậy và bỏđi.


Sương rùng mình khi Ln ngồi xích lại, cầm lấy tay cô. Bàn tay Luân


mềm nhũn, ngược hẳn lại với những ngón gầy guộc xanh xao của cơ. Chỉ


có Luân nói:


- Mẹ bảo mẹ sẽ tha thứ hết cho em, miễn là em chịu theo anh về. Em phải


biết chẳng có thằng đàn ơng điên rồ nào trên đời này chịu đi mấy trăm


cây số như anh để tìm em... Mẹ bảo mẹ sẽ để lại tất cả cho hai đứa mình



sau khi mẹ đi. Tất cả, em nghe rõ không? Tất cả. Nghĩa là... Mà, em đeo


cái thứ quỷ quái gì thế này. Bùa ngải chúng nó ám vào em đây... nên em


mới ở lại trên ấy suốt mấy năm trời phải khơng? Đồ mọi rợ, để anh vứt nó
đi.


Và Luân chộp lấy cái kéo to tướng vừa mua ở chợ ra, xọc vào chiếc vòng


bạc trên tay Sương. Sương giằng ra, cái kéo để lại một vết máu dài trên cổ


tay cơ.


*


Sính ốm. ốm vì khơng làm gì. Đàn ơng một ngày không làm việc đã ốm,
đằng này hai ba ngày liền Sính khơng làm nổi việc gì, chân vấp vào lưỡi


cày, dao chặt vào tay, đau bên ngoài, buồn bên trong, vậy là ốm thơi.


Có người đến thăm Sính, mang cho Sính cả một túi đường trắng. Đàn ơng


có vợ rồi mà cịn có một cơ gái đến thăm lại khơng phải họ hàng gì thì lạ


lắm. Lạ nên nhiều người để ý. Để ý rồi xì xào. Người con gái ấy lại đến
đúng vào lúc người trong bản đi làm về. Đàn ông vác bừa đi trước, đàn bà


dắt bò theo sau, ngang qua nhà Sính lúc ấy trơng thấy. Đang nằm trong


</div>
<span class='text_page_counter'>(108)</span><div class='page_container' data-page=108>

- Sương, Sương à? Em về rồi à?



- Sương đâu mà Sương, nhìn kỹ xem nào...


À, thì ra là Vi. Lâu lắm rồi khơng gặp nhưng Sính vẫn nhận ra Vi qua


tiếng nói. Con gái Thượng Phùng khơng ai nói tiếng giống Vi. Chưa thấy


người đã thấy miệng. Con gái mà như thế việc gì cũng dám làm, nhưng


lúc nào cũng làm vội vàng, không nghĩ sâu nghĩ kỹ.


- Nhớ vợ mà cũng ốm được, Lạ thật đấy. Vợ có phải cổ chân cổ tay mình
đâu mà mới vắng một tí đã ốm thế nhỉ?


- Vi về bao giờ thế? - Sính chặn ngang lời Vi - Sính đau đầu q. Vi nói


to như thế mấy câu nữa là Sính vỡđầu ra mất.


- Em mới về, đến thăm anh trước cả thăm ông thăm bà đấy. Về phục vụở


xã vài hôm rồi đi thôi.


- Vi đã thành văn công thật rồi đấy à! Bố mẹ mừng lắm nhỉ. Lấy chồng


giỏi giang nữa là nhất Vi rồi.


- Thôi đừng dạy nữa. Bố mẹ dạy nhiều lắm rồi anh Sính à. Anh cũng biết


tại sao Vi đi xa mà...



Làm sao mình biết được. Sính định nói thế rồi thơi. Vì đúng là Sính biết


tại sao Vi bỏ Thượng Phùng mà đi theo đồn văn cơng hồi ấy. Sính đã từ


chối quả cịn Vi làm dành riêng cho Sính. Quả cịn ấy Vi thức ba đêm liền


mới làm xong. Người như Vi chỉ làm thếđược một lần, bị từ chối là bỏđi


ngay. Vi đi mấy năm trời mới về, đẹp hơn ngày xưa. Hai cánh tay Vi để


trần, khơng cịn vết sẹo nào nữa, trắng như có ai đổ ánh trăng lên. Sính
đưa mắt tránh hai cánh tay Vi, hình như Vi biết, càng cố tình để Sính nhìn


thấy.


Vi ngồi lên mép giường Sính. Sính đã nằm xuống lại ngồi dậy:


</div>
<span class='text_page_counter'>(109)</span><div class='page_container' data-page=109>

Vi ấn vai Sính nằm xuống. Cánh tay Vi như vơ tình áp vào má Sính.


- Nước uống lúc nào chẳng được.


- Nhưng bà cơ về bây giờ...


- Sợ gì bà cơ.


Vi cịn ngồi xích lại tí nữa:


- Em biết chuyện vợ chồng anh Sính rồi. Vợ chồng như thế thà đừng lấy


nhau còn hơn. Vi nói thật nhé, để con chó đi săn thì nó là con chó, bắt nó


đi cày khơng được bị cũng mất cả chó. Cái ngưỡng cửa nhà anh với con


gái Thượng Phùng thì thấp nhưng với nó thì cao, cao hơn cả mặt, nó bỏđi


là phải...


- Vi dạy tôi đấy à?


- Anh đừng giấu ý nghĩ của mình vào hai lỗ tai, xấu mặt đàn ông. Bây giờ


Vi về đây này, anh Sính có dám bảo Vi ở lại khơng? Nói một câu đi, Vi


bỏ hết.


- Đừng nói nữa. Thằng Sính chết từ chân đến cổ rồi, cịn hai con mắt thơi.


- Cịn mấy sợi tóc cũng được.


Vi nói nhanh rồi giật chăn ra, đổ xuống người Sính. Người Vi nóng rừng


rực như bếp lị lúc được lửa. Sính vùng vẫy như người bị dìm trong hũ


rượu, nếu có chết chìm cũng khơng ai trách. Chân tay Sính bắt đầu run


bắn lên, mồ hơi vã ra, những ngón tay Sính bấu xuống chiếu hoa. Sính
đang nằm ở phần chiếu của Sương còn Vi lại vắt ngang người Sính,


người Vi mềm mại, bị trên Sính như một con mèo. Vi lần tìm hai bàn tay


Sính, nắm lấy nó. Sính đã để n vì khơng cịn đủ sức gỡ ra. Bất chợt



Sính chồm dậy, hất Vi ngã sang một bên. Chiếc vịng. Khơng có chiếc


vịng, cánh tay Vi trơn như một con rắn...


</div>
<span class='text_page_counter'>(110)</span><div class='page_container' data-page=110>

Chiều đang dềnh lên, nhanh như nồi cơm sơi chưa kịp mở vung. Gió thốc


</div>
<span class='text_page_counter'>(111)</span><div class='page_container' data-page=111>

<b>B</b>

<b> XÀ TÍCH B</b>

<b>C </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Ơng ngồi xuống cạnh nấm đất, lại một năm nữa đã qua, ngôi mộ khơng


khác gì mấy, rừng già đã chở che cho Nhi, đến cả gió mưa dường như


cũng nhẹ nhàng hơn dưới tán lá dày. Bụi bạch yến đang độ nở hoa, những


chùm hoa trắng muốt toả hơng thơm ngát. Ông thắp cho Nhi mấy nén


hương, ngọn khói quẩn quanh vấn viét, Nhi đang về với ơng đây mà. Ơng


lấy trong túi áo ngực ra bộ xà tích bạc, bộ xà tích có một con dao, một cái


nhíp tỉa lơng mày và một cái tăm, tất cả đều nhỏ xíu, bới đất ở nấm mộ


lên, vùi bộ xà tích xuống. Nghĩ thế nào, một lát sau lại bới lên. Đã bao


nhiêu lần vùi xuống rồi bới lên không thể nhớ được nữa. Q khứ là một


cái gì đó khơng sao vùi lấp bởi thời gian được, thậm chí, đơi khi cị trỗi



dậy, sống động hơn cả hiẹn tại với những lo toan cơm áo. Phải chăng, vì


vậy mà ơng khơng muốn chia tay với bộ xà tích, ơng cịn muốn giữ nó ở


bên mình để rồi ngày mai, ngày kia, khi cuộc sống lại đặt ra cho ông một


thử thách nào đó ơng lại có nơi để víu lấy, để vượt qua…


Nguyên dừng xe, ghé vào một chiếclán. Chiếc lán nhỏ lợp lá cọ, thưng


bốn bề bằng nứa bổ, kiểu quán hàng không người bán này có chuối treo


tren cao, cam, mía bày dưới bàn, tỉnh thoảng có cả bánh gù, bánh tẻ, ngơ


nướng… Bộ đội hành qn qua thích ăn gì thì ăn, trong túi có tiền thì để


lại vài đồng, khơng có thì thơi. Nhưng cái qn này hơi khác, bên trong


có một cái giường, đúng hơn chỉ là một chỗ nằm, cũng được làm bằng


nứa, bốn cọc gỗ chôn xuống nền đất, một chiếc bàn gỗ nhỏ để phía trong


cửa sổ, cửa sổ vẫn ở vị trí chống lên. Nguyên đã ghé vào vài nơi, nhưng ở
đâycó cái gì đó hơi khác, khơng hẳn vì nó có dấu hiệu có người ở, mà là


cái gì đó rất khó diễn tả. Dưới nền đất ẩm đầy vỏ hạt dẻ, vỏ ủa sa nhân


</div>
<span class='text_page_counter'>(112)</span><div class='page_container' data-page=112>

xô nhẹ một cái chắc sẽ đổ sập/ Nguyên đi đi lại trong mấy mét vuông sực



mùi ẩm mốc. Và đúng như linh cảm của Nguyên, đầu giường, trên cây cột


vầu già có một cái hốc nhỏ, kht trịn. Ngun thị tay vào, chạm phải


một sợi dây xích. Đó là một bộ xà tích bạc. Trong bộ xà tích có một con


dao, ở chi dao chạm một bơng cúc nhỏ tí. Đó là bộ xà tích mà Nguyên
đã thức hai đêm liền để đánh cho xong, trước khi lên đường. Ngun


bàng hồng. Khơng thể như thế được, khơng thể có một điều gì đó như là


giác mơ xảy ra với anh ngay giữa rừng thế này được. Ngun mang bộ xà


tích ra ngồi trời nhìn thật kỹ, nhất là bơng cúc, bơng cúc này do chính


tay Ngun chạm, có một cánh hơi bị gãy khúc, là do Nguyên thức liền


hai đêm, mỏi mắt q, tay làm khơng chính xác được nữa. Ngun nhìn


quanh, khơng có ai, khơng hề có một tiếng động nào gần đó. Nhìn alị


qn thì mới thấy chẳng có gì bán, mấy sợi dây thừng chắc là để treo


chuối vẫn lòng thịng bên trên cửa sổ. Ngun gọi tống lên:


- Có ai khơng? Có ai ở đây khơng?


Khơng có một ai đáp lại, chỉ có tiếng vọng từ rừng sâu và núi cao, chỉcó


tiếng ọng từ những chịm lá cao rậm rì ken chặt. Ngun vấp phải một mô


đất. Một mô đất dài đắp cao chừng nửa mét. mưa đã xói lở một góc,


những cây sa nhân mọc dày, xanh mướt dưới chân. Là cái gì đây?


Nguyên rùng mình. Gì đây, chẳng lẽ… Khơng phải như thế chứ, Ngun


mới đnag trên đường lên Điện Biên thôi mà, trận đánh còn chưa bắt đầu,


khẩu pháo ba bảy ly còn sau xe kia. Nguyên dùng tay cào nấm đất lên cào


mãi, cào mãi, chỉ có những con dế nâu sẫm làm tổ nháo nhác chỵ ra. Ai
đã nằm lại đây dưới đất sâu cùng những con dế ngày đêm oán thán? Là


ai?


</div>
<span class='text_page_counter'>(113)</span><div class='page_container' data-page=113>

Ông nội Nguyên xưa là một người thợ bạc nổi tiếng cả một vùng, nhưng
đến đời bố Nguyên, đời Ngun thì khơng sống nổi nhờ nghề, phải đi ở


cho nhà giầu. Nguyên sinh ra trong chuồng ngựa, lúc mẹ Nguyên mang


cháo ngô vào cho con ngựa cái mới đẻ ăn. Ơng Sềnh, ơng chủ của cả gia
đình Nguyên rất biết dùng người, không để cho bố mẹ Nguyên, cả


Nguyên nữa đói ăn, thiéu mặc, nhưng cũng không một khắc nào được


ngơi tay. Mẹ Nguyên, muốn vá cái áo cho chồng cho con cũng phải để
đến nửa đêm, khi nồi rượu cuối cùng đã xong. Dù vậy, chưa bao giờ


Nguyên nghĩ đến việc bỏ ông chủ, kiếm sống nơi khác, bố mẹ Nguyên



cũng vậy. Nguyên lớn lên có được sứ vóc hoan người d đỏ như màu lơng


của ngựa tía, vượt núi nhanh như gió và làm việc khơng biết mệt mỏi.


Nhưng dù thế nào thì Nguyên vẫn chỉ là thằng trai đi ở cho nhà giàu.


Phiên chợ nào, ngày hội nào Nguyên cũng chỉ là thằng dắt ngựa cho mấy


thằng con nhà Sềnh. Lúc chúng nó vào hội uống rượu, trêu gái thì


Ngun dắt ngựa đi ăn, rồi chải lơng cho mượt óng, mấy thằng uống rượu


say khướt thì Nguyên lại vác từng thằng đặt lên lưng ngựa, dắt chúng về.


Nguyên mới lớn, mới chỉ biết đến mỗi bữa ba bát mèn mén, một nồi rau


cải, căng bụng lại hùng hục làm.Chỉ cần thế thôi. Không bao giờ Nguyên


thấy được một tienég thở dài nuốt ngược của mẹ, cũng khơng bao giờ biết


có một ánh mắt cha nhìn phía sau mà xuội chân xuội tay khơng thiết làm


gì.


Nhưng có ột ánh mắt khác, dù chỉ nhìn qua khe cửa thơi, thì Ngun lại


biết. Đấy là ánh mắt của con gái út nhà Sềnh. Con Nhi. Con Nhi mười


lăm, kém Nguyên ba tuổi . Con Nhi giống mẹ, lúc nào cũng rụt rè, sợ sệt,



trong khi lẽ ra nó chẳng có gì phải sợ. Con Nhi da trắng hồng, mắt một mí
đen nhức, mơi thì đỏ mọng như chọc kim vào một cái là tứa máu ra ồ ạt.


Không hiểu sao cứ nghĩđến con Nhi là Nguyên lại nghĩđến cái kim khâu


</div>
<span class='text_page_counter'>(114)</span><div class='page_container' data-page=114>

đang nhìn Nguyên qua lỗ cửa sổ trong căm buồng tối om của nó. Thế nào


Nguyên cũng quay lại, mặc dù chả thấy gì ngồi lỗ cửa nhỉnh hơn bàn


tay, đen ngòm, nhưng thế nào Nguyên cũng quay lại. Con Nhi ít đi chơi,


thỉnh thoảng lắm, vào mùa xuân, sau tết, nó mới đi hội bên Tả Vài.


Nguyên cũng đi, vẫn là thằng dắt ngựa, nhưng là dát ngựa cho Nhi. Hai
đứa khong nói gì vói nhau, chỉ thỉnh thoảng nhìn nhau thơi, nhưng mỗi


lần đi trước ngối lại nhì Nhi thì hai chân Ngun lại khơng muốn theo ý


mình nữa chỉ chực khuỵu xuống.


Rồi cũng đến lúc Nguyên cầm được tay Nhi, thì cũng là lúc Nguyên


chuẩn bị trốn nhà Sềnh ra rưng theo Việt Minh. Nhi hỏi:


- Việt Minh là ai?


- Là những người sẽ đánh đuổi hết thằng tây mũi dài đi.


- Nó có súng mà.



- Việt Minh cũng có súng.


- Súng kíp săn thú ấy à?


- Không, súng to chứ. Nguyên nói bừa, mặc dù thâm tâm cũng không


dám chắc Việt Minh có súng to, và to chừng nào.


Nhi đưa cho Ngun hai đồng bạc có hình bà đầm.


- Cầm lấy, lúc nào cần thì có cái mà dùng.


Nguyên nắm chặt ba đồng bạc hoa xoè. Chưa bao giờ Nguyên, thậm chí


là bố mẹ Nguyên được sở hữu đến ba đồng bac thế này. Và hai đêm liền,


Nguyên thức trắng, đánh ba đồng bạc gthành một bỗ xà tích. Trong căn


buồng tối, chỉ cách một lớp vách gỗ và một lớp đất trình tường, Nhi hình


như khơng ngủ, thỉnh thoảng lại ho khẽ, Nguyên cũng ho lại trả lời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(115)</span><div class='page_container' data-page=115>

- Nguyên đi đấy à?


- ừ


- Bao giờ về?


- Lâu không?



- Chức là không lâu đâu. Một, hai mùa hội xuân thôi mà.


- Thật không?


- Thật chứ. Việt Minh có nhiều khẩu súng to, rất to, thế này này, đuổi


thằng Tây khó gì.


- Cẩn thận nhé.


- ừ, cẩn thận để còn về với Nhi chứ. Nhi đợi được không?


- Sao lại hỏi thế? Không tin à?


- Tin chứ. Hỏi để biết chắc thôi. Có cái này cho Nhi này.


- Gì thế?


- Cái này, nhưng không được dùng đi hội đâu nhé, đợi Nguyên về mới
được dùng, cho mình Nguyên ngắm thôi.


- Ai dà, Nguyên lấy đau ra bạc đểđánh xà tích thế?


- Mẹ cho đấy, mẹ cho đểđánh xà tích cho vợ.


- Nói dối, mẹ làm gì có.


- Có chứ. Nhi à, ở nhà để ý đến mẹ Nguyên một tý nhé. Khoẻ không sao,


chỉ lo lúc ốm đau thơi.



- Biết rồi.


- Thế thì Ngun đi đây.


- Chờ một tí đã.


</div>
<span class='text_page_counter'>(116)</span><div class='page_container' data-page=116>

- Khơng gì cả, muốn đứng gần Ngun một lúc nữa thơi.


- Nói hay thế. Thật bụng không đấy?


- Thật mà. Nguyên à…


Nhi khóc. Ngun cuống lên khơng biết để chân để tay vào đâu, ơm lây


Nhi. Chỉ ơm thế, hít lấy hít để mùi thơm từ mái tóc đen nhức, một lúc rồi


buông ra, quay đầu chạy thật nhanh vào đêm tối mịt mùng.


Nguyên theo Việt Minh, được đi học chữ, được sang Trung Quốc học lái


xe. Suốt một năm trời, ăn một cái tết bên nước bạn, học xong được mang


một chiếc xe Mônôtôva, kéo theo khẩu pháo cao xạ ba bỷ ly về nước.


Nguyên đã khác quá rồi, gặp bao nhiêu người học được bao nhiêu thứ,


vậy mà không lúc nào Nguyên không nghĩ đến Nhi, đến những giọt nước


mắt nóng bỏng ngấm vào vai áo Nguyên đêm nào. Có người về gần vùng


ấy là Nguyên lại viết thư. Bao giờ gửi thư Nguyên cũng dặn: “Nhi không


biết đọc đâu, đọc hộ cho Nhi nghe nhé”. Hàng chục ngày lái chiếc xe có


khẩu pháo dài, nặng như đá phía sau lúc nào Nguyên cũng ước, giá mà


Nhi nhìn thấy khẩu pháo này, Nhi sẽ biết là ngày trước Ngun khơng nói


dối. Việt Minh có nhiều khẩu pháo to thế này thì sẽ đi được thằng Tây


chẳng khó gì. Đường về qua cửa khẩu Lạng Sơn, qua Thái Nguyên qua


Yên Bái, Sơn La, rồi mới lên Điện Biên, Nguyên đã gặp rất nhiều cái


qáun nhỏ nằm lúp xúp ven đường không người bán, thỉnh thoảng cũng


ghé vào, chỉ hi vọng hỏi được thông tin về Nhi.


Đại đội xe kéo pháo của Nguyên được giao nhiệm vụ bảo vệ đèo Lũng


Lô, một con đèo trọng yếu của chiến dịch. Nguyên đã không làm được gì


nhiều, khơng được đặt dù chỉ một quả đạn vào ổ, đó là việc của các pháo


thủ, nhưng Nguyên rất tự hào vì chính Ngun đã mang về được một


khẩu cao xạ ba bảy ly, loại pháo lần đầu tiên xuất hiện trong đội ngũ của


</div>
<span class='text_page_counter'>(117)</span><div class='page_container' data-page=117>

Nguyên đã mang được một khẩu pháo về, một khẩu pháo của Liên Xơ, nó



rất to, to lắm, Nhi khơng nghĩ tới được đâu. Nó có thể bắn từ rất xa, từ


dưới mặt đất chĩa lên trời, nhằm vào máy bay (máy bay ấy, Nhi biết


không) pùm một phát, máy bay nổ tung, cháy đùng đùng. Nhi à, hết chiến


dịch Nguyên sẽ dẫn Nhi đi xem một khẩu pháo như thế, thèm gì súng kíp,


súng kíp chỉ bắn nổi mấy con cầy hương thôi. Nhi nhớ đợi Nguyên về, rồi


một ngày đeo bộ xà tích cho Ngun xem, khơng được để thằng trai nào


nắm tay ở hội xuân đâu nhé. Sắp hết thằng Tây đến nơi rồi, Nguyên cũng


sắp về rồi.


Nhưng hết chiến dịch, quân ta đã chiến thắng giòn dã mà vẫn chưa về
được. Nguyên bị thương, xe Nguyên trúng một quả đạn, bốc cháy,


Nguyên bị bỏng nặng hỏng một mắt, nằm ở trạm quân y tiền phương một


thời gian rồi chuyển về tuyến sau. ở đấy Nguyên gặp một người, một


người mà trong những lúc đau đớn nhất cả về thể xác lẫn tinh thần,


Nguyên đều được người ấy chăm sóc, sự chăm sóc dịu dàng và ân cần


như mẹđối với Nguyên, và cịn như Nhi đối với Ngun.


Ngun khơng thể về ngay được, Nguyên nợ người ta, Nguyên cảm thấy



day dứt nếu cứ thế mà ra viện. nhưng Ngun cũng khơng làm gì được,


hình bóng Nhi khơng lúc nào rời khỏi suy nghĩ của . Cuối cùng, cô y tá ấy


bảo:


- Anh về đi, nếu khơng thấy cơ ấy, hoặc cơ ấy khơng cịn chờ anh nữa thì


quay lại đây với em.


Nguyên mừng quýnh, vội vã xách ba lô về quê.


- Cha con khơng cịn nữa rồi. Ơng ấy chờ mãi mà không thấy con về, sao


chiến thắng lau rồi mà mãi bây giờ con mới về hở Nguyên?


Mẹ Nguyên nắm chặt lấy cánh tay anh, nước mắt ròng ròng. Mẹ tưởng


</div>
<span class='text_page_counter'>(118)</span><div class='page_container' data-page=118>

cát, mẹ tưởng anh không thể về với mẹ được nữa. Cha Nguyên mất vì


một lần gùi thuốc phiện của lão Sềnh sang Sảng Pả bÞ cướp giữa đường.


Cái chết đột ngột của chồng làm mẹ Nguyên như cái cây bị đốn ngang


chừng, đổ gục, chết không chết được mà sống cũng khôg ra sống, từng


ngày, từng ngày một chỉ còn một điểm tựa duy nhất là hy vọng Nguyên


trở về.



Giờ thì Ngun đã về đây. Chính quyền cách mạng đã giải phóng tất cả


những kẻ hầu người hạ trong nhà lão Sềnh, cả nhà lão đã khăn gói ra đi,


bốn năm căn nhà rộng thênh thang được chia cho người làm, cả đất đai


ruộng nương, trâu bò đe ngựa cũng chia đều. Phải khó khăn lắm Nguyên


mới mở miệng được, hỏi mẹ về Nhi.


- Nó đi tìm con mà, hai đứa khơng thấy nhau sao?


- Làm sao lại phải đi tìm con, con bảo Nhi chờ ở nhà cơ mà.


- Ấy, khổ quá nên phải trốn nhà đi thôi.


- Ai làm gì Nhi, ai dám làm gì Nhi hở mẹ?


- Bố mẹ nó chứ ai. Nó gửi mẹ cái này, bảo khi nào con về thì đưa.


Mẹ đưa cho Nguyên một gói nhỏ. Nguyên mở ra, trong lớp vải chàm là


một nắm tóc. Cái đêm chia tay với Nhi dưới gốc cây lê nở hoa trắng muốt


lại hiện về…


Sau khi Nguyên đi, một tháng, hai tháng, mười tháng, một năm, khơng hề


có tin tức gì về, Nhi mỗi ngày một phổng phao xinh đẹp. bà Mẩy dạo này



hay ốm, có cái cục gì đó chồi lên ở bụng, rất đau, ăn không được, ngủ


cũng không được, gày xọp đi. Thỉnh thoảng nửa đêm lại thấy Nhi xuống


nhà ngang, lần đến giường bà, đưa cho một cục gì mềm mềm bằng đầu


ngón tay út. Bà nhấm nháp một tý là đỡ đau ngay. Sau này bà Mẩy mới


</div>
<span class='text_page_counter'>(119)</span><div class='page_container' data-page=119>

Mùa xuân năm ấy, chính là mùa xuân Nguyên được ăn tết ở nước bạn,


nhớ nhà buồn thiu suốt mấy ngày tết, bố me Nhi đón bà mối đến nhà.


Khơng ai nói câu nào với Nhi, chỉ đến khi bà mối về bố mới gọi lên, bảo


hai tháng nữa thì gả chồng. Mười sáu tuổi là lấy chồng được rồi, ba trăm
đồng bạc trắng thách cưới mà nhà trai không kêu ca gì, bảo cho thêm một


trăm nữa là bốn. Nó nhiều bạc trắng thế khơng gả thì gả cho ai. Nhi bảo,


nếu cứ bắt Nhi lấy chồng thì nhà trai chỉ được một xác người khơng thở,


khơng nói, khơng nhìn nữa thơi.


- Thật khơng? Bố Nhi hỏi.


- Thật. Nhi nói như dao sắc chém cột.


- Thế thì phải nhốt mày lại. Nuôi mày lớn chừng ấy thì phải được gả



chồng cho mày chứ, mày chết thi phí cơng, phí thóc của tao à.


Bố Nhi nhốt Nhi lại thật, cho người canh gác ngày đêm nữa. Nhi nghĩ,


nếu chết thì cũng khơng giữ được mình cho Nguyên, khi Nguyên về biết


Nhi đã chết thì Nguyên sống thế nào. Không chết, nhất định không chết.


Bị nhốt ba ngày Nhi bảo bố.


- Lấy chồng cũng được. Nhưng phải cho con một trăm đồng bạc.


- Mày theo chồng về nhà nó, bên ấy thiếu gì bạc trắng mà phải mang ở


nhà đi.


- Mình phải có tiền chứ, mai kia muốn đi chợ mua sám cũng phải xin tiền


chồng à, nó khơng cho thì làm thế nào, nó khinh thì làm thế nào?


Bố Nhi miễn cưỡng đồng ý. Vậy là chỉ cịn có ba trăm đồng, tính ra thì


ni Nhi bằng ấy năm vẫn khơng bị lỗ.


Ngày mai theo chồng về nhà, đêm nay Nhi lại lị dị xng nhà ngang Nhi
đưa cho bà Mẩy năm mươi đồng bạc, bảo bà cất đi, lúc nào cần thì có cái


</div>
<span class='text_page_counter'>(120)</span><div class='page_container' data-page=120>

Đúng đêm đầu tiên về nhà chồng, thằng chồng chưa kịp vào buồng thì


Nhi trốn mất.



Nhi đã đi tìm Nguyên, chỗ nào đang đánh thằng Tây thì Nhi đến. Đi đến


chùn chân, hỏi đến mỏi miệng vẫn khơng tìm ra anh Bàn Văn Ngun.


Vậy thì Nguyên đã gặp Nhi rồi. Nguyên đã nhìn thấy một mảnh vải thêu


chỉ đỏ vương trên vác nứa, lúc ấy Nguyên chỉ cảm thấy có gì rất quen


thuộc, nhưng giờ thì Ngun biết, đó là mảnh khăn vấn đầu của Nhi. Nhi
đã ở lại giữa rừng, dựng quán bán hàng ven đường bộ đội hành quân, hy


vọng gặp được Nguyên. Nhưng Nguyên đến muộn. Nhi nằm đó nhưng


khơng kịp nắm tay Ngun lần nữa, bộ xà tích bạc chưa được đeo trên


cạp váy lần nào còn giấu được trong hốc cột…


Rừng rậm đang cất lên khúc hát muôn thuở về sự hoang dã vĩnh cửu, chỉ


có con người là không chờ đợi được nhau. Tất cả ùa về trong Ngun,


dịng sơng sâu rất trong, núi rất cao và hai đêm dài Ngun cịng lưng
đánh xà tích bvạc. Năm tháng qua đi, căm lán nhỏ đã đổ sập vì mưa gió,


chỉ có Nhi là vẫn cịn đây, năm nào Nguyên cũng trở lại thamư Nhi, bộ xà


tích bạc vẫn còn lấp lánh sáng trong đêm, bộ xà tích này Nhi chưa dùng


lần nào, chỉ đợi đến khi Nguyên về, sẽ cùng Nguyên sang Sảng Pả đi hội



</div>
<span class='text_page_counter'>(121)</span><div class='page_container' data-page=121>

<b>C</b>

<b>NH B</b>

<b>P CĨ CÁI MI G</b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Từ đây về nhà cịn phải đi bộ một qng xa nữa, cịn sớm, tơi ghé vào


một quán thắng cố. Chợ sang chiều sắp tan, quán vắng tanh. Chủ quán


vừa chùi hai tay đầy mỡ vào vạt áo vừa hỏi, mặt không ngẩng lên:


- Đến ăn muộn thế?


- Ừ, xe tỉnh vừa lên mà. Cho mình xin một bát nhé.


- Cũng chỉ còn một hai bát là hết. Đang định mang về cho trẻ con. Uống


rượu khơng?


- Một ít thơi...


Ngoắng muôi quẹt một cái dưới đáy chảo vét lên vừa xương thịt vừa nước


váng mỡ, đổ vào bát, rồi mặc kệ tơi xì xụp ăn uống, chủ qn xếp đồ vào


quẩy tấu. Tôi ăn được nửa bát thắng cố, uống hết nửa bát rượu, đột ngột


chủ quán hỏi:


- Này, về đâu thế?



- Ởđây thôi...


- Ở phố huyện?


- Ừ.


- Khơng nói thật với nhau rồi. Người Thài Phìn Tủng phải khơng?


Tơi giật mình, st gạt đổ bát thắng cố, căng mắt ra nhìn chằm chằm, một


lúc lâu vẫn chẳng thấy nét nào quen ở người đàn ông râu rậm trước mặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(122)</span><div class='page_container' data-page=122>

- Không quen đâu - Chủ quán mặt vẫn lạnh như ngâm nước - Biết biết


một tý thôi. Lâu quá rồi, không thấy lại nhau một lần, cũng phải nghĩ mãi


mới ra đấy.


Người phụ nữ địu đứa bé sau lưng vẫn lúi húi dọn dẹp từ nãy, nhễ nhại


mồ hơi bước ra ngồi, cắt ngang:


- Tơi đi lấy ít muối. Dọn nhanh lên, tan chợ rồi đấy.


Tôi bỏ dở bát thắng cố, lấy tiền ra trả. Nấn ná thêm:


- Vợ à?


- Ừ. Nó mới đẻ, con trai đấy - Chủ quán trả lời, không giấu giếm sự phấn



khởi, hỏi thêm - Có ngựa về khơng?


- Đi bộ thơi.


- Thế thì... đi nhanh nhanh, không lại ngủ giữa đường.


Ra khỏi quán, đi một đoạn, ngối lại tơi vẫn thấy người đàn ơng cịn đứng


nhìn theo. Khơng quen. Dứt khốt khơng quen tý nào. Tại sao người ấy


lại nhận ra mình? Tơi điểm mặt đàn ơng ở Thài Phìn Tủng, từng cái mặt,


dáng người lướt qua, chẳng thấy có ai giống thế. Ánh mắt kỳ quặc của


chủ quán cứ bám theo mãi như con vắt đói.


Mặt trời xuống nhanh. Hết đường nhựa, vào đường đất ngoằn ngoèo bám


trên triền dốc là thấy ngay cái lạnh ùa tới. Gió dưới vực sâu hun hút thốc


lên. Đúng là phải đi nhanh cho nóng người lên, cũng để không bị muộn


quá lại không nhìn thấy lối đi. Đàn ơng từ chợ về, uống rượu say ngủ


ngay giữa đường. Một quãng lại có một ông - mũ nồi văng ra bên cạnh,


há miệng ngáy hừ hừ, ngựa ngang qua quệt cả đuôi vào mặt.


Từ đây khơng nhìn thấy bản tơi. Phải đi mười một khúc đường vòng như



trước mặt mới về tới. Vừa đi vừa đếm ngược, đến vòng cua cuối cùng


</div>
<span class='text_page_counter'>(123)</span><div class='page_container' data-page=123>

mờ, xam xám. Mặt trời tắt là sương xuống, nhanh như chạy ra từ ống


thổi. Sương che kín hết những đỉnh núi cao, nhìn khơng thấy từng mỏm


tai mèo nhọn hoắt...


Khắp vùng cực bắc này, nhìn phía nào cũng chỉ thấy núi. Núi đá cao


ngang mây trời, nhiều như sao trên dịng sơng Ngân Hà, ngửa mặt đếm


mỏi miệng, mỏi cổ không xuể. Người già trong bản nói, đàn ơng sinh ra


từ núi, cịn đàn bà sinh ra từ suối. Suối ít hơn núi nên đàn bà ít hơn đàn


ơng. Các bản khác con gái lớn lên lo muộn chồng, riêng bản tôi, con trai


mới lo muộn vợ. Mười bảy mười tám tuổi chưa lấy được vợ là muộn rồi.
Đứa con trai nào nhà nghèo, không đủ bạc trắng mang vợ về là phải đi ở


rể. Thằng đàn ông ở rể khổ hơn đứa đàn bà đi làm dâu nhiều. Trong nhà


khơng dám nói to, ra đường khơng dám ngẩng mặt nhìn hàng xóm. Thế


mà vẫn vơ sốđàn ông bản tôi phải đi làm rể.


Tôi gặp Mai đang gùi một gùi đất ngược lên núi. Lâu q rồi mới nhìn



thấy nhau. Xưa, hồi cịn học ở Trường Dân tộc nội trú huyện, Mai là bông


hoa sắp nở rực rỡ nhất trường. Đang học dở thì bố mất, mẹ gọi Mai về lo


việc nhà cùng mẹ. Vậy là bỏ học. Giờ thì ởđây, lấy chồng, đẻ liền ba đứa


con bị xã phạt tính ra mất mấy quẩy tấu ngơ vì vượt kế hoạch. Nhà Mai


có ba mảnh nương nằm trên ba sườn núi quay mặt vào nhau, nhà ở dưới


thung lũng, mặt cịn lại là đường cái, thỉnh thoảng có xe ô-tô chạy qua,


hai đứa con Mai lại líu ríu cõng nhau chạy ra xem, ngã sấp ngửa. Các em


Mai đã đi lấy chồng hết, nhà chỉ có một đàn ông là chồng Mai, con rể cả.


Hai vợ chồng ngày lên rừng, tối về hầm ngô nấu rượu, phiên chợ Lũng


Phìn cho ngựa thồ ra bán, bỗng rượu để nuôi lợn.


Nhà tôi cách nhà Mai một đoạn, tắt qua đường ô-tô, đi vừa mỏi chân thì


tới.


Tơi rời khỏi nhà năm mười sáu tuổi. Trước ngày tôi đi, ông nội dắt ra gốc


</div>
<span class='text_page_counter'>(124)</span><div class='page_container' data-page=124>

ra những đứa như mày. Lúc mày chui ra khỏi bụng mẹ, Mặt trời đang


mọc, đến đúng đỉnh núi ấy. Ngọn núi đẻ ra những đứa khó bảo, lớn lên



thích làm theo ý mình. Thì thơi, cho mày đi. Nhưng đi đâu thì đi, khi nào
đau chân, khi nào không thấy con đường thẳng, con đường sáng thì phải


nhớ lối mà quay về...


Ngọn núi ấy, mỏm nhọn của nó không đủ chỗ cho một con chim lớn đứng


chân. Cái mỏm nhọn hoắt, bé như đầu sừng một con sơn dương oai vệ


vươn lên, khoe khoang sự dũng mãnh.


Có một huyền thoại. Thuở mảnh đất này mới chỉ có rất ít người Mơng


sinh sống, có lần trời làm đại hạn, chỉ có cái nóng và cái khát ngự trị. Một


con rồng ở trên cao, vén mây nhìn xuống, thấy cảnh người Mơng thiếu


nước vơ cùng cực khổ đã móc một con mắt của mình ném xuống. Con


mắt rồng đậu trên một đỉnh núi nhọn hoắt và tạo thành dịng nước mát vơ


ngần. Nhưng vùng lân cận có một bọn muốn chuyển dịng nước về chỗ


chúng, khơng được chúng đã trồng ngay chỗ dịng nước chảy ra một lồi


cây độc, lá cây rụng xuống, ai uống phải dòng nước ấy sẽ ngộ độc mà


chết. Hai anh em nhà nọđi nương về gặp dòng nước ngọt uống lấy uống
để và đã chết ngay đầu nguồn nước. Họ chết đi hóa thành đơi chim muôn



sắc, ngày đêm quanh quẩn bên nguồn nước, nhặt sạch lá độc mỗi khi


chúng rụng.


Nhưng rồi, năm này qua năm khác, trời vẫn làm hạn hán. Có lẽ con rồng
đã già, đã chết, và con mắt của nó dưới trần gian cũng khơng còn sức lực
để tạo ra dòng nước nữa. Tôi và Mai lớn lên trong nỗi khát khao một


nguồn nước tràn đầy, trong vắt, tắm được trong nó, bơi được trong nó và


hai bà mẹ không phải suốt ngày trời mới giặt xong một quẩy tấu quần áo


cho cả nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(125)</span><div class='page_container' data-page=125>

nước trời... Thỉnh thoảng, khơng cịn tý nước nào để dùng, tôi gùi thùng


qua hai khe núi sang nhà Mai. Mẹ Mai lại chia cho một ít nước để dành


trong bể đá đầu hồi.


Nghỉ đông năm ấy, chúng tôi từ trường nội trú về nhà. Có người đến hỏi


xin Mai làm dâu. Chiều hơm trước, đuổi bị qua thung lũng gặp tơi Mai


bảo:


- Tao sắp lấy chồng rồi, bỏ học thôi...


- Không tiếc à?



- Tiếc chứ, nhưng nhà khơng có người làm, phải lấy nó về mang bò lên


nương...


Mai dắt bò quay đi một đoạn, ngoái lại, mắt ầng ậng nước ngập ngừng:


- Chứ à, sao không bảo bố mẹ sang nhà tao?


Năm ấy cả tôi và Mai đều vừa tuổi mười bốn.


Khơng có một dịng suối nào chảy qua bản tôi. Nước chảy ngầm dưới đá,


người già bảo thế. Thế nên đàn bà Thài Phìn Tủng có ở trong nhà hay đi


ra khỏi nhà chỉ nhìn trên mái tranh có khói bếp bay lên hay khơng mới


biết. Đàn bà Thài Phìn Tủng nói ít làm nhiều, khơng mấy khi buồn cũng


khơng có mấy khi vui. Cúi mặt từ mờ sáng đến đêm khuya. Cái lưng cong


mãi.


Tôi đứng ở sân nhà Mai, nhìn thấy rõ ngọn núi nhọn nhất trên dãy núi


chắn ngang chia Thài Phìn Tủng thành hai nửa. Ngọn núi nhọn, từ chân


lên đến đỉnh mọc kín tam giác mạch. Mây giăng lưng chừng, hoa tam


giác mạch nở rộ, cuối mùa hoa ngả sang mầu hồng sẫm, lẫn vào mây mờ.



Cây tam giác mạch chịu rét giỏi, mùa này chỉ mình nó mọc được. Mảnh


nương ấy mẹ đẻ mới chia cho vợ chồng Mai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(126)</span><div class='page_container' data-page=126>

- Cịn ít thơi. Vụ này trồng ngơ giống mới nhưng lại trồng trên nương, cây


ngơ ra bắp ít lắm. Người đủ ăn thì bị ngựa nhịn. Bị ngựa ăn thì người


thiếu.


- Thế thì làm thế nào, xin cứu đói nữa à?


Im lặng. Mai tiến đến gần cái quẩy tấu để ở góc nương, trong ấy đang


phát ra tiếng trẻ con khóc. Đứa út của Mai đấy, mới bốn tháng, trơng nó


bé như cái phích nước. Mai quay người, vạch áo nhét vú vào miệng con.
Đứa bé nín bặt, chỉ cịn tiếng mút chóp chép.


Có tiếng người lao xao dưới đường mịn. Người bản đi chợ Lũng Phìn về,


có người đi mấy ngày mới về. Chồng Mai cũng thế. Mai bảo đi từ ba hôm


trước.


- Sao phiên chợ mà Mai khơng đi cùng chồng? Say rượu thì ai dắt ngựa?


- Nó đi bộ thơi mà.


- Đi bộ thì cũng phải có vợ có chồng chứ?



Mai lại im lặng, thở dài. Lâu lắm mới khẽ khàng:


- Nó đi làm ăn rồi, xa lắm. Chắc Tết cũng không về. Đứa út này đã được
đặt tên đâu. Nó muốn con trai, đẻ nữa thì khơng có gì nộp phạt...


Từ ngày chồng đi, Mai khơng xuống chợ Lũng Phìn ngày nào. Sắp Tết


rồi, trên gác bếp đã thấy chuối khô phơi đầy một giàn. Mai bảo năm nay


thêm trẻ con nhưng bớt người lớn, chắc cũng chỉ làm ít bánh thơi. Trên


nóc bếp lị, cạnh chảo cám đang sơi sùng sục, có một cái mi gỗ. Cái


mi bọn trẻ con rửa bát bữa trưa quên để lại. Cái muôi bằng gỗ pơ mu là


tôi làm cho Mai. Ngày bé, lúc nào Mai cũng ước có một cái muôi thật to.


Tôi chỉ thấy buồn cười, ước gì khơng ước lại đi ước cái mi. Mãi đến


lúc Mai bảo sắp lấy chồng tôi mới làm cho Mai, nhớ ánh mắt có gì như


</div>
<span class='text_page_counter'>(127)</span><div class='page_container' data-page=127>

vào ngón tay trỏ. Vết sẹo vẫn cịn đây. Từ ngày bố mất, nhà khơng có đàn


ơng, cái mi gỗ cũ mịn vẹt một góc cứ phải dùng mãi...


Đứa bé vẫn nằm trong quẩy tấu, đặt cạnh bếp, khơng khóc, cịn hé hai con


mắt ra nhìn tơi chằm chằm. Mẹ nó ra ngồi nhổ một gốc rau cải, chuẩn bị



làm cơm tối. Hai đứa chị hí húi tẽ ngơ. Thấy tơi nhìn cái mũ nồi treo trên


tường đất, đứa lớn bảo:


- Của bốđấy. Đi ban đêm mà, quên cả mũ.


- Có biết bốđi đâu không?


- Biết.


- Đi đâu?


- Người bản đi chợ huyện về, bảo gặp ởđấy.


Mai mắng con:


- Trẻ con biết gì, đừng nói linh tinh.


Mai quay mặt ra cửa, dụi mặt vào tay áo. Tôi chợt nhớ ra cái quán thắng


cố...


- Mai à, có đi chợ huyện sắm Tết khơng?


- Có gì cần mua đâu mà đi - Tiếng Mai nghèn nghẹn, ngập ngừng - Chứ


à, về đi thôi. Sắp tối rồi đấy, về khơng em gái lại tìm. Mai lại sang chơi...


- Ừ mình về...



Tơi định hỏi, Mai không biết thật hay là Mai nói dối bạn. Mai sợ bạn


thương hại Mai. Tơi cịn định kể lại chuyện ăn thắng cố ở chợ huyện


trước khi về Thài Phìn Tủng, nhưng nhìn cái mặt cúi gằm, tóc xù ra ngồi


vành khăn lại không mở miệng được.


Phải cúi người mới khơng chạm đầu vào khung cửa. Khói quẩn trong nhà


</div>
<span class='text_page_counter'>(128)</span><div class='page_container' data-page=128>

mạch, hoa lê đang bật bông trắng. Hoa lê càng trắng thì trời càng lạnh.


Trời chiều mùa đông u ám, không rõ trời, không rõ đất. Mây trên cao tràn


xuống, tam giác mạch chỉ còn thấy mờ mờ, hòa lẫn trong sương. Núi


cũng đã khơng cịn nhìn rõ nữa... Tơi ngối nhìn vào bếp, nói nhanh,


chẳng biết mẹ con Mai có nghe rõ khơng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(129)</span><div class='page_container' data-page=129>

<b>TRONG </b>

Đ

<b>ÁM </b>

Đ

<b>ƠNG CĨ M</b>

<b>T ÁNH M</b>

<b>T </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Lâu rồi, dễ đến hàng năm trời nàng khơng có mặt trong một đám đông


nào. Suốt thời kì mang thai, sinh con, cho đến khi con bé đã được sáu


tháng, nàng không đi đâu đến nơi đông người. Nàng cảm thấy không
được tự nhiên cho lắm với một cái bụng to. Khi mang thai, nàng hay ốm,



ln ln mệt mỏi vì mất ngủ, khơng mặc được thứ gì đèm đẹp một tí.


Khi mới sinh con, mẹ chồng nàng bắt nàng kiêng khem đủ thứ, ba tháng


mới được ra khỏi phòng, tai vẫn nút bông và đầu thì bịt khăn. Trong


gương, nàng xanh xao và mỏng như một tờ giấy, trái ngược hẳn với cô


gái mập mạp trước đây. Nhưng giờ thì con bé đã được sáu tháng, đã biết


giơ tay về phía mẹ mỗi khi nàng đến gần.


Hơm nay cơ quan có một cuộc họp lớn, nhiều khách mời quan trọng. Sếp


bảo nàng và hai cô nữa đón khách ở cổng. Nàng trang điểm nhẹ, phớt vài


nhát chổi hồng hồng lên má, và mặc bộ juyp ngắn trên đầu gối màu nâu


tây. Nàng xoay nhẹ trước gương. Chồng nàng vẫn ngủ vùi trong chăn,
đêm trước anh thức đến gần sáng trước máy tính. Dạo này chồng nàng


hay thức khuya. Cuộc sống của hai người từ khi có con bé khơng thay đổi


mấy, ngoại trừ việc nàng hay để nó nằm vào giữa, ngăn đơi cái giường,


và anh thì ln nằm ẹp vào trong vì sợ đè vào con. Mọi chuyện cịn lại


vẫn bình thường. Nhưng một lần gần đây, nàng mở email của chồng, thấy



có một địa chỉ lạ, địa chỉ ấy chiếm hai phần ba số thư ở trong box. Nàng


ngần ngừ một lúc rồi quyết định tắt máy. Nàng có thói quen tơn trọng


chồng, ngay cả tin nhắn trong điện thoại của anh nàng cũng không bao


giờ đọc. Nhưng sau đó, tất cả những đêm chồng nàng ngồi lì trước máy


nàng đều khơng ngủ được. Dịng địa chỉ trong box luôn ln hiện lên


</div>
<span class='text_page_counter'>(130)</span><div class='page_container' data-page=130>

được, đó là một cái tên con gái. Là ai? Ai mà gửi nhiều đến thế, có


chuyện gì khơng nói được thành lời mà lại phải gửi mail? Hộp thư yahoo
ấy chính nàng đã lập cho chồng, lấy ngày sinh của nàng làm password,


chồng nàng biết rõ như vậy, tại sao họ vẫn liên lạc với nhau qua hộp thư
ấy? Là vì anh tin nàng không bao giờ mở, hay thực sự trong mỗi mail ấy


chẳng có gì đáng giấu diếm? Chồng nàng làm ở một cơ quan thiết kế xây


dựng nên thường xuyên phải sử dụng đến máy tính, nhưng hàng đêm anh
ấy ngồi trong phòng làm việc để check mail hay làm việc thật sự thì nàng


khơng biết. Có lần nàng đã pha một cốc sữa, định mang vào phịng anh
đột ngột mà khơng gõ cửa, để xem thực ra thì anh đang làm gì, nhưng


nàng đã cầm cốc sữa nóng và đứng mãi ở cửa mà không dám vào. Vì


nàng cảm thấy xấu hổ, thấy có lỗi với chồng vì khơng tin tưởng anh, hay



vì nàng sợ phải đối diện với một sự thật khủng khiếp nào đó phía sau


cánh cửa kia, cũng không biết nữa. Lần thứ hai, nàng lại mang một cốc


sữa. Nàng bưng cốc sữa nóng bỏng , bốc hơi nghi ngút, thơm ngậy từ


trong bếp ra bằng đôi tay lẩy bẩy. Việc gì phải run lên thế này, khơng


việc gì phải run lên thế này, nàng lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại. Nàng không


gõ cửa mà chỉ đẩy thật khẽ, tay nắm trơn nhẵn không hề phát ra tiếng
động. Chồng nàng đang ở kia, trên chiếc ghế xoay màu ghi, nhưng anh
đang gục xuống bàn, ngáy khe khẽ. Vẻ như anh đã thiếp đi vì quá mệt


mỏi, bàn tay phải vẫn cịn đặt trên con chuột máy tính. Màn hình đang ở


chế độ chờ, những quả tim màu đỏ nối v?i nhau như một con rắn bò


ngoằn ngoèo, chốc chốc lại tách rời ra, nhảy loạn xạ. Nàng đứng tần ngần


sau lưng chồng rồi khẽ đặt cốc sữa xuống bàn, lấy một quyển sách đậy


lên trên rồi rón rén bước ra. Đêm ấy, nàng vẫn không ngủ được. Con bé


úp mặt và ngực nàng nhưng thỉnh thoảng lại quơ tay ra sau tìm ba nó.


Nàng phải để một cái gối vào đó. Nàng yêu chồng, yêu con, yêu gia đình


</div>
<span class='text_page_counter'>(131)</span><div class='page_container' data-page=131>

nếu chồng nàng có bồ, nàng cũng chẳng đau khổ mấy, cũng chẳng lồng



lên mà ăn tươi nuốt sống kẻ ấy như người ta. Nàng nghe và chỉ cười.


Nàng chưa bao giờ đặt mình trong tình huống ấy để mà biết rằng mình sẽ


phản ứng như thế nào.


Hơm qua, đứa bạn phải đứng đón khách cùng nàng hôm nay đã rủ nàng đi


mua cái gì đó mà mặc. Và nàng đã mua được bộ juyp này đây, quả thực là


nó rất hợp với nàng. Sinh con xong nàng đẹp hẳn lên, da dẻ mịn màng và


cơ thể thì mềm mại, vịng eo hơi nở một chút nhưng vẫn tròn trịa lắm.


Nàng ngắm mình trong gương và thở dài khi tiếng ngáy của chồng bất


chợt to hơn bình thường. Con bé đã dậy, nằm trong chăn thị cổ ra, đơi


mắt hấp háy nhìn nàng và miệng thì tủm tỉm cười, cánh tay ba nó vịng


qua làm thành một cái cũi, con bé khơng thể bị ra ngồi mà lăn xuống


sàn nhà được. Hơm nào cũng thế, nàng đi làm thì con đã dậy, cịn bố thì


vẫn ngủ, tay ôm chặt lấy con. Nàng chui vào giường, thò mặt vào và


thơm con, con bé cố rút hai cánh tay trong chăn ra và ôm lấy mặt nàng.


Nàng bảo: “Ngoan nhé, mẹ đi làm đây”. Con bé méo miệng chực khóc,



nàng phải cù vào gáy nó cho nó cười lên, đưa cho nó một cái thiếp mời


màu đỏ. Con bé của nàng rất dễ chơi, cái gì màu sắc sặc sỡ mà vị vún
được là nó thích.


Cái thiếp mời này, cơ dâu và chú rể của nó đã cưới tuần trước. Hôm ấy,


cả nhà nàng đi dự. Con bé thích lắm nhảy chồm chồm trên xe suốt chặng
đường từ nhà đến khách sạn. Nhưng đến nơi, vừa ngồi vào mâm thì nó dở


chứng buồn ngủ, lè nhè khóc và rúc vào ngực nàng thè lưỡi tìm bầu sữa.


Không lẽ vạch áo giữa bàn dân thiên hạ, nàng đành bế con đứng dậy, tìm


vào một góc vắng, cho nó ăn. Con bé ăn xong, ngủ tít thì tiệc cũng đã gần


tàn, nàng đi ngang chỗ chồng ngồi, hích vào anh một cái ra hiệu rồi bế


con ra cửa chính. Nhưng chồng nàng có vẻ chẳng hiểu cái hích của nàng


</div>
<span class='text_page_counter'>(132)</span><div class='page_container' data-page=132>

qua cửa kính thấy rõ là anh uống tới ba cốc bia. Không biết anh đã nhiễm


thói hư tật xấu từ bao giờ, trước kia, giỏi lắm anh chỉ uống nửa cốc là


cùng. Anh hay đi nhà hàng nên quen rồi chăng? Chỉ có hay nhậu nhẹt mới


uống với cái kiểu rất sành điệu thế kia. Chết thôi, thế mà hơm nào anh về


muộn nàng cũng xót đứt cả ruột vì thương chồng vất vả. Hố ra anh đi



nhậu, nhà hàng, rồi quán bar, anh đi với những ai có trời mới biết. Và


ngẫu nhiên, dòng địa chỉ trong box lại hiện lên mồn một. Nàng nhìn con,


nó đang ngủ say, miệng vẫn tóp tép, hai má hồng căng như muốn nứt ra,


nó vẫn rất khối được ngủ trong tư thế bế ẵm, đi rong thế này. Hai mắt


nàng bắt đầu nóng lên, áo nàng xộc xệch vì vừa vén lên cho con bú, một


bên ngực áo ướt sũng vì sữa chảy, nàng thấy mình nhếch nhác ghê gớm,


thế mà cịn phải ơm con đứng chầu chực ở cửa như ăn xin thế này. Nàng


nhìn vào trong, hi vọng anh cảm thấy ánh mắt của nàng mà quay ra,


nhưng không hề, anh vẫn cắm cúi ăn. Kì lạ, làm như bị bỏ đói mấy ngày


khơng bằng. Đồ tồi, đồ tham ăn tục uống! Nàng cáu tiết rủa thầm rồi rút
điện thoại di động gọi tắc xi.


Hai giờ chiều, anh xô mạnh cửa lao vào nhà như một gã điên. “Em làm


sao thế, để anh tìm khắp nơi thiếu nước đào cả thành phố lên, chỉ sợ hai


mẹ con ngã chỗ nào....” Anh gào to, vừa gào vừa nới cà vạt. Nàng mặt


nặng như chì “Anh đi cả giày vào nhà rồi đấy”. “Em... chồng nàng tức tối,


nghẹn cả giọng - em thật quá quắt. Khơng dưng lại bỏ anh ở lại, tí tởn ôm



con về trước”. “Anh bảo ai tí tởn?” . “Là em đấy, chính là em đấy. Em


chán ngồi xe máy, thèm ơ tơ rồi chứ gì. Anh biết, anh kém cỏi, chẳng biết


làm ra cả núi tiền như người ta, mà em thì...”. Thơi đi, anh học thói xiên


xẹo từ bao giờ thế” .” Nhưng... tại sao... tại sao em bỏ anh ở lại mà không


nói câu nào?”. “Anh đi mà hỏi cái máy tính của anh ấy” - nàng buột


</div>
<span class='text_page_counter'>(133)</span><div class='page_container' data-page=133>

Hôm sau, hôm sau nữa hai vợ chồng vẫn mặt nặng mày nhẹ với nhau.


Mọi lần anh vẫn làm lành trước nhưng lần này nàng chờ mãi vẫn chẳng


thấy anh đả động gì. Trừ những lúc nựng con, cịn lại thấy anh là lại thấy


bộ mặt lầm lì, nặng như đeo đá. Một hôm, nàng quyết định đến cơ quan


anh trong giờ làm việc, chỉ để xem anh có ở đó khơng, hay đúng như


nàng dự đốn, lại nhậu nhẹt ở đâu. Anh đang trong phòng làm việc, trước


máy tính, áo khốc vắt sau thành ghế, sơ mi trắng, cà vạt ghi Hàn Quốc.


Lúc nào anh ta cũng tươm tất sạch sẽ từ đầu đến chân, chả ai bảo đã có


vợ, khơng nhờ mình thì nhờ ai, tối nào mình cũng phải chọn sẵn cho anh


ta từ cái cà vạt, là phẳng phiu, thắt sẵn, treo cùng với áo sơ mi, ấy thế mà



lúc mình được nhìn thấy anh ta thì chỉ có quần đùi với áo may ô. Thật bất


công. Anh ta diện đẹp, đến cơ quan và lại làm bạn với máy tính thế kia,


lưng sắp gù rồi, mắt thì cận lồi ra đến nơi, lại check mail cho Đỗ Lệ Hiền


chăng? Cô gái ngồi ở chiếc bàn gần cửa, nãy giờ mải nghe nhạc hay gì đó


bằng hai chiếc tai nghe nhỏ xíu nút vào lỗ tai, giờ mới nhận thấy nàng
đang thập thò. “Chị cần gặp ai?” Nàng bối rối: “Khơng, tơi nhầm phịng,


xin lỗi”. Và thế là nàng ra về, trong lòng đầy ứ lên một cảm giác rất khó


chịu.


Khi nàng đi xuống cầu thang khu chung cư, vào nhà xe lấy xe, mấy bà


hàng xóm béo mập đi tập thể dục về mồ hôi mồ kê đầm đìa nhìn theo


nàng thèm thuồng, một bà hỏi: “Làm thế nào mà nhanh gọn người lại thế


hở cơ?” Nàng cười, khơng nói gì. Mấy ánh mắt đàn ông ngồi bên ấm trà


sớm cũng đuổi theo nàng. Vậy mà, chồng nàng lại khơng nhìn thấy nàng


thế này. Cái địa chỉ trong box lại hiện lên, dolehien, Đỗ Lệ Hiền là ai? Là


ai thế mà hôm nào cũng check mail cho chồng nàng? Cô ta bao nhiêu



tuổi, làm nghề gì? Xinh đẹp khéo léo hay xấu xí vụng về, chắc là khơng


thể xấu xí vụng về, vì chồng nàng khơng thích loại người ấy. Mỗi khi


</div>
<span class='text_page_counter'>(134)</span><div class='page_container' data-page=134>

Cơ ta ăn mặc có đẹp khơng? Nàng kể từ khi có con cũng luộm thuộm tuỳ


tiện hơn thật, đi làm cịn đỡ chứ ở nhà thơi thì tiện gì mặc nấy, thống


mát, thoải mái là được.


Khách khứa nườm nượp suốt buổi sáng, họp xong, một số khách được


mời đi nhà hàng. Nàng cũng không thể vắng mặt trong bữa tiệc đó, vì


nàng là kế tốn, phải chịu trách nhiệm chi tiêu. Nàng rất sợ những buổi


tiệc tùng thế này, mệt mỏi kinh khủng mà có khi tan tiệc về nhà lại phải
ăn thêm mì tơm. Cả chủ cả khách có ba mươi người, nàng hầu như khơng
ăn, chạy qua chạy lại xem cịn thiếu gì, cần bổ sung gì thì gọi phục vụ.


Trong lúc chạy đi chạy lại đó, có tiếng sếp gọi. “Đây là anh Hải, Phó


giám đốc mới của Công ty X, anh ấy muốn mời cô một ly”. “ Em cảm ơn,


nhưng xin lỗi anh, em hiện không được uống rượu”. “Sao thế? Sợ về


chồng phát hiện ra à?”. “Dạ,... khơng phải thế, tại vì em...”, nàng định nói


tại vì nàng cịn đang cho con bú, phải kiêng rượu tuyệt đối, nhưng ánh



mắt Hải đã ra lệnh cho nàng. Nàng cầm ly rượu màu hồng nâng lên, chạm


vào ly của Hải. Lại vẫn ánh mắt ấy làm bàn tay nàng run lên. Nàng tự bảo


mình, này, bình tĩnh lại đi chứ, gái có chồng, một con rồi, sợ gì ai?


Nhưng cũng lúc ấy, lại một giọng nói khác bảo, này, Đỗ Lệ Hiền là ai?
Đỗ Lệ Hiền cũng chả khác gì anh chàng Hải này đâu nhé. Và nàng uống


hết nửa ly rượu. Rượu nhẹ, vị ngọt, chỉ làm nàng hồng đôi má. ánh mắt


Hải cịn chạy theo nàng, đi đến đâu, ngối lại bàn tiệc nàng cũng gặp ánh


mắt ấy. ánh mắt làm bỏng lưng nàng.


Buổi chiều, nàng về nhà trong trạng thái chếnh chống, khơng hiểu do dư


vị của ly rượu màu hồng hay vì cái gì khác, nàng phải chạy xe thật chậm


vì sợ ngã hoặc đâm sầm vào ai đó trên đường. Có cái gì đó như là sự đắc


thắng ẩn hiện trong tâm trí nàng. Bộ juyp nâu tây vẫn cịn phẳng phiu lắm


và cặp má nàng thì hồng hào hơn cả buổi sáng. Về đến khu chung cư,


</div>
<span class='text_page_counter'>(135)</span><div class='page_container' data-page=135>

nhìn xuống. Hơm nay quả thực là trơng nàng rất khác, chính vì thế mọi


người trong chung cư mới nhìn nàng, và có khi lại còn bàn tán nữa. Nghĩ
đến việc mọi người đang xoi mói bàn tán về mình, và có thể cả về chồng



mình nữa, nàng rất khó chịu, đi nhanh qua sân, lên cầu thang cũng nhanh.


Nàng vào nhà, đóng cửa, tháo giày cao gót và cởi ngay bộ juyp ra, mặc


bộđồ ngủ nhàu nhĩ vào người, thật thoải mái, thật dễ chịu. Nàng chuẩn bị


sang nhà trẻ tư đón con và ra chợ xép mua thức ăn ln. Đi ra cửa, nàng


liếc vào gương, lại là nàng đây rồi, tuy má vẫn còn hồng nhưng quần áo


thì đã trả lại cho nàng cái vẻ ngày thường.


Trong lúc đóng cửa, nàng nhìn thấy tấm thẻ internet rơi trên sàn, có lẽ là


chồng nàng mới mua thẻ, tấm cũ đã hết rồi chăng? Cầm tấm thẻ trên tay,


nàng ngần ngừ rồi bước vào phòng làm việc của chồng, mở máy tính,


nhấn nút modem, vào mạng, mở mail... đúng lúc đó thì chng điện thoại


reo, chồng nàng đã đi làm mà quên điện thoại di động ở nhà, nàng mở


máy. “A lô, xin lỗi chị, tôi muốn gặp anh Kiên”. “Dạ, nhà tôi đi làm chưa


về, quên điện thoại ở nhà anh ạ, anh có nhắn gì khơng?”. “ Thế ạ! Phiền


chị nhắn anh tôi là Hiến ở Sài Gịn vừa ra, lúc nào anh về thì gọi cho tơi”.


“ Anh vừa nói anh tên gì ạ? “. “Dạ, Hiến chịạ”. “Có phải Đỗ....” “ Vâng,
Đỗ Lê Hiến, ra anh đã nói chuyện với chị, vợ chồng anh chị tuyệt thật


đấy...”


Nàng muốn hét lên, hét thật to, muốn ôm lấy cổ chồng và giúi anh xuống


ghế nệm, chỉ một tí nữa thơi, tí nữa thơi thì nàng đã uống cả ly rượu chứ


không phải một nửa, và con bé tối nay mà quấy vì khơng được bú thì anh


cứ liệu với nàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(136)</span><div class='page_container' data-page=136>

<b>V</b>

<b>T CHÂN NG</b>

<b>A TRÊN </b>

ĐƯỜ

<b>NG MỊN </b>



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Tơi đứng lại giữa lưng chừng núi, đúng ở chỗ con đường mảnh như sợi


chỉ bị ngựa dẫm vỡ mất một miếng chừng non bước chân. Sau lưng, chỉ


hơi dựa vào là vách núi đang nhuốm màu cỏ úa. Trước mặt là khoảng


không mênh mông. Dưới chân là nương ngô, hết nương ngô là vực sâu


hun hút. Ngô đã vào mùa thu hoạch từ lâu nhưng vẫn chưa được thu về.


Cây nào cũng bị bẻ ngọn, phơi những bắp dày hạt nần nẫn. Tranh thủ trời


vẫn cịn vài ngày hanh khơ người ta để ngơ ngồi nương cho khơ kiệt,
đến lúc bẻ về nhà thì từng mảnh áo ngồi của nó đã mỏng tang, nhẹ bỗng.


Dưới chân nương ngô dài hun hút kia, tinh mắt lắm mới nhìn thấy vài mái



nhà bàng bạc nhỏ xíu nép dưới những tán lê già. Mỗi khi đứng ởđây nhìn


xuống Sủng Thài tơi lại có cái cảm giác của lần đầu tiên đến đó. Khơng


giống ai cả, tơi lăn xuống Sủng Thài. Chính là vì cái vết chân ngựa này
đây, cái vết chân ngựa làm cho con đường nhỏ ngoằn ngoèo bám lấy lưng


chừng núi bị vỡ ra một miếng.


Hôm ấy, vừa cầm quyết định trong tay, tôi nhằm con đường dốc đỏ trước


mặt leo lên. Đang loay hoay khơng biết tìm đường đi thế nào thì một


người đàn ông gùi cái chảo lớn sau lưng vượt qua. Tơi gọi với: “Bác gì
ơi, cho cháu hỏi một tí” Người đàn ơng quay lại: “Cơ giáo phải khơng?” -


“Sao bác biết?” - “Chẳng cơ giáo thì có ai lên đây làm gì. Đi đâu thế?” -


“Cháu lên Sủng Thài, bác cho cháu hỏi đường” - “ừm, về luôn đi thôi” - “


Sao lại thếạ?” - “Bao nhiêu người lên rồi lại về, làm khổ trẻ con, học một


tí lại bỏ, học thêm tí nữa lại bỏ, có đứa học được mấy chữ, đi lấy chồng,
đẻ hai đứa con rồi mới có thầy giáo lên dạy tiếp” - “Nhưng cháu ở lại,


</div>
<span class='text_page_counter'>(137)</span><div class='page_container' data-page=137>

hồi rồi tôi cũng theo được người đàn ông ấy qua mấy con dốc dài dằng


dặc. Trời đã tối, nhìn khơng rõ nữa. Người đàn ơng bảo tơi đưa ba lơ cho



ơng ta, rồi nhìn vào cái chảo mà theo. Cái chảo mới, trắng nhờ nhờ, tôi cứ


theo đấy mà bước. Lên dốc, xuống dốc, lại lên, lại xuống... Đến chỗ này,


chính chỗ này đây, đúng lúc cái chảo quay ngang, tôi vừa nghe tiếng


người đàn ông bảo cẩn thận thì huỵch! Chân tơi đã dẫm đúng vào vết


chân ngựa. Tối tăm mặt mày, đau, tức, ù tai, tôi lăn lông lốc, lâu tới mức,


vừa lăn vừa nghĩ, không biết bao giờ mới dừng lại được. Cho đến khi
đâm sầm vào một bụi lau ở chân nương ngô, rúc đầu vào đấy, chân huơ


huơ bên ngoài. Nằm im một lúc, không biết mình cịn sống hay không
đây, tôi phải cắn vào môi một cái, đau nhói. Đâu đó xa lắm, tít trên cao,


người đàn ông gọi ồi ồi: “Cô giáo ơi, ở đâu thế?” Tiếng gọi ấy khó tả lắm,


vừa lo lắng, vừa hoảng sợ, vừa thương, da diết đến thắt cả ruột. Suốt


quãng đường dài đi cùng nhau chưa lúc nào tôi nghe thấy ông ấy gọi bằng


cái giọng lạ như vậy. Tiếng gọi như sắp khóc: “Cịn nói được khơng cơ


giáo ơi, trơi đi tận đâu rồi?”. Về sau này tôi thỉnh thoảng lại nghĩ, nếu như


một ngày nào đó cận kề với cái chết khơng vì bệnh tật, tuổi tác, mà nghe


thấy tiếng gọi ấy có lẽ tơi khơng thể bỏ mà đi được. Tiếng gọi đã khản đi.



Tôi vẫn nằm im trong bụi, gọi với ra. “Cháu ở dưới này, tít dưới này cơ”.


Nói xong thì khóc, khóc ồ. Khơng biết khóc vì cái gì, vì sợ, vì tủi thân


hay cảm động, hay tất cả những cái đó cộng lại. Cho đến lúc ông ấy tụt


xuống, lôi ra khỏi bụi lau, tơi vẫn chưa thơi khóc.


Từ chỗ ngã xuống đến Sủng Thài chỉ còn một quãng ngắn. Người đàn


ông chỉ cho tôi cái chuồng bị đầu tiên, bảo lẽ ra thì tơi phải lăn vào đấy.


Già làng Sủng Thài nhìn tơi, chân đi đất, mặt mũi xây xước, áo rách lỗ


</div>
<span class='text_page_counter'>(138)</span><div class='page_container' data-page=138>

Từ đấy tôi ở lại Sủng Thài, không hề về xi lần nào, có đi xa nhất thì


cũng chỉ là xuống huyện lĩnh lương, ra chợ mua vài thứ đồ dùng. Đã


tưởng tất cả những buồn vui đã lùi xa và có thể sống mãi ở dưới chân


những ngọn núi cao hàng ngàn mét so với mặt nước biển này. Ngay cả


khi đã cầm quyết định chuyển trường về gần huyện lị tơi vẫn cứ nghĩ rằng


mình khó có thể rời khỏi nó. Nhưng giờ thì đứng ở đây, chỗ con đường bị


vỡ ra một miếng này, nếu bước qua thì sẽ không trở lại nữa, đúng là nếu


bước qua nó thì sẽ khơng bao giờ trở lại nữa... lại thấy chỉ có một bước



chân thơi mà chẳng dễ dàng gì.


*
**


Hàng tháng trời tơi khơng sao mở được lớp. Già làng bảo, cứ ở chơi đi,


chán thì về, trẻ con ở đây khơng thích học chữ nữa đâu. Nhưng tơi khơng


về, có về cũng chẳng biết đi đâu. Huy đã lên một điểm trường cách huyện


lị ba mươi cây số về phía tây, giáp biên giới. Huy nhắn nhe, cố lấy vài


năm rồi tìm cách về gần nhau. Có Huy ở bên cạnh suốt mấy năm học sư


phạm tôi đã nhận ra một điều, con người ta khó có thể sống đơn độc
được. Những ngày dài đằng đẵng ở Sủng Thài tôi nhớ Huy vô cùng, nhớ


gương mặt lúc nào cũng rầu rĩ của Huy, nhớ hai bàn tay gầy, trắng xanh,


nhớ cả màu áo sơ mi xanh đậm. Lúc nào Huy cũng mặc áo tối màu, trông


Huy càng gầy guộc. Khi ở gần Huy tôi không tưởng tượng được sự xa


cách lại làm tôi nhớ Huy đến thế. Nhớ chứ không hẳn là cần, giả sử hai
đứa dạy cùng một điểm có khi tơi lại chẳng cần đến Huy.


Sủng Thài không cho trẻ con đi học cịn vì một lẽ, sau vụ thu hoạch chưa
được một tháng, cả bản đã hầu như không cịn đủ ngơ để dành đến vụ sau.



Ngơ giống mới cho hai ba bắp một cây, bắp nào cũng to, nhiều hạt.


Nhưng thu ngô về mừng chưa được bao nhiêu đã phải chứng kiến từng


</div>
<span class='text_page_counter'>(139)</span><div class='page_container' data-page=139>

kiến, ở đâu kéo về không ai biết, chui lên gác bếp, khói hun ngày hun
đêm cũng không sợ, cắn một lỗ xuyên qua mấy lớp áo vào bên trong bắp


ngô, ăn bằng sạch. Nửa tháng sau vụ thu hoạch hầu hết các nhà ở Sủng


Thài đã khơng cịn ngơ ăn. Già làng sống hơn tám mươi năm ở mảnh đất


này chưa bao giờ thấy con mọt về nhiều đến thế. Lúc trước, mọt chỉ thỉnh


thoảng ăn vài quả đậu để làm giống chứ chưa động đến bắp ngô nào.


Tết đến cũng như không, cả làng yên ắng như đang ngủ, cả trẻ con cũng


không dám chạy chơi. Tôi không sao về được, không hiểu vì sao khơng


thể bỏ đi được. Huy lên với tôi trước khi về tết, xẻ lại một nửa tiền tết


phịng mới cho, lẳng lặng ra về. Tơi chạy theo, giúi mớ tiền vào túi cóc ba


lơ, nhìn Huy xuống dốc nhanh đến chóng mặt.


Chỉ tại cái ngô giống mới thơi, hạt nó mềm q nên con mọt thích ăn.


Ngơ răng ngựa người Sủng Thài vẫn trồng trong hốc đá bao nhiêu năm


nay có bị con gì ăn bao giờ. Thu ngơ về, bóc một hai lớp vỏ, buộc túm



mười, mười lăm bắp làm một, xiên qua cây sào, gác lên gác bếp. Cứ để


thế một năm, hai năm, bồ hóng bám đen sì sì, lúc cần lấy xuống tẽ vẫn


vàng ươm, cắn không vỡ. Người Sủng Thài bảo vậy.


Cả Sủng Thài buồn như có đám ma trong làng.


Qua tết, sang xuân, hoa lê bật bông trắng muốt khắp rẻo đất dưới chân


núi, đất trên nương cũng mềm ra. Lại gùi phân bò trộn với tro bếp lên


nương, bỏ vào hốc đá, vùi hạt ngô xuống. Lần này trồng ngô giống cũ,


vượt qua mấy ngọn núi sang bên Sủng Trái vay giống để trồng. Chỉ có hai


nhà ở Sủng Thài tiếp tục trồng ngô giống mới, đấy là nhà trưởng bản và


nhà bố Sài. Bố Sài là người đàn ông đã đưa tôi từ huyện lên Sủng Thài.


Già bản bảo tơi: Mày cịn trẻ người lắm cơ giáo ạ, cái chữ thì biết nhiều


</div>
<span class='text_page_counter'>(140)</span><div class='page_container' data-page=140>

khuyên bà con tiếp tục trồng ngô giống mới, chỉ cần thay đổi cách bảo


quản là khơng lo gì nữa.


Phải một vụ ngô nữa tôi mới mở được lớp học. Trưởng bản chung với


ơng Sài đắp một cái lị nung chum vại. Ngô thu về, phơi khô, tẽ sạch, cho



vào chum, bịt kín, con mọt chỉ biết bám bên ngồi mà khóc. Ngơ giống


mới năm ấy lại được mùa hơn năm trước, người lớn trẻ con hai nhà này


bận tíu tít. Sủng Thài được một phen đứng nhìn, xt xoa khơng nghe lời


cơ Phương góp ý. Vậy là mở được lớp. Vì cơ giáo nó khơng chỉ biết chữ,


cịn biết cả trồng ngơ nữa.


Lớp của tôi đứa bé nhất lên bốn, đứa lớn nhất mười bốn, cố học một năm


rồi lấy vợ. Đứa lớn nhất ấy là thằng Sài, con bố Sài chết vợ. ở Sủng Thài


hàng tháng trời tôi mới biết bố Sài chết vợ. Vợ ông chết lúc đang đau đẻ
đứa thứ ba. “Thầy mo đuổi mãi con ma không chịu đi, cứ đứng đầu


giường. Sang ngày thứ hai thì chịu, bảo đành phải để con ma mang cả


người lớn lẫn đứa trẻ trong bụng đi. Bố khơng lấy vợ mới vì sợ mẹ kế


khơng thương được con mình” . Sài kể. Sài cịn một đứa em gái đã mười


hai, bao giờ Sài mang vợ về thì em gái mới bắt đầu dệt váy áo đợi người
đến đón đi.


*
**



Sài đưa tơi đi đường tắt xuống huyện lị, mang theo một con ngựa để lúc


về nó gùi sách vở. Ngang qua bể nước, Sài dừng lại tìm cách múc nước


cho ngựa uống. Tôi cũng tranh thủ lấy khăn ra rửa mặt. Sài ngồi bệt


xuống phiến đá đám đàn bà vẫn dùng để vị váy. Nhìn tơi, bảo:


- Cơ giáo à... Sài định nói gì rồi ngập ngừng, nói một mình - đẹp thế nhỉ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(141)</span><div class='page_container' data-page=141>

- Chân. Cái chân cô giáo ấy, đẹp như không phải chân. Cô giáo cho tao


xem một tí.


- Lại nói tao rồi, phải xưng em chứ.


- ừ. Cho xem một tí.


Tơi nhìn thẳng vào mặt Sài, nó quay đi, lúng túng, khép lại hai vạt áo tà


pủ, giấu diếm bộ ngực lép kẹp. Mười bốn tuổi nhưng lao động nhiều,


chậm lớn, trông Sài chỉ bằng đứa em út của Huy là cùng. Tôi đứng dậy:


- Đi thôi kẻo muộn.


Tôi đi trước, Sài tụt lại đằng sau. Xuống huyện, lấy sách vở xong, tôi và


Sài ghé qua chợ huyện. Sài mua một cái gương giấu vào cạp quần. Tơi



nhìn thấy, hỏi:


- Mua cho vợ sắp cưới à?


- ừ. Nó nhận thì thành vợ.


Lớp học của tơi lủng cà lủng củng, học thì ít, cãi cọ, khóc lóc, cười cợt thì


nhiều. Khơng thể nào dung hồ được mười bảy đứa lớn bé. Tơi chia ra,


một a và một bê. Một a từ tám tuổi trở xuống, một bê từ chín tuổi trở lên.


Vẫn không ổn. Lại chia một a là con gái, một bê là con trai. Nhưng cứ giờ


một bê học là lại có một đứa con gái ở một a chạy đến, ghé mắt qua cửa


sổ, bọn trẻ trong một bê láo nháo cả lên. Cuối cùng, lại dồn chúng về làm


một.


Già bản bảo:


- Thương cơ giáo thì cho chúng nó đi học thơi, biết mấy cái chữ cũng


khơng làm bị đẻ nhiều con hơn được.


Đã sắp đến kì nghỉđơng, chỉ cịn vài buổi nữa là phải thi học kì. Huy lên


</div>
<span class='text_page_counter'>(142)</span><div class='page_container' data-page=142>

- Bên ấy mấy thầy ăn chung bếp với một cô y tá ở trạm xá xã, cô ấy nuôi
được gà, trồng được rau nên cũng đỡ. Huy nói khơng được tự nhiên lắm.



- Vui nhỉ.


- Vui gì. Góp gạo thổi cơm chung thơi mà.


- Có chung thứ gì khác nữa khơng?


Huy im lặng. Dỗi, ra về.


Tôi không ngủđược. Sự đến rồi đi của Huy làm tôi không ngủđược. Huy
định nói gì đó với tơi mà khơng cất được thành lời. Có gì mà khó nói thế.


Biết Huy vẫn rụt rè nhưng với tơi thì chẳng có lý gì mà khơng nói thẳng


ra. Tơi xách xơ ra suối, lấy nước về sáng mai rửa mặt, nấu mì tôm.


Sáng hôm sau, mở nắp cái xô nhựa đựng nước ngoài sân, cái ca chạm
đánh cạch. Nước đã đóng băng thành một lớp mỏng, phải dùng chuôi dao
đập mạnh một cái mới vỡ ra. Trời trở rét nhanh đến thế chứ. Có lẽ bên


Huy còn lạnh sớm hơn. Sương mù mịt phủ kín hai phần ba lớp học, chỉ


nhìn thấy phần dưới nền, trơng khơng ra hình thù gì. Kiểu này phải đẩy


nhanh mấy bài tới rồi cho thi sớm thôi.


Lớp vắng hoe. Lèo tèo có bốn đứa ngồi bốn góc. Đứa nào cũng kẹp chặt


hai tay vào giữa đùi. Tôi phải quay về, cầm sang cây đèn dầu, đóng kín



cửa lớp lại cho đỡ gió.


- Hơm nay vắng q nhỉ. Có em nào biết vì sao các bạn nghỉ nhiều thế


khơng? - Tơi hỏi.


Khơng đứa nào trả lời, chỉ có tiếng xt xoa khe khẽ. Hỏi thêm lần nữa,


bốn cái đầu vẫn cúi gằm, im như thóc. Tơi tiến đến gần May, đứa trò gái


lớn nhất lớp, ngồi dưới cùng:


- May, có nghe cơ hỏi khơng?


</div>
<span class='text_page_counter'>(143)</span><div class='page_container' data-page=143>

- Em có biết vì sao các bạn nghỉ học không?


- Biết.


- Sao không trả lời cô?


- Không biết.


- ô hay, biết rồi lại không biết, là sao?


- Biết nhưng khơng nói được.


- Này, có gì mà khó khăn thế em, cứ nói cơ nghe xem nào.


May lúc lắc cái đầu rối bù. Tôi chạnh lòng. Bao nhiêu lần định gọi con bé



lên, chải cho nó mớ tóc mà qn. Nhìn mới nhớ. Mẹ con bé cịn bận với


bốn đứa em của nó, chắc chưa chải cho nó bao giờ.


Thà, đứa trị bé nhất quay xuống:


- Tại cơ giáo xấu. Bố mẹ bảo cô giáo xấu nên không cho đi học nữa. Bốn
đứa này cũng chỉ học hôm nay nữa thôi...


- Phải đấy. Học nốt hôm nay rồi để cô giáo về huyện thôi - đứa thứ ba lên


tiếng.


- Khơng được nói thế. Cô giáo không làm chuyện xấu thế đâu mà... - Đứa


thứ tư hét lên. Vừa hét vừa nhảy lên đứng trên ghế. Đó là thằng Sài - Tối


hơm qua tao ngủ với bố từ lúc tắt đèn, làm sao bố đi gặp cơ giáo ngồi


guồng nước được. Có đứa nói xấu cơ giáo rồi, khơng được tin thế!


Ba đứa còn lại cúi gằm, im lặng. Chúng đang bối rối quá, không biết tin


ai nữa, ngay cả cô giáo - người mà chúng vẫn nghĩ làm gì, nghĩ gì đều
đúng, thì giờ khơng biết có tin được nữa khơng. Tơi chống váng như bị


ai tát thật mạnh vào mặt, rát bỏng hai bên má, một cơn đau thắt dội ngược


lên. Ba đứa học trò len lén ra khỏi lớp, ra đến sân là chạy thục mạng. Chỉ



cịn tơi và Sài. Sài vẫn đứng trên ghế, nước mắt ròng ròng, hai tay túm lấy


</div>
<span class='text_page_counter'>(144)</span><div class='page_container' data-page=144>

năm học, chỉ để dành đến lớp mới mặc, nhưng cũng đã đứt cúc, hỏng


khố, nó phải túm lại bằng một sợi dây lạt. Tôi cũng đã định sẽ khâu lại


cho nó, nhưng chưa kịp làm. Sài hỏi trong nước mắt:


- Cô giáo nói thật đi, cơ có làm chuyện ấy khơng?


Tơi khơng nhìn được vào mắt Sài. Biết trả lời nó thế nào đây. Tối hơm


qua, đúng là tối hôm qua tôi đã đi ra suối, xách theo cái xô lấy nước.


Nhưng múc nước xong, buồn q nên khơng muốn về ngay, hình bóng


Huy xuống dốc rất nhanh chốn đầy tâm trí. Tơi lang thang ra chỗ cái


guồng để khô, mốc trắng. Lúc ấy, một người đàn ông đi từ rừng xuống, là


bố Sài. Bố Sài xách một túm gà rừng chừng ba bốn con gì đó, gỡ dây, đưa


cho tôi một con, bảo: “Cô giáo cầm lấy về mổ thịt”. Tôi không từ chối,


nhận lấy con gà. Định quay về ln thì bố Sài níu lại, hỏi chuyện thằng


Sài ở lớp, rồi xoay sang chuyện trời đất năm nay rét sớm, cô giáo đã có
đủ củi đun mùa đơng chưa, mai cho thằng Sài mang đến vài cái gộc cây,
ủ cho ấm. Bố Sài cịn muốn nói gì nữa nhưng tơi bảo phải về soạn bài.



Chỉ có thế mà hố thành một cuộc hẹn hò bên cạnh cái guồng nước. Con


gái Sủng Thài đến tuổi lấy chồng chỉ ở trong nhà dệt váy áo, đợi người
đến leo cột nhà, chui qua cửa sổ vào buồng, ưng ai thì theo người ấy. Vậy


mà tơi thì dám hẹn hị với một người đàn ông của làng, người ấy lại đã


từng có vợ, thế thì thật khơng ra gì. Khơng xứng làm cô giáo của trẻ con


nữa rồi.


Sài không đợi câu trả lời của tôi, xách quần chạy ra khỏi lớp.


Không thể như thế được, tơi phải giải thích với làng. Tơi vứt vội cặp sách


vào phịng, xỏ đơi dép rọ, qua suối. Nước suối đang bốc hơi mù mịt, rất
ấm. Tôi vào nhà đầu tiên. Nhà ơng Lìn, bố chồng của chị gái con bé Mai.


Ơng Lìn cũng có hai đứa con đang theo học lớp của tơi. Bà Lìn đẻ nhiều,


ngồi năm mươi vẫn cịn một cái bụng to tướng nữa, qua tết sẽ đẻ. Mấy


</div>
<span class='text_page_counter'>(145)</span><div class='page_container' data-page=145>

cửa, ngay lập tức có tiếng chân chạy rầm rập trên sàn, bồm bộp xuống


cầu thang, rồi lống cái đã có một cành lá xanh gài vào then cổng gỗ.


Cánh cổng khép kín lại ngay trước mặt tơi. Tơi khơng kịp nhận ra ai vừa


gài cành lá xanh, ơng Lìn, bà Lìn, hay đứa con dâu cũng đang chửa vượt



mặt. Tôi đành phải quay đi. Nhưng điều bất ngờ nhất là tất cả các nhà


trong làng, trừ nhà Sài và nhà trưởng bản, khi tơi đến đều có một cành lá


xanh chìa ra, gài trên then cổng gỗ.


Tôi vào nhà trưởng bản. Trưởng bản đang ngồi bên bếp chuốt một mảnh


sừng trâu làm chuôi dao. Trưởng bản vẫn cắm cúi làm, không ngẩng lên:


- Vào ngồi đi.


Tơi ngồi xuống. Nhìn cái mặt lành lạnh của trưởng bản chẳng biết bắt đầu


như thế nào. Trưởng bản hay đi ra ngoài, suy nghĩ cũng thơng thống hơn


người trong làng, nhưng cịn trẻ, nói gì cũng phải nhìn lên nhìn xuống


chán chê.


- Trẻ con bỏ học hết rồi trưởng bản ạ - tôi bắt đầu.


- Có biết tại sao chúng nó bỏ khơng?


- Tôi định đi hỏi người lớn nhưng không nhà nào cho vào, nghe trẻ con


nói thì bực mình thật.


- Chúng nó nói đúng khơng?



- Khơng đúng. Làm sao mà đúng được.


- Thế ra cả làng nói oan cho cơ giáo à.


- Khơng phải thế. Người làng mới chỉ nhìn thấy thơi chứ không hiểu bản


chất trưởng bản ạ.


- ừm, nhìn thấy thế nào thì bảo thế ấy...


</div>
<span class='text_page_counter'>(146)</span><div class='page_container' data-page=146>

Tôi phải bặm môi lại, cầm cái cặp cốđập thật mạnh cho mấy cục than đỏ
đầu gộc củi rơi xuống, nước mắt chỉ trực trào ra.


- Ai bảo mình khơng tin cơ giáo nào - trưởng bản vẫn thủng thẳng - Mình


tin cơ giáo một nửa, tin làng một nửa.


- Tơi có người yêu rồi, trưởng bản cũng biết mà. Bao giờ chuyển công tác


ra huyện tôi sẽ cưới.


- Nhưng cịn cái người chết vợấy thì sao?


- Chả sao hết. ông ấy chỉ là phụ huynh học sinh của tơi thơi.


- Cơ giáo ghét nó à?


- Khơng ghét. Có gì mà ghét ơng ấy.


- Thế thì dễ rồi.



- Dễ thế nào?


- Cô giáo chịu về nhà Sài không?


- Sao lại vềđấy?


- ầy, về làm mẹ nó ấy mà. Về đấy là xong chuyện rồi, chả ai nói gì nữa.


Bố Sài mới bốn mươi tuổi thơi. Đàn ơng bốn mươi cịn như cây sồi trên


núi cao...


Tôi đi như chạy ra khỏi nhà trưởng bản. Lịng dạ ngổn ngang trăm mối.


ơng Sài ấy, sống lùi lũi như cái bóng, một mình nuôi con, râu ria lúc nào


cũng bờm xờm, mặt buồn rười rượi. Mỗi lần tôi đến xem bọn trẻ học


hành thế nào, ngồi tranh thủ khâu cho chúng cái áo, cái quần rách lại lùi


lũi xách dao ra rừng. Thỉnh thoảng thằng Sài mang đến một con gà, một


miếng thịt dúi, vài củ măng, khúc củi, chẳng nói chẳng rằng. Đêm qua,


lúc đưa con gà cho tơi bố Sài cũng khơng nhìn, nhưng lúc tơi quay lưng


</div>
<span class='text_page_counter'>(147)</span><div class='page_container' data-page=147>

Tơi có thể bỏ quách mọi thứ đấy, xách va li về huyện, chẳng ai trách cứ gì
được. Nhưng nỗi xót xa vì sự ngờ vực ẩn hiện trong ánh mắt của mấy đứa



trẻ làm tôi không chịu nổi. Nếu tơi bỏ về, khơng biết chúng cịn ám ảnh
đến bao giờ.


Tôi sống trong tâm trạng bất ổn suốt một tuần lễ. Đương nhiên là lớp học
đóng cửa. Trời ngày càng lạnh, sáng ra những hạt sương rớt xuống từ mái


tranh đã đóng băng trong đêm, nối thành từng chuỗi dài. Ngày rất ngắn,


tuyệt nhiên khơng có nắng, nhưng với tơi lại dài lê thê. Vẫn chưa có nhà


nào chịu mở cửa cho tơi vào. Tơi nằm n trong chăn, nhìn đồng hồ đã


tám rưỡi, tầm này lẽ ra lớp học đã bắt đầu được nửa tiếng. Chân tay mình


mẩy rã rời vì nằm nhiều, lại chẳng ăn uống gì. Tơi sợ mình sẽ chết nếu cứ


nằm như thế, nên quyết định dậy, đi lấy nước vềđun mì tơm.


Mở cửa, tôi gần như vấp phải một đứa bé đang ngồi gục đầu ở cửa. Là


May. Tôi nhận ngay ra mái tóc rối bù của nó. Cái đầu rối ngẩng lên:


- Cô giáo.


- May, sao lại ngồi đây.


- Chờ cô giáo, từ tối hôm qua. May sợ cô giáo ốm, nằm luôn không dậy


nữa. Như thế thì... Mắt con bé ầng ậng nước. Tôi lôi con bé vào.



- Vào đây với cơ đã nào.


Tơi rót cho nó một cốc nước. Nước trong phích nhưng đã nguội ngắt.


May cầm cốc nước định uống, nghĩ thế nào lại đặt xuống bàn. Hai bàn


chân khơng dép nứt tốc, mốc meo, dị dọ vào nhau dưới nền đất. Hồi lâu,


con bé ngẩng lên, nhìn tơi một thống rồi quay đi rất nhanh.


- Cơ giáo, có về huyện khơng, có bỏ Sủng Thài khơng?


</div>
<span class='text_page_counter'>(148)</span><div class='page_container' data-page=148>

- Không. Không muốn đâu - Con bé trả lời vội vã - Cô giáo đừng đi. Cô


giáo đi thì May cũng bỏ Sủng Thài thơi.


- Tại sao thế?


- Tại... cô giáo à, May đã nói với người lớn chuyện cơ giáo đứng ở cạnh


cái guồng.


Tơi sững sờ. Chẳng có cớ gì để con bé này rình mị, rồi xun tạc, nói xấu


tơi cả. May thở dốc, tiếp:


- Em đã nói với người lớn.


- Để cơ hỏi đã nhé. Em nhìn thấy gì?



- Thấy cơ với ơng Sài. Ơng Sài đưa cho cơ con gà.


- Gì nữa?


- Khơng gì nữa.


- Vậy em nói với người lớn thế nào?


- Nói... cơ nắm tay ơng Sài. Cơ ơi, tại vì May giận cơ, May khơng tốt,


May nói sai cho cơ rồi. Tại thằng Sài thích cơ, nó bảo phải có một người


như cơ nó mới chịu lấy làm vợ. Nó cịn mua gương bảo để dành tặng cô


nữa. Thằng Sài ấy, từ lúc mới đẻ ra bố nó đã bảo với bố May là lớn lên


cho hai đứa làm vợ chồng. Sang năm là May lấy chồng được, thằng Sài


cũng thế, đã làm lễ cấp sắc rồi mà.


Con bé nói một thơi một hồi. Tơi định thanh minh:


- Nhưng cơ...


- Cơ khơng thích nó, cơ chỉ thương anh em nó thơi, cơ sắp bằng tuổi mẹ


nó rồi mà. May sai rồi, May nói xấu cơ với người lớn, làng mà biết được


</div>
<span class='text_page_counter'>(149)</span><div class='page_container' data-page=149>

Con bé khóc nức nở. Vậy ra nỗi sợ hãi bị ném xuống sơng đã lấn át tất cả



những tình cảm trái ngược trong nó. Tơi ơm May vào lịng, nó dúi cái đầu


bù xù vào ngực tơi. Con bé vẫn chưa thơi nói:


- Cơ có bỏ về huyện không? Về huyện xa lắm, bỏ về là không quay lại
được đâu...


Vậy là tôi trở lại lớp học, lại đông đủ không thiếu một đứa, thậm chí cịn


thừa ra vì lắm đứa cõng cả em đến lớp. Trong làng không ai đả động đến


chuyện vừa xảy ra nữa. Người làng khơng quen nói lời xin lỗi, chỉ biểu


hiện bằng cách tối tối thắp đuốc qua suối đến chơi với cô giáo, mang cho


quả bí, mớ rau, mấy con gà con...


*
**


Gió vẫn thổi thơng thốc, từng đụn sương lớn nặng trĩu bịđẩy đi, trôi trong


khoảng không như một dịng sơng sâu hun hút. Phòng giáo dục gọi tôi


xuống, đưa quyết định điều động về một xã gần huyện. Lâu rồi tôi không


gặp Huy, tuần trước về huyện gặp Hạnh, đứa bạn thân nhất dạy cách tôi


nửa ngày đi bộ. Hạnh bảo: “Huy bỏ dạy rồi, về huyện mở quầy bán thuốc



tây. Lạ không?”. Khơng. Khơng có gì lạ cả. Chỉ lạ là, tơi chẳng cảm thấy


gì hết, khơng buồn, cũng khơng đau đớn như trước đây vẫn tưởng.


Một buổi tối, bố Sài đến, lại mang tới một con gà rừng nữa. Ngồi mãi,


khơng nói chuyện gì, tơi phải gợi:


- Trong nhà cịn nhiều ngơ, nhiều thóc khơng bác Sài?


- Nhiều. Có mấy con lợn to mổđược rồi, cảđàn dê nữa.


- Thế thì ăn tết vui rồi, bác nhỉ.


- ừm, tết mà. Trẻ con thích lắm đấy. Cơ giáo à...


</div>
<span class='text_page_counter'>(150)</span><div class='page_container' data-page=150>

- Cịn ở Sủng Thài lâu khơng?


- Lâu chứ. Mới được mấy năm thôi mà.


- Có ở hẳn được khơng?


- ở làm sao được. Sủng Thài khơng có chỗ cho người Kinh đâu.


- Muốn ở thì được thơi mà.


- Thật thế à?


- Thật. Muốn thì được thôi.



Tấm lưng vâm váp như một con gấu đi ra cửa, mang theo cả hơi ấm


hoang dã ra khỏi căn bếp tin hin, tự dưng tôi thấy hiu quạnh vô cùng.


Giờđứng đây, nhìn xuống Sủng Thài nằm tít dưới sâu kia, lại nhớ đến lúc


</div>
<span class='text_page_counter'>(151)</span><div class='page_container' data-page=151>

Đ

<b>Á CU</b>

<b>I </b>

ĐỎ



Đỗ<i> Bích Thúy </i>


Truyện ngắn của Tác giả thấm được cái “hồn của núi” để sáng tác nhỏ


này tựa như một câu chuyện dân gian vùng cao đẫm khơng khí sương giá.


Lâu nay thường gặp những truyện ngắn viết đề tài miền núi theo lối


“miền xuôi” hoặc “giả miền núi”. Hy vọng với khả năng quan sát, cảm


nhận tinh tế của mình, cây bút mới Đỗ Bích Thuý sẽ tạo được sự chú ý


của nhiều bạn đọc sau truyện ngắn này.


Mẹ tôi xếp gạo, muối vào gùi, bảo: “Mang lên cho thằng Dìn”. Dìn là em


trai tôi, năm nay mười sáu rồi nên cho nó đi thay một vụ ong trên Phạ


Lấu. ở Tả Chng nhà nào cũng ni ong. Cứ đến vụ ong là cả bản vắng


ngắt vắng ngơ, cịn tồn đàn bà với trẻ con, đàn ơng lên rừng canh ong



hết.


Trời tối hẳn tôi mới tới chỗ Dìn. ở rừng, mặt trời lặn là sương xuống, đè


nặng trình trịch trên tán cây. Dìn dựng lều dưới gốc cây sồi già ngồi bìa


rừng, ong xếp thành dãy ngoài chỗ trống. Sương phủ xuống rất nhanh, chỉ


một lúc đã khơng nhìn thấy tổ ong đâu. Sương tạt cả vào lều. Ngoài mái


lều che tạm bằng lá cọ sương rơi xuống thành giọt.


Dìn vừa chất lửa to đốt cơm lam vừa kể: “Đêm qua có con gì vào ngủ


cùng mà em không biết, sáng nay thấy cịn một túm lơng dính ở cổ”.


“Mày ngủ có quay mặt vào lửa khơng?”. “Lúc đầu thì có, sau mỏi q lại


quay ra ngoài. Nhưng làm sao cơ?”. “Lúc ngủ phải quay mặt vào lửa thì


mới khơng lo ma dại bắt đi”. “Thật thế à?” - giọng Dìn đã bắt đầu run.


“Chứ cịn gì! Ma dại muốn bắt ai thì phải đi vào mồm người ấy mới


xuống bụng lôi ruột ra được. Thế mà lúc ngủ ai cũng mơ được ăn được


</div>
<span class='text_page_counter'>(152)</span><div class='page_container' data-page=152>

mặt vào lửa, nhỡ có há mồm ma dại cũng khơng dám đi qua lửa để vào”.


Dìn run thật sự: “Thế thì hơm qua ma dại đến tìm em rồi. Chắc tại em



không mở mồm nên nó chưa vào đấy thơi”. Nhìn quanh quất ra ngồi


bóng đêm mịt mùng, Dìn hầu như im lặng cho đến lúc đi ngủ. Biết tôi hay


doạ mà khơng lần nào nó nghĩ ra.


Rừng đêm hoang vu. Đầu tháng, trăng chỉ nhú lên mờ mờ chốc lát rồi lặn


mất. Lẫn trong tiếng gió là tiếng nước trườn êm ái trên đá cuội. Mỗi bản


có một con suối riêng, suối nào mang nước về bản ấy. Người già bảo


ngày xưa, lúc con người sống chung với nhau một nơi thì nguồn nước


không phải chia năm sẻ bảy ra thế. Nhưng sau này anh em, con cháu đông


quá phải chia ra, dắt díu nhau chuyển nhà chuyển bản, có khi xa nhau cả


ngày đường. Xa lâu quá thì quen cũng thành lạ, cái gì cũng muốn giành


lấy cho mình, kể cả nguồn nước. Thế là suối Phạ Lấu về Tả Choóng, suối


Nậm Thào về Nậm Thào, suối Sán Thúng về Tả Chải... chỉ còn chung


nhau mỗi cái đầu nguồn...


Đá đỏ làm cho nước như có màu đỏ. Lá rừng rụng xuống cũng ra màu đỏ.


Một đứa bé gái đầu tóc ướt sũng; hai cánh mũi đỏ lự phập phồng, tay



xách ống bương to tướng lò dị đi tới. “Này, lấy nước làm gì sớm thế?”.


“Cháu lấy cho mẹ”. “Mẹ cháu là ai?”. “Bác không biết đâu”. “Biết đấy.


Ai ở Tả Choóng bác cũng biết mà”. “Mẹ cháu khơng ở Tả Chng. Mẹ


cháu ở trên đỉnh Tả Khâu”. “Sao lại ở tận trên ấy?”. Tiếng đứa bé bất


chợt lạc đi, nghe xa xơi như tiếng gió: “Mẹ cháu nằm trên ấy còn rét,


chưa ai phải lo lên nương, xuống đồng nên hội nào cũng đông. Đám con


trai chưa vợ thằng nào cũng cắp sáo vào nách, mặt đỏ bừng bừng từ sáng


sớm đến tối mịt, lân la chỗ này chỗ kia, bắt quen con gái người ta. Bãi Tả


Díu rộng thế, tồn người là người, va vào nhau là quen, đưa sáo lên môi,


</div>
<span class='text_page_counter'>(153)</span><div class='page_container' data-page=153>

đã thành vợ tôi nếu như sau đấy vài hôm, bàn tay hai đứa còn chưa nguội


hơi ấm của nhau, tôi không gặp Lử trên đường dắt ngựa thồ mật ong


xuống huyện. Lử rút dao khỏi bao, đặt lên cổ con ngựa của tơi, ngọng líu:


“Mộ tra mùa o nứa mà cú khô lái đựa e gá ta là vợ đô. Đồ á rác” (Một


trăm mùa ong nữa mày cũng không lấy được em gái tao làm vợ đâu. Đồ


áo rách). Mười năm trước, lúc cả tôi và Lử còn chưa thuộc hết lối lên



rừng, tôi đã từng xui Lử đút con ong bò vẽ vào mồm mà mút. Nhà Lử


giàu nhất Tả Chng, bạc chơn đầy dưới mấy chục cái cột nhà. Cậy thế,


Lử coi khinh đám bạn cùng lứa, có cái gì cũng chơi một mình. Chơi một


mình nên mới khơng biết ong bị vẽ mà đốt thì người lớn cũng lăn ra ốm


mấy ngày liền. Vừa đút con ong vào mồm, Lử đã trợn ngược mắt lên, lăn
đùng ra, chỉ một lúc đã đầy một mồm lưỡi. Tôi chỉ khoái được một lúc rồi


sợ. Sợ quá, bỏ trốn lên lều canh nương mấy ngày liền. Lử đã ngọng càng


ngọng thêm. Từ ấy, cứ anh em tôi ngang qua là Lử xuỵt chó, thế là lại
đánh nhau.


Vậy mà tơi cịn muốn lấy em gái Lử làm vợ mình. Làm thế thì khơng
được rồi. Nhìn mặt nhau cịn nhổ nước bọt thì làm sao gọi anh em với


thằng Lử được. Năm sau Mây lấy chồng. Nhà chồng Mây ở Tả Khâu.


Ngày Mây mặc váy áo đẹp leo dốc lên Tả Khâu, tơi cũng ngược dịng Phạ


Lấu, đến nơi Mây vẫn ngồi cho nước mắt chảy ròng ròng theo dòng nước.


Nước đã trôi đi rồi, cả nước mắt của Mây cũng thế. Nhưng hình bóng


Mây vẫn cịn, vết chân Mây cịn in trên vạt cỏ tím, sợi chỉ màu trên dây


lưng Mây còn mắc ở bụi cây gai...



Đứa bé gái vén váy cúi xuống dịng nước múc đầy một ống bương, ngẩng


lên nói thêm: “Trời lạnh quá, cháu rắc đầy hạt cỏ mà không thấy mọc.


Phải có nước ở đầu nguồn Phạ Lấu này. ở Tả Khâu cũng có nước, nhưng


</div>
<span class='text_page_counter'>(154)</span><div class='page_container' data-page=154>

phải người Tả Khâu...”. Đứa bé lệch người mang ống bương nước quay
đi. Tơi định bảo nó để lại bác mang giúp mà khơng sao nói được.


***


Ngày xưa, nhà thằng Lử chẳng bao giờ có người đi ong, nhưng mùa ong


nào ống mật cũng chất đầy góc nhà. Mật địi nợ, mật ăn vạ, mật mua rẻ...


bố Lử cứ để tất cả đấy, đến khi cả phiên chợ khơng cịn ai bán mật ong


nữa mới cho ngựa thồ xuống. Đã giàu lại càng giàu, bao nhiêu người


nghèo lại nghèo đi. Bao nhiêu năm trời nước dòng Phạ Lấu cạn khơ.


Muốn có nước ăn người lớn trẻ con phải đi cả ngày, ra tận sông mới gùi


về được. Năm ấy bất chợt lũ về. Lũ như bầy hổ đói tranh ăn, dâng cuồn


cuộn, qua một đêm đến sáng đã không thấy làng bản đâu, chỉ loáng


thống nhấp nhơ những mái nhà rũ rượi dưới mưa. Ơng Lù, bố Lử, ngồi



nhìn trâu bị vừa bắt nợ về lóp ngóp bơi đi tứ phía khơng làm gì được, tức


q, mang con dao sáng lống ra đầu hồi, đứng giữa trời mưa mà chửi.


Ông chửi trời, chửi đất, chửi rừng núi, suối sơng. Ơng càng chửi trời càng


mưa lớn. Sau lũ, người nghèo nhìn đồng thấp đồng cao phủ dày một lớp


phù sa đỏ, giẫm lên mềm như đống trấu ủ mà mừng. Mùa tới thế nào


cũng đủ nuôi cả nhà rồi. Hết mưa, người ta mừng thì ơng Lù ốm. Ơậm ba


ngày, bảy ngày khơng dậy được, cả tháng không dậy được. Vợ con đi gọi


thầy mo về. Thầy mo bảo phải chuyển chỗ ở, phải quay hướng nhà. Vậy


là cả nhà gồng gánh bỏ Tả Chng mà đi, khơng nói với ai một lời.


***


Tôi gùi mấy ống mật đầu mùa về bản. Trong gùi có cả viên đá cuội đỏ


bầm như máu. Đi được một đoạn chợt thấy gùi trên vai nặng trĩu như có


ai đi sau vít xuống. Viên đá cuội đã ngả sang màu nâu, chẳng khác gì cuội


</div>
<span class='text_page_counter'>(155)</span><div class='page_container' data-page=155>

Sau lưng tơi, tít xa kia, ngửa mặt lên vẫn thấy Tả Khâu còn sương mù phủ


trắng vấn vít. Những con chim lớn, sải cánh dài, lao vun vút vượt qua
đỉnh núi.



Lần đầu tiên gặp nhau ở hội xuân, Mây bảo: “Nghe tiếng sáo của Sính ai


cũng muốn thành con chim bay thật cao, thành mũi tên lao về phía mặt


trời”. Và tơi đã hứa chỉ thổi sáo cho mình Mây nghe, từ ngày này qua


ngày khác. Ngày Mây theo chồng ngược dốc Tả Khâu, tôi đã ném cây sáo


vào bếp lửa.


Tôi đi như chạy. Dưới kia, sau lớp giang ken dày, nước nguồn Phạ Lấu


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×