Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật thuộc đại học thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM






ĐẶNG VĂN DOANH





BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
THUỘC ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.05











THÁI NGUYÊN - 2008




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM






ĐẶNG VĂN DOANH






BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
THUỘC ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.05



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS TRẦN QUỐC THÀNH



THÁI NGUYÊN - 2008


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lời cảm ơn
Với tình cảm chân thành, tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng biết ơn tới:
- Các thầy cô giáo khoa Tâm lý - Giáo dục, phòng Đào tạo và Quản lý
khoa học, khoa sau Đại học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tận
tình giảng dạy và giúp đỡ em trong thời gian học tập và nghiên cứu.
- Ban giám hiệu, các phòng ban chức năng và các khoa của trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện để
tôi được tham gia khóa học này.
- Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp, những người luôn sát cánh động
viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn.
- Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của PGS-TS Trần Quốc Thành -
trưởng khoa Tâm lý - Giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, người đã

hết lòng chỉ bảo, động viên và giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và thực
hiện luận văn để tác giả có thể hoàn thành luận văn này.
Do trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn, chắc chắn luận
văn khó tránh khỏi những hạn chế và khiếm khuyết. Tác giả mong nhận
được sự chỉ dẫn và đóng góp ý của thầy cô và đồng nghiệp để luận văn
thêm hoàn thiện.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2008
Đặng Văn Doanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

GS. TSKH - Giáo sư. Tiến sĩ khoa học
VHNT - Văn hóa, nghệ thuật
CNH.HĐH - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
XHCN - Xã hội chủ nghĩa
ĐH-CĐ - Đại học, cao đẳng
GD-ĐT - Giáo dục, đào tạo
NNL - Nguồn nhân lực
ĐNGV - Đội ngũ giảng viên
BCH-TW - Ban chấp hành Trung ương
KT-XH - Kinh tế, xã hội
TCCN -Trung cấp chuyên nghiệp
UBND - Ủy ban nhân dân

GV - Giảng viên
NCKH - Nghiên cứu khoa học
HSSV - Học sinh sinh viên
CBGV - Cán bộ giảng viên
BGH - Ban giám hiệu
NCS - Nghiên cứu sinh
ĐHTN - Đại học Thái Nguyên


Lời cảm ơn
Với tình cảm chân thành, tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng biết ơn tới:
- Các thầy cô giáo khoa Tâm lý - Giáo dục, phòng Đào tạo và Quản lý
khoa học, khoa sau Đại học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tận
tình giảng dạy và giúp đỡ em trong thời gian học tập và nghiên cứu.
- Ban giám hiệu, các phòng ban chức năng và các khoa của trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện để
tôi được tham gia khóa học này.
- Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp, những người luôn sát cánh động
viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn.
- Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của PGS-TS Trần Quốc Thành -
trưởng khoa Tâm lý - Giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, người đã
hết lòng chỉ bảo, động viên và giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và thực
hiện luận văn để tác giả có thể hoàn thành luận văn này.
Do trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn, chắc chắn luận
văn khó tránh khỏi những hạn chế và khiếm khuyết. Tác giả mong nhận
được sự chỉ dẫn và đóng góp ý của thầy cô và đồng nghiệp để luận văn
thêm hoàn thiện.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2008
Đặng Văn Doanh


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đề cập đến vai trò của đội ngũ giảng viên, Nghị quyết hội nghị lần thứ
2 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII đã xác định "giảng viên là nhân
tố quyết định đến chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh, chăm lo xây
dựng đội ngũ giảng viên sẽ tạo được sự chuyển biến về chất lượng giáo dục,
đáp ứng được những yêu cầu mới của đất nước".
Chỉ thị số: 40/CT-TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban bí thư trung
ương Đảng về việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
quản lý giáo dục đã chỉ rõ: "Mục tiêu xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, đồng bộ
về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối
sống, lương tâm, tay nghề nhà giáo. Thông qua việc quản lý, phát triển đúng
định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào
tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Đồng thời chỉ thị cũng chỉ rõ: "Tuy
nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đội ngũ nhà giáo có những hạn chế, bất cập, số
lượng giảng viên còn thiếu nhiều, cơ cấu giảng viên đang mất cân đối giữa
các môn học, bậc học…Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của các nhà giáo
có mặt chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và phát triển kinh tế - xã hội,
tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo một cách
toàn diện". Sự nghiệp đào tạo những thế hệ người Việt Nam có bản lĩnh, có lý
tưởng, có khả năng sáng tạo làm chủ được tri thức hiện đại, quyết tâm đưa đất
nước lên trình độ phát triển sánh kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Gắn liền với sự chăm lo phát triển một nền giáo dục - đào tạo vững
mạnh, trong đó xây dựng đội ngũ nhà giáo một cách toàn diện là hết sức quan


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
trọng. Luật giáo dục khẳng định: "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc
đảm bảo chất lượng giáo dục".
Chất lượng đội ngũ nhà giáo phản ánh chất lượng của giáo dục.
UNESCO đã nhấn mạnh rằng: "Vai trò của giảng viên vẫn là chủ yếu mặc dù
cải cách giáo dục đang xảy ra". Quyết định số 09/2005/QĐ-TTr ngày
11/1/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án: "Xây dựng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hóa, nâng cao
chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ cơ cấu đặc biệt chú trọng nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm, nghề nghiệp
và trình độ chuyên môn của nhà giáo…".
Giáo dục Đại học có vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân
Việt Nam, trong đó đội ngũ giảng viên trong nhà trường đóng vai trò
quyết định chất lượng đào tạo. Đội ngũ giảng viên ở trường Cao đẳng và Đại
học có nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng,
nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân vừa có đức lại vừa có
trình độ kỹ thuật tiên tiến… để góp phần "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài" cho đất nước. Chính vì vậy mà việc phát triển đội ngũ
giảng viên ở trường Đại học, Cao đẳng là việc làm cần thiết, cấp bách hiện nay.
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên có vai
trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực về kinh tế và kỹ thuật, thực
hiện sự nghiệp CNH, HĐH ở các tỉnh miền núi và Trung du Bắc Bộ. "Nhà
trường tiếp tục phát triển theo hướng đa dạng hóa các hình thức và ngành
nghề đào tạo trên cơ sở vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng tâm là đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ chuyên ngành kinh tế và kỹ thuật của các tỉnh miền núi và
Trung du Bắc Bộ đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng".
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Bộ Giáo dục và
Đào tạo - Đại học Thái Nguyên và ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Trường


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - Đại học Thái Nguyên đã đạt được những thành
tựu đáng kể trong việc thực hiện sứ mệnh, nhiệm vụ được giao, khẳng định
được chức năng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ cho
tỉnh Thái Nguyên và một số tỉnh khác. Tuy nhiên trước sự phát triển của giáo
dục hiện nay thì đội ngũ giảng viên của trường còn nhiều bất cập:
- Số lượng giảng viên của trường còn thiếu, chưa đáp ứng được sự tăng
trưởng về quy mô đào tạo của nhà trường.
- Trình độ giảng viên không đồng đều và nhìn chung còn thấp, khả
năng nghiên cứu khoa học, khả năng tự học, tự bồi dưỡng của đội ngũ giảng
viên mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn ở mức độ thấp.
- Cơ cấu đội ngũ giảng viên chưa đồng bộ, nhiều khoa, bộ môn lực
lượng giảng viên còn quá mỏng. Do vậy, nhiệm vụ sắp tới nhất thiết cần
xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên nhà trường cả về số lượng, chất
lượng và cơ cấu.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài:
"Biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ
thuật thuộc Đại học Thái Nguyên".
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm phát triển đội ngũ giảng viên
của trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên đáp ứng
yêu cầu xây dựng và phát triển nhà trường trong giai đoạn tới.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng kinh tế-kỹ
thuật thuộc Đại học Thái Nguyên.
3.2. Đối tượng nghiên cứu


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Cao đẳng Kinh
tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên.
4. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ giảng viên của trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại
học Thái Nguyên đã được quan tâm xây dựng và phát triển. Song đứng trước
yêu cầu phát triển nhà trường, đội ngũ giảng viên vẫn còn nhiều bất cập. Nếu
phân tích rõ được nguyên nhân những bất cập của đội ngũ giảng viên thì có
thể đề ra được các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên phù hợp với đặc
điểm của trường Cao đẳng kinh tế-kỹ thuật với tư cách là một trường Cao
đẳng nằm trong đại học vùng.
Các biện pháp đó được thực hiện đồng bộ thì đội ngũ giảng viên của
nhà trường sẽ được phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ nhà giáo nói chung và đội
ngũ giảng viên các trường Cao đẳng, Đại học nói riêng.
5.2. Đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên và công tác phát triển đội
ngũ giảng viên của trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại
học Thái Nguyên.
5.3. Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của trường
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - ĐHTN đáp ứng yêu cầu phát triển
nhà trường.
6. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên trong giai
đoạn 2005-2010, đề ra một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên của nhà
trường trong giai đoạn 2010 - 2015.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Theo quan điểm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình nghiên cứu, tác giả
(luận văn) sẽ kết hợp sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp này sử dụng nhằm phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các
văn bản của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Thái
Nguyên. Về nguồn nhân lực nhằm phát triển đội ngũ giảng viên ở trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc ĐHTN.
Thu thập và phân tích các dữ liệu, từ đó nghiên cứu và rút ra các cơ sở
lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2. Phương pháp quan sát các hoạt động quản lý, giảng dạy học tập trong
nhà trường. Từ đó rút ra một số kết luật liên quan đến vấn đề nghiên
cứu như sau:
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến
để thu thập thông tin cần thiết về thực trạng đội ngũ giảng viên hiện nay.
Các phương pháp dự báo về công tác phát triển. Trường Cao đẳng Kinh
tế - Kỹ thuật thuộc ĐHTN và đội ngũ giảng viên của nhà trường.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, khảo sát các báo cáo thực tiễn.
Phương pháp khảo nghiệm tính cấp thiết và khả thi các biện pháp đề xuất,
phương pháp mô hình hóa.
7.3. Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến chuyên gia về biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên. Trao
đổi phỏng vấn với các cán bộ quản lý có kinh nghiệm, đội ngũ giảng viên lâu
năm có uy tín, thế hệ giảng viên trẻ mới vào nghề…
7.4. Phương pháp toán thống kê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6

Phương pháp này dùng để thống kê số lượng, chất lượng đội ngũ
giảng viên, HSSV. Sử lý các số liệu đã thống kê, kiểm định độ tin cậy của
các biện pháp kiểm định thống kê, kiểm định độ tin cậy của biện pháp phát
triển đội ngũ giảng viên, từ đó đề xuất nhằm đưa ra kết luận phục vụ cho
công tác nghiên cứu.
8. Cấu trúc của luận văn
Bao gồm phần mở đầu và 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giảng viên trường cao đẳng.
Chương 2: Thực trạng đội ngũ và công tác phát triển đội ngũ giảng viên
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên.
Chương 3: Một số biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên.
Kết luận và kiến nghị.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã làm cho nền kinh tế thế giới thay đổi
mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là bước ngoặt
lịch sử trong việc chuyển nền kinh tế công nghiệp dựa vào tài nguyên và lao
động chân tay là chủ yếu sang nền kinh tế tri thức chủ yếu dựa vào trí tuệ con
người. Tri thức ngày càng trở thành nhân tố trực tiếp và không thể thiếu của
quá trình sản xuất. Đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng
trưởng kinh tế dài hạn.
Không nằm ngoài xu thế chung, Đảng và Nhà nước ta đã tăng cường
quan tâm đầu tư cho giáo dục, xem đây là mũi nhọn quan trọng thúc đẩy nền

kinh tế tri thức đất nước. Trong hệ thống các đường lối, chính sách phát triển
giáo dục, đầu tư xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo có vai trò chủ đạo.
Với vị trí, vai trò quan trọng của mình, đội ngũ nhà giáo phải được thừa
hưởng tất cả những ưu tiên của quốc gia về phát triển nguồn nhân lực và đòi
hỏi phải được nghiên cứu đổi mới theo những thay đổi của nền giáo dục.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nhiều giải pháp nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ nhà giáo ở các cấp học, bậc học đã được nghiên cứu và áp dụng rộng
rãi. Đặc biệt từ khi có chủ chương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thì một số dự án, công trình nghiên
cứu lớn liên quan đến đội ngũ nhà giáo đã được thực hiện:
- Dự án quốc gia nghiên cứu tổng thể về GD&ĐT và phân tích nguồn
nhân lực, mã số VIE/89/022 (gọi tắt là Dự án tổng thể về giáo dục).
- Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới (Đề tài
khoa học mã số KX-07, năm 1996).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
- Dự án hỗ trợ Bộ GD&ĐT do Ủy ban châu Âu tài trợ.
Năm 1993, nhóm tác giả nghiên cứu do Phạm Thành Nghị, chủ nhiệm
đề tài đã hoàn thành công trình: "Nghiên cứu việc bồi dưỡng cán bộ giảng dạy
đại học và giáo viên dạy nghề". Riêng đối với giảng viên các trường đại học,
cao đẳng, đề tài đã phân tích được thực trạng về tình hình đội ngũ và đào tạo,
bồi dưỡng giảng viên trong những năm vừa qua. Đồng thời đề tài cũng đã đưa
ra một số phương án, giải pháp bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên đại học,
cao đẳng nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ này.
Tuy nhiên đề tài chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu về các giải pháp bồi
dưỡng cho đội ngũ giảng viên hiện có, chưa đáp ứng được các yêu cầu của
nội dung xây dựng và phát triển đội ngũ nhằm chuẩn hóa không chỉ về chất
lượng mà còn phát triển về số lượng và cơ cấu hợp lý.
Những năm gần đây, sự tăng nhanh về số lượng các trường đại học và

cao đẳng trong cả nước dẫn đến sự thiếu hụt và mất cân đối của đội ngũ giảng
viên. Vì thế, nhiều đề tài ở các cấp độ khác nhau trong đó có các luận văn
thuộc chuyên ngành QLGD đã đề cập đến vấn đề này:
- Các giải pháp tổ chức nhằm ổn định đội ngũ cán bộ dạy ở trường Đại
học Sư phạm (Luận văn thạc sỹ QLGD của Nguyễn Thị Thanh, Đại học Sư
phạm Hà Nội, năm 1999).
- Những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ giáo viên trường chuẩn
quốc gia Trung học phổ thông Xuân Đỉnh, Hà Nội (Luận văn thạc sỹ QLGD
của Nguyễn Viết Cẩn, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004).
- Một số giải pháp quản lý nhằm phát triển đội ngũ giảng viên trường
Đại học Hải Phòng đến năm 2010 (Luận văn thạc sỹ QLGD của Nguyễn Sơn
Thành, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Một số giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy ở
trường Đại học Sân khấu Điện ảnh trước yêu cầu hiện nay (Luận văn thạc sỹ
QLGD của Đặng Thị Thanh, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004).
- Một số biện pháp xây dựng đội ngũ giáo viên trường Cao đẳng Thống
kê (Luận văn thạc sỹ QLGD của Nguyễn Đình Dũng, Đại học sư phạm Hà
Nội, 2005)…
Đề tài luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hồng Sinh đã đề cập đến "các
giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cấp
trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh". Đề tài đã đề
ra những giải pháp cụ thể, thiết thực để phát triển đội ngũ giảng viên của nhà
trường nhằm chuẩn hóa đội ngũ, đáp ứng các yêu cầu nâng cấp từ một trường
Trung học chuyên nghiệp lên cao đẳng.
Tuy nhiên, giới hạn của đề tài là chỉ đáp ứng các yêu cầu thực tiễn phù
hợp với thực trạng của trường Cao đẳng VHNT Thành phố Hồ Chí Minh.
Một số các đề tài nghiên cứu về những biện pháp phát triển đội ngũ

giáo viên, giảng viên như: năm 2000, Nguyễn Thị Luyến với đề tài: "Một số
biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên Trường văn hóa nghệ thuật Quảng
Ninh", năm 2001, Trần Công Chánh, có đề tài: "các giải pháp quản lý công
tác phát triển đội ngũ giáo viên trường Cao đẳng sư phạm Bạc Liêu".
Ngoài ra, trong chương trình hành động hàng năm của ngành giáo dục
ở các địa phương cũng có một số đề tài NCKH hoặc thực hiện một số giải
pháp nhất định để phát triển đội ngũ nhà giáo. Để tiếp tục thực hiện chiến
lược phát triển sự nghiệp giáo dục, Chính phủ đã có đề án: "Xây dựng và nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 -
2010". Đối với giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng đề án đã đề ra các
nhiệm vụ và giải pháp khá cụ thể nhằm xây dựng và củng cố đội ngũ giảng
viên đảm bảo đủ về số lượng, chuẩn hóa về chất lượng và đồng bộ về cơ cấu.
Đề án của Chính phủ tạo cơ sở, tiền đề quan trọng để các nhà trường, các cơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
quan quản lý giáo dục làm căn cứ để xây dựng các chương trình, kế hoạch
phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên cho đơn vị địa phương của mình.
Tuy nhiên, đề án chỉ đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý ở tầm
vĩ mô, để thực hiện nhiệm vụ phát triển đội ngũ giảng viên của từng địa
phương, từng trường đại học, cao đẳng thì cần có những giải pháp cụ thể, phù
hợp với những đặc điểm tình hình từng trường và đội ngũ giảng viên hiện có,
vấn đề này nội dung đề án chưa thể giải quyết được.
Nhìn chung, đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề phát triển đội
ngũ giáo viên ở các trường phổ thống, đội ngũ giảng viên ở các trường đại
học và cao đẳng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ về biện pháp phát
triển đội ngũ giảng viên của trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại
học Thái Nguyên .
Do đó, đề tài này sẽ cố gắng đề cập đến những vấn đề mà các đề tài

khác chưa có điều kiện làm rõ. Đó là những vấn đề của đội ngũ giảng viên
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên với tư cách là
một trường Cao đẳng trong đại học đa ngành. Trên cơ sở đó, đề xuất những
biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của một trường cao đẳng mới thành
lập đang trong quá trình xây dựng và phát triển.
1.2. Những khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề phát triển đội ngũ
giảng viên
1.2.1. Khái niệm quản lý giáo dục, quản lý nguồn nhân lực trong giáo dục
1.2.1.1. Quản lý
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động. Chính
sự phân công, hợp tác lao động nhằm đạt hiệu quả, năng suất cao hơn trong
công việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý.
Đây là hoạt động để người lãnh đạo tập hợp sức mạnh của các thành viên
trong nhóm, trong tổ chức đạt được mục tiêu đề ra. Nói về điều này, Các-Mác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
từng viết: "Một người chơi vĩ cầm riêng rẽ thì tự điều khiển mình nhưng một
giàn nhạc thì cần có một nhạc trưởng" [49, tr30].
Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý đặc biệt trong quá trình
xây dựng lý luận quản lý, khái niệm về quản lý được nhiều nhà lý luận cũng
như thực hành quản lý đưa ra:
Ư.Taylor-Người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong từng bộ
phận của nó cho rằng: "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì
cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất".
A.Fayon-Nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp, khi áp dụng lý thuyết
vào thực tiễn quản lý một xí nghiệp thì: "Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố
gắng sử dụng tốt nhất các nguồn nhân lực (nhân, tài, vật lực) của nó".
Theo Từ điển tiếng Việt: "Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định".

Các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải và Đặng Quốc Bảo cho rằng:
"Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm mục tiêu đề ra". [10, tr40].
Như vậy, tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau song bản chất của khái
niệm quản lý có thể hiểu là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm làm cho hệ thống vận động theo mục
tiêu đề ra và tiến tới trạng thái chất lượng mới.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Theo P.V.Khuđôminxki, "QLGD là những tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ Giáo dục đến nhà trường), nhằm mục
đích đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự
phát triển toàn diện và hài hòa của họ. Trên cơ sở nhận thức và sử dụng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
những quy luật khách quan của quá trình dạy học, giáo dục, của sự phát triển
về thể chất và tâm lý của trẻ em, thiếu niên cũng như thanh niên".
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: "QLGD là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm
cho hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện được tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học-giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu
dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất" [12, tr.35].
Còn theo Đỗ Hoàng Toàn thì: "QLGD là tập hợp những biện pháp tổ
chức, phương pháp giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính, …nhằm đảm bảo sự
vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự
tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất
lượng" [18, tr.29].
Từ những quan điểm trên, ta thấy, bản chất của hoạt động QLGD là

quản lý hệ thống giáo dục, là sự tác động có mục đích, có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý theo các quy luật
khách quan nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết
quả mong muốn.
1.2.1.3. Quản lý nguồn nhân lực trong giáo dục
Quản lý nguồn nhân lực là một quá trình bao gồm thu nhận, sử dụng và
phát triển lực lượng lao động của một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu tổ
chức có hiệu quả. Các hoạt động chủ yếu quản lý nguồn nhân lực gồm: Kế
hoạch hóa nguồn nhân lực, tuyển chon-sử dụng-bồi dưỡng-phát triển nguồn
nhân lực, kiểm tra hoạt động, điều chỉnh: đề bạt, luân chuyển hoặc thải hồi.
Theo Leonard Nadlerd (Mỹ), nhiệm vụ của quản lý nguồn nhân lực
bao gồm:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Một là, sử dụng nguồn nhân lực: Tuyển dụng; Sàng lọc; Bố trí; Đánh
giá; Đãi ngộ; Kế hoạch hóa sức lao động.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực: Giáo dục; Đào tạo; Bồi dưỡng; Phát
triển; Nghiên cứu, phục vụ.
Ba là, nuôi dưỡng môi trường nguồn nhân lực: Mở rộng thị trường lao
động; Mở rộng qui mô làm việc; Phát triển tổ chức.
Trong GD&ĐT, quản lý nguồn nhân lực xét trên phạm vi rộng là quản lý
đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và công nhân viên chức trong nhà trường. Nếu
xét trong phạm vi hẹp hơn chính là quản lý đội ngũ giáo viên và cán bộ QLGD.
Việc xây dựng, phát triển, đào tạo và bồi dưỡng về phẩm chất, trình độ, năng lực
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý để đáp ứng yêu cầu đặt ra là nhiệm vụ trọng
tâm của quá trình quản lý nguồn nhân lực trong ngành GD&ĐT.
1.2.2. Khái niệm nhà giáo, đội ngũ nhà giáo
1.2.2.1. Nhà giáo
Ngành giáo dục với bề dày lịch sử của mình đã mang lại cho chúng ta

cơ sở dữ liệu phong phú để tiếp cận khái niệm về nhà giáo. Dưới thời cận đại
của Khổng Tử (551-479 TCN), nhà giáo được gọi bằng "Sư" để chỉ người có
học vấn uyên thâm và mang nó truyền thụ cho người khác. Do tính chất công
việc cao quý, "Sư" được người đầu tiên sáng lập chế độ giáo dục tư thục ở
Trung Quốc đặt ở vị trí tôn kính "Quân - Sư - Phụ" trong thứ bậc xã hội.
Chính Khổng Tử với nhân cách và đóng góp của mình đã được người đời tôn
là "Vạn thế sư biểu" tức "Người thầy của muôn đời". Đến thời Hán Vũ Đế
(140-87TCN), người làm công việc giảng dạy ở Thái học được gọi là "Ngũ
kinh bác sĩ". Theo cách gọi này, nhà giáo được coi là một bộ phận tri thức có
học vấn uyên bác làm công việc giảng dạy "ngũ kinh" (kinh điển của Nho
giáo) trong nhà trường phong kiến.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, lúc đầu nhân dân ta cũng gọi
người làm nghề dạy học là "Sư". Ông bà ta có câu: "Nhất tự vi sư, bán tự vi
sư" để khuyên răn người học thái độ kính trọng đối với nhà giáo. Khi chữ
Nôm ra đời, nhân dân ta không gọi nhà giáo bằng "Sư" mà gọi là "Thầy". Sự
đa dạng của danh từ "Thầy" trong tục ngữ, ca dao Việt Nam khẳng định điều
này. Ông bà ta từng dạy "Không thầy đố mày làm nên", "Muốn sang thì bắc
cầu Kiều; Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy",… Theo đó, "Thầy" là "người
có trình độ hướng dẫn, dạy bảo".
Khi tiếp thu văn minh phương Tây, "thầy giáo" được nhân dân ta gọi
để "chỉ người làm nghề dạy học nói chung". Có thể "thầy giáo" là phiên âm
Tiếng Việt của thuật ngữ "giáo sư" vốn có nguồn gốc từ danh từ "professor"
của người châu Âu. Sau này, "thầy giáo" đôi khi được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ
người dạy học là nam giới, còn nữ giới làm nghề này được gọi là "cô giáo".
Ngày nay, chúng ta gọi thống nhất những người làm nghề dạy học là "nhà
giáo". Theo Điều 70, Luật Giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: "Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường

hoặc cơ sở giáo dục khác". "Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non,
giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục
đại học gọi là giảng viên".
1.2.2.2. Đội ngũ nhà giáo
* Đội ngũ
Theo Từ điển tiếng Việt, đội ngũ là "khối đông người cùng chức năng
nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng" [24, 328].
Các khái niệm về đội ngũ dùng cho các thành phần trong xã hội như
đội ngũ trí thức, đội ngũ công nhân viên chức đều có gốc xuất phát từ đội ngũ
theo thuật ngữ quân sự. Đó là một khối đông người, được tổ chức thành một
lực lượng để chiến đấu hoặc để bảo vệ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Tóm lại, đội ngũ là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một
lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc
không cùng một nghề nghiệp nhưng cùng có chung một mục đích nhất định.
* Đội ngũ nhà giáo
Theo Virgil K. Rowland, "đội ngũ nhà giáo là những chuyên gia trong
ngành giáo dục, họ nắm vững tri thức và hiểu biết dạy học và giáo dục như thế
nào và có khả năng cống hiến toàn bộ tài năng và sức lực của họ cho giáo dục".
Từ khái niệm nêu trên về đội ngũ nhà giáo chúng ta có thể quan niệm
rằng: Đội ngũ nhà giáo là một tập thể bao gồm những giáo viên và cán bộ
quản lý giáo dục, được tổ chức thành một lực lượng, có chung nhiệm vụ thực
hiện các mục tiêu giáo dục đã đặt ra cho nhà trường hoặc cơ sở giáo dục đó.
1.2.2.3. Vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình phát triển giáo dục
Lịch sử dân tộc Việt Nam ghi nhận sự đóng góp to lớn của nhà giáo trong
tiến trình phát triển của đất nước. Tùy điều kiện lịch sử ở mỗi thời kỳ mà vị trí,
vai trò và đóng góp của nhà giáo đối với sự phát triển của xã hội là khác nhau.
Thời kỳ Bắc thuộc (TK I TCN đến TK X), đóng góp của nhà giáo trong

xã hội không lớn. Lịch sử ghi nhận tên tuổi của một số nho sĩ tiêu biểu như
Lí Tiến, Lí Cầm, Trương Trọng, Khương Công Phụ, Khương Công Phục,
Tinh Thiều, ….Phần lớn trong số họ tham gia bộ máy quan lại của chính
quyền đô hộ và góp sức truyền bá nền giáo dục nho học. Các cuộc khởi nghĩa
của nhân dân ta thời kỳ này, nho sĩ trong đó có nhà giáo ít tham gia và hầu
như không để lại ảnh hưởng.
Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê (939-1009), phần lớn nhà giáo là nhà sư,
trường học là chùa chiền. Với lòng yêu nước, thương dân, các nhà sư-nhà
giáo đương thời đã mang kiến thức của mình ra giúp triều đình xây dựng nền
độc lập, tự chủ, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Chính họ đã vận
dụng sự am hiểu về chữ Hán để tạo ra chữ Nôm, góp phần làm phong phú

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
thêm tiếng Việt. Một số thiền sư nổi tiếng như: Sư Đỗ Pháp Thuận bằng tài
ứng đối, xướng họa đã góp phần làm tăng vị thế của nước ta trong bang giao
với nhà Tống (Trung Quốc); Thiền sư Đa Bảo và Vạn Hạnh vừa là thầy dạy
vừa có công trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, thiết lập triều Lý, mở đầu
thời kỳ hưng thịnh trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Thời Lý - Trần - Hồ (1010-1497), nhà giáo đóng vai trò chủ yếu trong
đào tạo quan lại cho chính quyền. Chu Văn An là nhà giáo dục tiêu biểu nhất
thời kỳ này.
Ông là người nêu gương mẫu mực về tư cách nhà giáo, trở thành tôn sư
của nền giáo dục Việt Nam. Mặc dù không trực tiếp giảng dạy nhưng tư
tưởng cải cách giáo dục của Hồ Quy Ly cũng có giá trị to lớn không chỉ cho
nền giáo dục đương thời mà cho cả chúng ta ngày nay.
Thời Lê sơ (1428-1527), đội ngũ nhà giáo đóng vai trò quan trọng xây
dựng bộ máy nhà nước tập quyền đủ mạnh để giữ vững nền độc lập của đất
nước. Nhiều hiền tài được đào tạo ra trong thời kỳ này như Lê Văn Hưu, Mạc
Đĩnh Chi, Nguyễn An, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật,

Hồ Quý Ly, Trần Nguyên Đán, Lương Thế Vinh,….góp phần thúc đẩy sự
phát triển vượt bậc nền văn hóa dân tộc, khoa học-kỹ thuật và tạo nên những
chiến công hiển hách trên mặt trận chống ngoại xâm.Nguyễn Trãi là nhà giáo
tiêu biểu nhất trong giai đoạn này. Ông đóng góp thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn dẫn đến sự ra đời nhà Hậu Lê và đề ra nhiều kế sách để trị
nước, an dân. Nguyễn Trãi cũng là vì sao sáng trong văn học giai đoạn này
với nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu là Bình Ngô đại cáo vốn được xem là
bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của đất nước ta.
Thời Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn (từ TK XVI đến TK XVIII), tuy giáo dục
bắt đầu xuống dốc nhưng vẫn có hai nhà giáo tiêu biểu là Lê Quý Đôn và
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lê Quý Đôn có những đóng góp về địa chí, văn hóa và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
khoa học tự nhiên.Nguyễn Bỉnh Khiêm là người để lại cho hậu thế nhiều tác
phẩm văn học có giá trị và đào tạo, giúp đỡ nhiều nhân tài như Phùng Khắc
Khoan, Nguyễn Dữ,….Ngoài ra, một số nhà giáo cũng góp sức cho việc đánh
đổ triều đình phong kiến suy tàn. Người đại diện cho xu hướng này là La Sơn
Phu Tử Nguyễn Thiếp với vai trò cố vấn tối cao của Hoàng đế Quang Trung.
Thời Nguyễn (1802-1945), các thầy giáo nổi tiếng như Nguyễn Trường
Tộ, Bùi Dương Lịch, Võ Trường Toản, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Đức Đạt,
Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Đình Chiểu, Lương Văn Can, Nguyễn
Quyền….có vai trò quyết định trong việc truyền bá tư tưởng canh tân, chấn
hưng đất nước, phát triển văn học yêu nước, tác động hoặc trực tiếp tổ chức
các hoạt động đấu tranh chống thực dân Pháp và triều đình phong kiến tay sai.
Nửa đầu thế kỉ XX, nhà giáo là đội ngũ tiên phong truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào nước ta chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam - nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Người thầy giáo tiêu biểu cho giai đoạn này là Nguyễn Tất Thành
đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc, truyền bá con đường đó vào Việt

Nam, trực tiếp giảng dạy, đào tạo cán bộ cho cách mạng. Nhiều học trò của
người cũng vốn là nhà giáo như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Đặng Thai
Mai, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên…trở thành nhà yêu nước lớn có
nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Trong quá trình thực hiện cách
mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đội ngũ nhà giáo là lực
lượng tiên phong trên mặt trận chống giặc dốt vốn được xem nguy hiểm hơn
cả nạn ngoại xâm. Họ cũng đóng vai trò là người chiến sĩ trên mặt trận tư
tưởng truyền bá quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng cũng như thực
hiện nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết là bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau. Mặt khác, nhà giáo còn có vai trò quan trọng trong việc tổ chức
và phát động phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên trên mặt trận đấu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
tranh chính trị chống ngụy quyền tay sai và thực dân đế quốc. Đánh giá những
đóng góp to lớn của đội ngũ nhà giáo trong giai đoạn này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định nhà giáo là những anh hùng vô danh.
Trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ nhà giáo là nhân tố quyết định đào
tạo ra con người xã hội chủ nghĩa vốn được Bác xem là điều kiện tiên quyết
và then chốt để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi mà giáo dục đào tạo và khoa
học công nghệ là quốc sách hàng đầu của đất nước thì vai trò của đội ngũ
nhà giáo càng trở nên đặc biệt quan trọng. Nhà giáo trở thành người quyết
định tương lai của dân tộc vì sản phẩm mà họ đào tạo ra sẽ là chủ nhân
tương lai của đất nước
1.2.3. Khái niệm về xây dựng và phát triển
Theo Từ điển tiếng Việt "xây dựng" được hiểu theo các nghĩa sau: "1.
Làm nên một công trình kiến trúc theo một kế hoạch nhất định; 2. Làm cho
hình thành một tổ chức hay một chủ thể xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa theo
một phương hướng nhất định; Tạo ra, sáng tạo ra cái có giá trị tinh thần, có
nội dung nào đó". Trong luận văn này chúng tôi vận dụng khái niệm về xây

dựng theo nghĩa thứ 3, tức "xây dựng" là tạo ra cái có giá trị tinh thần, có nội
dung nào đó.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "phát triển" được hiểu là
"Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao,
đơn giản đến phức tạp".
Từ những cách tiếp cận trên, theo chúng tôi, xây dựng và phát triển bao
hàm cả sự gia tăng về lượng và sự biến đổi về chất, đó là quá trình làm cho số
lượng và chất lượng vận động theo hướng đi lên trong mối quan hệ bổ sung
cho nhau tạo nên giá trị mới trong một thể thống nhất. Xây dựng và phát triển
có mối quan hệ hữu cơ với nhau, xây dựng phải luôn gắn liền với phát triển
và phát triển phải dựa trên cơ sở của thế ổn định.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
1.3. Các chủ trƣơng, chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo nói
chung, đội ngũ giảng viên các trƣờng cao đẳng và đại học nói riêng
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) rất quan tâm tới công
tác đào tạo con người thông qua hoạt động giáo dục. Người khẳng định "bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết" [23, tr.498]. Để thực hiện nhiệm vụ cách mạng vẻ vang đó, theo Người
cần phải tăng cường đầu tư cho giáo dục, trong đó có công tác xây dựng và
phát triển đội ngũ nhà giáo đóng vai trò quan trọng.
Trước tiên, muốn thực hiện tốt công tác xây dựng và phát triển đội ngũ
nhà giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phải đánh giá đúng vai trò, vị
trí của đội ngũ này trong sự nghiệp cách mạng. Theo Người "… nếu không có
thầy giáo thì không có giáo dục…Không có giáo dục, không có cán bộ thì
cũng không nói đến kinh tế, văn hóa" [7, tr.22]. Do đó, Bác khẳng định
"Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất, là những người anh
hùng vô danh" [6, tr.98]. Đồng thời với sự đánh giá cao vai trò của đội ngũ

nhà giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên nhiều quan điểm về công tác xây
dựng đào tạo đội ngũ nhà giáo.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục là
xây dựng đội ngũ những người thầy giáo. Người khẳng định trách nhiệm đó
của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước với vai trò là người lãnh đạo
và quản lý. Đảng, Nhà nước phải "quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải
chăm sóc nhà trường về mọi mặt" [6, tr.116], trong đó xây dựng đội ngũ nhà
giáo là nội dung trọng tâm. Người yêu cầu cán bộ làm công tác quản lý giáo
dục "phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng chiến
và kiến quốc" [6, tr.26]. Muốn vậy, "phải đi sâu vào việc điều tra, nghiên cứu,
tổng kết kinh nghiệm" để chủ động nắm bắt được suy nghĩ của đội ngũ nhà

×