Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI 2021 KỊCH VÀ KÍ HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.99 KB, 80 trang )

CHUN ĐỀ ƠN THI TỐT NGHIỆP THPT 2021
KỊCH VÀ KÍ HIỆN ĐẠI
A. ÔN TẬP KỊCH: HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
- Lưu Quang Vũ (1948- 1988).
- Quê gốc: thành phố Đà Nẵng, sinh tại Hạ Hịa - Phú Thọ.
- Gia đình: trí thức (cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, nên thiên hướng và
năng khiếu nghệ thuật của ông đã sớm bộc lộ từ nhỏ).
- Lưu Quang Vũ không chỉ là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường
những năm tám mươi của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch
tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Với khả năng sáng tạo phi
thường, chỉ trong bảy, tám năm, ông đã sáng tác khoảng 50 kịch bản và hầu hết trong số
đó đều đã được trình diễn, đạt giải (Sống mãi tuổi 17; Nàng Xi-ta; Nếu anh không đốt
lửa; Lời thề thứ 9; Khoảnh khắc và vô tận; Tôi và chúng ta; Hồn Trương Ba, da hàng
thịt…).
- Đặc điểm kịch Lưu Quang Vũ:
+ Thể hiện cuộc sống đầy ắp suy tư, mang nặng triết lí về lẽ sống và giá trị cuộc
sống của con người trước những biến động và hoàn cảnh xã hội phức tạp.
+ Hấp dẫn chủ yếu bằng xung đột trong cách sống và quan niệm sống, qua đó
khẳng định khát vọng hồn thiện nhân cách con người.
 Lưu Quang Vũ xứng đáng là một trong những nghệ sĩ tiên phong, tài năng
trong công cuộc đổi mới của văn học Việt Nam sau năm 1975.
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ sáng tác năm 1981, ra mắt
công chúng năm 1984.
- Vở kịch ra đời trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động mạnh mẽ:
+ Ngọn gió của khơng khí đổi mới tư duy, ý thức dân chủ trong đời sống xã hội đã
ùa vào văn học. Hiện thực được phản ánh giờ đây phải có tính đa diện, đa chiều. Số
phận con người, vấn đề cá nhân được khám phá đầy đủ hơn, sâu sắc hơn.


1


+ Văn học tham gia vào cuộc đối thoại trực tiếp trong bầu khơng khí dân chủ với
cơng chúng về những vấn đề nóng bỏng của đời sống hơm nay. Đấu tranh tiêu cực trở
thành cảm hứng nhiệt thành của nhiều cây bút.
→ Nguồn cảm hứng để Lưu Quang Vũ sáng tác vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng
thịt.
2.2. Nguồn gốc của vở kịch và sự sáng tạo của tác giả Lưu Quang Vũ
- Nguồn gốc: Vở kịch được sáng tác dựa trên một cốt truyện dân gian:
Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất
giỏi. Nước cờ của anh dễ thường thiên hạ khơng có người nào địch nổi. Tiếng đồn vang
khắp nước, sang đến tận Giang Nam. Buổi ấy, ở Trung Quốc, có ơng Kỵ Như cũng nổi
tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền khăn gói sang Nam tìm đến nhà
địch thủ. Hai người đọ tài nhau. Đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí.
Thấy đối phương vị đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo: Nước cờ này dù có Đế
Thích xuống đây cũng khơng thể gỡ nổi. Đế Thích là thần cờ ở thiên đình, bỗng nghe
câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần, mách
cho Kỵ Như mấy nước, Kỵ Như thắng. Đế Thích yêu mến Trương Ba. Thấy anh khẩn
khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo anh: “Ta thấy nhà ngươi có bụng
chân thành, vậy ta cho một bó hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ
xuống”. Nói đoạn, cưỡi mây bay lên trời.
Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất
tương đắc. Nhưng một hôm, Trương Ba bị chết đột ngột. Sau khi chơn cất chồng, người
vợ dọn dẹp nhà cửa, thấy có nén hương giắt ở mái nhà, chị ta lấy xuống đốt lên cắm
trước bàn thờ chồng. Đế Thích liền xuống, hỏi thăm thì Trương Ba đã chết rồi. Thương
tiếc Trương Ba, Đế Thích làm cho hồn Trương Ba sống lại trong xác anh hàng thịt vừa
mới chết.
Nói chuyện trong nhà người hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh
sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy, đi thẳng một mạch về

nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người hàng thịt, biết là thần Đế Thích đã làm cho
chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào.. Vợ người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy
chồng. Đơi bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng
khơng biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.
Quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng thịt mổ, nhưng anh ta
lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người
2


hàng thịt thì khơng ngờ, người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn
phán cho về nhà Trương Ba. Vì thế mới có câu “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. (Theo
Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam).
- Sáng tạo: Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba được sống yên ổn trong
thân xác anh hàng thịt. Truyện dân gian đề cao linh hồn, tuyệt đối hóa linh hồn, khơng
để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn. Còn trong vở kịch Hồn Trương Ba, da
hàng thịt của Lưu Quang Vũ thì nhân vật Trương Ba phải sống trong nỗi đau khổ, giày
vò khi bị rơi vào nghịch cảnh “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Điểm kết thúc
của truyện dân gian lại là khởi đầu của những mâu thuẫn cơ bản trong vở kịch của Lưu
Quang Vũ. Từ đó, tác giả gửi tới người đọc thơng điệp: thể xác và linh hồn có quan hệ
hữu cơ với nhau; con người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải ln ln đấu
tranh với bản thân để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng tới một
lối sống cao thượng, vươn tới một nhân cách hồn thiện.
2.3. Tóm tắt
Vở kịch gồm 7 cảnh:
Cảnh I: Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích trên thiên đình
Nam Tào, Bắc Đẩu ngồi làm cơng việc điểm tên những người phải chết trong một
ngày. Đế Thích, tiên cờ muốn tỏ ý muốn xuống hạ giới tìm người đánh cờ cho vui. Vì
vội đi dự tiệc ở dinh Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào vội gạch bừa một người có tên là
Trương Ba.
Cảnh II: Trương Ba (vốn là một người rất cao cờ) đang chăm vườn và trò chuyện

cùng vợ và cháu gái, con trai, con dâu thì Trưởng Hoạt đến chơi cờ. Lúc Trưởng Hoạt
rơi vào thế bí, Trương Ba rung đùi phán: “Thế cờ này họa có Đế Thích mới gỡ nổi”. Đế
Thích nghe có người nhắc đến tên mình liền xuất hiện, giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ.
Trước khi về trời, Đế Thích đưa cho Trương ba mấy nén hương và dạy cách sử dụng khi
cần gặp mình. Sau đó, Trương Ba đột ngột qua đời.
Cảnh III: Cảnh Thiên đình
Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trị chuyện thì vợ Trương Ba lên (Bà vơ tình
thắp ba nén hương của Đế Thích). Khi biết chuyện Nam Tào gạch ẩu tên chồng, vợ
Trương Ba đòi trả mạng sống cho chồng mình. Đế Thích khun Nam Tào, Bắc Đẩu sửa
sai bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới chết để sống lại.
Cảnh IV: Nhà người hàng thịt
3


Xác anh hàng thịt đã nằm trong quan tài bỗng đội nắp quan tài lên, địi về nhà
Trương Ba, khơng chịu ở lại nhà hàng thịt. Mọi người lúc đầu ngỡ ngàng, sau đó đành
chấp nhận để anh hàng thịt về theo vợ Trương Ba vì sự thật trong thể xác anh hàng thịt
đúng là có hồn Trương Ba.
Cảnh V: Mọi rắc rối cho hồn Trương Ba phải mượn xác hàng thịt bắt đầu xảy ra:
Lí trưởng nhân cơ hội sách nhiễu khiến con trai Trương Ba phải hối lộ mới được lí
trưởng cho phép: Trương Ba phải ở nhà hàng thịt đến nửa đêm mới được về nhà mình.
Cảnh VI: Nhà người hàng thịt
Đêm đã khuya, Hồn Trương Ba giúp chị hàng thịt mổ lợn, pha thịt xong, chuẩn bị
về thì vợ hàng thịt mời cơm rượu và định giữ lại. Hồn Trương Ba bị thể xác xui khiến,
lúc đầu định xuôi theo, nhưng rồi vượt qua phút lưỡng lự, gỡ tay chị ta, trở về nhà.
Cảnh VII: Nhà Trương Ba
Trưởng Hoạt sang phê phán Trương ba bắt đầu đổi tính: uống rượu, thích ăn ngon,
nước cờ đi cũng khác. Lí Trưởng lại đến gây khó dễ. Con trai Trương Ba hư hỏng, chỉ
nghĩ đến tiền và trục lợi. Vợ Trương Ba buồn khổ định bỏ đi. Cháu gái khơng nhận ộng
nội. Con dâu xót xa vì bố chồng khơng cịn như xưa. Bản thân Trương Ba cũng bất lực

với chính mình.
Một cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt diễn ra, trong đó,
xác hàng thịt khẳng định sức mạnh và thế lấn tới của hắn đối với hồn Trương Ba.
Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thốt cho
mình. Cùng lúc, cu Tị, con chị Lụa hàng xóm, bạn thân cháu nội Trương Ba ốm nặng,
sắp chết. Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba kiên
quyết chối từ, xin cho cu Tị được sống, trả lại xác cho hàng thịt, chấp nhận cái chết.
Phần kết: Hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây cỏ trong vườn, trò chuyện với
vợ. Cu Tị và cái Gái ăn na và gieo hạt cho nó mọc thành cây mới.
→ Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu
Quang Vũ, đã cơng diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngồi nước.
2.4. Nhan đề
- Nguồn gốc: Đây là nhan đề của truyện dân gian, được Lưu Quang Vũ giữ
nguyên khi chuyển thể thành vở kịch.
- Ý nghĩa:

4


+ Hồn: Thế giới bên trong con người, bao gồm cảm xúc, suy nghĩ, khát vọng… ->
Đó là ẩn dụ cho phần thanh cao, trong sạch, nhân hậu, xứng đáng với danh nghĩa con
người.
+ Xác: Cái bên ngồi-> Đó là ẩn dụ cho sự tầm thường, dung tục.
→ Hồn Trương Ba, da hàng thịt gợi cảm giác về sự vênh lệch giữa linh hồn và
thể xác, giữa hình thức và nội dung, giữa bên ngoài và bên trong. Nhan đề hé mở những
mâu thuẫn, xung đột cơ bản, xuyên suốt vở kịch.
2.5. Thể loại: Kịch
- Khái niệm
+ Kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp.
+ Trong phạm vi văn học, loại văn bản kịch được nêu ra thực chất là phần văn bản

của tác phẩm kịch (kịch bản văn học).
- Đặc trưng
+ Kịch phản ánh cuộc sống bằng việc khám phá, phát hiện những mâu thuẫn,
xung đột trong đời sống thực tại rồi diễn đạt bằng hành động và ngơn ngữ đối thoại giữa
các nhân vật.
“ Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch” (Hê-ghen).
+ Xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động kịch. Đó là sự tổ chức cốt
truyện với các tình tiết, sự kiện, biến cố theo một diễn biến lôgic, chặt chẽ, nhất quán.
+ Nhân vật kịch: chủ yếu là nhân vật loại hình (được xây dựng trên nền tảng của
những phẩm chất, tính cách đơn nhất hoặc tổng hợp của những tính cách ấy).
+ Ngơn ngữ kịch: có ba loại: đối thoại, độc thoại, bàng thoại.
- Phân loại: Xét theo nội dung, ý nghĩa của xung đột kịch, người ta phân ra ba
loại:
+ Bi kịch: phản ánh xung đột giữa những nhân vật cao thượng, tốt đẹp với những
thế lực đen tối, độc ác; sự thảm bại hay cái chết của những nhân vật ấy gợi lên nỗi xót
xa, thương cảm.
+ Hài kịch: khai thác tình huống khơi hài, sự đối lập giữa vẻ ngồi đẹp đẽ với cái
bên trong xấu xa nhằm bật lên tiếng cười chế giễu, mỉa mai.
+ Chính kịch: phản ánh mâu thuẫn, xung đột hàng ngày với bi hài, buồn vui lẫn
lộn.
- Cấu trúc: thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút.
5


 Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một vở chính kịch mang đầy đủ những đặc
trưng trên.
2.6. Một số nhận định về tác giả và tác phẩm
- “Kịch Lưu Quang Vũ chứa đựng những trăn trở về lẽ sống, lẽ làm người” (Phan
Trọng Thưởng).
- “Lưu Quang Vũ đã táo bạo đẩy những nhân vật kịch hiện đại của mình vào sự

lột xác, sự trăn trở nghĩ suy, sự sám hối đến quyết liệt đặng tìm cách giải quyết những
vấn đề văn hóa đang ráo riết đặt ra cho sự phát triển xã hội Việt Nam hiện đại”
(PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái).
- “Cùng với thời gian, có thể nhiều vở diễn phục vụ các yêu cầu kịp thời của Vũ
sẽ bị quên đi. Nhưng riêng tôi cứ tin là rồi cái vở kịch mượn tích xưa này rồi sẽ trên sân
khấu một thời gian dài nữa” (Ngô Thảo).
Đã là hồn Trương Ba
Sao còn da hàng thịt?
Đứng khuất sau cánh gà
Ngậm cười ra nước mắt.
Bạn tôi tay nắm chặt
Muốn giật tấm màn trị
Sao cứ phải vịng vo
Mượn giả để nói thật?
Đời có chút phần hồn
Vàng rịng này khó giữ
Cả hai phía màn nhung
Mình làm mình khơng dễ.
Trăm rủi, chẳng một may
Liệu rồi khi nhắm mắt?
Thôi, gửi da vào đất
Gửi hồn vào “hương cây”.
(Gửi hồn vào hương cây - Nguyễn Vũ Tiềm)
3. Văn bản
6


3.1. Vị trí
Thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch → Phần cao trào và mở nút.
3.2. Tình huống kịch

- Hồn Trương Ba phải sống nhờ trong Xác hàng thịt. Mâu thuẫn giữa Hồn và Xác
lên đến đỉnh điểm.
- Tình huống kịch trong đoạn trích diễn biến qua các bước:
+ Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong xác hàng thịt. Hồn muốn tách
khỏi thân xác kềnh càng, thô lỗ ấy.
+ Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác với sự đắc thắng của Xác khiến Hồn càng khổ
đau và cảm thấy bế tắc.
+ Thái độ cư xử của những người thân trong gia đình: khơng tin, khơng thừa nhận
Trương Ba, khiến Hồn Trương Ba càng đau khổ, tuyệt vọng, từ đó đi đến quyết định giải
thốt.
+ Cuộc gặp gỡ, đối thoại cuối cùng của Hồn Trương Ba với Đế Thích và quyết
định dứt khốt chấm dứt nghịch cảnh đau khổ của Hồn Trương Ba.
- Tình huống kịch nói trên thể hiện những mâu thuẫn, xung đột ở nhân vật Hồn
Trương Ba và cách giải quyết của nhân vật này. Qua đó tốt lên ý nghĩa tư tưởng sâu sắc
của đoạn trích và cũng là ý nghĩa chung của vở kịch.
3.3. Nội dung
Đoạn trích tập trung thể hiện những bi kịch éo le của nhân vật Hồn Trương Ba.
Qua đó, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc một thông điệp: Được sống làm người
quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và
theo đuổi cịn q giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự
nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu tranh với
nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn
tới những giá trị tinh thần cao quý.
3.4. Nghệ thuật
- Tình huống kịch phát triển tự nhiên, hợp lí. Các hành động kịch nối tiếp nhau,
đẩy mâu thuẫn kịch lên đến cao trào, tạo nên kịch tính vơ cùng căng thẳng, hấp dẫn.
- Kết hợp giữa việc miêu tả diễn biến tâm lý và hành động của nhân vật.
- Ngôn ngữ kịch: sinh động, gắn liền với tình cảnh, tâm trạng cụ thể; giàu tính
triết lý.
7



- Giọng điệu: biến hóa, lơi cuốn. Đặc biệt, có những lời thoại của Trương Ba với
Đế Thích vừa hướng ngoại lại mang tính chất hướng nội (độc thoại nội tâm).
II. LUYỆN ĐỀ CỤ THỂ
Đề 1. Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có
đoạn:
Xác hàng thịt: (Bắt đầu) Vơ ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn
khổ kia, ông không tách ra khỏi được tôi đâu dù tôi chỉ là thân xác..
Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vơ lý mày khơng thể biết nói! Mày
khơng có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…
Xác hàng thịt: Có đấy! Xác hàng thịt có tiếng nói đấy! Ơng đã biết tiếng nói của
tơi rồi, đã ln ln bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u đui mù mà tơi có sức mạnh
ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông!
Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngồi, khơng có ý nghĩa gì hết,
khơng có tư tưởng khơng có cảm xúc!
Xác hàng thịt: Có thật thế khơng?
Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém mà bất cứ con thú
nào cũng thèm được: Thèm ăn ngon, thèm rượu thịt..
Xác hàng thịt: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông ở bên nhà
tôi…Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại..
Đêm hơm đó suýt nữa thì…
Hồn Trương Ba: Im đi, đấy là mày chứ, chân tay mày hơi thở của mày…
Xác hàng thịt: Thì tơi có ghen đâu! Ai lại ghen với chính thân thể mình nhỉ? Tơi
chỉ trách là sao đêm hơm ấy, ơng lại tự dưng bỏ chạy, hồi của… Này nhưng ta nên
thành thật với nhau một chút: Chẳng nhẽ ơng khơng xao xuyến chút gì à? Hà hà, cái
món tiết canh cố hữu, khấu đuôi và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng
cảm xúc được sao? Để thoả mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì?
Nào hãy thành thật trả lời đi!
Hồn Trương Ba: Ta… ta đã bảo mày im đi!

Xác hàng thịt: Rõ là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tôi được.
Hai ta đã hồ với nhau làm một!
Hồn Trương Ba: Khơng! Ta vẫn có một đời sống riêng: Nguyên vẹn, trong sạch,
thẳng thắn…
8


Xác hàng thịt: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tơi, chiều theo những địi
hỏi của tơi mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!
Hồn Trương Ba: (Bịt tai lại) Ta không muốn nghe mày nữa!
Xác hàng thịt: (Lắc đầu) Ông cứ việc bịt tai lại! Chẳng có cách nào chối bỏ tơi
được đâu! Mà đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ơng có nhớ hơm
ơng tát thằng con ơng toé máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có thêm sức
mạnh của tơi! Ha ha..
Hồn Trương Ba: Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.
Xác hàng thịt: Nhưng tơi là cái hồn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải
lỗi tại tơi.. (Buồn rầu) Sao ơng có vẻ khinh thường tơi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý
trọng chứ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tơi mà ơng có thể làm lụng, cuốc
xới. Ơng nhìn ngắm trời đất cây cối người thân… Nhờ có đơi mắt của tôi, ông cảm nhận
thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn con người.
Người ta xâm phạm thể xác.. Những vị lắm chữ nhiều sách như các ơng là hay vin vào
có tâm hồn là quý, khuyên con người ts sống với hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi
khổ sở nhếch nhác.. Mỗi bữa cơm rơi địi ăn tám, chín bát cơm, tơi thèm ăn thịt hỏi có gì
là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ khơng có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ?
Hồn Trương Ba: Nhưng…nhưng…
Xác hàng thịt: Hãy công bằng hơn, ông Trương Ba ạ! Từ nãy tới giờ chỉ có ơng
nặng lời với tơi, chứ tơi thì vẫn nhã nhặn với ơng đấy chứ? (Thì thầm). Tôi rất biết cách
chiều chuộng linh hồn.
Hồn Trương Ba: Chiều chuộng?
Xác hàng thịt: Chứ sao? Tôi thông cảm với những trị chơi tâm hồn của ơng.

Nghĩa là những lúc một mình một bóng, ơng cứ việc nghĩ rằng ơng có một tâm hồn bên
trong cao khiết, chẳng qua vì hồn cảnh vì để sống mà ơng phải nhân nhượng tơi. Làm
xong điều gì xấu ơng cứ đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết cần phải để cho
tính tự ái của ơng được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện. hà hà…miễn là.. ông vẫn
làm đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát của tôi!
Hồn Trương Ba: Lý lẽ của anh thật ti tiện!
Xác hàng thịt: Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy! Có phải lí lẽ của tơi
đâu, tơi chỉ nhắc lại những điều ơng vẫn tự nói với mình và những người khác đấy chứ!
Đã bảo chúng ta tuy hai mà một mà!
Hồn Trương Ba: (Như tuyệt vọng) Trời!
9


Xác hàng thịt: (An ủi) Ông đừng nên tự dằn vặt làm gì! Tơi đâu muốn làm khổ
ơng, bởi tơi cũng rất cần đến ông. Thôi, đừng cãi cọ nhau nữa. Chằng cịn cách nào khác
đâu! Phải sống hồ thuận với nhau thơi! Cái hồn vía ương bướng của tơi ơi, hãy về với
tôi này!
(Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt).
Cảm nhận của anh/ chị về những xung đột giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng
thịt trong đoạn trích trên. Từ đó, rút ra ý nghĩa triết lí mà tác giả muốn gửi tới
người đọc.
* Phân tích đề:
- Vấn đề nghị luận: Xung đột giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt; ý nghĩa triết lí
tác giả muốn gửi tới người đọc.
- Kiểu bài: Nghị luận về một đoạn trích. Từ đó, rút ra nhận xét, đánh giá, khái
quát.
Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, bình luận…
- Phạm vi dẫn chứng: Đoạn đối thoại giữa Hồn và Xác trong vở kịch Hồn Trương
Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.
* Dàn ý:

1. Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Lưu Quang Vũ là được mệnh danh là “cây bút vàng” của sân khấu Việt Nam
những năm tám mươi của thế kỉ XX.
- Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được viết năm 1981, là vở kịch nói đầu
tiên được cơng diến ở nước ngồi.
- Đoạn đối thoại giữa Hồn và Xác trong cảnh VII của vở kịch là đỉnh điểm của
xung đột. Qua đó, người đọc thấy được ý nghĩa triết lí tác giả muốn gửi tới người đọc.
2. Thân bài
a. Những xung đột giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt
* Hoàn cảnh dẫn đến màn đối thoại
Trương Ba là một người hiền lành, lương thiện, tốt bụng nhưng bị chết oan vì sự
tắc trách của quan nhà trời. Đế Thích, một vị tiên cờ vì u quý mến mộ tài nghệ của
Trương Ba nên đã giúp ông sống lại trong thể xác của anh hàng thịt. Mọi việc rắc rối bắt
đầu xảy ra kể từ khi hồn Trương Ba cư ngụ trong thể xác phàm tục ấy. Ý thức được tình
trạng “vênh lệch” của mình, Trương Ba vô cùng đau khổ. Hồn Trương Ba đã tách khỏi
Xác hàng thịt và cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác đã diễn ra.
10


* Nội dung: Xung đột giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt
Hồn: thế giới bên trong con người, bao gồm cảm xúc, suy nghĩ, khát vọng… Đó
là ẩn dụ cho phần thanh cao, trong sạch, nhân hậu, xứng đáng với danh nghĩa con người.
Xác: cái bên ngồi. Đó là ẩn dụ cho sự tầm thường, dung tục.
- Về thái độ:
+ Hồn phủ định tiếng nói, sức mạnh của Xác:
“ A, mày cũng biết nói kia à ? Vơ lí, mày khơng thể biết nói ! Mày khơng có
tiếng nói, mà chỉ là xác thịt âm u, đui mù...”
+ Xác: Khẳng định, tuyên bố về sự âm u, đui mù của Xác có sức mạnh ghê gớm,
Xác nhạo báng Hồn:
“ Vơ ích, cái linh hồn mờ nhạt của ơng Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không

tách ra khỏi tôi được đâu, dù tơi chỉ là thân xác”
“ Có đấy ! Xác thịt có tiếng nói đấy ! Ơng đã biết tiếng nói của tơi rồi, đã ln
ln bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tơi có sức mạnh ghê gớm, lắm
khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy ! ”
- Về cử chỉ, hành động: Hồn Trương Ba ôm đầu, đứng vụt dậy, bịt tai lại, nhìn
chân tay, thân thể. Cịn Xác hàng thịt thì lắc đầu, thương hại, chế giễu Hồn Trương Ba.
- Về cách xưng hô:
+ Hồn Trương Ba xưng: ta - mày, rồi thay đổi thành tôi - anh. Ban đầu cách xưng
hô của Hồn bộc lộ sự xem thường, khinh bỉ Xác, nhưng sau đó nhượng bộ.
+ Xác hàng thịt xưng hô: tôi - ông, thể hiện và xác lập sự ngang hàng, thách thức.
- Về cách nói: Hồn giận dữ, khinh bỉ, ngậm ngùi, thấm thía, tuyệt vọng; cịn Xác
thì ngạo nghễ, ranh mãnh, thậm chí giả bộ buồn rầu, vuốt ve, chế nhạo lại Hồn.
- Về lí lẽ:
+ Hồn ln bị động, đuối lí, tuyệt vọng; cịn Xác ln chủ động hỏi, giảo hoạt,
phản biện, bác bỏ lí lẽ của Trương Ba và đề xuất quan điểm; cho rằng Xác chỉ là cái vỏ
bên ngồi, khơng có ý nghĩa gì, khơng tư tưởng, khơng có cảm xúc !. Nhưng khi Hồn bị
xác khiêu khích “ Có thật thế khơng ? ” thì Hồn rơi vào thế bị động, chợt đuối lí “Hoặc
nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất kì con thú nào có được: thèm ăn ngon,
thèm rượu thịt...”. Trong lời nói này Hồn Trương Ba buộc phải thừa nhận sự có mặt của
xác, đồng ý xác có tiếng nói. Trong màn đối thoại của Hồn Trương Ba với Xác hàng thịt
thì chỉ có hai lời đối thoại dài nhất, mạnh mẽ nhất là khi phủ định sự tồn tại của xác “A,
11


mày cũng biết nói kia à... mà chỉ là xác thịt âm u, đui mù” và “Hoặc nếu có, thì chỉ là
những thứ thấp kém... thèm rượu thịt”. Còn lại thì Hồn chỉ im lặng, đau đớn.
+ Xác chỉ ra sự tha hóa của Hồn bằng những chứng cứ khiến Hồn khơng thể chối
cãi. Đó là khi Hồn đứng cạnh vợ người hàng thịt: “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực,
cổ nghẹn lại... Đêm hơm đó, st nữa thì...”. Đó là việc Hồn đang xi theo xác, bị xác
sai khiến làm cho hồn cũng lâng lâng cảm xúc khi đứng trước những món ăn dung tục

“tiết canh, cổ hũ, khấu đi và đủ các thứ thú vị khác”; Đó là việc Hồn Trương Ba cũng
trở thành con người thô lỗ, phũ phàng, khi khuyên thằng con đi vào con đường ngay
thẳng không được, ông đã nổi giận: “tát thằng con tóe máu mồm, máu mũi”. Xác cũng
nêu bằng chứng cho thấy sự gắn kết giữa thân xác với linh hồn: “Khi muốn hành hạ tâm
hồn con người, người ta xúc phạm thể xác. Xác phê phán chủ trương của giới trí thức:
“đề cao tâm hồn mà coi thường sự tồn tại của xác, bỏ bê thân xác họ khổ sở, nhếch
nhác”.
 Lí lẽ của Xác đã khơi đúng sự thật mà lâu nay Hồn cố tình ngụy biện, chối bỏ.
+ Hồn Trương Ba bất lực “Ta...ta... đã bảo mày im đi”. Lời của Hồn ở đây ngập
ngừng, Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của xác.
+ Hồn cố gắng cứu vãn tình thế: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn”. Xác đã mỉa mai, chế giễu: “Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều
theo những đòi hỏi của tơi, mà cịn nhận là ngun vẹn, trong sạch, thẳng thắn !”. Khi
Xác mỉa mai như vậy, Hồn chỉ cịn biết bịt tai, khơng muốn nghe và khơng muốn trả lời
nữa.
+ Xác cịn khẳng định:“Tơi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tơi mà ơng có
thể làm lụng, cuốc xới. Ơng nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân... Nhờ có đơi
mắt của tơi, ơng cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi”.
Trong cuộc đối thoại này, Xác thắng thế nên rất hả hê tuôn ra những lời thoại dài
với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc.
Cịn Hồn chỉ bng những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng, ấp úng: “Nhưng...
Nhưng”, kèm theo những tiếng than, tiếng kêu tuyệt vọng “Trời !”.
 Như vậy, lí lẽ của Xác khi tranh cãi với Hồn, Xác khẳng định xác thịt đui mù
có quyền lực sai khiến cả linh hồn, trong những hoạt động của thể xác ln có sự tham
gia, can dự của Hồn (dù hồn có muốn hay khơng ). Đây là q trình tha hóa tự phát, linh
hồn bị nhiễm độc sự dung tục của thể xác.
- Kết quả cuộc tranh luận:
12



+ Cuộc tranh luận của Hồn Trương Ba với xác hàng thịt cuối cùng cũng đi đến hồi
kết. Xác hàng thịt thắng thế, buộc Hồn Trương Ba phải quy phục xác, còn Hồn Trương
Ba cam chịu, buộc phải chấp nhận, lúng túng trước những lí lẽ của thể xác, bởi bản thân
Hồn ý thức rõ ràng sự tha hóa diễn ra trong những hành động nhỏ nhất của đời sống
+ Kết thúc cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt
vọng trở về cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại
vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cơ đọng tính chất căng thẳng của
xung đột kịch: mâu thuẫn không những không được giải quyết mà còn được đẩy lên đến
một mức cao hơn.
- Tâm trạng Hồn Trương Ba: Từ ngạc nhiên sang phẫn nộ, lúng túng, cay đắng
bất lực chấp nhận sự hiện hữu, bành chướng của thể xác đến đuối lí, ấp úng, chỉ biết rồi
kêu trời. Nhưng thẳm sâu ý thức vẫn không chấp nhận những ý đồ xấu xa muốn lấn át
của xác
 Diễn biến tâm trạng phức tạp trên cho thấy Hồn Trương Ba đang sống trong
thế giới nội tâm đau khổ, dằn vặt, giằng xé.
* Nghệ thuật:
- Tình huống kịch phát triển tự nhiên, hợp lí. Các hành động kịch nối tiếp nhau,
đẩy mâu thuẫn kịch lên đến cao trào, tạo nên kịch tính vơ cùng căng thẳng, hấp dẫn.
- Kết hợp giữa việc miêu tả diễn biến tâm lý và hành động của nhân vật.
- Ngôn ngữ kịch: sinh động, gắn liền với tình cảnh, tâm trạng cụ thể; giàu tính
triết lí.
- Giọng điệu: biến hóa, lơi cuốn.
b. Ý nghĩa triết lí qua cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt
- Hồn và xác là hai phương diện của một con người, một nhân cách. Con người là
một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hịa, đây là hai phần có quan hệ hữu cơ với
nhau:
+ Linh hồn giữ vị trí chủ đạo và có cơ sở vật chất là thể xác, điều này có cơ sở từ
triết học nhận thức lí tính phải bắt đầu từ cảm tính, cũng như tình cảm hình thành từ
quan hệ cụ thể đời thường, như cảm xúc thẩm mĩ dựa trên cảm quan thị giác, thính
giác…

+ Xác cũng có tính độc lập tương đối của nó, cũng có tiếng nói riêng, nhu cầu tự
nhiên của nó.
- Khơng thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi.
13


- Linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hành động của thân xác. Khi con
người bị chi phối bởi nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổi cho thân xác,
không thể vỗ về, an ủi mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Linh hồn phải kiểm soát
những nhu cầu tự nhiên của thân xác, phải điều chỉnh nó nhưng khơng thể phủ nhận,
phớt lờ nó. Khơng thể coi cái nào quan trọng hơn cái nào giữa phần hồn và phần xác.
- Chúng ta cần tôn trọng cả thân xác. Thân xác là một phương diện không thể
thiếu của một nhân cách con người vì “Ra khỏi thân xác hồn chẳng có nghĩa lí gì” .
- Sự gắn bó giữa hồn và xác là quan trọng nhưng không thể theo cách lấy xác của
người này ghép vào hồn người khác, bởi mỗi con người là thực thể riêng biệt không lặp
lại. Khi Xác hàng thịt kêu gọi Hồn Trương Ba “phải sống hòa thuận với nhau” tức là
kêu gọi một sự gán ghép khiên cưỡng, bất hợp lí.
- Tác giả cảnh báo “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, khi con người phải sống
trong dung tục thì dung tục sẽ ngự trị, sẽ dần thắng thế, lấn át và tàn phá những gì trong
sạch, đẹp đẽ cao quý của con người. Con người cần đấu tranh để hướng đến cái thiện,
cái tốt đẹp.
- Con người ta hạnh phúc nhất là được sống đúng với chính mình, sống trong sự
hài hịa giữa thân xác và tâm hồn.
- Con người phải làm chủ những ham muốn để khơng bị tha hóa, băng hoại, để có
sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, vươn tới một nhân cách toàn vẹn.
 Như vậy, Hồn và Xác là những ẩn dụ nghệ thuật lớn, và cuộc đối thoại giữa
Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo” ở mỗi con người.
Từ những xung đột bên trong con người qua cuộc đối thoại có tính giả tưởng giữa
linh hồn và xác thịt, Lưu Quang Vũ hướng tới một vấn đề mang chiều sâu triết học:

những bi kịch nảy sinh từ sự tồn tại đầy nghịch lí, trái tự nhiên khiến cái dung tục có cơ
hội ngự trị, lấn át và đồng hóa những gì vốn thanh cao, tốt đẹp. Từ đó, tác giả đề xuất và
cổ vũ cho cuộc đấu tranh bảo vệ những phẩm chất cao quý của con người nhằm hướng
tới khát vọng sống trong sạch, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, vật chất và tinh thần và
hoàn thiện nhân cách.
3. Kết bài
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở bi kịch đặc sắc trên nhiều phương diện: Sự kết
hợp giữa nội dung hiện thực với yếu tố kì ảo, nghệ thuật tạo tình huống và dẫn dắt xung
đột kịch, sắc thái đa dạng của lời thoại khiến cho tâm lí nhân vật được phơi trải, sát với
14


đặc trưng thể loại, ngôn ngữ kịch giàu chất triết lí, giọng điệu tranh biện độc đáo. Qua
đó, tác giả gửi gắm tư tưởng triết lí về đạo đức và nhân sinh sâu sắc, khơng chỉ có ý
nghĩa một thời mà cịn có ý nghĩa mn đời.
Đề 2. Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích vở
kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ (Ngữ văn 12, Tập một, NXB
Giáo dục, 2017). Từ đó, rút ra ý nghĩa phê phán của đoạn trích.
* Phân tích đề:
- Vấn đề nghị luận: Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba; ý nghĩa phê phán mà
Lưu Quang Vũ gửi gắm trong tác phẩm .
- Kiểu bài: Nghị luận về một nhân vật văn học. Từ đó, rút ra nhận xét, đánh giá,
khái quát.
- Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, bình luận…
- Phạm vi dẫn chứng: Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.
* Dàn ý:
1. Mở bài: Giới thiệu về Lưu Quang Vũ, vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt
và bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba
- Hiện tượng Lưu Quang Vũ là sự thăng hoa của tài năng nghệ sĩ cùng khơng khí
sơi động của xã hội Việt Nam những năm tám mươi của thế kỉ XX và tinh thần nhân

văn, dân chủ trong đời sống văn học lúc bấy giờ.
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt được ra mắt vào năm 1984, là một trong số rất
nhiều những vở kịch nổi tiếng của nhà viết kịch tài ba này. Vở kịch mang ý nghĩa phê
phán sâu sắc.
2. Thân bài
a. Giải thích
- Bi kịch: Hiểu theo nghĩa thơng thường nhất là tình cảnh éo le, đau đớn của con
người.
- Nhân vật bi kịch: Là nhân vật có tài, có hồi bão, khát vọng cao cả và đã cố gắng
để thực hiện, nhưng lại bị một thế lực nào đó cản trở khiến cho những hồi bão, khát
vọng đó khơng thể thực hiện được. Cuối cùng, nhân vật phải sống trong sự dày vò, đau
khổ hoặc thậm chí phải tìm đến cái chết.
→ Nói đến “bi kịch”: là nói đến trạng thái đau khổ về tinh thần khi con người
đứng trước những mâu thuẫn khơng thể hóa giải, giữa mong muốn, khát vọng và thực
tiễn hoàn toàn trái ngược.
15


b. Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba
* Hoàn cảnh dẫn đến bi kịch: Trương Ba là một người làm vườn có lối sơng
thanh cao, thích đọc sách, đánh cờ, u cơng việc của mình là ươm những mầm xanh
cho cuộc sống. Do một việc làm tắc trách của Nam Tào, Trương Ba bị chết oan. Để sửa
sai, Đế Thích - vị tiên cờ trên Thiên đình đã cho hồn Trương Ba được sống trong xác
anh hàng thịt. Hồn cảnh đó nảy sinh bi kịch của Hồn Trương Ba.
* Bi kịch của Hồn Trương Ba
- Bi kịch bị tha hóa:
+ Trước đây: Trương Ba là người làm vườn chăm chỉ, quan tâm tới vợ con, chăm
sóc yêu chiều các cháu, hịa thuận tốt bụng với xóm làng. Bởi vậy mà ơng được tất cả
mọi người u kính, quý trọng.
+ Từ khi sống trong thể xác anh hàng thịt: Hồn Trương Ba đành phải chiều theo

một số nhu cầu hiến nhiên của xác thịt. Xác thịt âm u đui mù, song vẫn có tiếng nói
riêng, sức mạnh riêng. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương
Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, gá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã
không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt
ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm
thường của xác thịt anh đồ tể.
+ Trương Ba cảm nhận được sự thay đổi của chính mình, dù khơng muốn thừa
nhận:“Khơng! Ta vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn...”, dù
đổ lỗi cho xác: “ Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày” nhưng Trương Ba
vẫn không thể phủ nhận được một sự thật đau đớn là ông đang dần đánh mất mình:
“Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi
cách để lấn át ta”.
- Bi kịch bị người thân xa lánh:
+ Nguyên nhân: Sự thay đổi của Trương Ba khiến những người thân và hàng
xóm láng giềng không sao hiểu nổi. Càng yêu quý con người trước đây của Trương Ba,
họ càng không thể chấp nhận con người hiện tại của ông.
+ Biểu hiện: Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất
quyết muốn bỏ đi. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông
xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn,
hiểu điều hơn lẽ thiệt nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang
ra cả" khiến chị cũng thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là
16


khơng đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau
đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa
mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng khơng nhận ra thầy nữa...”.
+ Tâm trạng của Trương Ba: Trương Ba vô vùng đau khổ, tuyệt vọng. Nỗi đau
khổ biểu hiện ra ở sự lúng túng, bất lực trong cách nói, trong sự nhẫn nhục, chịu đựng
của tư thế, trong vẻ nhợt nhạt của thần sắc. Qua những biểu hiện ấy, có thể thấy Trương

Ba phải mang một gánh nặng tinh thần vượt quá khả năng của ông.
- Bi kịch sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo:
+ Con người bên trong của Trương Ba: gắn với những nhu cầu tinh thần cao.
Trương Ba muốn bảo vệ lương tâm, giữ gìn danh dự, muốn sống có đạo đức và trách
nhiệm và sống thanh thản trong những niềm vui giản dị như chăm sóc cây vườn và các
cháu…
+ Con người bên ngồi của Trương Ba thì lại khác: Con người bên ngồi
Trương Ba gắn với những nhu cầu của thể xác phàm tục. Trương Ba bây giờ cũng thèm
ăn thịt, thô lỗ, vụng về và muốn được thỏa mãn những dục vọng tầm thường…
 Mối quan hệ giữa bên ngoài và bên trong con người Trương Ba: Sự không phù
hợp giữa hồn và xác đã tạo nên một cuộc sống giả tạo và tồi tệ đến mức chính Trương
Ba cũng cảm thấy rất “quái gở”. Cuộc sống ấy là nguyên nhân căn bản dẫn tới nỗi khổ
tâm của Trương Ba “sống thế này còn khổ hơn là cái chết” và làm khổ những người
thân của ông.
- Cách giải quyết bi kịch:
+ Trương Ba khơng chấp nhận bng xi trước hồn cảnh nghiệt ngã. Khi nhận
thấy rằng không thể thay đổi được Xác hàng thịt để Xác có thể hịa hợp với hồn, Trương
Ba quyết định từ bỏ mối quan hệ với cái xác ấy: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày,
khuất phục mày và tự đánh mất mình?”, “Khơng cần đến cái đời sống do mày mang lại!
Khơng cần!”.
+ Lời nói của Trương Ba với Đế Thích, khi gọi Đế Thích xuống trần gian để giải
quyết tình thế bi kịch, đã khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình:“khơng thể
bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
Với Trương Ba, nhu cầu sống chính là mình cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn
nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề “sống như thế nào”, đó chính là biểu hiện của ý thức cao
về sự sống và cách sống để có được một cuộc sống hạnh phúc và có ý nghĩa.
+ Cuối cùng, Trương Ba chấp nhận từ bỏ đời sống do cái xác mang lại. Trương
17



Ba cũng kiên quyết từ chối một cuộc sống vênh lệch khác (khi Đế Thích định sửa sai
tiếp tục bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị) để ra đi. Nhưng tháng ngày
trú ngụ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba biết rằng chỉ có cách đó mới đem lại sự
thanh thản: “từ lúc tơi có đủ can đảm để đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình
lại là Trương Ba thật, tâm hồn tơi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa.”
* Nghệ thuật:
- Tạo dựng xung đột kịch phát triển một cách lơgic, lên đến cao trào.
- Khắc họa tâm lí nhân vật rất sinh động.
- Ngôn ngữ đa thanh, đa giọng điệu.
- Khắc họa nhân vật gắn liền với hành động kịch.
2. Ý nghĩa phê phán của đoạn trích
- Phê phán thói chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích
hưởng thụ đến nỗi phàm phu, thơ thiển
- Phê phán những kẻ lấy cớ tâm hồn là cao quý, đời sống tinh thần là đáng trọng
mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, khơng phấn đấu vì hạnh phúc tồn
vẹn. Thực chất, đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng,
khơng tưởng.
- Phê phán tình trạng sống giả, khơng dám và cũng khơng được sống là chính bản
thân mình. Đó là nguyên nhân đẩy con người đến chỗ tha hóa do danh và lợi.
3. Kết bài
- Lưu Quang Vũ từng tự bạch rằng, động lực thơi thúc mình viết kịch cũng là
những động lực khiến mình làm thơ. Đó là khát vọng muốn được bày tỏ, muốn được thể
hiện tâm hồn mình và thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh
liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch kết tinh cả cái tâm và cái tài của người
cầm bút. Chính vì thế, từ khi ra đời đến nay, vở kịch vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với độc
giả và khán giả.
Đề 3. Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích vở kịch
Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo
dục, 2017).

Từ đó, liên hệ với bi kịch của nhân vật Vũ Như Tơ trong đoạn trích Vĩnh biệt
Cửu Trùng Đài (Trích vở kịch Vũ Như Tơ) của Nguyễn Huy Tưởng (Ngữ văn 11,
18


Tập một, NXB Giáo dục, 2017) để nhận xét về cách ứng xử của hai nhân vật khi bị
rơi vào nghịch cảnh.
* Phân tích đề:
- Vấn đề nghị luận: Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba; liên hệ với bi kịch của
Vũ Như Tô để nhận xét về cách ứng xử của hai nhân vật khi bị rơi vào nghịch cảnh.
- Kiểu bài: Liên hệ.
Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh…
- Phạm vi dẫn chứng: Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ,
đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích vở kịch Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng.
* Dàn ý:
1. Mở bài: Giới thiệu về Lưu Quang Vũ, vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt
và bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba
- Lưu Quang là một nghệ sĩ đa tài (làm thơ, sáng tác truyện ngắn, vẽ tranh), một
hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch những năm tám mươi của thế kỉ XX, một nhà
soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt được ra mắt vào năm 1984, là vở kịch xuất sắc
nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch này không chỉ được công diễn trong nước mà đã công
diễn nhiều lần ở sân khấu nước ngoài.
- Nêu vấn đề nghị luận: Cảnh VII và đoạn kết thể hiện rõ bi kịch của nhân vật
Hồn Trương Ba, gợi cho người đọc nhớ tới bi kịch của nhân vật Vũ Như Tơ trong đoạn
trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng. Qua đó, người đọc thấy được
cách ứng xử của hai nhân vật khi bị rơi vào nghịch cảnh.
2. Thân bài
a. Giải thích khái niệm bi kịch
b. Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba

c. Liên hệ với bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô
*Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có tài năng, tâm huyết và hồi bão cao cả
- Tài năng: “Ngàn năm chưa dễ có một”, “Có thể sai khiến gạch đá như viên
tướng cầm quân”, “Chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện lên trên mảnh lụa, thần tình biến
hóa như cảnh hóa cơng”.
- Mơ ước: xây dựng cho đất nước một tòa lâu đài “bền như trăng sao”, để cho
“dân ta nghìn thu cịn hãnh diện”. Có thể nói đây là ước mơ hồn tồn chính đáng của
người nghệ sĩ say mê sáng tạo, có tinh thần dân tộc.
19


* Những sai lầm của Vũ Như Tô
- Vũ Như Tô không nhận ra một thực tế tàn nhẫn: Cửu Trùng Đài được xây bằng
mồ hôi, nước mắt và xương máu của nhân dân. Để Cửu Trùng Đài kịp hoàn thành đúng
thời gian, Vũ Như Tơ cịn cho chém đầu những người bỏ trốn. Vì khát khao sáng tạo đã
đẩy Vũ Như Tơ vào tình trạng đối nghịch với lợi ích của nhân dân.
- Khi Trịnh Duy Sản, thợ thuyền nổi loạn, Đan Thiềm đã khuyên Vũ Như Tô trốn
đi nhưng Vũ Như Tô không trốn, ông một mực cho rằng mình khơng có tội.
* Kết cục bi thảm của Vũ Như Tơ
Người tri kỉ khơng cịn, giấc mộng Cửu Trùng Đài cũng tan tành, bản thân Vũ
Như Tô đã bị bọn phản loạn giết chết. Thậm chí, trước khi bị giết, Vũ Như Tô cũng chưa
nhận ra sai lầm của mình.
→ Hồi cuối của vở kịch đã đặt Vũ Như Tơ vào việc tìm kiếm câu trả lời cho câu
hỏi: xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai, là có cơng hay có tội. Xây Cửu Trùng Đài vừa
có cơng vừa có tội. Vũ Như Tơ khơng trả lời được thỏa đáng câu hỏi trên bởi ông chỉ
đứng trên lập trường của người nghệ sĩ, chứ không đứng trên lập trường của nhân dân.
Ông đã phải trả giá bằng sinh mệnh của bản thân và cả cơng trình nghệ thuật.
d. So sánh
* Điểm tương đồng
Cả hai nhân vật Trương Ba và Vũ Như Tô đều là những nhân vật bi kịch: có tài,

có ước mơ đẹp, có nhân cách đáng trọng… nhưng cuối cùng đều phải chết.
* Điểm khác biệt
- Hồn Trương Ba thì khơng được sống là chính mình, cịn Vũ Như Tơ thì khơng
được thực hiện hồi bão lớn lao của cuộc đời mình.
- Bi kịch của Trương Ba chủ yếu là do nguyên nhân khách quan, cịn bi kịch của
Vũ Như Tơ chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan.
- Trương Ba đã giải quyết được bi kịch của mình, cịn Vũ Như Tơ thì khơng nhận
ra sai lầm của bản thân nên chưa giải quyết được bi kịch.
→ Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một vở chính kịch, Vũ Như Tơ là một vở bi
kịch.
e. Nhận xét về cách ứng xử của hai nhân vật khi bị đẩy vào nghịch cảnh
- Trước nghịch cảnh, Hồn Trương Ba là người có cái nhìn tỉnh táo, cịn Vũ Như
Tơ thì có phần lầm lạc.
20


- Hồn Trương Ba đã có một sự lựa chọn dũng cảm và đầy nhân văn nên dù nhân
vật phải chết nhưng đã giữ trọn vẹn được tâm hồn cao đẹp, để lại tình yêu mến và cảm
phục của mọi người. Cịn Vũ Như Tơ đặt khát vọng nghệ thuật của cá nhân lên trên
quyền lợi trực tiếp và thiết thân của nhân dân lao động nên cuối cùng đã phải trả giá
bằng cả tính mạng và cơng trình nghệ thuật.
3. Kết bài: Đánh giá chung
- Các tác giả Lưu Quang Vũ và Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng thành cơng hai
nhân vật bi kịch và gửi gắm trong đó những thông điệp mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
- Hai tác phẩm đều để lại những bài học về lẽ sống và cách ứng xử của con người
khi bị lâm vào nghịch cảnh: Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng phải sống là
chính mình, giữ linh hồn trong sạch, khơng thể đổ lỗi cho hồn cảnh để tự đánh mất
mình.
Đề 4. Cảm nhận về hai đoạn đối thoại sau trong vở kịch Hồn Trương Ba, da
hàng thịt:

(1)
Vợ Trương Ba: Ơng bây giờ cịn biết đến ai nữa! Cu Tị ốm thập tử nhất sinh, từ
đêm qua đến giờ mê man, mẹ nó khóc đỏ con mắt. Khổ! Thằng bé ngoan là thế! Cái Gái
thương bạn, ngơ ngẩn cả người... Khơng hiểu thằng bé có qua được khơng, khéo mà...
(một lát) Cái thân tơi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh!
Hồn Trương Ba: Sao bà lại nói thế?
Vợ Trương Ba: (Nghĩ ngợi) Tơi nói thật đấy... ơng Trương Ba ạ, tơi đã nghĩ kĩ:
Có lẽ tôi phải đi...
Hồn Trương Ba: Đi đâu?
Vợ Trương Ba: Chưa biết! Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được... đi biệt...
(rưng rưng). Để ông được thảnh thơi... với cô vợ hàng thịt... Cịn hơn là thế này... (khóc)
Hồn Trương Ba: Bà! (sau một hồi lâu) Sao lại đến nông nỗi này?
Vợ Trương Ba: Tôi biết, ông vốn là người thương u vợ con... Chỉ tại bây giờ...
(khóc) Ơng đâu cịn là ơng, đâu cịn là ơng Trương Ba làm vườn ngày xưa, ông biết
không: Thằng cả đã quyết định dứt khốt sẽ bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng
hàng thịt.
Hồn Trương Ba: Thật sao? Không được!

21


Vợ Trương Ba: Ơng bảo khơng được nhưng tơi biết sự thể sẽ đến như vậy, ông sẽ
đành ưng chịu như vậy... Tơi khơng cịn giúp gì ơng được, tốt nhất là... là... khơng có tơi
nữa, cũng khơng có khu vườn nữa! (bỏ ra)
Hồn Trương Ba: Bà! (Ngồi xuống, tay ôm đầu)..."
(2)
(Vườn cây rung rinh ánh sáng. Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị đang
ơm chầm lấy mẹ, chị Lụa cuống quýt vuốt ve con... Bà vợ Trương Ba xuất hiện ở phía
trước sân khấu)
Vợ Trương Ba: Ông ở đâu? Ông ở đâu?

(Giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện.)
Trương Ba: Tôi đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta,
trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà rẫy
cỏ... Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều
tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu...
(Dưới một gốc cây, hiện lên cu Tị và cái Gái)
Cái Gái: (Tay cầm một trái Na) Cây na này ông nội tớ trồng đấy! Quả to mà ngon
lắm! Ta ăn chung nhé!
(Bẻ quả na đưa cho cu Tị một nửa. Đôi trẻ ăn ngon lành. Cái Gái lấy những hạt
na vùi xuống đất.)
Cu Tị: Cậu làm gì thế?
Cái Gái: Cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau
mà lớn khơn. Mãi Mãi..."
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn 12,
tập hai, NXB Giáo dục2017, trang 153)
Từ đó rút ra ý nghĩa nhân sinh mà tác giả gửi gắm qua hai đoạn đối thoại.
* Phân tích đề:
- Vấn đề nghị luận:
+ Nội dung và nghệ thuật của đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba với vợ và đoạn
kết.
+ Tư tưởng nhân sinh của Lưu Quang Vũ.
- Kiểu bài: Nghị luận về hai đoạn trích. Từ đó, rút ra nhận xét, đánh giá, khái qt.
Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, bình luận…
22


- Phạm vi dẫn chứng: Đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba với vợ và đoạn kết
trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.
* Dàn ý:
1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Lưu Quang Vũ và tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
- Giới thiệu về hai đoạn đối thoại.
2. Thân bài
a. Phân tích đoạn đối thoại thứ nhất
* Nội dung
- Sau khi đối thoại với xác hàng thịt, Hồn Trương Ba vô cùng đau khổ, tuyệt vọng
vì khơng được sống là chính mình, bị những nhu cầu của thân xác chi phối, sai khiến và
ngày càng tha hóa, đánh mất đi bản chất tốt đẹp của mình. Ơng tìm đến những người
thân để được an ủi, xoa dịu những nỗi đau trong tâm hồn. Trớ trêu thay…
- Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ muốn bỏ đi: “đi đâu cũng được… cịn
hơn là thế này…”. Bà đau khổ khơng phải vì những rắc rối do ơng Trương Ba sống
trong thân xác anh hàng thịt gây ra. Hơn ai hết, bà hiểu đó là cái giá phải trả để ơng được
sống. Bà đau khổ vì ơng Trương Ba đã thay đổi: “Ơng đâu cịn là ơng, đâu cịn là ơng
Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Đó khơng phải là sự thay đổi về hình dáng bên ngồi
mà là sự thay đổi của tâm hồn, nhân cách bên trong. Ông Trương Ba ngày xưa là người
làm vườn, có những thú vui tao nhã, thích đọc sách, đánh cờ, ươm những mầm xanh cho
cuộc sống, quan tâm và yêu thương những người thân trong gia đình. Ơng Trương Ba
bây giờ thơ lỗ và phũ phàng lắm và hầu như khơng biết gì về mọi việc, mọi người xung
quanh, suốt ngày chìm đắm trong những thú vui bản năng, tầm thường.
- Trước những đau khổ của vợ, Hồn Trương Ba đành bất lực vì bà đã nói ra cái
điều mà chính ơng cũng cảm nhận được. Ơng khơng thể nói lên bất cứ lời an ủi nào, chỉ
hỏi những câu vu vơ, vô hồn kèm theo những động tác dằn vặt, những lời than.
- Hồn Trương Ba nhận thức sâu sắc về sự tồn tại vơ lí và vơ nghĩa của mình. Cuộc
sống cịn có ý nghĩa gì khi bản thân bị đau khổ dày vị và khơng những khơng đem lại
niềm vui cho ai mà còn gây đau khổ cho những người mà mình yêu thương. Sau cuộc
đối thoại với cái Gái và chị con dâu, Hồn Trương Ba càng thấm thía hơn cuộc sống vơ
nghĩa của mình, đó là tác động tâm lí cuối cùng như giọt nước tràn li khiến cho ông đi
đến quyết định dứt khoát: châm hương gọi Đế Thích, trả lại thân xác anh hàng thịt, xin
23



cho cu Tị được sống cịn mình thì mãi mãi ra đi, không nhập vào thân xác của bất kỳ ai
nữa.
* Nghệ thuật: Ngôn ngữ đối thoại sắc sảo, dồn nén, thể hiện được những day dứt,
giằng xé trong nội tâm nhân vật…
b. Phân tích đoạn đối thoại thứ hai
* Nội dung
- Đoạn đối thoại diễn ra trong khung cảnh: "vườn cây rung rinh ánh sáng". Đây là
không gian quen thuộc gắn với con người ông Trương Ba, nơi lưu giữ những hồi ức đẹp
đẽ về một ông Trương Ba hiền lành có tâm hồn sáng, yêu thiên nhiên, gắn bó với cơng
việc và người thân trong gia đình. Trong đoạn có hai chi tiết quan trọng: Lời thoại của
ơng Trương Ba với vợ và hành động của cái Gái ăn quả na rồi vùi hạt xuống đất rồi nói
với cu Tị: cho nó mọc thành cây mới.
+ Chi tiết 1: Hồn Trương Ba xuất hiện qua lời dẫn chuyện: "Giữa màu xanh cây
vườn (...) chập chờn xuất hiện". Đó chỉ là cái bóng, rồi Trương Ba lên tiếng với vợ: "Tôi
vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, con
dao bà giẫy cỏ... Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây trong vườn cây nhà ta,
trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu". Đây là lời
văn, lời nói thấm đẫm cảm xúc thương yêu, quý mến khi được gần gũi bên những người
thân, là hạnh phúc của Trương Ba khi được trở lại là chính mình. Qua lời thoại của Hồn
Trương Ba, người đọc cảm nhận được mặc dù giờ đây hồn ơng khơng có thân xác trú
ngụ, chỉ là cái bóng chập chờn mờ ảo, vơ hình, nhưng đó lại là lúc sự hiện diện của Hồn
Trương Ba nhiều nhất, thường trực nhất. Qua lời thoại này, nhà viết kịch cũng gửi gắm
những triết lý nhân sinh sâu sắc về cuộc sống và cả cái chết: Cái chết không đáng sợ khi
con người ý thức được ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống, khi con người đã sống hết mình
cho những điều mà mình u thích và theo đuổi, đã đem đến niềm vui, niềm hạnh phúc
cho mọi người, đặc biệt là khi con người vẫn giữ được bản chất tốt đẹp của mình.
→ Trương Ba đã chọn sự ra đi nhưng linh hồn của ơng khơng hồn tồn tan biến
vào hư vơ. Linh hồn ấy hịa cùng thiên nhiên cây lá trong vườn, vẫn ln gắn bó với
những người thân, vẫn tồn tại trong những sự vật bình dị nhất, vẫn hằng sống hằng vui

buồn cùng họ, vẫn hiện diện trong những điều tốt lành của cuộc sống…
+ Chi tiết 2: Hành động của cái Gái và lời thoại với cu Tị: vùi hạt na xuống đất
cho nó mọc thành những cây mới. Hình ảnh này mang ý nghĩa biểu tượng: Cái Gái tiếp
nối những điều tốt đẹp mà ơng Trương Ba vẫn làm khi cịn sống là gieo những mầm
24


xanh cho sự sống. Đó cịn là biểu tượng cho sự hồi sinh của linh hồn ông Trương Ba
trong những điều tốt lành của cuộc đời. Dù ông nội của cái Gái đã mất đi về thể xác
nhưng trong lòng nó ơng nội đã hồn ngun kì diệu về tâm hồn. Ông Trương Ba đang
sống một sự sống khác, sự sống trong tâm hồn của những người thân yêu.
* Nghệ thuật: Đoạn kết với những chi tiết nghệ thuật giản dị, gần gũi mà có ý
nghĩa biểu tượng sâu sắc. Ngôn ngữ vừa dung dị vừa giàu chất thơ, một chất thơ vút lên
từ cuộc sống đời thường còn nhiều trái ngang và bi kịch.
c. Ý nghĩa nhân sinh sâu sắc
- Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được là chính mình. Khi phải sống nhờ,
sống gửi, sống chắp vá, sống phụ thuộc vào người khác để đánh mất mình thì cuộc sống
ấy là bi kịch với chính con người đó và với những người xung quanh.
- Ý nghĩa sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học mà chính là sự hiện
diện của ta trong suy nghĩ trong nỗi nhớ của những con người còn sống. Vẻ đẹp tâm hồn
có đời sống dài lâu và bất tử so với thể xác. Tâm hồn cao khiết của ơng Trương Ba vẫn
có mặt trong nỗi hồi niệm, mỗi niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.
- Đoạn trích đem lại bài học nhân sinh thấm đẫm giá trị nhân văn: Được sống làm
người là vô cùng quý giá nhưng được sống đúng mình, sống trọn vẹn những giá trị mình
vốn có và theo đuổi cịn q giá hơn; sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được
sống tự nhiên, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là chiến thắng
được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những
giá trị về tinh thần cao q.
3. Kết bài
Hai trích đoạn trên tuy khơng dài nhưng là sự dồn nén ý tưởng của tác phẩm.

Thắt nút dữ dội và cởi nút nhân văn, Lưu Quang vũ đã đưa đến cho người đọc nhiều
suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống.
Đề 5. Trong cảnh VII vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của tác giả Lưu
Quang Vũ, khi đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba nói: “Khơng! Ta
vẫn có một đời sống riêng: Nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, còn khi đối thoại
với Đế Thích, Hồn Trương Ba lại nhận ra rằng: “Khơng thể bên trong một đằng,
bên ngồi một nẻo được. Tơi muốn được là tơi tồn vẹn”.
Phân tích tâm trạng của nhân vật Hồn Trương Ba qua hai lời thoại trên, từ
đó làm nổi bật những thay đổi trong nhận thức của nhân vật.
* Phân tích đề:
25


×