Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giải pháp phát triển nhóm nghiên cứu các nhà khoa học tại các trường đại học khu vực Tây Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.24 KB, 10 trang )

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109

Giải pháp phát triển nhóm nghiên cứu các nhà khoa học tại
các trường đại học khu vực Tây Nguyên
Phan Thị Thanh Trúc*, Nguyễn Thị Ngọc Lợi
Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum, 704 Phan Đình Phùng, Kon Tum, Việt Nam
Nhận ngày 13 tháng 1 năm 2016
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 5 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 23 tháng 6 năm 2016

Tóm tắt: Bài viết tổng hợp kết quả khảo sát 173 giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng trên
địa bàn Tây Nguyên nhằm tìm kiếm những rào cản trong việc hình thành nhóm nghiên cứu. Kết
quả khảo sát cho thấy, bản thân các giảng viên còn xem nhẹ vai trị của làm việc nhóm, chưa có
thái độ tích cực cũng như cơng nhận lợi ích nhóm. Về yếu tố của nhóm thì hiện các giảng viên
chưa nắm được mục tiêu của nhóm nghiên cứu cũng như cách thức khi họp nhóm đang là những
rào cản chính. Ngồi ra, những khía cạnh về phía nhà trường như cơ sở vật chất, thiếu sự hợp tác
với ban ngành, thủ tục hành chính rườm ra, thiếu sự hỗ trợ của quản lý về mặt tài chính… cũng là
tác nhân cản trở phát triển nhóm nghiên cứu. Trên cơ sở đó, các nhà quản trị tại các trường đại học
có thể đề xuất thêm những chính sách phát triển nhóm nghiên cứu phù hợp với đơn vị.
Từ khóa: Giảng viên, Tây Nguyên, rào cản, nhóm nghiên cứu.

1. Đặt vấn đề

khoa học và cơng nghệ vào sản xuất, đời sống
cịn hạn chế. Sơ kết giữa kỳ chương trình Tây
Nguyên 3 vào năm 2014 cho thấy hiện Tây
Nguyên hình thành được mạng lưới hơn 600
nhà khoa học chủ nhiệm đề tài và chủ trì đề tài
nhánh, tập hợp được hơn 2.000 cán bộ khoa học
điều tra khảo sát. Đây như là điểm sáng cho
hoạt động nghiên cứu khoa học tại khu vực này.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo Tây Nguyên năm


2014, toàn vùng Tây Nguyên có 15 phó giáo sư,
103 tiến sĩ, 1.500 thạc sĩ và 43.505 người có
trình độ đại học (số nhân lực có học hàm, học vị
cao phần lớn tập trung ở các cơ sở đào tạo,
trung tâm nghiên cứu). Số liệu trên đã khẳng
định những nguồn lực đáng quý về đội ngũ cán
bộ khoa học. Bài toán đặt ra cho khu vực này là
làm thế nào để phát huy những thế mạnh trên và
triển khai thực hiện có hiệu quả hoạt động khoa
học trên địa bàn.



Khoa học và công nghệ đóng vai trị quan
trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã
hội. Trong giai đoạn hiện nay, sự gia tăng các
hoạt động liên ngành, tính phức tạp kèm theo
chi phí cao trong khoa học hiện đại buộc các
nhà khoa học phải hợp tác với nhau [1]. Sự hợp
tác này hình thành mạng lưới khoa học rộng
lớn, giúp chia sẻ kiến thức, chuyển giao cơng
nghệ nhanh chóng.
Tây Ngun có ví trí địa chính trị quan
trọng, được thiên nhiên ưu đãi về tài nguyên
thiên nhiên nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế,
thu nhập của người dân thấp nhất cả nước. Một
trong những nguyên nhân chính là sự ứng dụng

_______



Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-976443986
Email:

100


P.T.T.Trúc, N.T.N. Lợi / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109

Xuất phát từ thực tiễn đó, nghiên cứu này
nhằm làm rõ các khái niệm về nhóm nghiên cứu
và mạng lưới nghiên cứu, khẳng định vai trị
của nhóm nghiên cứu (NNC) giảng dạy trong
xây dựng mạng lưới nghiên cứu, đánh giá thực
trạng NNC cũng như xác định nguyên nhân dẫn
đến việc hình thành các NNC kém hiệu quả.
Bên cạnh đó, nghiên cứu cịn chỉ ra cơ sở để
hình thành mạng lưới nghiên cứu và đề xuất các
chính sách phù hợp trong tổ chức triển khai
nghiên cứu các vấn đề của Tây Ngun từ mơ
hình NNC.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Tổng quan về nhóm nghiên cứu và mạng
lưới nghiên cứu
Nghiên cứu là một q trình có các bước
thu thập và phân tích thơng tin nhằm gia tăng sự
hiểu biết của chúng ta về một chủ đề hay một
vấn đề [2]. Triết lý làm việc theo nhóm là hiệu
ứng số đơng (chứ không phải là số đông), là
hiệu quả của sự kế thừa và lũy tiến. Nếu nhóm

người hợp tác để làm việc cùng nhau thì hiệu
quả chung sẽ tăng lên rất nhiều so với làm việc
theo mục tiêu của từng cá nhân và sẽ được lũy
tiến theo thời gian, đặc biệt trong lĩnh vực
nghiên cứu. Vì khi đó, thế mạnh của từng người
sẽ được phát huy tối đa theo sự cộng hưởng lẫn
nhau, cịn điểm yếu thì lại được bù đắp. Trong
bối cảnh hiện nay, với tính chất liên ngành,
xuyên ngành, liên vùng được quán triệt không
chỉ trong hoạt động KHCN, mà trong tất cả các
hoạt động của xã hội đều phải làm việc trong sự
hợp tác.
Những nghiên cứu trước đã sử dụng sơ đồ
nhánh cây để mô tả khái niệm mạng lưới khoa
học [3]. Nó được tạo thành với các điều khoản,
quy định chung của NNC dựa vào cấu trúc,
chức năng, mức độ tương tác trong các ngành
khoa học khác nhau. Vì vậy, mạng lưới khoa
học được hiểu là: “Các nhà khoa học trong
nước tạo thành một cộng đồng khoa học quốc
gia, một cộng đồng trong mạng lưới khoa học
thế giới” [4].

101

2.2. Các nghiên cứu trước đây
2.2.1. Nghiên cứu trong nước
NNC là một tập thể nghiên cứu/hoạt động
khoa học được thành lập một cách tự nguyện
hay theo ý đồ phát triển của tổ chức (nhưng

không phải là một đơn vị hành chính). Vai trị
của NNC ảnh hưởng lớn đến chất lượng của các
cơng trình nghiên cứu. Kinh nghiệm của các
trường Đại học Tổng hợp Matxcơva mang tên
Lơmơnơxốp, có một hệ thống tổ chức điển hình
cho một đại học hiện đại: Trường, rồi đến
Khoa, dưới Khoa là các Bộ môn và trong Bộ
mơn là các NNC. Ngồi các tập thể như vậy
trong mỗi Bộ mơn, trong Trường cịn có các tập
thể nghiên cứu khoa học liên bộ môn, liên khoa,
các viện và trung tâm, tạo nên hệ thống NCKH
rất vững mạnh của Trường [5].
Tác giả Đặng Hùng Thắng, xác định công
thức để thành công trong NCKH= Năng lực
nghiên cứu+ Động lực nghiên cứu + Mơi
trường nghiên cứu tốt [6]. Trong đó, yếu tố
động lực nghiên cứu có tác động khơng nhỏ và
là vấn đề nan giải hiện nay tại các trường đại
học, bởi thu nhập của giảng viên trẻ quá thấp,
đồng lương khơng đủ trang trải sinh hoạt phí
cho nên việc lo toan bảo đảm cuộc sống khiến
họ không đủ tâm trí cũng như dốc tồn lực cho
nghiên cứu khoa học. Vì vậy, cần có chính sách
khuyến khích giảng viên có nghiên cứu công bố
quốc tế (cao hơn so với giảng viên khác). Về
mơi trường nghiên cứu có phần cứng và phần
mềm. Phần cứng chính là cơ sở vật chất như
phịng thí nghiệm, trang thiết bị phục vụ nghiên
cứu hiện cịn sơ sài, chưa đạt chuẩn. Thêm vào
đó, yếu tố mềm chính là NNC hiện cịn ở mức

sơ khai. Mặc dù có nhóm làm việc nhưng chỉ
mang tính hình thức, mỗi người theo một vấn
đề riêng lẻ nhưng không tạo tiếng nói chung,
hướng đến mục đích chung, cho nên khơng phát
huy được sự hợp tác, trao đổi, chia sẻ ý tưởng
với nhau. Điều này ngược lại với xu hướng thế
giới, NNC là sự bù đắp điểm yếu của nhau,
giúp các thành viên tích lũy được kinh nghiệm
theo thời gian. Để hình thành các NNC, cần
phải có những nhà nghiên cứu có năng lực uy
tín, vạch ra hướng nghiên cứu và mục tiêu


102 P.T.T.Trúc, N.T.N. Lợi / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109

nghiên cứu rồi tập hợp mọi người lại. Do vậy
về phía nhà trường cần ký hợp đồng với các nhà
khoa học bên ngoài trường để xây dựng NNC.
Đầu năm 2015, Viện Hàn lâm khoa học xã
hội Việt Nam và Viện khoa học xã hội vùng
Tây Nguyên tổ chức hội thảo về “Mạng lưới
các nhà khoa học xã hội nghiên cứu về Tây
Nguyên” cho rằng nguyên nhân công tác nghiên
cứu khoa học chưa đáp ứng được nhu cầu và
đòi hỏi thực tiễn tại Tây Nguyên bởi các nhà
nghiên cứu gặp nhiều khó khăn khi đối mặt với
đối tượng nghiên cứu mang tính đặc thù phức
hợp, khơng dễ dàng nhận diện, giải mã. Và lực
lượng nghiên cứu vẫn còn mỏng, thiếu liên kết
giữa nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã

hội, thiếu sự chia sẻ kết quả nghiên cứu cũng
như dữ liệu về Tây Nguyên thiếu đồng bộ,
tổng thể.
2.2.2. Nghiên cứu nước ngoài
Nobahar nghiên cứu về mức độ liên kết
giữa các giảng viên trong nghiên cứu khoa học
của trường đại học tại Kermanshah với cỡ mẫu
là 253 [7]. Các rào cản bao gồm rào cản tài
chính, học thuật, con người, cơ cở, chuyên môn
và quản lý. Nhằm nâng cao hiệu quả NNC, tác
giả đề xuất các giải pháp: tăng liên kết đào tạo
về học thuật với các nước khác; gia tăng sự hợp
Những nhân tố cá nhân
Thái độ tích cực
Giáo viên có nhiều kinh nghiệm
nghiên cứu
Tuyển chọn giáo viên
Đào tạo trong nhóm
Cơng nhận lợi ích của nhóm.
Kỹ năng quản trị xung đột.
Nhận được sự hỗ trợ từ phía quản lý.
Kỹ năng thiết lập mối quan hệ.
Tự đánh giá và nhóm đánh giá.

tác giữa các giảng viên giữa các trường đại học;
tăng sự chú ý với những sinh viên, nhà nghiên
cứu tài năng; gia tăng kinh phí cho các nhà
nghiên cứu; tăng cường trang thiết bị và
phương tiện cần thiết tại các trường Đại học
(sách, máy tính, phần cứng, Lab); tăng cường

thông tin liên lạc, kết nối giữa nhà trường và
doanh nghiệp; giảm thủ tục hành chính, đặc biệt
là thủ tục in ấn và thanh lý; nghiêm túc thực
hiện kết quả nghiên cứu của dự án; sử dụng
công tác quản lý trong nghiên cứu.
Perkins đề xuất các nhân tố ảnh hưởng tới
nghiên cứu khoa học dựa vào hai nhóm: phía
cung cấp dự án và về phía các nhà nghiên cứu
[8]. Những rào cản ảnh hưởng tới nghiên cứu
khoa học như sự khác biệt giữa nhà nghiên cứu
và nhà hoạch định chính sách, thời hạn, mục
đích dự án, năng lực người nghiên cứu có phù
hợp với dự án hay khơng, thủ tục hành chính
của đơn vị quản lý, nội dung, cơng nghệ cho dự
án, và chính sách cơ bản cho dự án là như thế
nào và vai trò của đơn vị tài trợ ngân sách cho
dự án ra sao sẽ tác động cùng chiều đến nghiên
cứu khoa học.
Tác giả Main đề xuất các rào cản trong việc
hình thành và phát triển NNC trong trường học
bao gồm [9]:

Những nhân tố của nhóm
Hiểu được q trình làm việc
nhóm bao gồm:
Quy tắc của nhóm
Mục tiêu của nhóm
Vai trị của nhóm
Thời gian lên kế hoạch chung.
Cách giao tiếp, nghi thức khi

họp nhóm.
Sự ổn định của các thành viên.

Mơ hình này được nhóm tiếp tục sử dụng và
bổ sung thêm các nhân tố ảnh hưởng từ các
nghiên cứu khác.

Những nhân tố thuộc nhà trường
Cơ sở vật chất của trường
Thói quen và truyền thống trong
hợp tác của nhóm.
Nhóm nhận được ủng hộ, hỗ trợ
của quản lý.
Sự ổn định của nhân viên

3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước,
nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên
cứu định tính thơng qua kỹ thuật thảo luận
nhóm gồm 10 giảng viên thuộc Phân hiệu Đại


P.T.T.Trúc, N.T.N. Lợi / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109

học Đà Nẵng tại Kon Tum nhằm tìm ra các
nguyên nhân ảnh hưởng đến NNC phù hợp với
đặc thù Tây Nguyên.
Kết quả bổ sung thêm các nhóm như sau:
Nhóm nhân tố cá nhân: Khơng thay đổi
Nhóm nhân tố của nhóm: khơng thay đổi.

Nhóm thuộc về nhà trường:
Bổ sung:
- Nhóm nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ của
quản lý về mặt thời gian.
- Nhận được sự ủng hộ về mặt tài chính.
- Thiếu sự hợp tác của các cơ quan ban ngành.
- Thủ tục hành chính rườm ra.
Bỏ biến: “Sự ổn định của nhân viên”.
Các nhân tố này được tiếp tục đưa vào bảng
câu hỏi bao gồm nhóm cá nhân (gồm 10 nguyên
nhân thuộc P), yếu tố nhóm (gồm 6 nguyên
nhân thuộc T), về phía nhà trường (6 nguyên
nhân thuộc S). Khảo sát được tiến hành thông
qua google.doc. Bảng hỏi được xây dựng trên
thang đo Likert 5 điểm, thu thập ý kiến của
giảng viên trên hai góc độ:
- Đánh giá mức độ quan trọng của các nguyên
nhân ảnh hưởng đến việc thành lập nhóm (1: rất
khơng quan trọng đến 5: rất quan trọng).
- Tự đánh giá mức độ đáp ứng của bản thân
trong việc tham gia NNC (1: Đáp ứng rất thấp,
5 đáp ứng rất cao).
Thông qua phương pháp khảo sát trực
tuyến, chúng tôi ghi nhận được hơn 173 giảng
viên tham gia. Trong đó, cỡ mẫu như bảng 1.
Số mẫu thu thập được 173 người tham gia
khảo sát, trong đó có 140 người là giảng viên
chiếm 80,9%, cán bộ quản lý (CBQL) chiếm
19,1%, trong đó, có 60,7% giảng viên có độ
tuổi dưới 30, từ 30-40 tuổi có 32,9%, số cịn lại

trên 40 tuổi, đây là nhóm có nhiều kinh nghiệm
giảng dạy và nghiên cứu. Thêm vào đó, có 48%
giảng viên tham gia khảo sát đang có trình độ
đại học hoặc tham gia học thạc sỹ, 45% là thạc
sỹ và 6,9% là tiến sỹ.

103

Bảng 1. Thống kê cỡ mẫu giảng viên trên khu vực
Tây Nguyên
STT
1
2
3
4

Tên trường
Phân hiệu đại học Đà Nẵng
tại Kon Tum
Trường cao đẳng sư phạm
tỉnh Kon Tum
Trường đại học Tây Nguyên
Trường cao đẳng sư phạm
Gia Lai

Tổng

Tổng cỡ
mẫu
65

33
44
31
173

Nguồn: Dữ liệu khảo sát

4. Thực trạng mạng lưới nghiên cứu tại
Tây Nguyên
4.1. Thực trạng chất lượng nghiên cứu của
giảng viên tại khu vực Tây Nguyên
Tây Nguyên hiện có 4 trường đại học, 03
Phân hiệu đại học, 9 trường cao đẳng chuyên
nghiệp, 5 trường cao đẳng nghề. Quy mô năng
lực đào tạo đại học, cao đẳng của khu vực này
như sau:
Bảng 2. Thống kê về quy mô giáo viên các trường
đại học, cao đẳng khu vực Tây Nguyên
2011

2012

2013

2014

Kon Tum

210


165

152

200

Gia Lai

116

111

106

106

Đăk Lăk

580

530

459

617

Đăk Nông

..


..

..

..

Lâm Đồng

636

614

694

538

Tây Nguyên

1542

1420

1411

1461

Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2015

Dựa vào bảng 2, cho thấy so với năm 2011
thì số giảng viên khu vực này có xu hướng

giảm nhẹ qua các năm. Điều này chứng tỏ khu
vực đang chứa đựng những nhân tố khiến cho
nhóm chất lượng nguồn nhân lực cao đang dịch
chuyển sang khu vực khác.


104 P.T.T.Trúc, N.T.N. Lợi / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109
Bảng 3. Cơ cấu về trình độ giảng viên tại Tây Nguyên năm 2014
Trình độ

Tiến sỹ

Thạc sỹ

Đại học

Cao đẳng

Trung cấp

Khác

Số lượng

115

719

575


25

22

5

Tỷ lệ

7,9%

49,2%

39,4%

1,7%

1,5%

0,3%

Nguồn: Nguyễn Lê Bảo Ngọc (2015)

Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sỹ thấp
chiếm 7,9%, thạc sỹ chiếm 49,2%, đại học gần
40%... Ngay như đại học Tây Nguyên, nơi có
bề dày truyền thống về đào tạo trong vùng
nhưng chỉ có 11% giảng viên có trình độ tiến
sỹ, 52% có trình độ thạc sỹ năm 2014, đại học Đà
Lạt cũng chỉ có 11% giảng viên là tiến sỹ [10].


Một trong những chỉ tiêu đo lường và đánh
giá chất lượng trường đại học dựa vào số lượng
bài nghiên cứu công bố quốc tế của giảng viên.
Công bố của Cục Thông tin Khoa học và Công
nghệ công bố danh sách trường có cơng bố quốc
tế (tạp chí ISI) giai đoạn 2010-2015 như sau:

Bảng 4. Danh sách các trường hàng đầu Việt Nam có cơng bố quốc tế giai đoạn 2010-2015
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

Tên Trường
Viện khoa học công nghệ
Đại học Quốc gia Hà Nội
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
Đại học Bách Khoa Hà Nội

Đại học Sư phạm Hà Nội
Đại học Cần Thơ
Đại học Y Hà Nội
Viện vệ sinh dịch tễ TƯ
Đại học Vinh
Đại học Huế
Đại học Bách Khoa Sài Gòn
Đại học Tơn Đức Thắng
Bệnh viện Nhiệt đới (Sài Gịn)
Đại học Y Dược
Đại học Nông Lâm

Số bài báo
1572
926
709
598
379
308
256
197
181
141
135
133
120
117
112

Nguồn: Cục thông tin khoa học và Công nghệ (2015)


Kết quả này cho thấy trong giai đoạn 20102015, khu vực Tây Ngun khơng có trường đại
học nào lọt vào top các trường có cơng bố quốc

tế. Với lực lượng giảng viên mỏng, chủ yếu
tham gia giảng dạy, cho nên khoảng trống về
nghiên cứu khoa học đang khá lớn.

Hình 1. Thống kê về thời gian thành lập NNC (mang tính chính thức)
Nguồn: Dữ liệu của khảo sát


P.T.T.Trúc, N.T.N. Lợi / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109

Mặt khác, khi được hỏi “Trường anh/chị đã
và đang hình thành các NNC chưa”, có 63%
giảng viên hiện nay trường đã và đang hình
thành các NNC theo hình thức nghiên cứu
chuyên ngành, 100% giảng viên đồng ý trường
có NNC theo bộ mơn.
Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cho thấy hiện
các NNC mới đi vào hoạt động, dưới 1 năm
chiếm 57%, 1-2 năm chiếm 18% số còn lại trên
2 năm. Thời gian hoạt động các NNC ngắn cho
thấy NNC theo chun ngành của giảng viên
cịn sơ khai.

105

4.2.1. Nhóm nhân tố cá nhân

Có 10 ngun nhân chính được đưa vào
bảng khảo sát được mã hóa từ (P1 đến P10, ở
bảng 5) và được đánh giá ở mức quan trọng,
trong đó, “thái độ tham gia nhóm” tác động lớn
nhất. Bởi việc tham gia nhóm chiếm nhiều thời
gian nhưng hiệu quả thấp, cộng thêm thu nhập
từ nghiên cứu khoa học thấp hơn nhiều so với
từ các hoạt động giảng dạy, cho nên nghiên cứu
khoa học ít được giảng viên coi trọng. Do vậy,
nhà quản lý cần hỗ trợ quan tâm vấn đề này hơn
(biến P7).

4.2. Nhận diện những nguyên nhân ảnh hưởng
đến hình thành và phát triển nhóm nghiên cứu
Bảng 5. Thống kê về nhóm nhân tố cá nhân ảnh hưởng đến NNC

N

Giá trị nhỏ
nhất

Giá trị lớn
nhất

Giá trị trung
bình

Độ lệch
chuẩn


P2: Giáo viên có nhiều kinh nghiệm
nghiên cứu

173

2

5

3,4508

0,93022

P3: Nhóm được tuyển lựa thành viên

173

2

5

3,5780

1,00637

P8: Kỹ năng thiết lập mối quan hệ

173

1


5

3,6590

0,94278

P10: Năng lực nghiên cứu khoa học
P6: Kỹ năng quản trị xung đột trong
nhóm

173

2

5

3,6994

0,81544

173

1

5

3,7457

0,91756


P4: Đào tạo nhóm về nghiên cứu

173

1

5

3,9191

1,04232

P9: Tự đánh giá và nhóm đánh giá

173

1

5

3,9595

0,83079

P5: Cơng nhận lợi ích của nhóm

173

2


5

3,9884

0,95228

P7: Nhận được sự hỗ trợ từ nhà quản lý

173

1

5

4,0173

0,89231

P1: Thái độ tích cực

173

2

5

4,1098

0,70263


Nguồn: Dữ liệu khảo sát

Bên cạnh đó, khi hình thành NNC, mỗi
giảng viên có những quan điểm khác nhau, bất
đồng gây ra mâu thuẫn lớn trong nhóm, nhưng
thiếu hụt những nhóm trưởng có kỹ năng để
quản trị xung đột khiến các NNC chỉ hoạt động
cầm chừng.
Về mức độ đáp ứng, các nhân tố P1: thái độ
tích cực, P4: Cơng nhận lợi ích nhóm, P7: nhận
được sự hỗ trợ của quản lý, ở dưới mức trung
bình hoặc trung bình. Điều này càng khẳng định
bản thân giảng viên ở khu vực này không quan
tâm nhiều hoặc đánh giá cao vai trị của NNC.

Mặt khác, với đội ngũ quản lý khơng quan tâm
nhiều tới việc hình thành NNC. Các nhân tố cịn
lại như P2: Giáo viên có nhiều kinh nghiệm, P3:
nhóm được tuyển lựa thành viên, P9: khả năng
tự đánh giá ở trên trung bình nhưng ở mức đáp
ứng thấp. Năng lực cũng như kinh nghiệm trong
nghiên cứu khoa học đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy, tuy
nhiên, hiện chỉ tiêu này đang được giảng viên
đánh giá mức độ đáp ứng hiện thấp. Các kỹ
năng quản trị xung đột nhóm (P6), kỹ năng thiết
lập mối quan hệ (P8) có mức độ đáp ứng cao hơn.



106 P.T.T.Trúc, N.T.N. Lợi / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109

Hình 2. Giảng viên tự đánh giá nhân tố cá nhân đáp ứng được yêu cầu tham gia nhóm nghiên cứu.
Nguồn: Dữ liệu khảo sát

4.2.2. Nhân tố thuộc nhóm
Các nhân tố thuộc Nhóm được đánh giá ở
mức quan trọng, trong đó “hiểu về mục tiêu của
nhóm” (T2) là cần thiết nhất; tiếp đến là “sự ổn

định của các thành viên” (T6); “quy tắc, vai trị
của nhóm” (T1, T3); cuối cùng là “cách giao
tiếp, giao thức khi họp nhóm” và “nắm được
thời gian kế hoạch chung của nhóm”.

Bảng 6. Thống kê mức độ quan trọng của các nhân tố thuộc yếu tố Nhóm

Tiêu chí

N

Giá trị nhỏ
nhất

Giá trị lớn
nhất

Giá trị trung
bình


Độ lệch
chuẩn

T4: Nắm được thời gian lên kế hoạch chung

173

1

5

3,3064

0,83095

T5: Cách giao tiếp, giao thức khi họp nhóm

173

1

5

3,422

0,92194

T1: Hiểu quy tắc của nhóm

173


1

5

3,4682

0,97371

T3: Hiểu vai trị của nhóm

173

2

5

3,5087

0,91256

T6: Sự ổn định của các thành viên

173

1

5

3,5838


0,88276

T2: Hiểu mục tiêu của nhóm

173

1

5

3,5896

0,93964

Nguồn: Dữ liệu khảo sát

Về mức độ đáp ứng , kết quả cho thấy các
giảng viên nắm khá rõ các quy tắc của nhóm
(T1), cách giao tiếp, giao thức khi họp nhóm
(T5), sự ổn định của thành viên nhóm (T6) đều
ở mức cao. Tuy nhiên, hiểu về mục tiêu của
nhóm (T2) và hiểu vai trị của nhóm (T3) thì
mức độ đáp ứng tuy trên trung bình nhưng so
với mức độ quan trọng vẫn còn khoảng cách
khá xa.

4.2.3. Nhân tố thuộc về nhà trường
Các nhân tố được đánh giá ở mức quan
trọng cao, trong đó S2 “Thói quen và truyền

thống trong hợp tác của nhóm” được đánh giá
cao nhất, khẳng định vai trị của văn hóa tổ
chức trong nhà trường trong hợp tác, chia sẻ,
hướng tới mơ hình tổ chức học tập rất cần thiết
trong giai đoạn hiện nay. Tiếp theo là “cơ sở vật


P.T.T.Trúc, N.T.N. Lợi / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109

chất của nhà trường” (S1)như phịng thí
nghiệm, phịng máy, tài liệu tham khảo trong
thư viện… của các trường đại học trên Tây
Nguyên còn khá hạn chế, đặc biệt hạ tầng cho
các ngành nông lâm nghiệp, công nghệ sinh

107

học. Cộng thêm “sự hợp tác với ban ngành khác
với nhà trường” (S5), “thủ tục rườm rà” (S6)
khiến nhiều giảng viên không muốn tham gia
làm chủ nhiệm đề tài khoa học các cấp.

Hình 3. Thống kê về mức độ đáp ứng của giảng viên về các yếu tố thuộc Nhóm.
Nguồn: Dữ liệu khảo sát

Bảng 7. Thống kê đánh giá mức độ quan trọng về các nhân tố thuộc về nhà trường
N

Giá trị
lớn nhất

5

Giá trị
trung bình
3,1503

Độ lệch
chuẩn
1,0061

S3: Nhóm nhận được sự hỗ trợ mặt thời gian

173

Giá trị
nhỏ nhất
1

S4: Nhận được sự ủng hộ về mặt tài chính

173

1

5

3,4104

0,9018


S6: Thủ tục hành chính rườm ra khi thanh lý

173

1

5

3,578

0,9092

S5: Sự hợp tác với ban ngành khác

173

1

5

3,5838

1,0344

S1: Cơ sở vật chất của nhà trường

173

1


5

3,8092

0,8237

S2: Thói quen và truyền thống trong hợp tác của nhóm

173

2

5

4,0462

0,7056

Nguồn: Dữ liệu khảo sát

Hình 4. Thống kê về mức độ đáp ứng của giảng viên về các yếu tố thuộc nhà trường.
Nguồn: Dữ liệu khảo sát


108 P.T.T.Trúc, N.T.N. Lợi / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109

Kết quả có thể thấy cơ sở hạ tầng của nhà
trường, thủ tục hành chính, thói quen hợp tác
cũng như sự liên kết ban kết ngành khác hỗ trợ
trong việc NCKH đang là những rào cản lớn,

mặc dù đáp ứng trên mức trung bình nhưng cịn
ở mức thấp. Hiện các giảng viên nhận được sự
hỗ trợ về mặt quản lý thời gian ở mức cao.
5. Kiến nghị
Mạng lưới NCKH ở Tây Nguyên khá nhiều
về số lượng, đa dạng về hình thức tổ chức và
loại hình hoạt động nhưng xét ở góc độ một
vùng cịn nhiều khó khăn. Sự thiếu liên kết
trong hoạt động và thiếu vắng các giải pháp cụ
thể gây kém hiệu quả. Vì vậy, rất cần giải pháp
nhằm phát huy vai trò quan trọng của hoạt động
nghiên cứu và triển khai (NC&TK), dịch vụ,
chuyển giao, áp dụng công nghệ,… của các tổ
chức trong mạng lưới, phù hợp với bối cảnh
điều kiện thực tế của Tây Nguyên. Do vậy,bài
viết đưa ra các giải pháp để cởi bỏ các nút thắt
trên như sau:
Thứ nhất: cần nâng cao nhận thức đối với
giảng viên về vai trò của NNC. Mỗi NNC nên
có chuyên gia đầu ngành là người đầu tàu cho
mọi hoạt động, yếu tố này sẽ kích thích và
khuyến khích sự tham gia của các giảng viên
trẻ. Mặt khác, tuyên truyền vận động sự hợp tác
nghiên cứu giữa các nhà khoa học. Nâng cao
nhận thức của họ về tầm quan trọng của nghiên
cứu nhóm so với tư duy lợi thế cá nhân. Thực tế
đã cho thấy NCKH theo nhóm giúp cải thiện và
nâng cao năng lực nghiên cứu của nhóm nghiên
cứu, trên cơ sở phối tác với cơ sở nghiên cứu
nước ngồi, nhóm nghiên cứu có điều kiện trao

đổi học thuật, học hỏi kinh nghiệm và nâng cao
khả năng tiếp cận các nghiên cứu thực tiễn,
hoàn thiện về cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu, cho phép thực hiện các nghiên cứu
chuyên sâu.
Thứ hai, hiện đa phần các NNC mới được
thành lập nên việc hoạt động mang tính hình
thức bởi mục tiêu chưa xác định rõ ràng cũng
như kế hoạch thực hiện chưa cụ thể. Do vậy,
các nhà quản lý cần hỗ trợ các NNC xác định

mục tiêu rõ ràng và phổ biến đến các thành viên
trong nhóm.
Thứ ba, các sản phẩm nông sản như cà phê,
cao su, tiêu…mang lại thu nhập cao cho người
dân khu vực Tây Nguyên, do vậy các trường
đại học cần cải thiện cơ sở hạ tầng trong các
ngành nông nghiệp, công nghệ sinh học…
nhằm giúp giảng viên có cơ sở để nghiên cứu.
Ngồi ra, cần giảm thiểu thủ tục hành chính
rườm rà khi thanh lý. Nhà trường cần xây dựng
các chính sách kết nối với sở ban ngành trong
việc xin số liệu liên quan cũng như hợp tác để
dễ dàng chuyển giao sản phẩm nghiên cứu.
Thứ tư, xây dựng hệ thống chính sách đãi
ngộ khuyến khích giảng viên NCKH như hỗ trợ
chi phí đăng báo, thưởng cao hơn cho các giảng
viên có cơng trình cơng bố quốc tế hoặc giảng
viên có sự chuyển giao công nghệ cho địa
phương nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất.

Tài liệu tham khảo
[1] Beaver, D. và R. Rosen (1979), Studies in
Scientists
Collaboration:
Part
III
Professionalization and the Natural History of
Modern Scientific Co-authorship, Scientometrics
1(3): 231 - 45.
[2] Creswell, J. W. (2008). Educational research:
planning, conducting, and evaluating quantitative
and qualitative research (3rded). Upper Saddle
River: Pearson.
[3] Whitney, G. (1975, 1976 và 1978). Access to
Third Word Science in International Scientific
and
Technical
Bibliagraphic
Databases,
Scientometrics 23 (2 -3): 201 – 19.
[4] Scott, T.1998. International Influence in Science:
Beyond Center and Periphery. Social
Science Research 17(2): 219 – 38.
[5] Trương, Q. H. (2011), Nhóm nghiên cứu khoa học
- yếu tố quyết định tới chất lượng của hoạt động
khoa học-công nghệ và đào tạo sau đại học.
/>[6] Thắng, Đ.H. (2015), Bốn giải pháp thúc đẩy
nghiên cứu khoa học, Đại học quốc gia Hà Nội.
/>


P.T.T.Trúc, N.T.N. Lợi / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 32, Số 2 (2016) 100-109

[7] Nobahar, N.(2014). Investigation of Research
Barriers and Challenges in University from the
Perspective of Faculty Members of Kermanshah
City, International Journal of Social Sciences
(IJSS), Vol.4, No.4, 2014.
[8] Perkins, N. (2008). Institute of Development
Studies (IDS), at the seminar: ”Research
Communication – Why and how?”, University of
Copenhagen, May 8, 2008.

109

[9] Main, K. (2007). Effective teaching teams:
Facilitators and barriers, Australian Teacher
Education Association.
[10] Nguyễn Lê Bảo Ngọc (2015) & cộng sự, Hoạt
động đào tạo sinh viên dân tộc thiểu số ở các
trường đại học và cao đẳng ở Tây Nguyên: Thực
trạng và định hướng, Hội thảo Phân hiệu đại học
Đà Nẵng tại Kon Tum, trang 135-145.

Solutions of Developing Research Team of Scientists
at the University of Central Highlands Region
Phan Thi Thanh Truc, Nguyen Thi Ngoc Loi
Da Nang University Branch at Kontum, 704 Phan Dinh Phung, Kon Tum, Vietnam

Abstract: This paper is the result of surveying 173 lecturers at universities and colleges in
provinces of the Central Highlands in order to find out the barriers in the formation of the research

group. The result shows that lecturers have still underestimated the role of teamwork, are yet to have
positive attitudes as well as recognizing the interests of group. In terms of the elements of groups, that
the lecturers have now still not grasped the goals of the research team as well as the method when the
group meets is the main barrier. On the other hand, the universities are yet to cooperate with the
agencies, while there are still cumbersome administrative procedures, lacking the support of the
financial management. All of these are also the agent that obstructs the development of the research
group. On this basis, the managers at these universities can propose more policies on development of
research groups to be suitable to their own units.
Keywords: Lecturers, Central Highlands, barriers, the research group.



×