1
HỘI KHOA HỌC TÂM LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM
PGS TS LÊ SƠN TS LÊ HỒNG MINH
GIÁO TRÌNH
BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ
TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG
PHẦN 1&2
TP HCM 2014
PHÁT HÀNH NỘI BỘ EBM GROUP
2
PHẦN I
NHẬP MÔN TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG
Chương 1: Tư vấn học đường ra đời và phát triển nghiệp vụ
1. Sơ lược lịch sử nghiệp vụ
2. Tư tưởng nghiệp vụ của Parsons và Rogers
3. Tư vấn học đường trên thế giới
4. Tình hình tư vấn học đường tại Việt Nam
Chương 2 : Khái niệm tư vấn học đường
1. Tư vấn học đường xưa và nay
2. Chương trình tổng thể tư vấn học đường
3. Đặc điểm, vai trò và tầm quan trọng của chương trình
4. Mục tiêu tư vấn học đường ở các cấp học
Chương 03 : Phẩm chất tư vấn viên học đường
1. Vai trò, nhiệm vụ
2. Phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp
3. Những phẩm chất và kỹ năng cần tự rèn luyện
4. Đào tạo và sử dung tư vấn viên học đường
Chương 04 : Tư vấn tâm lý và kỹ năng cơ bản
1. Tư vấn tâm lý
2. Kỹ năng giao tiếp
3. Kỹ năng truyền thông
4. Kỹ năng khởi dậy
5. Kỹ năng hỗ trợ quyết định của thân chủ
Chương 05 : Hướng nghiệp, và các kỹ năng
1. Hướng nghiệp truyền thống và hiện đại
2. Kỹ năng tư vấn hướng nghiệp
3. Bộ trắc nghiệm hướng nghiệp
4. Hướng dẫn sử dụng bộ trắc nghiệm
82
3
PHẦN II
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG
Chương 06: Chương trình tổng thể : Mơ giáo dục tồn diện
1.
2.
3.
4.
Mơ hình giáo dục tồn diện : dạy chữ, dạy người ,dạynghề,
Ba nhiêm vụ của chương trình tư vấn học đường tổng thể
Bốn nghiệp vụ chủ yếu trong tư vấn học đường ngày nay
Các bước tiến hành chương trình tổng thể tư vấn
Chương 07
Tổ chức tư vấn tâm lý trong tư vấn học đường
1. Tư vấn tâm lý - nhu cầu và mục đích
2. Đặc điểm tở chức tư vấn tâm lý trong nhà trường
3. Tư vấn giản lược- những điều cần lưu ý
4. Đặc điểm tư vấn khủng hoảng
5. Ýnghĩa của tư vấn nhóm
Chương 8 : Tổ chức Hướng nghiệp trong tư vấn học đường
1. Mục đích hàng đầu của công tác tư vấn học đường
2. Hướng dẫn kế hoạch học tập cho tất cả học sinh
3. Thẩm định năng lực học sinh và phối hợp các nguồn lực hỗ trợ
4. Hỗ trợ quyết định chọn hướng học, hướng nghiệp
5. Quan hệ cộng đồng và các thông tin về nguồn nhân lực
Chương 09: Một số lý thuyết chủ yếu trong tư vấn tâm lý
1. Kiến thức chung về tâm lý học và tư vấn tâm lý
2. Phân tâm học freud, jung, Adler
3. Thuyết Hành vi , Nhận thức-Hành vi,và Trị liệu Thực nghiệm
4. Thuyết Tâm lý học Tự tâm và Thân chủ Trọng tâm Rogers
5. Các thuyết khác (Gestalt, REBT, Invitational Counseling
Chương 10: Một số lý thuyết chủ yếu trong hướng nghiệp
1.
2.
3.
4.
5.
Lý htuyết về thế giới nghề nghiệp và phân loại nghề
Lý thuyết về tính cách con người và loại nghề
Lý thuyết về phân đoạn đời người và nghề nghiệp
Lý thuyết về trọng điểm đặc thù hướng nghiệp
Các lý thuyết khác ( bán cầu não, vân tay, tử vi…)
4
PHẦN III
CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỘI THẢO TẬP HUẤN
Chuyên đề 1:
Trí nhớ trí thơng minh
1. Khái niệm tâm lý học trí tuệ
2. Trí nhớ và não bộ
3. Các cách ghi nhớ
4. Trí thơng minh, sáng tạo
5. Cải thiện trí thơng minh
Chuyên đề 2 :
Giáo dục giới tính
1. Bốn giai đoan phát triển tâm sinh lý trẻ
2. Những dấu hiệu ẩn ức và nguyên nhân
3. Các nguyên tắc và phương pháp giáo dục giới tính
4. Một số kiến thức thơng dụng về sức khỏe sinh sản
Chuyên đề 3 :
Trị liệu tự kỹ và tăng động
1. Học sinh tăng động : Khái niệm
2. Dấu hiệu tăng động và phương thức tư vấn điều trị
3. Khái niệm trẻ tự kỷ
4. Dấu hiệu tự kỷ - Phương thức tư vấn điều trị
Chuyên đề 4 :
Nghiện game và nghiện ma túy
1. Hiện tượng học sinh nghiện games – Cách phòng ngừa
2. Giới thiệu phương thức điều trị lâu dài
3. Hiện tượng nghiện ma túy – cách phòng ngừa
4. Giới thiệu phương thức điều trị lâu dài
PHỤ LỤC :
- Quy chế hoạt động Tổ tư vấn học đường ( Phòng TVTE Tp HCM năm 2000)
- Kế hoạch tổng thể tư vấn ở một trường học
- Tư vấn học đường tại một trườngtrung học phổ thông qua mạng
- Hệ thống trắc nghiệm hướng nghiệp đơn giản và khả thi ở TpHCM
- Luật giao thông , bài học vào đời vê ý thức chấp hành pháp luật
5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Samuel T Gladding ( 2000, 4th Ed), Counseling a comprehensive Professional,
Prentice Hall, New Jersey, Columbus , Ohio.
-
John Schmidt (1999-3rd Ed) Counseling in Schools – Essential Services and
Comprehensive Programs, Ally and Bacon. USA
-
Parsons, R. D., Kahn W. J. (2005). The School Counselor as Consultant - An
Intergrated Model fro School-Based Consultation. Thomson.
-
Special Problems in Counseling the Chemically Dependent Adolescent, (1991),
Eileen Smith Sweet Editor,The Haworth Press – New York.
-
Howard Gardner (1997, Phạm Tồn dịch), Frames of Mind, Nxb Gi Dục.
-
Dale Carnegie, (2014, fist New dịch),How to win friends and Influence Poeple –
Đắc Nhân tâm- NXB trẻ.Tp HCM
-
Lê Sơn, lê Hồng Minh (2010,2013) , Tài liệu Bồi dưỡng Giáo viên làm tư vấn viên
học đường Tây Ninh, Khánh Hoà, Hậu Giang; Lưu hành nội bộ. Trung tâm ƯDKH
TLGD Phía Nam – Viện Nghiện Cứu EBM ( Giáo dục và QTKD).
-
Bộ GDĐT, (2000) Quy chế tổ chức và hoạt dộng của trung tâm tổng hợp hướng
nghiệp, NXB Giáo dục .
-
Phan trọng Ngọ và cộng sự (2001) Tâm lý học trí tuệ, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
-
Lê thi Thanh Hương (Ch. Biên) (2010), Tư vấn hướng nghiêp cho học sinh
trung học phổ thông- Thực trạng ở Vie5t Namva2 kinh nghiệm Quốc tế, NXB
Khoa học Xã hội. Hà Nội.
6
MỞ ĐẦU
Tổ chức giáo dục trong nhà trường kể từ thời Komensky (1592-1670), đến
nay đã có nhiều thay đổi, nhưng bản chất giáo dục học sinh biết làm người hành
xử phù hợp đạo lý con người, quan tâm vấn đề phát triển nhân tính theo thời đại
của nhà trường, là một hoạt động giáo dục trọng yếu, không thể bị xem thường.
bên cạnh hoạt động dạy và học kiểu truyền đạt kiến thức, từ thầy sang trò.
Giáo dục học sinh làm người ngồi những giờ cơng dân, giờ chính trị,…nhà
trường hiện nay rất cần những giáo dục viên chuyên trách được đào tạo làm tư
vấn học đường. Thực hiện tinh thần công văn 2564/HSSV ngày 5/4/2005 và
công văn 9971/BGD&ĐT, ngày 28/10/2005) của Bộ GDĐT và công văn số 302009/CV-TWH của chủ tịch Hội KHTL-GD VN Phạm Minh Hạc, Trung tâm Ứng
dụng KH TLGD Phía Nam đứng ra phối hợp với các Sở GDĐT tỉnh thành tổ chức
các lớp bồi dưỡng Nghiệp vụ Tư vấn Học đường. Trong 3 năm 2010-2013, đã bồi
dưỡng 6 khóa học, ở các tỉnh Khánh Hịa, Tây Ninh, Hậu Giang… cho gần 1000
học viên, là những giáo viên các trường phổ thông trung học và trung học cơ sở
có dự kiến trở thành tư vấn viên học đường. Mục tiêu khóa học: Giúp giáo viên
hiểu được và thực hành tốt nguyên tắc nghiệp vụ và giữ gìn uy tín, phẩm chất, tư
cách tư vấn viên tâm lý học đường (khác với thói quen cũ của người giáo viên
chuẩn mực, trang nghiêm), khi phải làm giáo dục viên vừa là tư vấn viên tiếp xúc
trực tiếp cá nhân, thân thiện, chia sẽ, lắng nghe những điều riêng tư, bảo mật
trong tư vấn tâm lý học sinh. Đồng thời, khóa học sẽ phổ biến rộng rãi các kiến
thức và kỹ năng ứng dụng khoa học tâm lý giáo dục rộng rãi trong ngành giáo
dục, chuyên nghiệp hóa nghề nghiệp sử dụng khoa học tâm lý giáo dục, tiến đến
xây dựng một hội nghề nghiệp chuyên ngành tư vấn học đường, trong Hội khoa
học Tâm lý Giáo dục Việt Nam.
Tài liệu này là những thông tin cơ bản, dùng trong khóa bồi dưỡng nghiệp vụ
tư vấn học đường nói trên, được mở rộng dùng cho các bạn đọc muốn tham gia
khóa học và là tư liệu tham khảo chuyên ngành cho :
- Các sinh viên các chuyên ngành tâm lý giáo dục
- Các giáo viên chủ nhiệm, giáo dục viên, các tác viên, cán sự xã hội
- Các tư vấn viên ở các chương trình nhân đạo của các hội đoàn
- Quý vị tư vấn viên ở nhiều lãnh vực khác …
Kỳ vọng sau khi nghiên cứu tài liệu này :
- Người đọc sẽ hiểu và thống nhất các khái niệm, các nguyên tắc nghiệp vụ.
- Biết tự hiểu mình, tự rèn luyện thay đổi phong cách ứng xử với thân chủ
- Từng bước tự rèn luyện kỹ năng lắng nghe, thấu hiểu và khơi dậy mọi nguồn
lực, hỗ trợ thân chủ thay đổi tình trạng, hồn cảnh một cách tích cực.
7
Giáo dục phổ thông nước ta, từ những năm 1980, đã có nhiều nỗ lực trong
hoạt động dạy làm người bên cạnh dạy chữ và rất quan tâm công tác hướng
nghiệp cho học sinh. Từ năm 2000 đến nay, một số trường học cịn quan tâm đến
cơng tác tư vấn tâm lý, tổ chức một số phòng tư vấn học đường. Tuy vậy, trong
toàn ngành giáo dục cho đến nay, chưa có một hệ thống tư vấn học đường hồn
chỉnh bao gồm tư vấn về tâm sinh lý, thái độ sống và hướng nghiệp. Cuốn sách
này sẽ là tài liệu cung cấp kiến thức nghiệp vụ cơ bản, góp phần xây dựng hệ
thống tư vấn học đường, một tiêu chí của nhà trường thân thiện và hiện đại.
Nội dung cuốn sách này chia làm 3 phần. Phần 1:Tư vấn học đường nhập
môn, gồm khái niệm và kỹ năng căn bản của tư vấn học đường. Phần 2: Phương
thức xây dựng chương trình tổng thể tư vấn học đường và lý huyết chuyên ngành
tư vấn tâm lý và hướng nghiệp . Phần 3: là các chuyên đề hội thảo tập huấn gồm
một số tư liệu tâm lý, tư vấn trị liệu và hướng nghiệp cần thiết.. Sách được viết
theo dạng cẩm nang, hướng dẫn thực hành. Bước đầu, các tác giả cố gắng tổng hợp
các nội dung tập huấn trong nước và tài liệu lý thuyết của các chuyên gia nước
ngoài, cùng với kinh nghiệm nhiều năm làm tư vấn trẻ em, làm chuyên viên tư
vấn trong trường học và làm công tác nghiên cứu giáo dục, quản lý giáo dục .
Xin nhận nơi đây lòng biết ơn các chuyên gia bậc thầy đã truyền đạt nghề
nghiệp, cung cấp tư liệu cho cuốn sách, cám ơn quý anh chị thâm niên trong
ngành, quý anh chị giảng viên nòng cốt tư vấn trẻ em (Save the Children), quý
thân hữu tác viên xã hội đã góp ý sửa chữa và hỗ trợ xuất bản. Rất mong được sự
tiếp tục hỗ trợ và đóng góp ý kiến của quý vị cao minh, quý đồng nghiệp để cuốn
sách nhập môn, kim chỉ nam vào nghề, ngày càng được hoàn thiện hơn.
Tác giả
PGS TS Lê Sơn
- Hiệu trưởng Trường Bắc Lý –
- Viện trưởng Viện Giáo dục học – Viện KHGD VN (1965)
- Viện phó Viện Khoa học Giáo dục các tỉnh Phía Nam (1991)
- Giám đốc TT Ứng dụng KHTLGD Phía Nam (1994)
TS Lê Hồng Minh
- GĐ TT Dạy nghề Quận 3 tp HCM (1983-1990) PGD TT VOTEC (1991-1997)
- Chuyên viên tư vấn hướng nghiệp - VP Tư vấn trẻ em, UBBVCSTE TpHCM
(1997); TT tư vấn Giáo dục Tâm lý và Thể chất ( CONCEPP-1999) - TT Điều
dưỡng và Cai nghiện Thanh Đa ( 2003)
- Giám đốc TT Hướng nghiệp và Hỗ trợ Việc làm SV Đại học Gia Định (2010)
- Phó GĐ TT Ứng dụng KHTLGD Phía Nam (2010)
- Viện trưởng Viện EBM (Giáo dục &QTKD) (2010)
8
PHẦN I
NHẬP MÔN TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG
Chương 01 : Tư vấn học đường ra đời và phát triển
Chương 02 : Khái niệm tư vấn học đường
Chương 03 : Phẩm chất tư vấn viên học đường
Chương 04 : Tư vấn tâm lý và kỹ năng cơ bản
Chương 05 : Hướng nghiệp, và các kỹ năng
9
CHƯƠNG 1
TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIỆP VỤ TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG
Hoạt động hướng nghiệp, một phần quan trọng của tư vấn học đường ngày
nay, bắt nguồn từ cơng trình nghiên cứu “Tổng quan thị trường nghề nghiệp trên
thế giới” từ đầu thế kỷ 17 của một người Ý, Tomasco Gazoni, được dịch ra nhiều
thứ tiếng, tiếng Anh là “ The Universal Plaza of All the Professions of the
World”. Năm 1631, Poowell, một người Anh xuất bản cuốn “Tom of All Trades
or The Plain Pathways to Perferment”, một cuốn sách gồm các hình ảnh thơng
tin về các ngành nghề. Năm 1747, xuất bản cuốn “London Tradesman’ liệt kê tích
hợp tất cả ngành nghề đang phát triển ở Luân đôn làm kim chỉ nam cho người lao
động trẻ vào đời. ..
Cùng với sự ra đời và lớn mạnh của triết học quan tâm đến con người, tôn
trọng cá nhân và quyền dân chủ, sự phát triển của khoa học tâm lý thực nghiệm,
tâm lý về nhân cách, xã hội và sự phát triển của ngành thống kê học. Đặc biệt là
ngành tâm lý trị liệu, tâm thần học. Năm 1909, William Healy thành lập “ Trung
tâm chuyên khoa điều hướng trẻ em” ( Child Guidance Clinic), chăm sóc tâm lý
giáo dục cho các trẻ hư khu ổ chuột, đã tác động mạnh vào phong trào tư vấn
hướng dẫn giáo dục, hướng nghiệp . Tuy vậy, lịch sử nghiệp vụ tư vấn học đường
được ghi nhận xuất phát và lớn mạnh ở Mỹ, từ công tác hướng nghiệp trong học
đường vào những năm đầu của thế kỷ 20. Trong thập kỷ 1900-1909, có 3 người
được xem là những người đầu tiên khởi xướng và hệ thống hóa nghiệp vụ tư vấn
học đường là Jesse B.Davis, Frank Parsons, và Cliffort Beer.(Gladding,2000,
Counseling,a comprehensive profession).mà chủ yếu là tư vấn hướng nghiệp.
+ Jesse B. Davis
Jesse B. Davis được coi là người đầu tiên đề xuất một chương trình hướng
nghiệp trong trường học có hệ thống. Năm 1907, ông được làm hiệu trưởng
trường trung học phổ thông, đã khuyến khích các giáo viên dạy tiếng Anh sử dụng
các bài luận văn, bài học liên quan mô tả nghề nghiệp, nói lên những hứng thú,
những đặc điểm cần phát triển và những vấn đề về tư tưởng và hành vi khơng
thích hợp cần hạn chế đối với một số nghề nghiệp. Đồng thời với Jess B. Davis
nhiều trường học ở nhiều nơi khác cũng thực hiện mô hình đó.
10
+ Frank Parsons (1854–1908) :
Tư vấn hướng nghiệp, chọn nghề thật sự lớn mạnh kể từ khi Frank Parsons,
người mà sau này được coi là “cha đẻ của hướng nghiệp”, thành lập “Văn phòng tư
vấn hướng nghiệp” ở Boston năm 1908, ( Boston `s Vocational Bureau) và xuất
bản sách “Chọn nghề” (Choosing a Vocation). Frank Parson với phòng tư vấn tâm
lý về nghề nghiệp, đã sử dụng các khái niệm của tâm lý học như những đặc điểm
khí chất, tính khí của mỗi con người và đối chiếu với những nhân tố được xem là
những yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp để đánh giá sự phù hợp (đặc điểm
người/nghề), các lý thuyết tâm lý về những xung động của vô thức
(Freud,Adler,Jung), sau đó phát triển thành ngành học. Frank Parson đã sử dụng
các tiến bộ và cách tính tốn về xác suất, di truyền, độ lệch chuẩn, hệ số tương
quan của khoa học thống kê khởi xướng từ thế kỷ trước, đặc biệt các khái niệm
thống kê của nhà nhân chủng học Francis Galton (1822-1911),và Karl Pearson, để
thiết lập và tiến hành trắc nghiệm, chẩn đoán tâm lý nghề nghiệp trong tư vấn
hướng nghiệp.
Frank Parsons nổi tiếng là một học giả thông thái, một nhà văn hấp dẫn
hoạt động không ngừng nghỉ, xứng đáng là cha đẻ của hướng nghiệp, là người khởi
đầu trào lưu tư vấn hướng nghiệp. Không ai tiên đoán được sự lớn mạnh của
phong trào, từ khi ông đào tạo vài chục người năm 1909, đến năm 1994, số người
được đào tạo tư vấn viên học đường đã lên đến con số 115.000 người.
Từ thời khởi đầu, đối với ông tư vấn viên hướng nghiệp cần có những tính
chất sau đây:
- Kiến thức thực hành tâm lý về hướng nghiệp
- Kinh nghiệm đầy đủ về mối quan hệ nhân bản,
- Khả năng làm việc với những người trẻ tuổi
- Hiểu biết về những điều kiện và yêu cầu của sự thành đạt
- Được chuẩn bị đầy đủ thơng tin về chương trình học tập
và các phương tiện cần thiết
- Có phương pháp phân tích khoa học .
11
+ Cliffort Beer:
Trong thập kỷ 1900-1909, với tác phẩm nỗi tiêng “Một tâm hồn tự tìm thấy” (A
Mind That found itself, 1908), gây ảnh hưởng lớn trong quá trình tâm lý trị liệu
và tâm lý lâm sàng. Sự nghiệp quan tâm sức khỏe tâm thần của Beer đã góp phần
tích cực đẩy mạnh trào lưu hoạt động vì sức khỏe tâm thần và ngành tư vấn tâm
lý ở Mỹ.
Từ tác phẩm này đã đưa ông lên địa vị là người sáng lập tư vấn sức khỏe tâm
thần. Ông nhận trị liệu cho các bệnh nhân yếm thế, bị hành hung bị lạm dụng đưa
vào một bệnh viện là sự kiện rất đáng chú ý vào thời đó. Mở đầu cho khoa học trị
liệu các bệnh tâm thần.
Với sự giúp đỡ của một số nhà tâm lý học như William James Adolph Meyer,
các cách thức thanh tẩy phiền muộn, căng thẳng, vệ sinh tâm thần được phổ biến,
giáo dục. Quần chúng được hướng dẫn phòng chống các bệnh tâm thần . Phong
trào phịng chống bệnh tâm thần, thanh tẩy tâm trí phát triển, đưa đến sự cải cách
luật pháp, cách thức chăm sóc, theo dõi người bệnh sau điều trị, và việc lập các
bệnh viện miễn phí cho người bệnh tâm thần.
Tư vấn tâm lý và hướng nghiệp nói chung và tư vấn học đường nói riêng đã
sử dụng các khái niệm thống kê để phân tích các hiện tượng tâm lý xã hội, sự phù
hợp nghề, sử dụng các khái niệm về những mối tương giao nhân tính hiện hữu
trong hiện tượng luận, khái niệm về những dự phóng, về tưởng tượng trong triết lý
của K. Jaspers, Jean-Paul Sartre, Maurice Merleau Ponty…
Từ năm 1920-1930, ở Mỹ, tư vấn tâm lý giáo dục và hướng nghiệp phát
triển theo đà tiến bộ của nền giáo dục học đường, quan tâm đến sự phát triển cá
nhân, xã hội và luân lý đạo đức của cuộc sống. Tuy vậy, phong trào gặp phải sự
chống đối của nhiều trường học cho rằng nhà trường chỉ dạy học sinh nền học vấn
cơ bản không nên ôm đồm nhiều trọng trách khơng chu tồn. Cộng với thời kỳ
suy soái kinh tế trầm trọng khiến cho tư vấn học đường phát triển chậm lại.
Năm 1940, Quân đội Mỹ sử dụng các nhà tâm lý và tư vấn để tuyển quân và
huấn luyện nhân sự. Đây là lúc tư vấn học đường có động cơ thúc đẩy tiến hành
các trắc nghiệm tìm hiểu khả năng, năng lực tinh thần, thể chất cùa học sinh, và
cũng là lúc các nhà tư vấn học đường chịu ảnh hưởng quan điểm chú trọng mối
quan hệ hỗ trợ thân chủ, thân chủ trọng tâm của Carl Rogers .
12
Carl Rogers (1902-1987) với thuyết
Coi trọng con người (The Person-centered approach )
(như:, Thân chủ trọng tâm (Client-centered therapy)
Học trò là trung tâm (Student-centered learning )
Luận cứ của người phái Rogers (Rogerian argument )
Carl Rogers có tầm ảnh hưởng rất lớn, là nhà tâm lý học, tâm lý trị liệu hàng
đầu của thế kỷ 20, đưa ngành tư vấn tâm lý lên địa vị quan trọng với phương
pháp tư vấn thân chủ trọng tâm và học trò là trung tâm trong tư vấn học đường –
Phải nói, tư vấn học đường bắt đầu từ Rogers mới có ý nghĩa lắng nghe, động
viên giúp đỡ giải quyết các khó khăn trong học tập và chia sẻ tâm tư tình cảm,
giải toả stress, cải thiện môi trường giáo dục, con người nhân ái, nhân văn được
tôn trọng. Tư vấn học đường bắt đầu được nâng lên từ mục tiêu tập trung phát
triển nghề nghiệp sang tập trung vào các vấn đề cá nhân và xã hội của học sinh,
sinh viên, song song với sự lớn mạnh của các trào lưu nâng cao pháp quyền xã
hội và dân sự ở Mỹ.
Cũng trong thập kỷ 50, chính phủ Mỹ thành lập các Cục Hướng dẫn và Phục
vụ Nhân sự (Guidance and Personnel Services Section- GPSS) thuộc Tòa Hành
chánh Tiểu bang và Hệ thống Trường học Địa phương. Ngày 4 tháng 10
năm1957, Nga phóng vệ tinh Sputnik I. Ngoài việc Nga đánh bại Mỹ trong cuộc
chạy đua vào vũ trụ, cịn ngụ ý Mỹ đã khơng có đủ các nhà khoa học và tốn học
xuất sắc.
Chính phủ Mỹ đã thông qua đạo luật Giáo dục Bảo vệ Quốc Gia làm dấy
lên một phong trào lớn mạnh về tư vấn hướng nghiệp trong học đường với những
khoản ngân quỹ khổng lồ. Từ những năm 1960 tư vấn học đường tiếp tục lớn
mạnh trở thành nghề nghiệp mới được luật pháp thừa nhận.
Vào khoảng cuối những năm 60 và đầu những năm 70, Norm Gysbers và
các cộng sự, tiểu bang Missouri, qua các cơng trình nghiên cứu chứng minh mối
quan hệ thiết thực giữa tư vấn học đường và sự thành đạt của học sinh , sinh
viên. Nhóm nghiên cứu của Norm Gysbers, đã đưa tư vấn học đường từ một nghề
nghiệp ít ai để ý đến trở thành một hoạt động thiết yếu mang tính chiến lược và
có mục tiêu hệ thống trong chương trình tư vấn học đường cho mọi học sinh từ sơ
tiểu học đến trung học (K-12).
13
Những năm 80 và 90, tư vấn học đường đứng trước nguy cơ khơng cịn phù
hợp với nền giáo dục chủ trương chỉ truyền đạt giáo dục cơ bản đang thắng thế. Để
đáp lại, Campbell & Dahir (1997), người được sự ủng hộ rộng rãi của các nhà tư
vấn học đường đã có sáng kiến đưa ra Tiêu chuẩn Quốc gia về Tư vấn học đường
với 3 lãnh vực:
Trình độ bằng cấp,
Quá trình nghề nghiệp,
Nhân thân và xã hội;
9 tiêu chuẩn, và các năng lực, tiêu chí chi tiết cho tư vấn học đường.
Gần đây, năm 2002, Hiệp hội Tư vấn Học đường Mỹ (ASCA) cho ra Khung
chuẩn quốc gia chương trình đào tạo tư vấn học đường. Năm 2003, thành lập
Trung tâm Nghiên cứu Kết quả Tư vấn Học đường; Ngày 1/1/2006, Quốc hội
tuyên bố Tuần lễ Tư vấn học đường từ 6-10/2. Năm 2008, tổ chức các cuộc thi đua
tư vấn học đường dựa trên các tiêu chuẩn đã ban hành.
2. TƯ TƯỞNG NGHIÊP VỤ CỦA PARSONS VÀ ROGERS
Đã một thế kỷ đi qua, kể từ khi tư tưởng hướng nghiệp của Parsons trở
thành cơ sở lý luận nghiệp vụ hướng nghiệp trong tư vấn học đường; và hơn 50
năm, kể từ khi Carl Rogers khởi xướng lý thuyết tư vấn tâm lý, và trị liệu tâm lý “
thân chủ trọng tâm”, Lý thuyết hướng dẫn nghiệp vụ của Parsons và Carl Rogers
đến nay, vẫn còn nhiều ảnh hưởng đối với tư vấn viên tư vấn học đường mới nhập
môn.
Frank Parsons cha đẻ của tư vấn hướng nghiệp
Frank Parson sinh năm 1854, là một kỹ sư, sau đó làm giáo viên dạy toán,
lịch sử, và Pháp văn trong một trường trung học cơng lập. Ơng ta đã trở thành
giảng viên của đại học Kansas State University và Boston University. Ngày 1 tháng
5, 1908, Parsons trình bày bài diễn thuyết gây chấn động phong trào tư vấn hướng
nghiệp công bố kết quả tư vấn hướng nghiệp có hệ thống cho 80 người đầu tiên
đến văn phịng tư vấn hướng nghiệp của ông tại Boston. Tháng 9 năm đó ơng mất,
nhưng tác phẩm chính của ơng “ Chọn nghề” được xuất bản vào tháng 5,1909
(Bemak, 2000). Với công trình được công bố đó, đã đưa Parsons lên địa vị cha đẻ
của hướng nghiệp, làm kim chỉ nam cho các hoạt động tư vấn tâm lý và hướng
nghiệp thời đó và cịn ảnh hưởng đến ngày nay. Ơng đã phát hiện và triển khai
định hướng cơ chế tài năng phù hợp ( tailent-maching) của một người đối với nghề
nghiệp, là cơ sở lý luận để sau này được phát triển thành lý thuyết về đặc điểm
tính tình và yếu tố nghề nghiệp (Trait and Factor Theory of Occupational Choice –
gọi tắt là lý thuyết đặc điểm Người/Nghề). Ý niệm chính của lý thuyết Parsons là
14
sự phù hợp nghề. Ơng nổi tiếng trong các cơng trình giúp các cá nhân thành tựu
trong việc chọn nghề. Văn phịng Hướng nghiệp Boston của ơng đã hỗ trợ công tác
hướng nghiệp cho các trường công lập ở Boston. Gây ảnh hưởng lớn trong phong
trào hướng nghiệp trong và ngoài nước Mỹ vào thời đó. Năm 1918, ảnh hưởng
khoa học của Văn phòng lan xa đến Uruguay và Trung Quốc . Sau khi Parson từ
1905-1907, làm việc cho một trong những Chương trình Phục vụ Dân sự (Civic
Service House programs) được gọi là Viện Thành tựu Sinh kế (Breadwinner's
Institute – theo Zunker, 2002). Parsons tiến đến tổ chức Văn phòng Hướng
nghiệp, dùng Văn phòng để đào tạo tư vấn viên và lãnh đạo cho hệ thống trường
lớp trung học và nghiệp vụ YMCA. ( Hiệp hội Thanh Niên Công giáo). Nhờ đó, vài
năm sau, Hội đồng Các trường học tại Boston tạo ra chương trình đầu tiên đào tạo
cấp chứng chỉ cho tư vấn viên. Chương trình đào tạo này được đại học Harvard
thừa nhận, trở thành chương trình đào tạo tư vấn viên dựa vào đại học đầu tiên.
Đồng thời, lãnh đạo hệ thống nhà trường Boston đưa 100 giáo viên tiểu học và
trung học cơ sở vào đào tạo trở thành tư vấn viên…
Lịch sử còn cho thấy, Parsons đã có nhiều cơng trình, những tác phẩm ảnh
hưởng đến cải cách kinh tế xã hội với nhiều chủ đề khác nhau, bao gồm cả lãnh vực
thuế, quyền bầu cử của phụ nữ, vấn đề giáo dục cho mọi người … Ông đặc biệt quan
tâm đến vấn đề cải cách xã hội, giúp con người tìm được việc làm theo quyết định
chọn lựa phù hợp với con người và hồn cảnh của từng cá nhân. Mục đích đầu tiên
của Văn phòng Hướng nghiệp Boston là phát triển tiềm năng dân nhập cư đang gia
tăng lớn mạnh ở Boston. Parsons là một trong những người có tưởng cải cách xã
hội nhưng ơng là người có khả năng thu được sự ủng hộ tích cực và chặc chẽ của
lãnh đạo những nhóm quyền lực mạnh mẽ của giới kinh doanh, người lao động,
nhà giáo, và cả cơ quan công quyền, cảnh sát, quản lý hành chánh.
Đối với Parson, dân chúng trở nên tốt đẹp khi họ tìm được việc làm phù hợp
với khả năng. Khi một cá nhân được sắp xếp việc làm phù hợp, sẽ phát huy khả
năng, tăng năng xuất lao động. Ông tuyên bố, quyết định chọn nghề, chỉ nên xảy ra
khi hội đủ các điều sau đây:
Hiểu biết chính xác về tính cách riêng của cá nhân mình ( bao gồm : Năng
khiếu, sự ham thích, và năng lực thể chất cá nhân)
Có kiến thức sâu rộng về công việc và thị trường lao động.
Thẩm định hợp lý và khách quan về mối quan hệ giữa tính cách cá nhân và
thị trường lao động.
Lý thuyết về 3 yếu tố trên vẫn còn sử dụng cho đến ngày nay trong công tác
hướng nghiệp, được đặt trên giả thuyết là có thể đo lường được tính cách con
người và đặc điểm nghề hay cơng việc đặc thù; và những người ứng tuyển có thể bị
thách thức đối với một công việc, là sự gắn kết xứng đáng, phù hợp, khách quan tốt
lành.
15
Trong sách “Chọn nghề”, Parson lưu ý 7 bước nghiệp vụ khi hướng nghiệp
cho thân chủ :
1. Dữ liệu cá nhân: Tìm cách khẳng định những yếu tố cơ bản của con người
thân chủ. Nhắc lại tất cả yếu tố mà thân chủ đang chịu đựng đối với nghề
nghiệp
2. Tự phân tích: Tư vấn viên hướng dẫn làm bài tập tự kiểm về bản thân thân
chủ. Mọi xu hướng và những điều thích thú tác động đến việc chọn nghề đều
phải được ghi nhận.
3. Thân chủ tự quyết định chọn nghề: Phải nhớ rằng thân chủ là người chọn
nghề, tư vấn viên là người giúp đỡ hướng dẫn.
4. Tư vấn viên phân tích: Trắc nghiệm thân chủ xem có phù hợp với những
yêu cầu chính yếu của nghề nghiệp.
5. Mở ra các lãnh vực nghề nghiệp: Tư vấn viên phải nắm rõ kiến thức công
nghệ như liệt kê, phân loại các ngành cơng nghiệp và tính chất nghề nghiệp
u cầu. Hơn nữa còn cho thân chủ biết nơi đào tạo và học việc nếu cần.
6. Giới thiệu và cho lời khuyên: Ở giai đoạn này là lúc thận trọng nhất, tư vấn
viên phải tỏ ra thơng thái, nhìn xa,hiểu rộng đưa ra những lý lẽ hợp lý và rõ
ràng, giúp thân chủ suy nghỉ chọn lựa.
7. Sự giúp đỡ chung cuộc : Tư vấn viên giúp thân chủ khẳng định sốt xét kỷ
q trình chọn lựa và thể hiện bằng quyết định chọn nghề phù hợp.
Ngày nay, các cơng trình của Parsons vẫn cịn giá trị. Trong thế giới cơng
nghệ đổi thay, buộc người lao động phải thích ứng sẵn sàng tìm việc, thay đổi nghề
cho phù hợp, đều sử dụng các nguyên tắc hướng dẫn chọn nghề mà Parsons đã đề
ra từ thế kỷ trước. .
16
Carl Rogers (1902 - 1987) với lý thuyết thân chủ trọng tâm
Carl Rogers là người có tư chất rất thơng minh, là người sáng lập phương
pháp trị liệu, trở thành lý thuyết tâm lý trị liệu và tư vấn tâm lý “Thân chủ trọng
tâm” (Client Center Therapy) . Thời còn trẻ, Ơng có một thời gian tu học ở chủng
viện,đến năm 20 tuổi, sau một dịp đến Trung Quốc tham dự hội nghị quốc tế
thanh niên Công giáo, tiếp cận với triết lý nhân bản đông phương, ông từ giả chủng
viện, theo học Cao học 1928, Tiến sỹ 1931 tại trường sư phạm Teachers College,
đại học Columbia
Trong thời gian làm nghiên cứu sinh, ông tham gia nghiên cứu về trẻ em bị
lạm dụng, nên sau đó xuất bản cuốn “The Clinicial Treatment of the Problem Child”
(1939). Ông tâm đắc khái niệm “thân chủ trọng tâm” của những nhà tâm lý trị liệu
theo phái Freud.
Ông đến dạy ở Đai học Ohio, xuất bản tác phẩm “Counseling and
Psychotherapy (1942). Trở thành Chủ tịch hiệp hội tâm lý Mỹ (APA-1947). Xuất
bản tác phẩm quan trọng “Client-centered Therapy” (1951), “Psychotherapy and
Personality Change”(1954). Học trò của ông- Thomas Gordon thành lập phong
trào P.E.T ( Parent Effectiveness - dạy làm cha mẹ tốt).
Ông cùng Abraham Maslow làm người tiên phong của phong trào tâm lý
học nhân bản (Humanistic Psychology), Năm 1961, xuất bản cuốn sách nổi tiếng”
On Becoming a Person” ( Con đường Thành Nhân). Ông đã đi đến các đại học khắp
thế giới kể cả Liên sô, để truyền đạt tư tưởng và nghiệp vụ tư vấn tâm lý thân chủ
trọng tâm. Cuối đời ông còn hoạt động và xuất bản sách “Carl Rogers on Personal
Power” (1977);“Freedom to Learn for 80’s”(1983); Vài năm sau ông từ giả cuộc
đời ở tuổi 85.
Lý thuyết của CarRogers
Lý thuyết về tự thân của ông được coi là triết lý nhân bản luận và hiện tượng
luận, vì dựa hẵn vào lãnh vực của hiện tượng cá nhân luận mà các lý thuyêt gia
Combs, Snygg (1949) đang đề xướng và phát triển. Lý thuyết của Carl Rogers đã
triển khai khá rộng lớn. Ơng đã viết 16 cuốn sách và vơ số bài viết trên báo
chuyên ngành để phổ biến luận thuyết của mình.
Giả thuyết cơ bản
Hai giả thuyết cơ bản của lý thuyết “Thân chủ trọng tâm” được coi là quan
điểm chủ yếu về vũ trụ quan và nhân sinh quan.
1. Xu hướng hình thành: Tất cả hệ thống vật chất đều có xu hướng cơ bản tiến
tới những loại hình phức tạp. Vũ trụ không ngừng mở rộng.
2. Xu hướng hiện thực: Mọi sinh vật đang sống đều có khuynh hướng cố gắng
làm tốt nhất sự hiện hữu của mình, ln tiến đến sự hồn thiện, thể hiện đầy đủ
tiềm năng bẩm sinh. Nguồn gốc của sự phát triển tâm lý và sự trưởng thành
nằm trong mỗi chúng ta.
17
Ơng tin rằng có một thế lực mạnh mẽ thúc đẩy của sự sống, gọi là “tinh lực
của sự sống ” (Sinh lực - The single "force of life" ), một sinh lực tinh anh đưa
con người đến sự hoàn thiện trong mọi hình thức cuộc sống. Trong mỗi con
người, đều có một cơ chế sinh học ln biết lượng định giá trị, gọi là Cơ chế
lượng giá (organismic valuing). Cơ chế này thúc đẩy, hỗ trợ quá trình sinh lực
hiện thực hóa. Khi con người đói, có cái ăn, khơng phải cái gì ăn được cũng ăn,
mà con người lựa chọn những thức ăn ngon để ăn.
Trong giao tiếp có người muốn khuyến khích sự phát triển tâm lý bình
thường, tạo mối tương giao lành mạnh với người khác, người đó cần phải đáp
ứng:
Ba phẩm chất cần và đủ của tư vấn viên tâm lý trị liệu
+ Thật tâm : Chân thành, thành thật, trung thực
+ Tôn trọng : Tôn trọng con người vô điều kiện, mặc nhiên.
+ Thấu cảm : Có thể cho thấy rõ sự thấu cảm qua giao tiếp.
(Điều kiện 3 chữ T : Thật tâm - Tơn trọng – Thấu cảm)
- Chỉ có mối quan hệ tương giao phù hợp các điều kiện trên mới động viên
được sự phát triển, trưởng thành tâm lý của con người.
Quan điểm của ông đối với con người rất tốt đẹp, mọi người cơ bản đều tốt,
đều khỏe mạnh. Có sức khỏe tâm thần tiến triển bình thường. Người có sức khỏe
tâm thần bình thường có thể tạo được sự tơn trọng tích cực (positive regard)
như: lịng u thương, sự cảm mến, quan tâm săn sóc ni dưỡng.
Con người phải biết tự tơn tích cực (positive self- regard) như: lịng tự
trọng, sự tự tơn, tự nêu cao hình ảnh tốt đẹp về minh (positive Self-image).
Người làm cha làm mẹ phải tơn trọng con cái một cách tích cực vơ điều kiện
(unconditional positive regard), coi trọng chúng như những người tốt bình
thường, dù con cái mình như thế nào.
Con người có thể tự tìm thấy mình thật sự, bản lai diện mục, chân ngã (real
self), trong xu hướng hiện thức hóa, theo cơ chế lượng giá, theo nhu cầu, được thừa
hưởng sự tơn trọng hướng thượng,thương u kính trọng và lịng tự trọng. Ơng cịn
vươn đi xa tìm cái Ngã lý tưởng ( Ideal self) khó đạt được.
Những điều nghịch lý, mâu thuẩn xảy ra khi cái ngã lý tưởng và cái chơn ngã
quá cách xa nhau, đưa đến tâm bệnh.
Cái Ngã lý tưởng phát triển từ
Những điều kiện của giá trị : (Conditions of worth) Đó là những gì
do cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè, các phương tiện truyền thông, và những
người khác, cho là xứng đáng, là có giá trị. Nhưng quan trọng hơn là
-
18
- Sự tơn trọng tích cực có điều kiện: (conditional positive regard)
Những giá trị được hình thành từ sự tơn trọng hướng thượng như tình
thương yêu, sự cảm mếm, và sự chăm sóc ni dưỡng có điều kiện theo quan
điểm của xã hội: sự kỳ vọng, luật lệ, cách chăm sóc khơng mấy khuyến khích
được lịng tự trọng tích cực của người được chăm sóc. Một trẻ em có thể được
mọi người cho là hay là giỏi, nhưng không hẵn là trẻ em đó có tinh thần khỏe
mạnh, sức khỏe tâm thần tốt.
-
Lịng tự trọng tích cực có điều kiện (conditional positive selfregard): Con người tự tơn trọng mình do mình đáp ứng được những chuẩn
mực của xã hội, của người khác, chứ không phải thực sự phát huy tiềm năng
của chính mình.
-
Những phi lý từ trường hợp cái ngã lý tưởng và chân ngã cách biệt sẽ đưa đến
sự lo âu rơi vào tâm lý phòng thủ ( Psychology Defenses), như: Tình trạng đe
dọa (Threatening situations); Lo Lắng (Anxiety); Từ Chối (Denial); Nhận thức
lệch lạc (Perceptual distortion); Rối loạn tâm thức ( Psychosic) …
“Bảy giai đoạn trị liệu”
của lý thuyết chức năng Rogerian
Giai đoạn
1. Thân chủ co cụm, rất phòng thủ, và đặc biệt chống lại sự thay đổi.
2. Thân chủ giảm bớt sự cứng nhắc, bắt đầu nói về sự kiện bên ngoài hoặc
những người khác.
3. Bắt đầu nói về bản thân thân chủ, nhưng như một đối tượng xa lạ. Cố tình
tránh thảo luận về các sự kiện hiện tại.
4. Thân chủ nói về những cảm xúc, tình cảm sâu đậm và phát triển mối quan
hệ với nhà tư vấn điều trị.
5. Thân chủ có thể thể hiện các cảm xúc, bắt đầu tin vào khả năng làm quyết
định của mình và gia tăng sự nhìn nhận trách nhiệm về hành vi của mình
nhiều hơn.
6. Cho thấy rõ họ đang tiến triển nhanh chóng về các suy nghĩ và hành vi phù
hợp, bắt đầu nhận chân sự tôn trọng người khác một cách tự nhiên, không
ngăn ngại, khơng địi hỏi điều kiện. Và đây là giai đoạn thân chủ đạt những
dấu hiệu cuối cùng đáp ứng yêu cầu phải chính thức trị liệu.
7. Thân chủ đã trở thành một cá nhân có đầy đủ chức năng, và khả năng tự
hiện thực hóa mọi vấn đề của mình. Làm một người có thể cảm thơng sâu sắc
và bày tỏ đầy đủ sự tôn trọng người khác một cách tích cực, tự nhiên, khơng
điều kiện. Cá nhân này có thể liên quan đến điều trị trước đó của họ để trình
bày tình huống thực tế cuộc sống hàng ngày.
19
Một người ở giai đoạn 7, có thể sống trọn vẹn trong cuộc sống hiện sinh: sống
trong thời điểm mà Rogers đề cập đến như những người của ngày mai..
Quan niệm về con người đầy đủ chức năng
1. Sự cởi mở để trải nghiệm: (Openness to experience) Ngược lại với cơ chế
phịng vệ. Đó là nhận thức chính xác về kinh nghiệm của một người sống
trong thế giới cảm xúc. Cũng có nghĩa là có khả năng chấp nhận thực tế, bao
gồm cả cảm xúc của người đó.
2. Sống hiện sinh: (Existential living) : Là sống đời sống tại đây-và-bây giờ.
Khơng sống trong q khứ là những gì đi qua và tương lai thì chưa tới.
3. Cơ chế tin tưởng. (Organismic trusting). Tin vào bản thân mình, làm những
gì cảm thấy đúng, những gì tự nhiên.
4. Tự do trải nghiệm. (Experiential freedom). Một người đầy đủ chức năng
nhận biết cảm giác tự do, và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình.
5. Sáng tạo. (Creativity). Con người sống đầy đủ chức năng tiếp xúc với thực tế
hiện thực, do bản chất tự nhiên sẽ cảm thấy bắt buộc đóng góp vào q trình
hiện thực của những người khác, và cuộc sống riêng của mình. Điều này có
thể được thể hiện trong nghệ thuật hoặc khoa học, thông qua các mối quan
tâm xã hội và tình thương của cha mẹ, hoặc chỉ đơn giản bằng cách làm việc
hết mình trong cơng việc của mình.
Rogerian liệu pháp
Carl Rogers nổi tiếng do những đóng góp của ơng về phương pháp tâm lý trị
liệu. Cho đến ngày nay, mặc dù có nhiều ý kiến trái ngược vẫn có giá trị trong tâm
lý trị liệu và phương pháp tư vấn tâm lý.
Không chỉ bảo (Non-directive).
Phương pháp của phái Rogerian ban đầu được gọi là phương pháp không chỉ
bảo. Nhà tâm lý điều trị hay tư vấn viên chỉ có mặt để hỗ trợ thân chủ, chứ khơng
chỉ bảo điều gì. Vì chỉ có thân chủ mới hiểu biết về chính họ hơn ai hết và chỉ đạo
quá trình tư vấn, điều trị.
Thân chủ trọng tâm ( Client centred)
Thân chủ là người nên nói những gì là sai, tìm cách cải thiện, và xác định kết
thúc điều trị. Trong khi tư vấn viên tâm lý tác động trong quá trình trị liệu như là
chất xúc tác cần thiết.
Khơng có chất xúc tác thì phản ứng hóa học khơng xảy ra, kết quả khơng có.
Nhưng trong kết quả của phản ứng khơng có sự hiện diện của chất xúc tác.
20
Liệu pháp của phái Rogerian là "hỗ trợ, chứ không tái tạo,"
Tư vấn viên tâm lý giúp thân chủ đạt được trạng thái độc lập vững vàng ( tự
chủ, tự do có trách nhiệm) là q trình trị liệu thành cơng. Nếu thân chủ sau đó,
cịn lệ thuộc vào nhà điều trị hay tư vấn viên là thất bại.
Kỹ thuật phản ánh :
Kỹ thuật điều trị được Rogers quan tâm phát triển chủ yếu là kỹ thuật Phản
ánh: Sử dụng nhuần nhuyễn như những kỹ năng truyền thông cảm xúc của tư vấn
viên. Nếu khách hàng nói: "Tơi cảm thấy thật kinh khủng!" Tư vấn viên nói : "Vì
vậy, cuộc sống đã làm các bạn buồn, phải không?", chứng minh rằng tư vấn viên
thực sự lắng nghe và quan tâm thân chủ đầy đủ và hiểu biết.
3. TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Ở Châu Âu, cụ thể Planders, thuộc Vương quốc Bỉ, theo Đổ Thiết Thạch
(2006), vào những năm 1970, đã thành lập hệ thống các trung tâm hỗ trợ tâm lý
–
y tế-xã hội ( PMS) hỗ trợ học sinh từ mẫu giáo đến trung học. Đến năm 1999,
thành lập trung tâm tư vấn giáo dục trên cơ sở sáp nhập PMS với các trung tâm
y tế học đường ở trong mỗi trường học, do nhà nước cấp ngân sách hoạt động.
Từ đây có sự hợp tác thích hợp giữa giáo viên và chuyên viên tư vấn học đường,
trong chăm lo về mặt học tập, hướng nghiệp, y tế và tình hình phát triển tâm lý xã
hội cho từng học sinh, nhất là những học sinh có vấn đề cần hỗ trợ.
Ở Pháp, Hiệp hội tư vấn định hướng tâm lý Pháp (Association des
conseillers d’orientation psychologues de France- ACOP Pháp), có chức năng
hướng dẫn tư vấn viên /nhà tâm lý, trao đổi thông tin, phát triển sự nghiệp tư
vấn, tổ chức và tham gia các hội thảo quốc gia và quốc tế về tư vấn và tâm lý. Hiệp
hội ngày càng lớn mạnh, được tổ chức thành các đoàn đại biểu khu vực. Hằng năm
tổ chức tại các thành phố khác nhau, ngày quốc gia nghiên cứu và đào tạo tư vấn
viên. ACOP là một thành viên của Hội Tâm lý học Pháp, chấp hành các quy chế,
đạo đức hành nghề của Hội. Đối với quốc tế, ACOP là thành viên của Tổ chức Định
hướng châu Âu ( Ero-Orientation) và Hiệp hội Quốc tế Giáo dục Hướng nghiệp
(Association internationale de l’orientation scolaire et professionnelle- AIOSP).
Năm 1928, khóa đào tạo tư vấn hướng nghiệp đầu tiên tại Pháp được tổ chức, sử
dụng thử nghiệm Binet, sau đó là các khóa tư vấn hướng học và hướng nghiệp,
đến năm 1972, đổi tên là khóa đào tạo tư vấn viên định hướng. Đến năm 1991,
được chính thức công nhận bằng cấp tâm lý học.
21
Ở Trung Quốc, từ xa xưa, triết học của Trung quốc là nền tảng thuận lợi cho
sự phát triển tâm lý học. Vào đầu thế kỷ 20, Trung quốc tập trung nghiên cứu về
các thuyết tâm lý hành vi. Từ những năm 1910,1920 nhiều tư liệu giải thích giấc
mơ và những kỹ thuật phân tâm học đã được dịch sang tiếng Trung quốc. Tiến sĩ
Cai Yuanpei, người đã nghiên cứu với Wundt ở Đức, thành lập Viện Tâm lý học
đầu tiên vào năm 1917 tại Bắc Kinh. Hiệp hội tâm lý Trung quốc được thành lập ở
Thượng Hải năm 1921. Năm 1930, một số bài viết về chứng rối loạn tâm thần
phân tích bằng cách sử dụng các nguyên tắc của liệu pháp hành vi đã được công
bố. Năm 1933, một học giả người Mỹ, Tiến sĩ R. Lyman, giáo sư phụ trách khoa
thần kinh và tâm thần học của Liên minh các Trường Cao đẳng Y tế Bệnh viện Bắc
Kinh, đã tổ chức rất nhiều khóa đào tạo cho các bác sĩ, trong đó bao gồm các khóa
đào tạo phân tâm học. Cùng thời đó, Hiệp hội tâm lý của Đại học DaSha Thượng
Hải đã thành lập một khoa tâm lý trị liệu lâm sàng cho trẻ em. Trong Chiến tranh
Thế giới II, nhất là sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc thành lập năm
1949, ngành tâm lý bị ngưng trệ, rồi bắt đầu phát triển vào những năm trước khi
cải cách kinh tế năm 1979. Năm 2002, Bộ Y tế và Bộ Nhân sự Trung Quốc quy
định các kỳ thi tư vấn tâm lý, là một điều kiện cho người làm việc trong lĩnh vực
y tế.
Ở Singapore, theo Trịnh Chiến (2006), đã thành lập Trung tâm tư vấn từ
năm 1966. Đến năm 1976, thành lập Trung tâm Dịch vụ Chăm sóc học sinh
(Student Care Service- SCS). Sau này, phát triển thành 3 trung tâm : Trung tâm
Clementi (1983), Trung tâm Hougang (1989), Trung tâm Yishun (1995). Ngồi
cơng tác trực tiếp giúp các học sinh phát huy tối đa tiềm năng và vượt qua những
khó khăn trong học tập và đời sống, trung tâm còn đảm nhiệm đào tạo (theo giáo
trình tư vấn căn bản của Bộ Giáo dục) các tư vấn viên là giáo viên, do Phịng đào
tạo nhân viên của Bộ Giáo dục tổ chức.
Nhìn chung, nhiệm vụ chủ yếu của trung tâm bao gồm: Chăm sóc tình
huống và tư vấn gia đình; Dịch vụ tâm lý giáo dục; Chăm sóc thanh thiếu niên
phạm pháp; Cố vấn cho sinh viên; Huấn luyện; Phát triển tình nguyện viên...
22
4. TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, khởi đầu theo yêu cầu của Bộ Lao động Thương binh Xã hội
(1975 - 1976) Ông Phạm Ngọc Luận và cộng sự tìm kiếm, vận dụng 12 bộ họa đồ
nghề và tư vấn cho trên 300 thương binh.
Giai đoạn 1977-1980 cơng tác hướng nghiệp được tổ chức thí điểm ở một số
trường phổ thông tại một số địa phương. Giai đoạn 1981-1986: Ban Giáo dục
Hướng nghiệp Bộ Giáo dục tổ chức biên soạn tài liệu sinh hoạt hướng nghiệp cho
học sinh cuối cấp PTCS và các lớp PTTH. Từ 1987-1990, do sát nhập Bộ và phải
thu gọn đầu mối, Ban Giáo dục Hướng nghiệp sát nhập vào Vụ Giáo dục Phổ
thông, công tác hướng nghiệp tạm thời dừng lại.
Tháng 3/1991, Bộ Giáo dục và Đào tạo thành lập Trung tâm Lao động Hướng nghiệp, biên soạn tài liệu " Tư vấn nghề cho học sinh PT”, mở 2 lớp tập
huấn cho 200 cán bộ phụ trách tư vấn ở các TT KT TH-HN trên cả nước. Bộ họa
đồ nghề, các bộ công cụ trắc nghiệm hướng nghiệp được cải tiến… do nhiều
chuyên gia tham gia biên soạn: Phạm Tất Dong, Thế Trường, Lê Đức Phúc, Đỗ Thị
Hịa, Nguyễn Đức Trí, Đặng Danh Ánh ...
Những năm gần đây có một số cơng trình tiêu biểu : Sinh hoạt hướng
nghiệp 12 (1994), Sinh hoạt hướng nghiệp 11 (1996) của Hoàng Kiện, Nguyễn
Thế Trường, Phạm Tất Dong. Tài liệu Những nẻo đường lập nghiệp[6] do Đặng
Danh Ánh chủ biên (2003) giới thiệu một số ngành nghề nông-lâm-ngư nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ và những gương thành đạt về lập thân, lập nghiệp của các
bạn trẻ; …
Từ đó đến nay, rất nhiều tác phẩm hướng nghiệp cho học sinh được phát
hành trong và ngoài nhà trường, tác động vào thực tiển phát triền giáo dục. Tính
đến năm 1996, cả nước đã có 320 Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp Hướng nghiệp,
làm tốt khâu TVHN cho học sinh phổ thông nhằm rèn luyện kỹ năng ban đầu về
thực hành lao động kỹ thuật, thử năng lực lao động nghề nghiệp, để biết mức độ
phù hợp nghề và bước đầu chuẩn bị tâm thế đi vào lao động nghề nghiệp tương
lai.
Đặc biệt từ năm 1998 đến 2005, dự án giáo dục kỹ thuật dạy nghề do Ngân
hàng ADB tài trợ đã đầu tư xây dựng 15 trường nghề trọng điểm, trong đó mỗi
trường đều hình thành bộ phận tư vấn nghề và tư vấn việc làm.
23
Trong thực tiễn nhu cầu về TVHN trong học sinh và trong xã hội ngày càng
cấp bách. Tác phẩm Giúp bạn chọn nghề do Phạm Tất Dong (chủ biên) (2005): giới
thiệu về nghề nghiệp trong xã hội, những nghề cần khuyến khích phát triển, cách
chọn nghề và những vấn đề tâm lý cần chuẩn bị trước khi vào nghề. Bộ sách Hoạt
động Giáo dục hướng nghiệp dùng cho giáo viên lớp 9- 10, 11-12 do Phạm Tất
Dong (chủ biên), (2006),(2007) cùng với nhiều bộ sách hướng nghiệp thanh
niên, gồm nhiều tập do nhiều tác giả viết chuyên về một số nghề, đang được phổ
biến rộng rãi trong xã hội.
Tuy vậy, nhìn chung, tư vấn học đường chỉ mới quan tâm đến tư vấn hướng
nghiệp, nặng về cung cấp thông tin về xu hướng tính cách con người so với đặc
điểm và khả năng nghề nghiệp, đồng thời thông tin về tình hình thị trường lao
động, dự báo nhân lực …chưa quan tâm đúng mức tổ chức tư vấn học đường với
đội ngũ tư vấn viên tâm lý được đào tạo, có biên chế, có phịng làm việc và được
khích lệ hoạt động trong nhà trường, đủ tư cách và uy tín tham gia hệ thống giáo
dục, cải thiện mơi trường giáo dục, đem lại lợi ích thiết thực, nâng cao chất lượng
giáo dục của nhà trường.
Năm 1997, cơ quan UNICEF hỗ trợ UBBVCSTE Hà Nội, mở khóa tập huấn
đầu tiên về tư vấn tâm lý, cho cán bộ tư vấn trẻ em phía bắc và một số cán bộ phía
nam gồm tpHCM,Đồng Tháp và Thừa Thiên Huế. Năm 2000, Vp tư vấn trẻ em tp
HCM bắt đầu triển khai tư vấn tâm lý trong học đường thí điểm ở Bình Thạnh. Sau
đó, kết hợp với các Phòng GDĐT Quãn,Huyện và một số trường học từng bước đã
thành lập các Phòng tư vấn tâm lý học đường trong nhà trường,(tính đến năm
2005 được 19 trường). Một số trường tiên phong tự tổ chức phòng tư vấn học
đường.
Năm 2003, hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường tại Tp. HCM” được Viện
Nghiên cứu Giáo dục, trường ĐHSP Tp. HCM tổ chức. Năm 2005, với sự hỗ trợ của
UBDSGĐTE.TpHCM và UNICEF, Văn phòng Tư vấn trẻ em Tp. HCM đã tổ chức hội
thảo “Kinh nghiệm bước đầu thực hiện mơ hình tư vấn trong trường học.”.
Năm 2006, với sự tài trợ của Trung tâm Nghiên cứu-tư vấn công tác xã hội
và phát triển cộng đồng, Hội Khoa học TLGD Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học
quốc gia tại Tp HCM với chủ đề “ Tư vấn tâm lý giáo dục - lý luận, thực tiển và định
hướng phát triển”.
Năm 2008, Hội Khoa học TLGD Việt Nam lại mở hội thảo ở Đồng Nai với chủ
đề “Giáo dục đạo đức học sinh, sinh viên ở nước ta: Thực trạng và giải pháp”. Đề
24
cập đến giải pháp triển khai mơ hình giáo dục tư vấn tâm lý và xây dựng nội dung
giáo dục tâm lý ứng xử qua tư vấn học đường.
Năm 2010, Các tỉnh thành: Khánh Hòa, Tây Ninh, Hậu Giang, …phối hợp với
Trung tâm ứng dụng TL-GD Phía Nam, hưởng ứng tinh thần công văn số 302009/CV-TWH của chủ tịch Hội KHTL-GD VN Phạm Minh Hạc phát huy kết quả
của cuộc hội thảo khoa học nói trên, đứng ra tổ chức các lớp bồi dưỡng Kỹ Năng
Tư vấn Tâm lý trong trường học, đẩy mạnh việc phổ biến rộng rãi tri thức khoa
học TL-GD trong nhà trường, tạo điều kiện cho các trường học thành lập phịng tư
vấn học đường.
Về phía Bộ GDĐT, từ năm 2005 theo tinh thần công văn 2564/HSSV ngày
5/4/2005 và công văn 9971/BGD&ĐT, ngày 28/10/2005) của Bộ GDĐT, xác định
“Tư vấn cho học sinh, sinh viên là phương pháp tác động mang tính định hướng
giáo dục tới những học sinh, sinh viên đang có những khó khăn tâm lý, tình cảm,
những bức xúc của lứa tuổi cần được giải đáp, những vướng mắc trong học tập,
sinh hoạt, trong hướng nghiệp, trong tìm kiếm việc làm…”. Cũng từ năm 2005, với
sự chỉ đạo đầy quyết tâm của Sở GDĐT TpHCM, hầu hết các trường công lập trên
địa bàn đã có bộ phận tư vấn học đường.
Các trường đại học như đại học KHXH &NV, Đại học Mở, Đại học Văn Hiến Đại
học Sư Phạm, TpHCM; Đai học Sư Phạm, Đại học Khoa học Giáo dục, Dại học Quốc
Gia Hà Nội. có khoa tâm lý giáo dục, khoa xã hội, công tác xã hội cũng mở các
chứng chỉ, học phần tư vấn tâm lý, tư vấn tâm lý trong trường học…
Hiệu quả trước mắt là nhờ tính nhân văn của hoạt động tâm lý trong nhà
trường làm cho nhà trường dân chủ hơn, trở nên thân thiện hơn trong quan hệ:
thầy trị, quan hệ tình bạn, tình u - được các phụ huynh ghi nhận và ủng hộ. Mối
quan hệ giữa 3 mội trường giáo dục đựợc thật sự cải thiện,
Tuy vậy, cho đến nay, nhiều nơi còn lúng túng trong tổ chức, tư vấn viên trở
thành một món quà trang sức, nặng hình thức, xa lạ đối với học sinh trong
trường. Hoặc ngược lại, tư vấn viên trở thành người mà nhà trường ln cảnh
giác, vì cho rằng họ có thể nghe thấy những hoạt động, những hành vi tiêu cực của
nhà trường, Tư vấn viên thường đứng về phía học sinh, biện hộ, bảo vệ học sinh.
Kiểu chăm sóc học sinh như vậy chỉ có ở các nước tiên tiến chứ ở hoàn cảnh nước
ta chưa triển khai được…
25
Suy nghĩ như vậy là vì nhiều người chưa thấy rõ hoạt động chuyên môn của
tư vấn viên học đường, khác với tư vấn viên tâm lý ngoài xã hội mà Việt Nam
đang phát triển. Vả lại, chưa ai thấy rõ mơ hình hoạt động của tư vấn tâm lý trong
nhà trường ở các nước tiên tiến đã rút ra những kinh nghiệm gì, và sau gần một
thế kỹ tiến bộ, về mặt tổ chức, về mặt chuyên môn đã vượt ra khỏi những khái
niệm tưởng tượng của một người mới vào nghề của chúng ta như thế nào.
Trước hết là ở đó nghề nghiệp đã được luật pháp quy định, nghề nghiệp đã
được đào tạo, rèn luyện đúng chuẩn và quy cũ. Mối quan hệ giữa tư vấn viên và
hiệu trưởng rất chặt chẽ, họ làm việc theo một chương trình giáo dục phổ biến
tồn trường, một chương trình tổng thể, mà mọi thành viên trong trường đều
được phân công phối hợp từng thời kỳ tham gia, đặc biệt chương trình cịn quan
tâm đến các hoạt động liên quan đến phụ huynh và các cơ quan chức năng trong
cộng đồng. Chương trình đó là tâm sức và kiến thức của người tư vấn viên thiết kế.
Tư vấn viên là người xúc tác, điều phối dưới sự chỉ đạo của hiệu trưởng. Rõ ràng
tư vấn viên học đường là nhà giáo dục chuyên trách và là cán sự xã hội trong
trường học. Những đặc điểm và ý nghĩa nghiệp vụ này sẽ được trình bày chi tiết ở
các chương sau.