Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Xóa bỏ tính trạng học thụ động của sinh viên trong đào tạo hệ tín chỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.73 KB, 12 trang )

XĨA BỎ TÍNH TRẠNG HỌC THỤ ĐỘNG CỦA
SINH VIÊN TRONG ĐÀO TẠO HỆ TÍN CHỈ
Trương Minh Hịa
Khi viết đề tài này, đôi khi hiểu ý đối trọng trở nên đồng nghĩa : nâng
cao tính tự chủ trong sinh viên, tuy nhiên khi thực hiện thì thấy ngồi một số
điểm tương đồng nhung có khá nhiều dị biệt: Tính tự chủ sv: sinh có học dù
ít nhiều, học nhưng khơng định hướng, học khơng có mục tiêu, do đó chỉ cần
định hướng học tập cho sv là đủ, còn phá bỏ tính thụ động trong sv thì nó
hơi nặng nề hơn vì : mất phương hướng, khơng có động cơ, khơng ham thích
chuyện học. Đề tài nầy đứng ở góc độ giảng viên, người dạy làm sao , tổ
chức lớp học, khơi gợi, tạo điều kiện và môi trường tốt nhất để sinh viên có
thể tự học, tự nghiên cứu, mạnh dạn phát biểu xóa bỏ dần tính thụ động.
1. Thực trạng
Sự thụ động trong sinh viên đã là một hiện tượng phổ biến trong các
trường Đại học, nó là giảm chất lượng đào tạo, giảm uy tín nhà trường, đặc
biệt sản phẩm tạo ra không đạt chuẩn đầu ra, xã hội khơng sử dụng được, đi
tìm lời giải pháp xóa bỏ tính thụ động trong sinh viên đồng thời nâng cao
tính chủ động tích cực trong học tập là bài tốn khó khơng chỉ nhà trường ta
mà cịn cả xã hội phải tham gia.
2. Biểu hiện thụ động
2.1 Đọc chép
Sự siêng năng, ngoan ngoãn trong giảng đường đã làm mất đi ý nghĩa
tích cực, vì sinh viên khơng có thời gian tiếp thu và phản biện chất vấn lại,
ích lợi là giáo viên không phát vấn và như vậy sẽ không lo phải trả lời câu
hỏi từ giáo viên.
Mặc dù đã có tài liệu, giáo trình, những lúc học trong giảng đường, sv
cũng ghi chép quá nhiều hoặc có động tác tương tự nhằm tránh phải trả lời


câu hỏi từ giáo viên, việc thụ động tiếp thu kiến thức làm cho chất lượng đào
tạo kém, không bảo đảm chuẩn đầu ra.


2.2 Thư viện ít người lui tới
Thư viện chỉ đông vào mùa thi, mùa chuẩn bị làm báo cáo thực tập,
vậy sinh viên đọc gì, học gì trong suốt quảng đời sinh viên.
2.3 Sự yên lặng đáng sợ
Giáo viên đặt câu hỏi cho sinh viên thì nhận được sự n lặng vì:
 Trả lời khơng phải là trách nhiệm cá nhân mình, chắc chắn sẽ có câu
trả lời, đa phần là từ giáo viên sẽ giải nếu không muốn mất thời giờ
quá lâu cho một chủ đề.
 Không muốn bị chú ý khi : trả lời sai, thiếu tự tin, nói vấp
 Sợ lộ dốt: nói ai sợ người khác biết mất kiến thức căn bản
 Sợ người khác nói là làm nổi
 Khơng chuẩn bị bài trước ở nhà
 Không hứng thú với môn học
 Không khí lớp học nặng nề
 Thiếu tập trung do làm chuyện riêng, tán gẫu
 Câu hỏi khơng có trong giáo trình, vượt ngồi kiến thức hiểu biết.
3. Ngun nhân
Qn tính lớn từ thời phổ thông : đọc chép, hết môn có ơn theo đề
cương, có trọng tâm trọng điểm, cả xã hội dõi theo quá trình học và thi, học
ở trường chưa đủ, phải học thêm, nói chung việc học có người lớn lo sẳn đã
tạo cho học sinh phổ thông thụ động từ trong trứng nước. Bước vào môi
trường Đại học, cách học và cách dạy hoàn toàn khác phổ thông, nhiều thay
đổi, cách biệt làm nhiều sinh viên không theo kịp bài, hoang mang, buông
lỏng chuyện học, ù lì, đối phó dần dà làm cho sinh viên thụ động trong học
tập.


Phân tích ngun nhân
Thói quen cũ q lớn từ thời phổ thông
Ù lỳ

Thiếu tập trung
Không chuẩn bị bài
Sự dể dãi của giáo viên
Thiếu nguồn tư liệu
4. Giải pháp
4.1 Về phía sinh viên
4.1.1 Xây dựng động cơ học tập
4.1.1.1 Mục tiêu lớn
Tại sao chọn trường nầy, ngành nghề nầy
Học xong đạt được chuẩn gì
Sau khi ra trường làm được gì và các kế hoạch tương lai
Việc xác định được mục tiêu đào tạo sẽ giúp sinh viên xây dựng được mục tiêu học
tập và các qui tắc học tập một cách nghiêm túc như:
Thực hiện các yêu cầu từ nhà trường và giáo viên bộ mơn
Có kế hoạch học bổ sung các môn khác phục vụ cho công việc tương lai: ngoại
ngữ, tin học, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng sống...
Từ đó sinh viên sẽ có thái độ hành vi thích hợp trong giảng đường va xã hội.
4.1.1.2 Mục tiêu mơn học
Mục tiêu học tập của từng mơn : đóng vai trị quyết định cho kết quả mơn học, góp
phần cải thiện hình ảnh và chất lượng học tập. Nhiều giáo viên không nhấn mạnh mục tiêu
môn học nên nhiều sinh viên chỉ biết học và học, nhưng không biết đích đến, do đó dễ lạc
đường và chán nản khi thấy môn học nầy mênh mông quá.


Xác định yêu cầu: trong tiết học, giáo viên có nêu yêu cầu đối với sinh viên, nhưng
đôi khi dể dãi, trước sau gì cũng trình bày hết nội dung, hay u cầu khơng rõ ràng nên sinh
viên thường có trang thái vào lớp học chờ nghe giảng hơn là tìm hiểu trước.
4.1.2 Phương pháp học tập
Khi xác định được mục tiêu học tập, sinh viên cần xây dựng phương pháp học tập
phù hợp môi trường đại học: tự chủ sáng tạo.

4.1.2.1 Học cá nhân
a. Đọc trước tài liệu của giáo viên
nắm vững rồi mới tham khảo tài liệu khác, nếu khơng dể tẩu hỏa nhập ma vì kiến
thức nhiều, rối rắm, không nhất quán.
b. Nắm bản chất môn học
Xác định mục tiêu, yêu cầu, và tim được cái cuối cùng mơn học là đạt được điều gì,
từ đó có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng đi đến sự hịa hợp, thống nhất.
c. Tầm nhìn
Khi có tầm nhìn về mơn học sẽ khơng học theo lối mù quáng, đọc nhiều, chép
nhiều nhưng thiếu thảo luận, phản biện, một chiều dể đi đến kết luận " giáo viên là nhất" và
xi chiều cái gì cũng nhất trí nhung thực chất khơng biết đồng ý cái gì?
d. Một ngun tắc thời lượng và thời khóa biểu
Xây dựng cho mình một nguyên tắc cơ bản là làm việc có lịch trình thời khóa biểu,
giờ nào việc đó, khơng sống, làm việc xô bồ theo kiểu gặp đâu học đấy, dể bị cám dổ bởi
ca nhạc, thời trang, games…
e. Lên lớp với thái độ trọng thị
Trong lớp, tập trung chú ý bài giảng, ghi chép nhanh, gọn các ý chính, đánh dấu
chổ mù mờ hoặc khó hiểu để giải quyết. Nhiều sinh viên ghi chép quá nhiều, đến nổi về
đọc không hiểu gì vì giờ học có nhận thức điều gì đâu, cứ tưởng cứ chép nhiều, có chữ
nhiều là yên tâm.


Nhiều sinh viên xem thường giáo viên và coi thường mơn học (vì sao), giờ mơn
học nầy lại lấy mơn học khác ra làm việc, bản thân tôi gặp nhiều trường hợp nầy : giờ Tin
học lại lấy Anh văn ra làm...Nhưng khi yêu cầu sinh viên nầy lặp lại câu " tơi vừ nói gì"
hay u cầu trả lời câu hỏi tơi vừa nêu thì họ lại lí nhí " thầy làm ơn đọc lại câu hỏi". Hành
động trên làm cho nhiệt tình giáo viên nguội lạnh dần trước lớp học.
f. Hỏi-đáp với giáo viên và nên có quan điểm riêng
Thường xuyên tranh thủ giải đáp của giáo viên, thỉnh thoảng cũng có những giải
đáp chưa thỏa đáng nên giải quyết rốt ráo bằng cách nhắc lại thắc mắc, hay trình bày quan

điểm của mình trước vấn đề đó, đơi khi một vấn đề có thể giải quyết bằng nhiều cách khác
nhau hoàn toàn, do các giáo được đào tạo theo các trường phái khác nhau. Sự tranh lậun
nầy giúp cho sinh viên mở rộng kiến thức và trình bày quan điểm có lập trường hơn.
g. Làm việc nhóm
Dù ta có tài giỏi vì đi nữa thì cũng có khiếm khuyết khi giải quyết một vấn đề, nên
tham gia nhóm học tập để lấy ý kiến chung, giảm bớt sai sót. Đơi khi khi tham gia nhóm
giúp cho nhiều sinh viên nhút nhát trở nên mạnh dạn hơn, và nhiều người sống một mình
trởn nên gắn bó tập thể hơn, siêng năng hơn. Làm sao làm việc nhóm có hiệu quả vẫn là
bài toán lớn.
h. Sơ kết và tổng kết từng mơn
Học xong từng bài, từng mơn, nên có đề cương, nhận xét, tóm ý, các vấn đề cịn bỏ
ngỏ, các vấn đề chưa giải quyết.
4.1.2.2 Xây dựng nhân cách sinh viên trong học tập và nghiên cứu
khoa học
Trang bị tinh thần học Đại học
Bồi dưỡng cách học, làm việc ở đại học theo tinh thần: tự chủ, sáng tạo, liên kết.
Biết làm việc theo nhóm
Dám đặt câu hỏi và tham gia thảo luận cùng giáo viên
Có tinh thần nghiên cứu khoa học:


Biết tìm kiếm thu thập thơng tin từ nhiều nguồn : báo chí, thư viện, Internet, bước
đầu biết tổng hợp thông tin từ người khác cung cấp cho, dần dần biết tự viết lấy các bài báo
cáo cho riêng mình.
Tự trọng: không copy bài làm, bài thi, không lấy sản phẩm của người khác làm cái
của mình theo kiểu copy, dán, đổi tên.
Không ỷ lại: không ỷ lại vào tập thể, sự dể dãi của giáo viên
4.2. Giáo viên
4.2.1 Đủ năng lực giảng dạy
Yêu cầu này có vẻ ngớ ngẩn vì muốn làm giáo viên phải có bằng cấp, trải qua thi

tuyển, sát hạch của trường, tuy nhiên ngoài kiến thức chuyên môn được đào tạo, giáo viên
cần nắm rõ nội dung và u cầu mơn mình giảng, từ đó có các bài giảng, kế hoạch học tập
phù hợp.
Ngồi ra, giáo viên phải có một trình độ sư phạm nhất định để có thể đứng lớp, bao
quát điều khiển hoạt động lớp học, xử lý các tình huống, và đặc biệt giảng sinh viên hiểu
bài và chịu học môn học của mình, giảng dạy khơng có nghĩa là đọc-chép mà là các hoạt
động chuyển giao kiến thức, công nghệ, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Trong thực tế, có giáo viên chỉ đọc chép, có giáo viên sử dụng máy tính, projector biến q
trình đọc-chép thành xem-chép.
Tùy theo đối tượng, nội dung môn học, nội dung bài học (hay chương) giáo viên
thay đổi cách truyền đạt đễ sinh viên lĩnh hội một cách dễ dàng, không phải có máy tính, có
Projector là đã vượt ra khỏi ải đọc-chép. Giáo viên cịn phải tổ chức nhiều hình thức học
tập khác dựa người học là trung tâm như học nhóm, thảo luận, nghiên cứu tình huống...
Bài thi và bài kiểm tra thông các cột điểm kiểm tra thường xuyên và thi hết học
phần phải phản ảnh được trình độ, năng lực của sinh viên, đừng kiểm tra qua loa mà bản
thân người học và người dạy không tiếp thu và phản hồi gì từ các đề thi, kiểm tra này.


4.2.2 Nhiệt tình
Sự nhiệt tình có thể được đo được từ thước đo sinh viên. Từ chổ nhiệt tình, làm cho
sinh viên chuyển động theo quỉ đạo của giáo viên. Thiếu sự nhiệt tình của giáo viên, lớp
học trở nên vô vị với môn học này, dần dà cả hai đối tác trở thành chủ – khách, thậm chí
trở thành Diễn viên – khán giả : đến lớp giảng bài một cách miễn cưởng, nghe bài một
cách vô cảm, cả hai cố diễn và xem xong xuất kịch, luôn thấy thời gian qua dài, chỉ chờ
chuông reo mà sinh viên hay mĩa mai "chuông reo là biến". Tuy nhiên bi kịch ở chổ là sinh
viên thụ động trong lớp họ sẽ "không im lặng như bầy cừu" mà "nhàn cư vi bất thiện", sẽ
có nhiều hành vi khơng đẹp mắt trong lớp như : ngồi lỏm chỏm theo nhóm chơi, ngủ gật,
trò chuyện, làm chuyện khác...
Hệ lụy của vấn đề nầy là lây lan qua môn khác, sinh viên sẽ thử xem giáo viên khác
có phản ứng gì khơng khi lặp lại kịch bản kịch với giáo viên thiếu nhiệt tình, đấy cũng là

thử thách và bản lĩnh của giáo viên khi gặp tình huống nầy: tốn nhiều cơng sức vực dậy
một lớp quá thụ động, có nhiều hành vi chưa đúng trong lớp.
Để duy trì được nhiệt tình thì người dạy phải có cảm hứng với lớp học
Cảm xúc dạy học.
Giáo viên phải xác định nhiêm vụ của mình trước lớp học, dạy xong số tiết được
giao chưa phải là hồn thành mà cịn phải nung nấu trong lịng
Sinh viên tiếp thu được gì
Áp dụng được gì cho bản thân, thực tế và xã hội
Có gì thiếu sót khơng?
Học được gì qua lớp này?
Từ đó, trước khi lên lớp, tơi ln có một trách nhiệm, một cảm hứng đứng trước
một nhóm người mới, họ ln khát khao cái mới mà mình đơi lúc khơng đáp ứng được,
khi giảng, hãy cố gắng truyền cho sinh viên lửa của người thầy, dần dà sẽ thấy kết quả mà
dạy xong lớp học đó, mình vẫn cịn cảm xúc vì đã mang lại cho sinh viên cái mới, thiết
thực và phong cách là việc.


4.2.3 Trách nhiệm giáo viên
Ngồi nhiệt tình, giáo viên có trách nhiệm lớn là dẫn dắt lớp học, do đó
khơng phải chỉ vào lớp làm duy nhất một nhiệm vụ truyền đạt kiến thức cho
sinh viên mà con hướng dẫn cách học tập, nghiên cứu... Do đó giáo viên cịn
có các trách nhiệm sau đây:
a. Cung cấp tài liệu
Phải cung cấp đầy đủ tài liệu học tập: giáo trình, tài liệu đọc thêm, tài liệu
tham khảo.
Việc cung cấp giáo trình có thể dể dàng vì hầu như mơn học nào cũng
bắt buộc phải có giáo trình hay bài giảng. Tuy nhiên việc cung cấp bài giảng,
giáo trình tham khảo, tài liệu đọc thêm hình như có q ít giáo viên thực
hiện điều này, như vậy dể đánh đồng học theo Tín chỉ và Niên chế như nhau
b. Đề cương chi tiết môn học (syllabus)

Cần công bố đề cương chi tiết mơn học để sinh viên biết rõ lịch trình
học, kiểm tra và các hoạt động khác trong chương trình mơn học, sinh viên
chủ động nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu, bởi vì trong đề cương chi tiết nầy
có phân rõ tiết thứ mấy làm kiểm tra, bao lâu thì nộp tiểu luận, tạo ra hoạt
động khoa học trong lớp và cả trường, sau nầy, khi học các môn tiếp theo,
sinh viên đã có nề nếp tốt sẽ tự động làm việc theo hướng dẫn giáo viên,
hình thành thói quen nghiên cứu khoa học và giúp sinh viên đạt được mục
tiêu môn học.
Qua theo dõi các giáo viên giảng dạy ở Khoa Tài Chính Kế Tốn (
gồm nhiều tổ bộ mơn, nhiều khoa tham gia giảng dạy), việc cung cấp đề
cương chi tiết mơn học (syllabus) xưa nay hiếm, do đó cần sự hướng dẫn
cụ thể từ nhà trường để bất cứ mơn học nào cũng phải có syllabus cho sinh
viên.


c. Bài tiểu luận và cách cho điểm
Viết tiểu luận trở nên phổ biến trong trường đại học. Tùy theo mơn
học, giáo viên mà tiểu luận có thể do một người viết hay nhóm thực hiện.
Mục đích của phần nầy là giúp sinh viên nghiên cứu, tự nghiên cứu, làm
việc theo nhóm, biết cách tìm kiếm tài liệu và biên tập lại thành bài nghiên
cứu khoa trên qui mô nhỏ. Do đó giáo viên cần phải nêu rõ mục đích, yêu
cầu, phải đưa ra danh mục đề tài, nguồn thông tin cung cấp, kỹ thuật tìm
kiếm, cách thức trình bày...Nếu khơng nghiêm túc thì bài tiểu luận sẽ có
nhiều đề tài dù trình bày đẹp, vơ bổ, khơng đạt mục tiêu. Bản thân tôi trong
mấy năm đầu dạy môn "Mạng thơng tin quốc tế" khơng nêu rõ mục đích,
định hướng đề tài, nên cũng nhận được một số kết quả khong mong muốn,
ví vụ mơn lại nhận được đề tài "Sinh đẻ có kế hoạch" hay " Giáo dục giới
tính cho lứa tuổi mầm non" hay "Tác động của ô nhiễm môi trường với xã
hội hiện nay".
Nhiều giáo viên dễ dãi, nên tiểu luận là cơ hội sinh viên kiếm điểm,

mà cũng là giáo viên hoàn thành nghĩa vụ dễ dàng:
Bài tiểu luận làm việc theo nhóm khoảng 7-8 người, cho điểm chung
cả nhóm, hậu quả là chỉ có 1-2 người làm việc, cả nhóm đạt mục đích điểm
số mà khơng cần hoạt động.
d. Bài tiểu luận có là được
Có nhiều giáo viên chỉ yêu cầu nộp bài tiêu luận bằng cách in ra giấy
nộp, nhiều bài lấy từ Internet nhưng khơng biết biên tập, cịn rất nhiều lỗi,
cịn nhiều logo quảng cáo mà giáo viên vẫn chấp nhận. Như vậy đã giết
chết sự nghiên cứu, tìm tịi, vì chỉ sao chép là có điểm, tính thụ động lại
thắng thế.
e. Bài tiểu luận phải viết tay


Có giáo viên trường CDKTDN yêu cầu sinh viên nộp tiểu luận bằng
bài viết tay, như vậy cũng giết chết sự năng động, vì cho rằng bản in dùng
cơng nghệ cắt dán. Khơng kiểm sốt được thì cấm, đó căn bệnh cố hữu
người Việt. Thử hỏi, sinh viên cần có đề cương, danh mục đề tài, thậm chí
bài mẫu của khóa trước để sinh viết cách viết. Thế mà lại viết tay, khi ý
tưởng mang đến cho sinh viên dồi dào, viết một mạch 20-30 trang, trong
đó có các đoạn trích dẫn ngun văn để chứng minh, minh họa thì phải viết
lại trên giấy ngun văn, vậy cịn thì giờ đâu mà sáng tạo. Có lẻ nên xem
xét lại mấy mơn học liên đến vi tính cũng khơng cần đưa vào nhà trường
nữa. Và giáo trình của giáo viên nầy cũng nên viết tay để bảo đảm đó là
hàng chính hãng.
4.2.3 Bài thuyết trình
a. Mục tiêu bài thuyết trình
nghiên cứu, tìm tịi, biên tập, làm việc theo nhóm và quan trọng là
diễn thuyết trước đám đơng. Giáo viên cần có đề cương, danh mục đề tài,
công phu hơn bài tiểu luận, hướng dẫn cho sinh viên tổ chức thuyết trình
và thuyết trình, nâng cao kỹ năng giao tiếp, ứng xử trước đám đơng. Sau

mỗi một lần thuyết trình là một bài học kinh nghiệm mà các nhóm khác
phải học tập, sau nầy, khi ra đời, nếu có tổ chức thuyết trình như hội chợ,
Invents, quảng cáo... thì sinh viên ta khơng bở ngở, lóng cóng để trượt
nhiều cơ hội trong cuộc đời...
b. Sinh viên phải kiểm soát được buổi thuyết trình
Đừng để cảnh một nhóm người ngồi đầu bàn, có đầy đủ thiết bị truyền
thông như : Laptop, projector, bảng chiếu, bút laser, sóng Wifi phục vụ
Internet...nhưng chỉ có một người đứng nói (hay lần lượt xếp hàng để nói),
đọc nội dung dựa vào xấp tài liệu A4 in sẳn, khơng quan tâm khán phịng


có những ai, đối tượng ngồi có chú ý khơng, xử lý tình huống ra sao khi ồn
ào, khơng tập trung. Nếu chấp nhận kiểu thuyết trình trên, vơ tình phủ nhận
hoạt động nhóm, khơng nâng được tầm thuyết trình trước đám động tự tin,
khơng kiểm sốt khán phịng, thì thuyết trình cũng khơng đạt mục tiêu đề
ra. Phải giao nhiệm vụ tổ chức cho sinh viên, giáo viên chỉ quan sát, đánh
giá cho điểm nhóm thuyết trình, sau đó rút kinh nghiệm. Có như vậy sinh
viên khơng ỷ lại vào giáo viên, khi thuyết trình, khán phịng ồn ào có giáo
viên ổn định dùm.
c. Bài kiểm tra và thi
Kiểm tra: tổ chức kiểm tra lấy điểm sao cho phản ánh được năng lực
và công bằng. Nếu cho điểm thuyết trình, bài tiểu luận thì phải kiểm sốt
được sự đóng góp của cá nhân trong tập thể (lớp đơng khó đánh giá), nếu
bài tiểu luận trong lớp thì phải bảo đảm khơng quay cóp, cơng bằng.
Bài kiểm tra cho giáo viên biết hàm lượng tiếp thu bài giảng, sinh
viên biết khả năng trình độ, trình bày, diễn đạt tới đâu. Hiện nay vì nhiều lý
do, các bài kiểm tra khơng có điều kiện quay về cho sinh viên, do đó sinh
viên cũng khơng rõ mình cái gì, ở đâu, nên đề có câu tương tự thì sinh viên
cũng tiếp tục sai như vậy, đo đó đề nghị giáo viên nên cơng bố bài giải chi
tiết, chí ít là ý chính và thang điểm qua Internet để sinh viên có điều kiện

sửa sai, đó cũng là thúc đẩy tính tự chủ xóa bỏ sự thụ động trong sv, đó
cũng là thúc đẩy tính tự chủ xóa bỏ sự thụ động trong sv.
5. Kiến nghị với nhà trường
 Cần có sự hổ trợ tồn diện nhà trường để xóa bỏ tính thụ động trong
sinh viên, tạo điều kiện giáo viên phát triển tài năng, nhiệt tình, kinh
nghiệm trong giảng dạy, giúp sinh viên có mơi trường học tốt hơn để
có kết quả tốt trong học tập thi cử.


 Hổ trợ cơ sở vật chất, phương tiện hạ tầng trong học tập
 Nâng cao thu nhập bằng cách tăng thù lao giảng dạy của giáo viên
 Có sóng wifi trong khu vực học tập
 Sỉ số lớp học vừa phải
 Tin học hóa thời khóa biểu và quản lý điểm, dịch vụ đăng ký học tập
của sinh viên
 Ổn định thời khóa biểu và cơng bố trước đầu năm học.
 Chọn các đề tài chất lượng tổ chức thuyết trình cấp trường, tạo ra
phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học trong phạm vi nhà trường,
góp phần xóa bỏ việc học thụ động, đưa nghiên cứu khoa học thành
công việc thường xuyên và phổ biến
 Sắp xếp, bố trí các phịng học ứng với các lớp học có khả năng làm
việc nhóm và thảo luận
 Ví dụ : Lớp XNK13AB học mơn "Thương mại điện tử" có 1 buổi
học nhóm khoảng 60 phút về nội dung " Liệt kê các ngân hàng có
giao dịch qua cổng thanh tốn trực tuyến" và " Các cổng thanh toán
trực tuyến ở Việt Nam" hay " Dạo qua các chợ ảo kiểu nhóm mua
Groupon" Nội dung nầy khơng khó, nhưng giảng viên trình sẽ trở nên
nhàm chám, cịn sinh viên thì hình như biết nhưng để đó. Cịn nếu
như làm việc nhóm thì phải có phịng học để 10 nhóm (khoảng 100
sv) tách ra, sử dụng laptop ( 1 nhóm có 1- 3 laptop là hiện thực) để

tim tòi, biên tập bằng word khoảng 45 phút, 15 phút còn lại là biên
tập thanh bài thu hoạch và nộp bài. Khi sinh viên làm việc, những gì
trước đây bạn thấy, bạn nghĩ sẽ thay đổi.
Có thể tham khảo một hai đoạn phim của lớp QT12AB và Mar12AB
khi thực hiện bài học thảo luận nhóm ở đây...
/>


×