Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Khai quat ve lich su tieng Viet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.51 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Khái quát về lịch sử tiếng Việt</b>



<i><b>• Trung tâm KHXH&NV Quốc gia</b></i>
Tiếng Việt có nguồn gốc rất cổ xưa và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, đầy sức sống.
Sức sống đó biểu hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ và sáng tạo của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu
tranh anh dũng vì tiền đồ của đất nước, trong sự phấn đấu bền bỉ để xây dựng và phát triển một nền
quốc ngữ, quốc văn, quốc học Việt Nam.


<b>1. Nguồn gốc tiếng Việt</b>


Tiếng Việt thuộc <i>họ Nam Á</i>.


Đó là ý kiến phổ biến được trình bày trong nhiều cơng trình nghiên cứu về nguồn gốc các ngôn ngữ ở
Đông Dương và châu Á.


Họ Nam Á, như thường quan niệm(1)<sub>, là một họ ngơn ngữ đã có từ rất xưa, trên một khu vực rộng của</sub>
vùng Đông Nam châu Á. Vùng này, thời cổ, vốn là một trung tâm văn minh trên thế giới.


Đến ngày nay, vẫn còn nhiều dấu vết về mối quan hệ họ hàng gần gũi giữa tiếng Việt với tiếng
Mường, và mối quan hệ họ hàng tương đối xa hơn, giữa tiếng Việt với nhóm tiếng Mon-Khmer ở dọc
Trường Sơn, ở miền Tây Nguyên, ở trên đấy Campuchia, Miến Điện (Mianma)... Rõ nhất là những dấu vết
trong lớp từ căn bản, tức là những từ thông thường đã có từ lâu đời. Ví dụ: Trong tiếng Việt, có từ <i>tay thì</i>
từ tương đương trong tiếng Mường nghe như "thay"; tiếng Ba Na, tiếng Mơ Nông, nghe như "ti"; trong
tiếng Môn, tiếng Khmer, nghe như "tai"...


Trong tiếng Việt, lại cịn tìm thấy những chứng cứ về mối quan hệ giữa nó với nhóm tiếng khác, đặc
biệt là với nhóm tiếng Thái. Nếu những từ như chim, rú (rừng rú), sông... được xác nhận là cùng gốc với
những từ tương đương trong nhóm Mon-Khmer, thì những từ như gà, vịt, đồng, rẫy... lại được chứng
minh là cùng gốc với những từ tương đương trong nhóm Thái.


Mối quan hệ này là do có họ hàng, hay chỉ do tiếp xúc với nhau mà sinh ra?



Công việc nghiên cứu ngồn gốc tiếng Việt và các tiếng khác ở Việt Nam cịn tiếp tục, nhưng theo
những căn cứ đã tìm thấy, có thể nghĩ rằng phần lớn những ngơn ngữ của các dân tộc thuộc khối cộng
đồng người Việt Nam đều sinh ra từ một cội nguồn chung xa xưa. Từ cội nguồn ấy, tiếng Việt đã có q
trình phát triển riêng trong xã hội của người Việt – một xã hội sớm đạt tới trình độ tổ chức khá cao, với
một nền văn minh nơng nghiệp tương đối hồn chỉnh. Trải qua giai đoạn này, tiếng Việt đã thành một
ngơn ngữ thống nhất và có bản sắc của nó.


Bản sắc ấy khá vững bền. Nó sẽ tiếp tục phát huy tác dụng ở giai đoạn sau, giai đoạn của sự tiếp xúc
ngôn ngữ giữa Việt Nam và Trung Quốc.


__________


(1)<sub> Cịn có ý kiến cho rằng họ Nam Á, với họ Thái, thuộc một họ ngôn ngữ lớn hơn (mà cũng có người</sub>
gọi là họ Nam Á).


<b>2. Tiếng Việt ở giai đoạn dùng chữ Nôm</b>



Sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt – Hán đã diễn ra cả nghìn năm dưới chế độ đô hộ của phong kiến Trung
Quốc, trong khuôn khổ một chính sách đồng hố quyết liệt, tàn bạo; rồi sau đó, cịn diễn ra cả nghìn năm
tiếp theo, dưới chính quyền của vua quan trong nước. Suốt giai đoạn này, chữ Hán giữ vị trí rất quan
trọng. Nó được dùng trong hành chính, tế lễ, học thuật, thơ văn.


Nhưng tiếng Việt, trong giai đoạn ấy, vẫn không ngừng phát triển, và đã phát triển càng ngày càng
mạnh.


Nền văn học dân gian, với những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, những ca dao, tục
ngữ, chứng tỏ q trình phát triển sinh động, phong phú của tiếng Việt văn học truyền miệng. Tuy vậy,
chữ viết là điều kiện cần thiết để cho một ngơn ngữ văn học có thể phát triển tới trình độ cao. Chữ viết
của tiếng Việt, ở giai đoạn này, là chữ Nôm – một thứ chữ được tạo ra theo nguyên tắc và cơ sở của chữ
Hán(1)<sub>. Theo những tài liệu còn lại hiện được biết, có thể nghĩ rằng chữ Nơm đã xuất hiện vào khoảng các</sub>


thế kỉ IX-X, nhưng đến các thế kỉ XIII-XV mới có thơ phú "quốc âm", "quốc ngữ" viết bằng chữ Nôm, của
những người như Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên), Nguyễn Sĩ Cố, Chu An, Nguyễn Trãi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Từ thế kỉ XV về sau, đặc biệt là ở các thế kỉ XVIII, XIX, trào lưu văn học chữ Nôm phát triển mỗi thời
một mạnh hơn, với nhiều tác phẩm hơn, những tác phẩm được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, trước
thái độ tiêu cực của triều đình và tầng lớp khá đông những nhà nho quá sùng bái chữ Hán(2)<sub>.</sub>


Trào lưu này đã đưa tiếng Việt đến những bước tiến rõ rệt. Kho từ vựng tăng lên, giàu có hơn. Bộ
phận nền tảng của nó là những từ gốc Việt. Đó là những từ một âm tiết, như: <i>đất, người, trăng, đẹp,</i>
<i>vui... và những từ hai tiếng được cấu tạo theo </i>quy tắc phối hợp âm thanh như: long lanh, ngậm ngùi...
hoặc quy tắc phối hợp nghĩa, như: vng trịn, mây gió... Nó cũng tiếp nhận và đồng hố nhiều từ gốc
Hán. Có những từ một tiếng gốc Hán đã được đưa vào tiếng Việt từ rất xưa, và được Việt hố hồn tồn,
như: tuổi vốn là gốc ở âm của của chữ Hán "tuế"; buông gốc ở âm cổ của chữ Hán "phóng"... Ngồi ra,
cịn có những từ một tiếng hay hai tiếng gốc Hán đã đi vào tiếng Việt ở thời kì sau và chủ yếu theo con
đường sách vở(3)<sub>. Đó là những từ thi ca, như: phong, hoa, tuyết, nguyệt, tài tử, giai nhân... và những từ</sub>
văn hố, chủ yếu về đạo lí, triết lí, như: nhân, nghĩa, trung, hiếu, bạc mệnh, tang thương... Nói về cách
đặt câu, cách làm thơ, thì qua trào lưu văn học chữ Nôm, rõ ràng là tiếng Việt đã đạt tới trình độ điêu
luyện hơn, mà vẫn bền vững, nhuần nhuyễn tính cách Việt Nam.


Những tác phẩm như Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều... chứng tỏ rằng tính cách ấy ngày càng đậm đà
và có tác dụng sâu sắc. Người Việt Nam chúng ta yêu mến, quý trọng nó là yêu mến và quý trọng bản
sắc của ngôn ngữ, của văn hố dân tộc. Tư tưởng và tình cảm này có hiệu lực đặc biệt quan trọng trong
sự bồi dưỡng và phát huy tinh thần dân tộc của nhân dân Việt Nam.


__________


(1)<sub> Có những lí do nhất định cho phép nghĩ tới một thứ chữ cổ hơn của tiếng Việt, song đó cịn là một</sub>
giả thuyết trong phạm vi nghiên cứu... Chữ Nôm, về cơ bản, là một thứ chữ ghi âm bằng các yếu tố của
chữ Hán. Ví dụ: chữ (đọc là năm) với nghĩa về thời gian gồm có chữ Hán "nam" (ghi âm) và chữ Hán
"niên" (ghi nghĩa); còn chữ cũng đọc là năm với ý nghĩa về sống lượng thì gồm có chữ Hán "nam" (ghi


âm) và chữ Hán "ngũ" (ghi nghĩa). Như vậy, chữ Hán "nam" là yếu tố ghi âm.


(2)<sub> Thế kỉ XVIII, triều Lê-Trịnh, sách Nơm đã có lúc bị cấm, không cho in, không cho đọc, thậm chi bị</sub>
đốt đi.


(3)<sub> Những từ này thường được gọi theo thói quen là "từ Hán Việt". Chúng chưa phải là đã Việt hố</sub>
hồn tồn, về cách phát âm cũng như cách dùng.


<b>3. Tiếng Việt ở giai đoạn dùng "chữ quốc ngữ"</b>



Từ đầu thế kỉ 20 về sau, tiếng Việt dần dần được dùng trong mọi thể loại văn học, mọi địa hạt văn
hố, khoa học, kĩ thuật. Nó phát triển thành ngơn ngữ văn học tồn diện(1)<sub>. Đây là giai đoạn hiện đại của</sub>
tiếng Việt.


Ở giai đoạn này, sự phát triển của tiếng Việt diễn ra mạnh và nhanh, cùng một đà với quá trình biến
đổi sâu sắc của xã hội Việt Nam trải qua cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, đặc biệt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Đó cũng là sự phát triển đã diễn ra với một lợi khí mới về chữ viết: "chữ quốc ngữ".


Chữ quốc ngữ là một thứ chữ được xây dựng theo nguyên tắc ghi âm, bằng chữ cái Latin(2)<sub>. Loại chữ</sub>
này đã được dùng phổ biến từ rất lâu, ở châu Âu. Đến thế kỉ 17, một số giáo sĩ phương Tây(3)<sub> đem</sub>
nguyên tắc ấy dùng vào việc ghi âm tiếng Việt, tạo ra một thứ chữ thuận lợi hơn đối với mục đích truyền
đạo. Điều kiện quyết định sự thanh công của việc ghi âm như vậy là cách phát âm về cơ bản giống nhau
giữa các địa phương. Điều kiện ấy đã có ở thế kỉ 17. Quả vậy, tiếng Việt trên toàn đất nước, như chính
bản thân chữ quốc ngữ của thời kì này đã ghi lại, đã có, tự bấy giờ, một trình độ thống nhất rất cao(4)<sub>.</sub>


Mấy thế kỉ tiếp theo, chữ quốc ngữ chỉ có phạm vi sử dụng hạn chế trong kinh bổn đạo Thiên Chúa.
Một số trí thức sớm theo đạo này và sớm có "tây học", nhất là từ khi thực dân Pháp chiếm "Nam Kì", đã
ra sức cổ động cho nó. Nhưng lời hơ hào của họ khơng được hưởng ứng rộng rãi. Đó là do ý đồ của những


người trí thức ấy khơng đi ra ngồi khn khổ của tồn bộ chính sách thống trị của kẻ xâm lược.


Thái độ lạnh nhạt đối với chữ quốc ngữ thay đổi kể từ khi hình thành các phong trào đấu tranh văn
hố có ý nghĩa chính trị, như phong trào Đông kinh nghĩa thục, ở đầu thế kỉ này. Những người lãnh đạo
phong trào là một số nhà nho yêu nước, chống Pháp. Họ nêu việc dùng chữ quốc ngữ lên hàng đầu trong
sáu biện pháp của bản sách lược gọi là Văn minh tân học sách (1907), và lên tiếng kêu gọi đồng bào vì
tương lai của đất nước mà nên dùng thứ chữ tiện lợi ấy. Những tài liệu văn hoá bằng chữ quốc ngữ, do
phong trào này phát hành, đã được phổ biến khá rộng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>kách mệnh" (1925) của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, "Luận cương chính trị" (1930) của Ban Chấp hành</i>
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã được truyền đi, trong thời kì này.


Qua thời kì ấy, văn xuôi tiếng Việt đã thực sự ra đời và được luyện dần trong thể loại nghị luận chính
trị, xã hội. Cách đặt câu đổi mới, coi trọng tính chất rõ ràng, khúc chiết, hơn là tính chất đối xứng, nhịp
nhàng. Những tri thức mới về chính trị, về khoa học đòi hỏi nhiều từ mới phải đưa vào tiếng Việt. Những
từ như kinh tế, xã hội, văn hoá, tư tưởng, giai cấp,... xuất hiện trong tiếng Việt tự bấy giờ. Văn xuôi nghệ
thuật cũng dần trở thành phổ biến. Lúc đầu còn là văn dịch, rồi khoảng từ 1930 trở về sau, lớp văn sĩ
"tân học", ngày càng đông, đã sáng tác theo những thể loại mới: truyện ngắn, truyện dài, kịch nói,...
Cuối cùng, văn xi rời bỏ hẳn lối đặt câu biền ngẫu, có xu hướng gần gũi hơn với lời nói bình thường.
"Thơ mới" lại càng mạnh dạn hơn: nó phá bỏ những luật lệ khắt khe, xích tới gần văn xi. Trong phạm
vi từ vựng thì thơ hay văn xuôi, thuộc xu hướng hiện thực hay lãng mạn, đều dựa vào lớp từ thuần Việt


và đã làm cho lớp từ này tỏ rõ hiệu lực nghệ thuật của nó.


Trong khoa học tự nhiên và kĩ thuật thì số lượng thuật ngữ mới hoặc gốc Hán như: tâm, bán kính, ẩn
<i>số,...; hoặc gốc Pháp như: a-xít, ơ-xy, mê-tan,... đã tăng lên nhiều, và bắt đầu được truyền bá qua một</i>
số cơng trình dịch thuật và biên soạn có tính chất giáo khoa phổ thơng. Đó là những cơng trình có ý nghĩa
quan trọng, do những nhà trí thức yêu nước chủ trương, để chứng minh hiệc lực khoa học của tiếng Việt
trong địa hạt những khoa học chính xác – địa hạt mà chính quyền thực dân và những học giả bảo thủ cho
rằng tiếng Việt là "bất cập". Cũng qua những cơng trình đó mà văn xi khoa học tiếng Việt hình thành


và phát triển nhanh chóng.


Nhìn lại khoảng thời gian từ 1920, đặc biệt từ 1930, đến Cách mạng Tháng Tám, có thể nhận thấy
rằng khơng khí đấu tranh chính trị, văn hố rất sơi nổi đã có tác động rõ ràng tới sự phát triển của tiếng
Việt. Nhưng từ các xu hướng khác nhau, cũng đã hiện ra những quan niệm không giống nhau về chuẩn
mực của tiếng Việt: có quan niệm "hồi cổ", khơng thừa nhận những đổi mới đã thành phổ biến; có quan
niệm "bình dân" muốn ghi chép lời nói thơng thường, không theo những nền nếp của ngôn ngữ văn học,
chuẩn hố; có quan niệm "logic", muốn làm cho tiếng Việt gần gũi với cái logic chung, không cần chú ý
tới mặt tâm lí của nhân dân đối với đặc điểm có tính chất dân tộc trong ngơn ngữ...


<i>Đề cương văn hố Việt Nam (1943) của Đảng Cộng sản Đơng Dương ra đời trong hồn cảnh đó. Xác</i>
định phương châm chung của cuộc đấu tranh vì một nền văn hố cách mạng, bản đề cương rất chú ý tới
vấn đề ngôn ngữ và đã đề cao giá trị khoa học, đồng thời rất coi trọng sự giữ gìn bản sắc dân tộc, cũng
như tính nhân dân của tiếng Việt. Cơng việc nghiên cứu và biên soạn ngữ pháp tiếng Việt cũng đã được
bản đề cương nêu lên thành một nhiệm vụ quan trọng.


__________


(1)<sub> "ngôn ngữ văn học" là ngôn ngữ đã phá triển đến trình độ thống nhất và chuẩn hố; nó được thể</sub>
hiện trong sáng tác nghệ thuật và cả trong các địa hạt văn hố, khoa học.


(2)<sub> Ví dụ, âm tiết năm gồm có 3 âm vị đoạn tính, thì từng âm vị đươc ghi bằng các chữ cái: n, ă, m.</sub>
Nghĩa của từ năm là gì (nghĩa số lượng hay thời gian) thì khơng được biểu hiện trên mặt chữ.


(3)<sub> Việc đặt ra chữ quốc ngữ thường được gắn liền với tên tuổi A. de Rhodes, người Avignon (thời bấy</sub>
giờ chưa thuộc Pháp). Sự thật thì cịn có những giáo sĩ khác, người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã tham
gia vào việc này.


(4)<sub> Từ thế kỉ 17 tới nay, ngữ âm tiếng Việt tất nhiên đã biến đổi. Cho nên, chữ quốc ngữ hiện nay có</sub>
khác, so với chữ quốc ngữ ban đầu. Những sự khác biệt này là do điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống


ngữ âm đã biến đổi và ngoài ra, do cải biến nhằm bổ khuyết những sai sót của cách ghi âm thời đó nữa.
Những điều chỉnh và cải tiến này được thực hiện qua thực tiễn sử dụng.


<b>4. Từ Cách mạng tháng Tám đến nay</b>

<b>[*]</b>


Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trước nhân dân Việt Nam và tồn thế
giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cơng bố bản Tun ngơn độc lập. Đó là một văn kiện lịch sử đối với lịch sử của
dân tộc Việt Nam, đối với cả lịch sử của tiếng Việt. Những lời văn sáng sủa, hùng tráng của bản đại cáo
ấy chính thức tuyên bố quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, đồng thời chính thức xác
định vị trí của tiếng Việt đối với nước Việt Nam đã tự mình làm chủ vận mệnh của mình.


Từ đó, tiếng Việt đảm nhiệm một vai trị mới.


Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngay từ khi thành lập, đã quyết định dùng tiếng Việt ở mọi
cấp học, bậc học, ở mọi ngành hoạt động. Trong vai trò này, tiếng Việt tỏ ra dồi dào khả năng. Một trong
những ý nghĩa của các thành tựu văn hoá, khoa học, giáo dục, hơn ba mươi lăm năm qua của nước Việt
Nam, là minh chứng rõ ràng cho những khả năng đó của tiếng Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Cũng từ khi Cách mạng Tháng Tám thành cơng, vai trị ngơn ngữ chung của tiếng Việt đối với các
thành phần dân tộc anh em lại càng được đề cao. Mỗi thành phần dân tộc có ngơn ngữ riêng với vai trị
quan trọng của nó ở mặt sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân thuộc thành phần dân tộc đó.
Chính sách của Đảng và Chính phủ là tơn trọng quyền của mỗi thành phần dân tộc trong việc sử dụng
ngơn ngữ riêng của mình, vào tạo điều kiện thuận lợi cho ngôn ngữ của tất cả các thành phần đều phát
triển. Song, tiếng Việt là ngôn ngữ chung, dùng trong địa hạt giao lưu giữa các thành phần dân tộc, và
đặc biệt, trong sự xây dựng và phát triển nền văn hoá và khoa học-kĩ thuật chung của khối cộng đồng
dân tộc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự có mặt ngày một nhiều của những tác gia thuộc các thành phần
dân tộc khác nhau trên văn đàn nghệ thuật và khoa học của tiếng Việt đang biểu hiện một cách sâu sắc
cho vai trị ngơn ngữ chung của tiếng Việt, và đồng thời cho khối đoàn kết vững chắc của toàn thể dân
tộc Việt Nam.



Ngày nay, trong nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tiếng Việt có vị trí đầy vinh dự và vai trị
ngày càng quan trọng. Đó là cơng cụ đấu tranh của hơn năm mươi triệu người Việt Nam đang tiến hành
đồng thời cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng tư tưởng và văn hoá, cách mạng khoa học-kĩ
thuật, đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước.


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /> Giới Thiệu khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
  • 41
  • 842
  • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×