Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Chính sách giao thương cởi mở của chúa Nguyễn ở Đàng trong (thế kỷ XVI- XVIII)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.12 KB, 6 trang )

Dương Thị Huyền

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

112(12)/1: 143 - 148

CHÍNH SÁCH GIAO THƯƠNG CỞI MỞ CỦA CHÚA NGUYỄN
Ở ĐÀNG TRONG (THẾ KỶ XVI- XVIII)
Dương Thị Huyền*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT
Lịch sử Việt Nam (thế kỷ XVI - XVIII) đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hóa. Sau gần nửa thế kỷ giao tranh giữa các thế lực Trịnh- Nguyễn (1627- 1672),
một cuộc phân cát Đàng Ngoài (Tonkin)- Đàng Trong (Cochinchina) được xác lập, đã mở ra một
trang sử mới trong lịch sử dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền chúa Nguyễn đã đặt sự
tồn vong của chính thể trên nền tảng kinh tế ngoại thương chứ không dựa trên bệ đỡ kinh tế nông
nghiệp truyền thống. Các chúa Nguyễn với cái nhìn cởi mở về biển, đã thực thi những chính sách
khuyến thương mạnh mẽ, tích cực mở rộng quan hệ bang giao với nhiều quốc gia trong khu vực và
thế giới. Do đó, Đàng Trong nhanh chóng trở thành một vương quốc cường thịnh, một trung tâm
thương mại ở Đông Nam Á.
Từ khóa: Đàng Trong, Đàng Ngồi, kinh tế ngoại thương, đô thị, thương cảng.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ*
Từ nửa sau thế kỷ XVI, chủ nghĩa tư bản trên
thế giới phát triển mạnh mẽ, dẫn đến yêu cầu
ngày càng lớn về thị trường. Các nước tư bản
phương Tây đổ xô đi tìm kiếm những thị
trường ở các châu lục khác. Trong cuộc cạnh
tranh tìm thị trường ấy thì Thái Bình Dương
là mục tiêu hoạt động quan trọng của họ.


Đàng Trong là một vùng đất mới giàu tài
nguyên nên ngay lập tức trở thành điểm đến
lý tưởng của các thương nhân phương Tây.
Những thương nhân đầu tiên đến Đàng Trong
thời kì này là người Bồ Đào Nha, Hà Lan,
Anh, Pháp…
Về phía Trung Quốc, một mặt, sự phát triển
kinh tế trong thời nhà Minh đã kích thích trào
lưu mậu dịch đối ngoại, mặt khác phong trào di
dân sang các nước Nam dương đã tạo thêm
nhiều căn cứ ở hải ngoại cho cuộc thông
thương. Do đó, từ thế kỷ XVII, sự thơng thương
của Trung Quốc với Đàng Trong ngày càng
được tăng cường. Về phía Nhật Bản, đầu thế kỷ
XVII Mạc phủ Tokugawa ban hành chính sách
“mở cửa”, tạo điều kiện thuận lợi cho tàu bn
Nhật Bản đi bn bán ở nước ngồi. Thuyền
bn Trung Quốc, Nhật Bản hoạt động ráo riết
trên các cảng biển Đàng Trong như: Hội An
(Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định), Bến
*

ĐT: 0975702362; Email:

Nghé (Gia Định)… góp phần tạo nên khơng khí
bn bán nhộn nhịp trong khu vực Đơng Nam
Á cũng như ở Đàng Trong.
Trong bối cảnh Đại Việt thế kỉ XVII, cuộc
chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến
Trịnh - Nguyễn cũng được xem như một

trong những nhân tố kích thích sự nỗ lực của
chính quyền hai bên tìm mọi cách để phát
triển hơn nữa quan hệ giao thương với các
nước bên ngoài nhằm tranh thủ sức mạnh
quân sự, tăng cường tiềm lực kinh tế của
mình. Cả chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa
Nguyễn ở Đàng Trong đều nhận thấy những
mối lợi trong cuộc thông thương về nhiều
mặt; trước hết là thuế thương cảng và mối lợi
độc quyền mua bán có thể giúp cho họ bồi
đắp nền tài chính cần thiết để xây dựng binh
lực; thứ đến các nhu cầu cung cấp nhiều vật
liệu quân dụng và vũ khí phải nhờ các tàu
ngoại quốc bán cho; cuối cùng là mong muốn
lợi dụng sự viện trợ của người phương Tây về
quân sự để giành ưu thế đối với địch thủ.
Xuất phát từ yêu cầu của cuộc chiến tranh mà
các chúa Nguyễn ở Đàng Trong cần phải mở
rộng quan hệ buôn bán nhằm xây dựng một
nền kinh tế hàng hóa vững mạnh để đối trọng
với sức mạnh kinh tế Đàng Ngoài của các
chúa Trịnh. Bên cạnh đó, nhận thấy những
hạn chế của điều kiện tự nhiên đối với cư dân
nông nghiệp vùng khơ, Nguyễn Hồng và sau
đó là Nguyễn Phúc Ngun đã xác lập một
143


Dương Thị Huyền


Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

chiến lược phát triển mới với những bước đi
và hình thức khác biệt nhằm hòa nhập mạnh
mẽ hơn với những bước chuyển biến chung
của khu vực. Phát triển ngoại thương đã trở
thành một chiến lược kinh tế liên quan đến sự
sống còn của thể chế mà các chúa Nguyễn ra
công tạo dựng.
CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP CHỦ YẾU
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIAO
THƯƠNG
Đứng trước sự phát triển của nền thương mại
quốc tế, để đáp ứng yêu cầu phát triển của
vùng đất mới, các chúa Nguyễn đã khơng
ngừng đưa ra những chính sách giao thương
tích cực, cởi mở, dùng giao thương làm đòn
bẩy để phát triển kinh tế, tăng cường sức
mạnh và tiềm lực quốc gia.
Thứ nhất, chúa Nguyễn đã chú trọng sản xuất,
giao thương nội địa làm cơ sở giao thương
với nước ngoài. Thực hiện âm mưu cát cứ,
xây dựng một giang san riêng để chống lại họ
Trịnh, Nguyễn Hoàng và những người nối
nghiệp như Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn
Phúc Tần… một mặt củng cố việc phòng thủ
đất Thuận- Quảng, mặt khác đẩy mạnh việc
khai hoang, mở rộng lãnh thổ xuống phía
Nam đặc biệt vùng châu thổ sông Đồng Nai
và Cửu Long. Họ đã “chiêu mộ những dân có

vật lực ở xứ Quảng Nam, các phủ Điện Bàn,
Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới đây, phát
chặt mở mang, hết thảy thành bằng phẳng,
đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm, trồng
cau và làm nhà cửa”[5, tr.345]. Đầu thế kỉ
XVII, giáo sĩ C.Borri đến Đàng Trong đã
nhận xét: “Đất đai màu mỡ và sinh lợi… mỗi
năm họ gặt ba lần, thu được lượng thóc lúa
dồi dào đến mức khơng phải làm gì thêm để
kiếm sống…” [3, tr.147]. Mỗi vùng đều có
đặc sản riêng: hồ tiêu ở Hà Tiên, mía ở Bình
Thuận và Quảng Nam, dâu ở Thuận Hóa,
Quảng Nam, bơng ở Quảng Ngãi, quế ở Quy
Nhơn, Thăng Hoa, Điện Bàn... Những đặc sản
này cũng trở thành những thương phẩm của
Đàng Trong trao đổi với lái buôn nước ngồi.
Nền kinh tế nơng nghiệp Đàng Trong một
thời gian dài phát triển tương đối ổn định. Đó
chính là cơ sở kinh tế vững chắc tạo điều kiện
thuận lợi cho sự thống trị của chúa Nguyễn ở
Đàng Trong và cũng là cơ sở cho kinh tế
thương nghiệp phát triển mạnh mẽ.
144

112(12)/1: 143 - 148

Các chúa Nguyễn đã cho lập các quan xưởng
đúc súng, tiền, đóng thuyền… chủ yếu nhằm
phục vụ nhu cầu của nhà nước, hàng hóa làm
ra khơng đem trao đổi bn bán. Do đó, bộ

phận chủ yếu làm nên sự hưng thịnh của kinh
tế hàng hóa là các nghề thủ cơng trong dân
gian… Thời kì này ở Đàng Trong đã hình
thành một số trung tâm sản xuất gốm sứ lớn,
sản phẩm làm ra không chỉ phục vụ nhu cầu
trong nước mà còn trở thành mặt hàng xuất
khẩu được ưa chuộng. Từ thế kỷ XVI, đã có
rất nhiều đồ gốm sứ của Đàng Trong xuất
khẩu qua cảng Hội An đến nhiều nước Đông
Nam Á, nhiều nhất là Nhật Bản. Những đồ
gốm này phần lớn là các loại gốm hoa lam,
niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, bao
gồm các loại bát đĩa, chậu hoa, hũ và đồ uống
trà… được phát hiện với số lượng lớn [1,
tr.113-114]. Một học giả Nhật Bản khác là
G.S Hasebe Gakuji còn nhận xét: “Kỹ thuật
sản xuất đồ gốm ở Nhật Bản vào thế kỷ XVI
còn kém xa so với kỹ thuật Đại Việt” [6,
tr.183]
Nghề kéo tơ dệt lụa cũng phát triển tương đối
mạnh. Thương nhân Poavrơ đã nhận xét: “Tơ
của họ rất đẹp…họ có thể cung cấp nhiều hơn
nữa nếu Đàng Trong có thị trường tiêu
thụ…” [9, tr.151]. Cùng với gốm sứ, tơ lụa,
mía đường cũng là một mặt hàng xuất khẩu
khá nổi tiếng của Đàng Trong. Nghề trồng
mía đường đã có từ thời Bắc thuộc, tuy nhiên
đến thế kỉ XVII, XVIII mới phát triển rộng
rãi, đặc biệt là ở vùng Quảng Nam, Quảng
Ngãi… Mía đường làm ra ở vùng này khơng

chỉ cung cấp trong nước mà còn là một mặt
hàng ưa thích của các thương nhân phương
Tây: “Năm 1637, một chiếc tàu Hà Lan cập
cảng Hội An đã mua gần 2000 cân đường chở
về Batavia”. [9, tr.151]
Bên cạnh các nghề thủ cơng truyền thống như
gốm, dệt vải, mía đường…các nghề khác như
làm giấy, rèn sắt, đúc đồng, dệt chiếu, làm
nón… cũng có những bước phát triển vượt
bậc. Chính nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các
nghề thủ cơng đã kích thích nội thương phát
triển, từ đó hoạt động ngoại thương cũng chịu
những tác động tích cực.
Đối với nội thương, đó là việc buôn bán giữa
các vùng miền trong nước, các mặt hàng chủ
yếu là lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp
khác cũng như các sản phẩm của rừng như gỗ


Dương Thị Huyền

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

q, trầm hương, kỳ nam, sơn sống, quế. Nội
thương cũng tích cực phục vụ ngoại thương
bằng việc tập trung nguồn hàng để xuất khẩu.
Thứ hai, các chúa Nguyễn chủ động mời gọi
thương nhân nước ngồi đến bn bán với
Đàng Trong. Sử liệu của Borri viết năm 1621:
“chúa Đàng Trong khơng đóng cửa với một

quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa
cho tất cả người ngoại quốc, người Hà Lan
cũng tới như những người khác, cùng với tàu
chở rất nhiều hàng hóa của họ. Phương châm
của người Đàng Trong là không bao giờ tỏ ra
sợ một quốc gia nào trên thế giới” [3, tr.148].
Các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây
cũng như nhiều triều đại phong kiến phương
Đông khác có chính sách hạn chế ngoại
thương một phần lí do xuất phát từ nhu cầu tự
vệ để ngăn ngừa do thám của nước ngoài, mặt
khác, do ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nông
ức thương”, “dĩ nông vi bản” của Nho giáo,
muốn gắn chặt người nông dân với đồng
ruộng, không cho họ rời q hương đi bn
bán. Vì thế, các triều đình phong kiến thường
“đóng cửa” ngoại thương hoặc có những biện
pháp kiểm tra ngoại thương rất chặt chẽ. Tuy
nhiên, đến đầu thế kỉ XVI “Do tác động của
luồng thương nghiệp thế giới và các nước
trong khu vực, do yêu cầu xây dựng tiềm lực
kinh tế - quân sự - chính trị lớn mạnh để mưu
định nghiệp lớn, chúa Nguyễn, trước tiên là
Nguyễn Hồng, sau đó được kế tục bởi chúa
Nguyễn Phúc Nguyên đã thực thi một chính
sách ngoại thương “mở cửa”. Sẵn sàng mời
gọi thương nhân nước ngoài đến đầu tư buôn
bán. Nhờ vậy mà ngoại thương Đàng Trong
phát triển cực kỳ rực rỡ…” [8, tr.19].
Vào các thế kỉ XVI - XVIII, Đàng Trong vẫn

tiếp tục duy trì quan hệ buôn bán với các bạn
hàng truyền thống ở châu Á như Trung Quốc,
Mã Lai, Giava, Xiêm… Trong số những nước
này thì quan hệ bn bán với Nhật Bản và
Trung Quốc là mật thiết hơn cả. Các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong đã có nhiều biện pháp
khuyến khích và bảo trợ cho những người
Hoa bn bán, thậm chí cịn sử dụng người
Hoa trong quản lí giao thương. Theo P.
Poavrơ, ở thế kỉ XVIII “Ở Hội An có đến
6000 Hoa Kiều mà phần lớn là các lái bn
giàu có, vừa mua bán hàng hóa, vừa làm mơi

112(12)/1: 143 - 148

giới cho khách phương Tây, giữ các chức vụ
trong các tàu ti…[2, tr.234].
Đối với các thương nhân Nhật Bản, các chúa
Nguyễn cũng có những chính sách nhằm
khuyến khích họ đến Đàng Trong bn bán.
Trong các năm từ 1601 đến 1606 chúa
Nguyễn Hoàng thường xuyên chủ động trao
đổi thư từ với Mạc Phủ Tokugawa và những
người đứng đầu các cơng ty từng có quan hệ
bn bán với Đàng Trong. Nội dung chủ yếu
là nhằm xây dựng mối quan hệ thương mại
giữa hai bên, đồng thời bày tỏ nhiệt tình, sẵn
sàng tiếp đãi các khách bn ngoại quốc. Để
tỏ rõ thiện chí và mong muốn thiết lập quan
hệ thương mại bền vững với thương nhân

Nhật Bản, năm 1619, chúa Nguyễn Phúc
Nguyên gả con gái của mình cho một thương
nhân Nhật Bản là Araki Soutarou (Hồng
Mộc Tơng Thái Lang), ban cho quốc tính và
tên Việt là Nguyễn Hiển Hùng. Sự ra đời của
phố Nhật ở Hội An bên cạnh phố của người
Trung Quốc là do nhu cầu tất yếu của hoạt
động ngoại thương, nhưng đồng thời đó cũng
là kết quả phát triển quan hệ thương mại giữa
hai nước. Chưa có nơi nào trên đất châu Á mà
thương điếm của người Nhật có quy mơ và
năng lực hoạt động có hiệu quả như thương
điếm đặt tại Hội An.
Khơng chỉ mời gọi các thương nhân trong khu
vực, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong cũng có
rất nhiều chính sách ưu đãi với thương nhân
phương Tây. Nói về chính sách của các chúa
Nguyễn với các thuyền buôn phương Tây,
giáo sĩ Banddinoti - người dẫn đường cho các
thuyền buôn Bồ Đào Nha viết: “Đồn chúng
tơi vừa đến nơi thì được giáo sĩ Giulio Palani
đưa vào chầu Chúa. Chúa tiếp đãi chúng tôi
rất niềm nở, khoản đãi chúng tơi một bữa tiệc
có nhiều món ăn, lại hứa với chúng tơi là khi
cần đến, Chúa sẽ hết sức giúp đỡ…” [8, tr.
32]. Năm 1613, thương gia người Bồ Đào
Nha là Ferdinand Costa đến Dinh Cát để yết
kiến chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Cơ hội này,
Chúa Sãi nhờ Ferdinand Costa vận động
thương nhân người Bồ đến buôn bán ở dinh

của chúa. Theo Borri “Chúa Đàng Trong vẫn
tỏ ra thích để cho người Bồ bn bán ở nước
ngài một cách lạ lùng” [3, tr. 336]. Chúa
Nguyễn Phúc Nguyên còn chủ động cấp đất
145


Dương Thị Huyền

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

cho người Bồ xây dựng thành phố với tất cả
những gì cần thiết như đã làm với người Hoa
và người Nhật. Việc chúa Nguyễn xác lập và
tận dụng quan hệ với người Bồ từ đầu khơng
nằm ngồi mục đích mua vũ khí như súng
đồng của Bocarro ở Macao chống lại họ Trịnh
“chúa thấy có lợi trong việc duy trì quan hệ
tốt với người ngoại quốc này, họ có thể chống
chọi với kẻ địch, những tặng phẩm của họ
tâng bốc lòng hiếu kỳ và tính ham lợi của
ngài”. Khơng những thế, các giáo sĩ Dòng tên
đã được các chúa Nguyễn tin dùng, mặc dù
chỉ trong lĩnh vực y học. Thực dụng nhưng
cũng phải thấy thái độ cởi mở, tầm nhìn
khống đạt của chính quyền Đàng Trong.
Các năm 1617- 1618, chúa Nguyễn gửi thư
cho công ty Đông Ấn Hà Lan ở Batavia mời
sang Đàng Trong buôn bán: “Tôi tha thiết
mong mọi người đến buôn bán ở các bến

cảng nước tôi. Nếu chúa không lấy làm phiền,
xin cứ cho người tới nước tôi buôn bán. Điều
đó làm tơi dễ chịu cũng như tơi bn bán với
các nước khác…” [8, tr. 32]. Đến năm 1633
việc buôn bán giữa người Hà Lan và Đàng
Trong được thực hiện thông qua việc thiết lập
một thương điếm ở Hội An.
Thứ ba, để tạo cơ sở thuận lợi cho hoạt động
thương mại của người nước ngoài, các chúa
Nguyễn chú trọng xây dựng hệ thống các
thương cảng dọc ven biển. Từ đầu thế kỉ XVI,
do lệnh “hải cấm’ của nhà Minh bãi bỏ, chính
sách mở cửa của Mạc phủ, các thương nhân
Trung Quốc và Nhật Bản đến buôn bán ở
Đàng Trong tấp nập hẳn lên. Thương cảng
Hội An (Faifo) nhanh chóng trở thành trung
tâm thương mại hàng đầu của Đàng Trong,
thu hút thương khách nhiều nước đến buôn
bán. Nhưng các thương vụ diễn ra trên đất
Hội An chỉ 6 tháng đầu mỗi năm vào mùa
khô, đến cuối mùa hè các thuyền căng buồm
để gió mùa tây-nam đưa về đất bắc, Hội An
trở nên hoang vắng. Trước tình hình đó, phủ
chúa phải có giải pháp nhằm thỏa mãn yêu
cầu cho thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc
và cũng vì lợi ích của chính quyền sở tại là
cho phép họ chọn một nơi gần thương cảng
Hội An để lập phố buôn bán và cư trú lâu dài.
Từ đó ở Hội An đã hình thành hai khu phố tự
trị của người Nhật và người Hoa. Viết về đô

146

112(12)/1: 143 - 148

thị Hội An, Chritoforo Borri mô tả như sau:
“Vì cho tiện việc hội chợ, chúa Nguyễn cho
phép người Trung Quốc và Nhật Bản làm nhà
cửa theo tỉ lệ người của họ để dựng nên một
đô thị, đơ thị này gọi là Faifo và nó khá lớn.
Chúng tơi có thể nói có hai thành phố, một
của người Trung Quốc và một của người
Nhật. Họ sống riêng biệt và theo phong tục,
tập quán của mỗi nước…” [3; tr. 334]. Để
đảm bảo an toàn cho đặc khu kinh tế Hội An,
chúa Nguyễn đã bố trí một lực lượng hải qn
mạnh ngay phía hữu ngạn sơng Thu Bồn. Bên
cạnh đó, vị trí đặc thù của Dinh trấn Thanh
Chiêm cũng là nhân tố có ý nghĩa cho sự phát
triển của thương cảng này. Không chỉ nhằm
bảo đảm các hoạt động kinh tế cho thương
cảng quan trọng nhất Đàng Trong, Thanh
Chiêm còn có nhiệm vụ kiểm sốt vùng
thượng lưu sơng Thu Bồn, tuyến giao lộ BắcNam, bảo đảm an ninh cho Hội An và tồn
khu vực.
Bên cạnh Hội An, chúa Nguyễn cịn cho thiết
lập nhiều cảng thị khác: Thanh Hà, Nước
Mặn, Hà Tiên… Năm 1636, ngay lúc mới
chuyển dinh từ Phước Yên vào Kim Long,
chúa Nguyễn Phúc Lan cho phép thành lập
phố Thanh Hà. Trong một văn bản còn lưu tại

địa phương cho biết: “Chúa Thượng vương
sau khi dời phủ về Kim Long bèn cho phép
tiền hiền chúng ta kiến thiết khu chợ nơi giáp
giới hai xã Thanh Hà và Địa Linh”. Thanh
Hà trở thành một thương cảng lớn nhất, cửa
ngõ giao thương hàng đầu của thời Kim Long
– Phú Xuân thịnh trị vào thế kỷ XVII –
XVIII. Thanh Hà là địa chỉ hấp dẫn thương
khách nhiều nước Trung Quốc, Nhật Bản của
châu Á, của các nước phương Tây như Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp.
Đô thị Đàng Trong ra đời là hệ quả của chính
sách tiến bộ của các chúa Nguyễn đón nhận
đúng thời cơ thương mại quốc tế và di dân đơ
thị đang phát triển. Tầm nhìn đó đã vượt xa
các ngun thủ phương Đơng cùng thời lấy
làng xã làm nền tảng, nông dân làm chỗ dựa,
nông nghiệp làm trọng tâm và cấm vận là chủ
yếu. Sự ra đời và phát triển đô thị Đàng Trong
dưới thời các chúa Nguyễn là một hiện tượng
lịch sử đáng được ghi nhận và đánh giá cao.


Dương Thị Huyền

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

Thứ tư, các chúa Nguyễn chú trọng kiện toàn
bộ máy quản lý ngoại thương. Trên phương
diện kinh tế, việc mở rộng giao thương quốc

tế đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho chính
quyền Đàng Trong. Một số nguồn sử liệu cho
thấy, hàng năm số thuyền bn đến nhiều hay
ít đều ảnh hưởng trực tiếp đến ngân sách của
chính quyền. Do vậy, ngay từ buổi đầu, chúa
Nguyễn đã chủ động đặt ra chế độ thuế quan
đối với các tàu buôn ngoại quốc. Chính quyền
Đàng Trong đã lập ty tàu vụ và thiết lập cả
một bộ máy viên chức có trách nhiệm giải
quyết các vấn đề có liên quan đến kinh tế đối
ngoại và thu thuế xuất- nhập khẩu. Theo Lê
Quý Đôn: “Tại các làng Minh Hương ở Hội
An, Cù Lao Chiêm, Cẩm Phố, Làng Câu thì
có chức quan sai ty thái bảo. Hễ tàu nước
ngoài đến xứ Quảng Nam, vào cửa biển Đại
Chiêm đến phố Hội An hay vào cửa biển Đà
Nẵng đến xứ Lưu Lâu mà bn bán thì phải
nạp các hạng thổ vật và phải nạp thuế theo lệ
định” [5, tr.335].
Hệ thống quản lý ngoại thương mà các chúa
Nguyễn thiết lập không chỉ đơn giản là những
viên quan thu thuế ở các cảng thị mà họ còn
đồng thời là đại diện cho chính quyền trong
việc giải quyết các vấn đề đối ngoại. Mặc dù
ít nhiều chưa thể thốt khỏi tính chất “phong
kiến” nhưng hệ thống quản lý ngoại thương
của chúa Nguyễn đã được thiết lập chặt chẽ
và tương đối thống nhất. Cơ quan quản lý
ngoại thương được coi như một thiết chế
trọng yếu trong hệ thống chính quyền. Điều

quan trọng là, những người đứng đầu bộ máy
này thường là các thế tử, người kế ngôi chúa.
Kinh nghiệm trên thương trường quốc tế,
trong việc ứng xử với các thách thức khu vực
đã tơi rèn bản lĩnh cho người đứng đầu chính
quyền Đàng Trong. Cơ chế tuyển chọn, đào
tạo đó thể hiện bản lĩnh chính trị của các chúa
Nguyễn mà người có công khai mở cho
những chủ trương lớn, định chế lâu dài của
Đàng Trong là chúa Tiên- Nguyễn Hoàng.
Như vậy, nhờ những chính sách “mở cửa”, ưu
đãi đối với thương nhân nước ngoài mà ngoại
thương Đàng Trong phát triển hết sức rực rỡ
vào thế kỷ XVI - XVII. Vai trò của thương
mại đối với Đàng Trong quan trọng đến mức
mà nền kinh tế Đàng Trong mạnh hay yếu
chủ yếu phụ thuộc vào số thuyền bn nước
ngồi đến bn bán. Trong Hải ngoại ký sự,

112(12)/1: 143 - 148

Thích Đại Sán trích dẫn lời Nguyễn Phúc Chu
(1691- 1725) đáp lại ông khi ông cầu cho
Đàng Trong được mưa thuận gió hịa: “các
năm trước, thuyền ngoại dương đến buôn
bán, một năm chừng sáu, bảy chiếc, năm nay
(1695), số thuyền lên đến 16, 17 chiếc, trong
nước, nhờ đó tiêu dùng được dư dật” [10;
tr.128]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn
Kim thì: “Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao

giờ nền kinh tế hải thương lại có quan hệ mở
rộng, đa dạng và phát triển hưng thịnh như
giai đoạn thế kỷ XVI – XVII. Hầu hết các
cường quốc kinh tế lúc bấy giờ, cả ở châu á
và châu Âu, đều đến và thiết lập quan hệ trao
đổi, buôn bán với Đàng Trong” [8; tr.33].
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, sự
thịnh vượng quốc gia tùy thuộc vào ngoại
thương chứ không chỉ riêng nông nghiệp.
Theo Litana: “Ngồi thương nghiệp, khơng gì
khác có thể giúp họ Nguyễn xây dựng một
cách nhanh chóng vùng đất ít nhân lực này để
có thể đương đầu với một vùng đất có tiềm
lực nhiều gấp đơi gấp ba Đàng Ngồi về mọi
mặt. Đối với các nước khác ở Đông Nam Á,
vấn đề ngoại thương có thể chỉ là vấn đề làm
giàu, nhưng đối với Đàng Trong vào buổi
đầu, đây là vấn đề sống chết…” [7; tr.105].
Cách thức lựa chọn con đường phát triển đó
đã đưa Đàng Trong hội nhập với mơ hình
phát triển chung của hầu hết các quốc gia
Đơng Nam Á lúc bấy giờ là hướng ra biển.
KẾT LUẬN
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, chính
quyền Đàng Trong đã hết sức coi trọng vai trò
của ngoại thương, đặt ngoại thương như một
nhân tố sống còn của kinh tế. Cũng là lần đầu
tiên, có một chính quyền qn chủ cơng khai
thừa nhận vai trò của ngoại thương đối với sự
phát triển của đất nước. Tính chất hướng biển

mạnh mẽ của chúa Nguyễn thể hiện một tầm
nhìn mới, một khả năng thích ứng đồng thời
cũng cho thấy sự kế thừa, phá huy truyền
thống của người Chăm trong việc ứng xử với
đại dương. Trong một tư duy năng động,
thoáng mở, nguồn lực tri thức, kinh nghiệm
của chính quyền Đàng Trong là sự tích hợp
của nhiều truyền thống, nhiều dịng văn hóa
bản địa, khu vực và quốc tế. Những người
đứng đầu chính quyền Thuận Hóa đã phát
hiện thấy và nhân lên sức mạnh của nguồn tài
nguyên nhân lực. Các chính sách hợp thời và
147


Dương Thị Huyền

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

hợp lịng người thực sự đã tạo nên những
động lực mới cho chính quyền thực hiện
thành cơng chính sách phát triển. Đặt trong
mối liên hệ, so sánh với các thể chế chính trị
khác trong nước và khu vực, có thể coi đây là
thành tựu phi thường của Đàng Trong.
Thay vì duy tồn những định kiến, thiết chế, tư
duy truyền thống, trên vùng đất mới ở phương
Nam, các chúa Nguyễn đã nắm lấy cơ hội để
biến Đàng Trong thành một mắt xích quan
trọng trong mạng lưới giao thương khu vực.

Các thương cảng miền Trung trở thành điểm
đến trọng yếu của các đoàn thuyền buôn châu
Á, châu Âu. Kết quả là, vào thế kỷ XVIXVIII, Đàng Trong đã xác lập được nhiều
mối liên hệ với các đối tác thương mại Trung
Hoa, Nhật Bản, Đông Nam Á và châu Âu.
Trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới
có nhiều phức tạp, việc lựa chọn mơ hình bạn
đồng minh chiến lược, lựa chọn mơ hình phát
triển và kiên quyết thực hiện thành cơng các
chính sách đối ngoại, bảo vệ chủ quyền… của
chính quyền Thuận Hóa đã để lại nhiều bài
học kinh nghiệm quý cho chính thể về sau.
SUMMARY

112(12)/1: 143 - 148

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Aoyagi Yoji, Đồ gốm Việt Nam đào được ở
quần đảo Đông Nam, Đô thị cổ Hội An; Nxb
KHXH, 1991.
[2]. Đỗ Bang, Phố cảng Hội An - thời gian và
không gian lịch sử, Hội thảo khoa học về Đô
thị cổ Hội An, 1985.
[3]. Chritophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm
1621, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1998.
[4]. Lê Q Đơn, Phủ Biên Tạp Lục, Nxb Khoa
Học, Hà Nội, 1964.
[5]. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã
hội, HN, 1978.
[6]. Vũ Minh Giang, Người Nhật, phố Nhật và di

tích Nhật Bản ở Hội An, Đô thị cổ Hội An,
Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2002.
[7]. Litana, Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - xã
hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, Nxb Trẻ,
1999.
[8]. Nguyễn Văn Kim, Xứ Đàng Trong trong các
mối quan hệ và tương tác quyền lực khu
vực”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (363),
tr. 19- 35.
[9]. Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình lịch sử Việt
Nam, Nxb Giáo dục, HN, 2001.
[10]. Thích Đại Sán, Hải ngoại ký sự, Nxb Trẻ,
1999.

THE OPEN TRADE POLICY OF NGUYEN LORDS IN COCHINCHIA
(16th- 18th CENTURY)
Duong Thi Huyen*
College of Sciences – TNU

History of Vietnam (from the sixteenth century to the eighteenth century) was took place more
profound changes in all aspects: economic, political, cultural. After nearly half a century of
fighting between political forces Trinh-Nguyen (1627 - 1672), a territorial division was held
boundaries Tonkin and Cochin established, has opened a new page in the history of national. For
the first time in the history, the Nguyen government has put the survival of the polity grounded on
trade-economic rather than economic platform based on traditional agriculture. The Nguyen Lords,
with a view towards the sea, has implemented the policy of strong trade, extended exchange
relations with many countries in the region, in the world. Therefore, Cochichina quickly became a
prosperous kingdom, a commercial center in Southeast Asia.
Key words: Union military, foreign trade, Cochinchina, Tonkin, City, Commercial port.


Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Hương Canh – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN

*

ĐT: 0975702362; Email:

148



×