Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đánh giá việc thi hành các quy định của Hiến pháp 2013 về hội đồng bầu cử quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.99 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐÁNH GIÁ VIỆC THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP 2013 </b>


<b>VỀ HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA</b>



<i><b>ThS. Thái Doãn Thành</b></i><i><b> - TS. Mai Văn Thắng</b></i>


<b>1.</b> <b>Dẫn nhập </b>


Một trong những nội dung mới và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống
chính trị, nhà nước và pháp luật Việt Nam là những quy định trong Điều 117 Hiến pháp 2013
về Hội đồng Bầu cử quốc gia (HĐBCQG). Sự ra đời thiết chế hiến định này không chỉ thể
hiện sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy lý luận về tổ chức, vận hành quyền lực nhà nước mà
còn khẳng định nỗ lực và quyết tâm của Việt Nam hướng tới các chuẩn mực chung, phổ quát
trong việc bảo đảm thực hiện các quyền dân chủ của người dân, khẳng định nền tảng dân
chủ, chủ quyền nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.


Kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày 6 tháng 01 năm 1946 để bầu ra Quốc hội
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được tiến hành, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nước ta đã trải qua 14 cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Bầu cử là một trong
những chế định quan trọng nhất của nền dân chủ, là cơ chế hợp pháp để người dân trao
quyền cho chính quyền thơng qua con đường dân chủ và hợp pháp. Đối với Việt Nam, Quốc
hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương. Bởi vậy sự thành công hay thất bại của cả bộ máy nhà nước, của hệ
thống chính quyền phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, thành quả các cuộc bầu cử. Một trong
các yếu tố góp phần sự thành công của các cuộc bầu cử là cơ quan phụ trách công tác bầu cử.
Tuy nhiên, phải đến Hiến pháp năm 2013 Hội đồng bầu cử quốc gia với tư cách là cơ quan
phụ trách bầu cử tồn quốc mới có được vị trí xứng đáng như vốn có của nó - thiết chế hiến
định độc lập.


Dù vậy, do đây thiết chế mới được hiến định trong Hiến pháp nên với tính chất là các
nguyên tắc, quy phạm pháp lý nền tảng, cơ bản, Hiến pháp đã không quy định cụ thể về cách
thức thành lập cũng như tổ chức và hoạt động của HĐBCQG mà trao quyền cho Quốc hội


bàn hành các văn bản luật để quy định cụ thể, chi tiết.


Tuy nhiên, sau khi ban hành Hiến pháp 2013, Quốc hội khóa XII đã không kịp ban
hành một đạo luật để cụ thể hóa quy định này mà thiết chế này được quy định ở rất nhiều
những văn bản khác nhau. Việc tổ chức bầu cử Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên quy mơ tồn quốc cũng đã được Hội đồng bầu cử quốc gia
tiến hành. Nhưng, trong thực tế cũng đã có nhìn nhận khác nhau về thành phần, cơ cấu và
cách thức mà Hội đồng bầu cử quốc gia tiến hành trong đợt bầu cử khóa, nhiệm kỳ này.


Mặc dù vậy, khơng thể phủ nhận HĐBCQG đã tổ chức một cuộc bầu cử Quốc hội
và HĐND các cấp khá thành công, bảo đảm các quyền dân chủ của người dân, giữ vững
được sự ổn định chính trị, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước.


Hiến pháp đã ban hành và có hiệu lực được 5 năm và đây là cơ hội tốt để nhìn nhận,
đánh giá việc thực thi các quy định hiến định liên quan đến thiết chế này để bảo đảm những
quy định của Hiến pháp được thực sự tôn trọng, thực thi trên thực tế, khẳng định tính tối
thượng của Hiến pháp và quan trọng hơn là góp phần hướng tới xây dựng thành công nhà
nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân và sự phát triển bền
vững của một xã hội dân chủ, tiến bộ, nhân quyền và pháp quyền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>2. Thực tiễn triển khai quy định của Hiến pháp 2013 về Hội đồng bầu cử quốc gia </b>
<i><b>2.1. Đánh giá nội dung các quy định cụ thể hóa việc tổ chức và hoạt động của </b></i>
<i><b>HĐBCQG theo tinh thần Hiến pháp 2013. </b></i>


Điều 117 Hiến pháp năm 2013 quy định:


<i>1. Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức </i>
<i>bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp. </i>



<i>2. Hội đồng bầu cử quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. </i>


<i>3. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành </i>
<i>viên Hội đồng bầu cử quốc gia do luật định. </i>


Quy định trên là cơ sở pháp lý quan trọng để Quốc hội xây dựng các văn bản luật quy
định cụ thể, chi tiết về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG. Ngày 25/6/2015, Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được ban hành. Đạo luật này đã dành riêng Mục 1 Chương
III (từ Điều 12 đến Điều 20) quy định về HĐBCQG. Theo đó, Mục 1 Chương III Luật Bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015 đã thể hiện tương đối đầy đủ và cụ thể
hóa quy định của Hiến pháp về tổ chức và hoạt động của chế định HĐBCQG ở Việt Nam
hiện nay.


Về nội dung các quy định trong Luật nói trên, có thể đưa ra mấy đánh giá sau:


- Pháp luật quy định HĐBCQG do Quốc hội thành lập là phù hợp với cơ chế hình
thành các cơ quan hiến định trong bộ máy nhà nước và mơ hình tổ chức quyền lực của Việt
Nam. Bên cạnh đó, quy định như vậy vừa có ý nghĩa thừa nhận HĐBCQG là cơ quan nhà
nước ở trung ương, vừa thể hiện vị trí độc lập trong mối quan hệ với Chính phủ, Tịa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ... các thiết chế do Quốc hội lập nên. Tuy
nhiên, ở một chừng mực nào đó các quy định trong Điều 12 của Luật bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu HĐND còn chưa thể hiện rõ sự độc lập của HĐBCQG so với chính Quốc hội
– thiết chế do có bầu cử được tổ chức bởi HĐBCQG thực hiện mà có. HĐBCQG là cơ quan
tổ chức bầu cử Quốc hội nên dù được Quốc hội bầu ra nhưng cần phải có vị trí độc lập với
Quốc hội mới đảm bảo vai trị, vị trí “hiến định” và độc lập cần thiết của thiết chế này. Quốc
hội khóa trước hồn tồn có quyền năng thành lập HĐBCQG để tổ chức bầu cử Quốc hội
khóa sau và chỉ đạo bầu cử HĐND các cấp.


- Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Luật quy định cơ cấu thành viên của HĐBCQG
từ mười lăm đến hai mươi mốt người bao gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại


diện của UBTVQH, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số cơ
quan, tổ chức hữu quan khác.272 Đây là sự kế thừa về cơ cấu thành viên HĐBC ở trung ương
như giai đoạn trước Hiến pháp năm 2013, nhằm bảo đảm sự đa dạng về thành phần thành
viên HĐBCQG. Sự đại diện đa dạng các thành viên trong Hội đồng bầu cử từ các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội có ưu điểm tránh sự phụ thuộc của HĐBCQG vào một cơ
quan nhà nước nào đó, thể hiện được tính độc lập. Tuy nhiên, HĐBCQG thiếu vắng các
chuyên gia, đại diện trung lập từ các tổ chức xã hội dân sự, tổ chức nghề nghiệp là hạn chế
vẫn chưa được khắc phục. Sự thiếu vắng này có thể làm giảm đi tính độc lập của Hội đồng
bầu cử so với các cơ quan chính trị và nhà nước. Bên cạnh đó, Các thành viên Hội đồng bầu
cử chủ yếu là các lãnh đạo các cơ quan Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội. Chủ tịch Quốc hội
thường là Chủ tịch Hội đồng bầu cử (danh sách thành viên HĐBCQG ngày 10/2/2016). Việc
kiêm nhiệm như vậy có thể ảnh hưởng đến tính độc lập của cơ quan này. Khơng những thế,
các lãnh đạo trong các cơ quan chủ chốt của nhà nước đa phần là đại biểu Quốc hội, điều này


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

rất dễ dẫn đến tình trạng <i>“chính mình lại tổ chức bầu ra mình”</i>, điều đó không tránh khỏi sự
nghi ngại của dư luận.


- Cách thức tuyển chọn, bổ nhiệm thành viên của HĐBCQG do Quốc hội và UBTVQH
thực hiện. Cách thức thực hiện tương đương như đối với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội và Kiểm toán nhà nước. Với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội,
UBTVQH giữ quyền đề nghị Quốc hội bầu Chủ tịch HĐBCQG mà không trao quyền này
cho Nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước nhằm bảo đảm thống nhất về mơ hình tổ chức
quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Tuy nhiên, cách thực chọn thành viên do Quốc hội và
UBTVQH thực hiện vẫn chưa thể hiện rõ vị trí, tầm vóc của HĐBCQG trong mối quan hệ
với thiết chế do nó tổ chức để bầu ra. Rõ ràng, quy định như thế ở văn bản luật đồng nghĩa
với việc coi HĐBCQG chỉ tương đương với một thiết chế nội bộ của Quốc hội chứ chưa phải
thiết chế hiến định độc lập. Rõ ràng, đạo luật chưa thể hiện rõ vị trí của thiết chế hiến định
này và chưa thể hiện đầy đủ tinh thần của Hiến pháp 2013 về chế định này.



- Về cách thức bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia.


Theo quy định tại Khoản 7 Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có thẩm quyền
<i>“bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm”</i> Chủ tịch HĐBCQG. Điều này cũng được khẳng định trong
Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 tại Khoản 6 Điều 8: <i>“Quốc hội bầu Chủ tịch HĐBCQG”</i>
và Điều 11: <i>“Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm [...] người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc </i>
<i>phê chuẩn quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật này theo đề nghị của cơ quan hoặc người </i>


<i>có thẩm quyền giới thiệu Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chức vụ đó”</i>. Tuy nhiên, tại Khoản 2


Điều 12 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015 chỉ quy định:<i> “Chủ tịch </i>
<i>Hội đồng bầu cử Quốc gia do Quốc hội bầu, miễn nhiệm theo đề nghị của Ủy ban thường vụ </i>


<i>Quốc hội”.</i> Quy định này có sự thiếu thống nhất với quy định của Hiến pháp năm 2013 và


Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 bởi không ghi nhận thẩm quyền của Quốc hội trong việc


<i>bãi nhiệm</i> Chủ tịch HĐBCQG.


- Về cách thức bổ nhiệm Phó Chủ tịch và các Ủy viên của HĐBCQG


Theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm
2015: <i>“Các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội phê chuẩn theo </i>
<i>đề nghị của Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia”</i>. Tuy nhiên quy định trên cịn thiếu sót khi
khơng ghi nhận thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với Phó Chủ
tịch và các Ủy viên của HĐBCQG thuộc về ai. Giống với các chức danh khác trong các cơ quan
hiến định như Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Phó Chánh án Tịa án nhân dân tối cao, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao... do Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc
hội để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 88 Hiến pháp năm 2013).



Bên cạnh đó, Điều 117 Hiến pháp năm 2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu HĐND năm 2015 chưa quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn thành viên HĐBCQG
nhằm bảo đảm cho yêu cầu về tổ chức bầu cử trong sạch, minh bạch và cơng khai.


Ngồi những vấn đề trên, theo quan điểm của nhóm tác giả, chế định HĐBCQG là chế
định hiến định độc lập và làm việc theo nguyên tắc tập thế, quyết định theo đa số, 273<sub> tuy </sub>
nhiên, việc giao quyền cho Chủ tịch HĐBCQG đề xuất các thành viên khác sẽ làm ảnh
hưởng không nhỏ tới quyết định độc lập của từng thành viên khi thực hiện chế độ làm việc
tập thể và quyết định theo đa số. Khi có sự ảnh hưởng về mặt nhân sự, sự bình đẳng sẽ khơng
cịn nhiều ý nghĩa. Thiết nghĩ, quy định này của Luật khơng hồn tồn phản ánh đầy đủ ý
nghĩa của một thiết chế độc lập mang tính hiến định và đặc thù như HĐBCQG. Chế độ báo
cáo được ghi nhận trong Điều 13 của bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015 cũng
dễ làm ảnh hưởng đến vị thế, vai trò của HĐBCQG theo tinh thần Hiến pháp 2013.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nguyên tắc hoạt động của HĐBCQG được quy định cụ thể tại Điều 13 Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015. Theo đó “Hội đồng bầu cử quốc gia hoạt động
theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Các cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai
phần ba tổng số thành viên của Hội đồng bầu cử quốc gia tham dự; các quyết định được
thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành”.


Đây thực chất là sự kế thừa từ các quy định của pháp luật ở giai đoạn trước đối với cơ
quan phụ trách bầu cử ở nước ta. Cụ thể tại Điều 19 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm
1997: “Các tổ chức phụ trách bầu cử làm việc theo chế độ tập thể; các cuộc họp được tiến
hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham dự; các quyết định được thơng qua
khi có q nửa số thành viên biểu quyết tán thành”. Sau đó tiếp tục được khẳng định tại Điều
13 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, cũng như tại Khoản 1 Điều 2
trong Quy chế làm việc của HĐBCQG ban hành kèm theo Nghị quyết số 19/2015/HĐBCQG
ngày 17/12/2015 của HĐBCQG: “Hội đồng bầu cử quốc gia làm việc theo chế độ tập thể,
quyết định theo đa số, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Việc pháp luật quy định
nguyên tắc hoạt động của HĐBCQG như vậy là phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt


động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 quy định tại
Điều 8: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.


- Bộ máy giúp việc của HĐBCQG được ghi nhận tại Điều 19 Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015. Theo đó:


<i>1. Hội đồng bầu cử quốc gia có bộ máy giúp việc do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định. </i>
<i>2. Hội đồng bầu cử quốc gia có quyền trưng tập cán bộ, cơng chức của cơ quan nhà </i>
<i>nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội để giúp việc cho Hội đồng bầu cử quốc gia. </i>


<i>3. Kinh phí hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia do ngân sách nhà nước bảo đảm. </i>
Trên cơ sở đó, tại Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 1074/2015/UBTVQH 13 ngày
11/12/2015 quy định về bộ máy giúp việc của HĐBCQG: <i>“Văn phòng Hội đồng bầu cử </i>


<i>quốc gia là bộ máy giúp việc của Hội đồng bầu cử quốc gia”</i>. Tuy nhiên, việc pháp luật quy


định <i>“bộ máy giúp việc của HĐBCQG là do UBTVQH quy định”</i> thông qua Nghị quyết của
UBTVQH là không bảo đảm tính hợp hiến và tính hợp pháp (Điều 15, 16 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015), bởi một một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về
tổ chức và hoạt động của cơ quan độc lập ở tầm hiến định như HĐBCQG là thuộc thẩm
quyền của Quốc hội ban hành (Luật hoặc ít nhất là Nghị quyết của Quốc hội; có chăng được
sự ủy quyền của Quốc hội thì là Pháp lệnh của UBTVQH). Còn việc thành lập các Tiểu ban
do HĐBCQG thực hiện đã làm tăng tính độc lập, tự chủ, không phụ thuộc của HĐBCQG
trong hoạt động lãnh đạo và quản lý bầu cử, đồng thời góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp
của HĐBCQG trong công tác bầu cử. Tuy nhiên để bảo đảm cho hoạt động của HĐBCQG
được thực hiện tốt hơn, pháp luật cần quy định cụ thể về nhiệm vụ quyền hạn của từng Tiểu
ban đối với lĩnh vực của mình.


- Chế độ làm việc của HĐBCQG, tại Điều 3 Quy chế làm việc của HĐBCQG năm


2015, Hội đồng có 3 hình thức phiên họp gồm:


<i>1. Phiên họp toàn thể (phiên họp thường niên) được tổ chức công khai định kỳ mỗi </i>
<i>tháng một lần. Phiên họp toàn thể của HĐBCQG được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba </i>
<i>tổng số thành viên tham dự. Các thành viên không tham dự được phải báo cáo Chủ tịch </i>
<i>HĐBCQG. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>3. Phiên họp nội bộ do Chủ tịch HĐBCQG gia quyết định. </i>


Việc pháp luật quy định về phiên họp của HĐBCQG như vậy là hợp lý, thể hiện tính
linh hoạt của HĐBCQG trong giải quyết các công việc, bảo đảm cho các thành viên của Hội
đồng được cung cấp các thông tin, trao đổi ý kiến về tổ chức, quản lý bầu cử một cách
thường xuyên, kịp thời, đồng thời giúp Hội đồng có thể lắng nghe ý kiến từ đại diện các cơ
quan, tổ chức hữu quan.


- Về chế độ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác hoạt động, tại Điều 13 Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015 quy định, sau đó tiếp tục được khẳng định tại Điều 6
Quy chế làm việc của HĐBCQG năm 2015: “<i>Hội đồng bầu cử quốc gia chịu trách nhiệm trước </i>
<i>Quốc hội và báo cáo về hoạt động của mình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội”.</i>


Mối quan hệ này xuất phát từ cách thức thành lập của HĐBCQG đó là do Quốc hội
thành lập, Chủ tịch HĐBCQG do UBTVQH giới thiệu để Quốc hội bầu, Chủ tịch HĐBCQG
đề nghị Quốc hội phê chuẩn Phó Chủ tịch và các thành viên khác của HĐBCQG. Chế độ báo
cáo của HĐBCQG được quy định lần lượt tại Điều 17, Điều 88 của Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, sau đó tiếp tục được khẳng định tại Điều 6 trong
Quy chế làm việc của HĐBCQG ban hành ngày 19/12/2015, theo đó: HĐBCQG chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác hoạt động của mình trước Quốc hội và UBTVQH;
Định kỳ hàng tháng hoặc trong trường hợp cần thiết, HĐBCQG báo cáo với UBTVQH về
tình hình, kết quả tổ chức bầu cử; Tại kỳ họp cuối cùng của Quốc hội đương nhiệm,
HĐBCQG báo cáo Quốc hội về kết quả hoạt động từ khi thành lập và công tác chuẩn bị bầu


cử trong cả nước; Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa mới, HĐBCQG trình Quốc hội báo cáo
tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước và báo cáo xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội.


Với chế độ báo cáo như vậy tuy đã bảo đảm được sự giám sát thường xuyên, liên tục
của Quốc hội và UBTVQH đối với hoạt động của HĐBCQG cũng như thể hiện được tính
liên tục trong hoạt động của HĐBCQG. Đây là điểm khác biệt lớn so với hoạt động của cơ
quan phụ trách bầu cử ở nước ta trong những giai đoạn trước, cụ thể, ở các giai đoạn trước,
pháp luật mới chỉ quy định việc Hội đồng bầu cử trình Quốc hội khóa mới biên bản tổng kết
cuộc bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử (Điều 19 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1992;
Điều 21 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997) mà không quy định chi tiết, cụ thể về thời
gian báo cáo, vấn đề cần báo cáo... Ngoài ra, ở giai đoạn này, cả Luật Bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu HĐND năm 2015 và Quy chế làm việc của HĐBCQG năm 2015 đều không
quy định cụ thể về nội dung từng loại báo cáo nhằm làm rõ hai vấn đề: Thứ nhất, <i>trách </i>


<i>nhiệm của HĐBCQG; </i>Thứ hai, <i>“cung cấp thông tin, phản ánh ý kiến của cử tri, nhân dân về </i>


<i>những vấn đề liên quan đến công tác hoàn thiện chế định bầu cử, pháp luật về bầu cử nhằm </i>
<i>bảo đảm và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng chính quyền”274<sub>.</sub></i>


<i>-</i>Về nhiệm vụ, quyền hạn.


Nhiệm vụ của HĐBCQG được quy định tại Khoản 1 Điều 117 Hiến pháp năm 2013,
theo đó:<i> “1. Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ </i>
<i>chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng </i>
<i>nhân dân các cấp”.</i>


Trên cơ sở đó, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015 đã
cụ thể hóa tại Điều 14, 15, 16. Trong đó, Luật quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn chung
của HĐBCQG (Điều 14); nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG trong việc tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội (Điều 15) và nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG trong việc chỉ đạo, hướng


dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp (Điều 16)


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nhìn chung, về nhiệm vụ quyền hạn của HĐBCQG được pháp luật quy định khá cụ thể
để thực hiện một số công việc quan trọng, cốt yếu của cuộc bầu cử như tổ chức bầu cử đại biểu
Quốc hội; Lập danh sách người ứng cử; Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu
cử; chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong bầu cử; Xác nhận tư cách đại
biểu... Song có thể thấy, ngồi một quy định mới về nhiệm vụ của HĐBCQG là <i>“quản lý và </i>
<i>phân bổ kinh phí tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội” </i>thì những nội dung cịn lại là mang tính
kế thừa từ nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử ở trung ương trong những giai đoạn
trước đây. Tuy nhiên, với tư cách là một cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước trong tổ chức,
chỉ đạo bầu cử, những nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG được pháp luật quy định vẫn còn
một số hạn chế nhất định dẫn đến tính độc lập và vị trí là cơ quan cao nhất có thẩm quyền tổ
chức và chỉ đạo bầu cử của cơ quan này bị hạn chế. Ví dụ: Quốc hội quyết định ngày bầu cử,
việc bầu cử bổ sung; UBTVQH thực hiện việc dự kiến và phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội;
Chính phủ chỉ đạo tổ chức thực hiện các biện pháp bảo đảm kinh phí, hướng dẫn việc quản lý
và sử dụng kinh phí tổ chức bầu cử... Việc phân bổ nhiệm vụ cho nhiều cơ quan thực hiện
trong việc tổ chức, quyết định một số vấn đề quan trọng của cuộc bầu cử đã phần nào làm giảm
đi vị trí vai trò của HĐBCQG trong bộ máy nhà nước là một cơ quan ở tầm hiến định, cũng
như làm giảm đi tính độc lập, vai trị quyết định, chỉ đạo công tác bầu cử của HĐBCQG.


<i>-</i> Về kinh phí hoạt động:


Về kinh phí hoạt động của HĐBCQG được quy định tại Khoản 3 Điều 19 Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015:<i>“Kinh phí hoạt động của Hội đồng </i>
<i>bầu cử quốc gia do ngân sách nhà nước bảo đảm”.</i>


Quy định này là hồn tồn phù hợp với vị trí là cơ quan hiến định, độc lập, ngang hàng
với các cơ quan khác như Chính phủ, Tịa án, ... của HĐBCQG. Tuy nhiên, HĐBCQG vẫn
còn thiếu sự độc lập, tự quyết đối với ngân sách nhà nước khi quy định Chính phủ tổ chức
thực hiện các biện pháp bảo đảm kinh phí, hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí tổ


chức bầu cử (Khoản 4 Điều 4 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm
2015). Quy định này đã phần nào hạn chế sự độc lập đối với HĐBCQG.


Vì vậy, để bảo đảm tính độc lập và thực quyền của HĐBCQG ở nước ta, cần quy định
cụ thể về nguồn kinh phí tài chính mà HĐBCQG có thể sử dụng nhưng khơng lệ thuộc vào
các cơ quan hành chính như hiện nay. Nhưng căn cứ vào điều kiện đặc thù ở nước ta thì cần
phải kết hợp với điều kiện nguồn kinh phí của HĐBCQG do Quốc hội quyết định.


<i>- </i>Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử Quốc gia:


Thời điểm kết thúc nhiệm vụ của HĐBCQG được quy định tại Điều 20 Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015: “<i>Hội đồng bầu cử quốc gia kết thúc </i>
<i>nhiệm vụ sau khi đã trình Quốc hội khóa mới báo cáo tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước và </i>
<i>kết quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội được bầu, bàn giao biên bản tổng kết và hồ sơ, </i>
<i>tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội cho Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa mới.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Như vậy, có thể thấy, nhìn một cách tổng thể các văn bản luật (Luật Tổ chức Quốc hội,
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015) đã cụ thế, chi tiết các quy định
của Hiến pháp 2013 để tổ chức, bầu cử Quốc hội, HĐND khóa, nhiệm kỳ này. Tuy vậy, rất
dễ nhận thấy, nhiều quy định của các luật nói trên đã vơ tình làm mất đi vị trí của một thiết
chế hiến định độc lập, đặc biệt nhiều quy định cịn có xu hướng làm giảm đi vị trí của thiết
chế này so với tinh thần của Hiến pháp về vị trí, vai trị của HĐBCQG như là một thiết chế
hiến định độc lập. Bên cạnh đó, nhiều quy định trong các đạo luật trên dường như khơng có
nhiều thay đổi so với cơ quan phụ trách bầy cử trước đây khi chưa là một thiết chế hiến định
độc lập. Rõ ràng, việc xây dựng các quy định thi hành Hiến pháp về HĐBCQG đang có
những vấn đề cần được nhìn nhận, đánh giá lại một cách khách quan, công bằng và chuẩn
xác hơn để trả lại đúng vị trí, tầm vóc của HĐBCQG trong Hiến pháp.


<i><b>2.2. Một vài đánh giá thực tiễn thi hành </b></i>



Hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG
nhằm triển khai quy định của Hiến pháp năm 2013 trong thời gian qua ở nước ta được thể
hiện trên một số phương diện sau:


<i>Thứ nhất, </i>lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tại Điều 117 Hiến pháp năm 2013 đã
hiến định HĐBCQG, đây là bước ngoặt mang tính lịch sử trong hoạt động xây dựng pháp
luật về HĐBCQG


<i>Thứ hai, </i>Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 117 về cơ quan HĐBCQG, quy định về


cách thức thành lập, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, sau đó đến năm 2015 mới được luật hóa về tổ
chức và hoạt động trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015.
Tuy nhiên, hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG
đã bộc lộ rõ hạn chế khi quy định tổ chức và hoạt động của HĐBCQG trong Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015, bởi về nguyên tắc, Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND được coi là luật hình thức vì quy định về quy trình, thủ tục bầu
cử vào cơ quan dân cử; trong khi đó, những quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐBCQG sẽ thuộc về luật nội dung. Việc gộp cả hai nhóm quy định vào trong một văn bản
luật sẽ khơng bảo đảm tính hợp lý, rõ ràng, minh bạch của văn bản luật, thiếu sự đồng bộ
trong hệ thống pháp luật Việt Nam.


<i>Thứ ba, </i>mặc dù pháp luật đã quy định về bộ máy giúp việc của HĐBCQG, tuy nhiên,


việc Quốc hội giao cho UBTVQH ban hành Nghị quyết số 1074/2015/UBTVQH13 ngày
11/12/2015 quy định về bộ máy giúp việc của HĐBCQG cũng là không hợp lý cũng như
không bảo đảm được tính hợp hiến và tính hợp pháp, bởi một một văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của cơ quan độc lập ở tầm hiến định như HĐBCQG là thuộc
thẩm quyền của Quốc hội ban hành (Luật hoặc ít nhất là Nghị quyết của Quốc hội; có chăng
được sự ủy quyền của Quốc hội thì là Pháp lệnh của UBTVQH).



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Thứ năm, </i>hiện nay, các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG
còn nằm rải rác ở nhiều văn bản với nhiều loại khác nhau, chưa có sự thống nhất đồng bộ.
Trên thực tế khi tổ chức và hoạt động của HĐBCQG gặp khó khăn thì ngay sau đó sẽ có một
văn bản pháp luật được ban hành ra nhằm điều chỉnh. Điều đó dẫn đến tổ chức và hoạt động
của HĐBCQG trên thực tế cịn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tính khách quan, minh
bạch và dân chủ trong tổ chức bầu cử.


<i>Thứ sáu, </i>về quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của


HĐBCQG cũng chưa cụ thể, tức chưa có kế hoạch trong xây dựng, trong hồn thiện pháp
luật mà hoạt động này cịn mang tính tự phát.


<b>3. Phương hướng và một số đề xuất </b>
<i><b>3.1. Phương hướng, quan điểm </b></i>


Hiện nay, tổ chức và hoạt động của HĐBCQG được quy định tại Điều 117 Hiến pháp
năm 2013 và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015. Tuy
nhiên, để bảo đảm HĐBCQG là cơ quan ở tầm Hiến định cũng như bảo đảm tính độc lập, có
vai trò quan trọng trong việc thực hiện quyền làm chủ của người dân, cần nghiên cứu xác
định văn bản pháp lý nào quy định cụ thể, chi tiết về tổ chức và hoạt động của cơ quan này -
Xây dựng Luật tổ chức Hội đồng bầu cử quốc gia hay sửa đổi Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu HĐND các cấp năm 2015?


Điều 117 Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định khái quát về HĐBCQG ở các khía cạnh: cơ
quan thành lập, nhiệm vụ, cơ cấu thành viên của HĐBCQG, còn các nội dung khác được trao
cho Luật định. Quy định này mặc dù mang tính khái quát, chưa thể hiện vị trí tương xứng với
các cơ quan Hiến định khác như Chính phủ, Tòa án Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân dân...
nhưng đây được xem là một quy định “mở” nhằm bảo đảm tính ổn định của Hiến pháp cũng
như khả năng linh hoạt trong điều chỉnh các quy định của Luật, linh hoạt khi cần sửa đổi bổ
sung đối với các nội dung liên quan đến tổ chức và hoạt động của HĐBCQG phù hợp với


thực tiễn.


Hiện nay, tổ chức và hoạt động của HĐBCQG được quy định tập trung nhất tại Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015. Tuy nhiên, việc đưa những
quy định cụ thể, chi tiết về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG vào Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND tỏ ra không hợp lý, bởi về nguyên tắc, Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND được coi là luật hình thức vì quy định về quy trình, thủ tục bầu
cử vào cơ quan dân cử; trong khi đó, những quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐBCQG sẽ thuộc về luật nội dung. Việc gộp cả hai nhóm quy định vào trong một văn bản
luật sẽ khơng bảo đảm tính hợp lý, rõ ràng, minh bạch của văn bản luật. Vì vậy, về lâu dài,
để bảo đảm tính hợp lý, rõ ràng, minh bạch của văn bản luật, bảo đảm phù hợp với tính chất
của HĐBCQG là cơ quan hiến định, Quốc hội cần ban hành văn bản luật riêng quy định về tổ
chức và hoạt động của HĐBCQG. Sau khi có Luật Tổ chức HĐBCQG sẽ tiến đến sửa đổi,
bổ sung Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015 để bảo đảm
tính thống nhất về mặt nội dung của Luật cũng như hệ thống pháp luật nước ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

nhưng Quốc hội lại ủy quyền của mình cho UBTVQH ban hành một văn bản quy phạm pháp
luật quy định về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG.


Vì vậy, để bảo đảm vị trí, vai trị cũng như sự thống nhất trong hệ thống pháp luật,
theo tác giả cần thiết phải có một Luật riêng với tên gọi “Luật tổ chức Hội đồng bầu cử
quốc gia” quy định về tổ chức và hoạt động, về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể,
về những điều kiện bảo đảm cho HĐBCQG hoạt động có hiệu quả và chất lượng như các
Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân, Luật tổ chức Tòa án Nhân
dân, Luật tổ chức Chính phủ, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật chính quyền địa phương,
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, và tới đây có lẽ cả Luật Chủ tịch nước.


Ngoài ra, theo quan điểm của chúng tôi, khi xây dựng các quy định cụ thể hóa Hiến
pháp, Quốc hội cần xem xét đến vị trí hiến định độc lập và ý nghĩa của chế định này. Rõ ràng
không thể có tư duy <i>“bình mới rượu cũ”</i> trong thi hành các quy định của thiết chế hiến định


quan trọng này. Có thể chưa có luật cụ thể hóa nhưng khơng thể có luật làm cho vị trí của nó
<i>“tệ”</i> hơn so với tinh thần của Hiến pháp.


<i><b>3.2. Đề xuất cụ thể xây dựng “Luật Tổ chức Hội đồng bầu cử Quốc gia” </b></i>


<i>Thứ nhất, </i>quy định vị trí, chức năng của HĐBCQG trong bộ máy nhà nước


Để bảo đảm HĐBCQG là một cơ quan ở tầm Hiến định, độc lập với các cơ quan khác
trong bộ máy nhà nước thì yếu tố quan trọng nhất đối với cơ quan này đó là quy định cụ thể về
vị trí và chức năng. Bầu cử là một hoạt động chính trị - pháp lý, liên quan trực tiếp đến việc
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân nên rất cần được tổ chức một cách dân chủ, minh bạch,
công bằng bởi một cơ quan có đủ vị thế và quyền hạn cụ thể trong bộ máy nhà nước. Do đó,
HĐBCQG muốn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý, tổ chức các cuộc bầu cử của mình
thì cần phải có vị trí độc lập với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước cũng như phân định
rõ chức năng của mình, khơng chịu sự ràng buộc, chi phối bởi bất kỳ cơ quan nào khác. Quốc
hội có thể bầu ra, tuy nhiên, HĐBCQG cần có vị trí độc lập với Quốc hội bởi chính nó sẽ bầu
ra Quốc hội mới. Qua đó một mặt khẳng định HĐBCQG là cơ quan Hiến định có tính chất độc
lâp, được phân công chức năng cụ thể, một mặt tạo sự thống nhất với các cơ quan Hiến định
khác khi được quy định cụ thể, chi tiết trong các “Luật tổ chức”. Cụ thể:


<i>“Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan tổ chức bầu cử cao nhất của nhà nước </i>
<i>Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; </i>
<i>chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. </i>


<i>Hội đồng bầu cử quốc gia chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo </i>
<i>công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội”. </i>


<i>Thứ hai, </i>quy định về cơ cấu tổ chức và thành viên của HĐBCQG


Quy định số lượng thành viên ít hơn con số 21 như quy định hiện nay cụ thể là “9 đến


15 người”275<sub> nhằm thuận lợi cho việc triệu tập họp, thảo luận, biểu quyết và đưa ra quyết </sub>
định. Đồng thời, với sự phát triển nền dân chủ ở nước ta hiện nay cần bổ sung thêm thành
viên là đại diện trung lập từ các tổ chức xã hội dân sự để bảo đảm tính khách quan của
HĐBCQG. Đặc biết, thành viên Hội đồng sẽ phải là những cá nhân không được nằm trong
danh sách bầu cử đại biểu Quốc hội.


Bên cạnh đó cần quy định về tiêu chuẩn của các thành viên HĐBCQG. Kinh nghiệm
các quốc gia trên thế giới chỉ ra rằng thành viên của HĐBCQG cần đáp ứng các tiêu chuẩn
sau: về độ tuổi, trình độ, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm công tác, hoạt động trong các lĩnh
vực chính trị, pháp luật, bầu cử...


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Thứ ba, </i>quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HĐBCQG


Hiện nay pháp luật mới chỉ quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HĐBCQG
đó là làm việc theo tập thể và quyết định theo đa số. Nhưng tuy nhiên, để bảo đảm tính độc
lâp của HĐBCQG cần bổ nguyên tắc: “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc tổ chức bầu cử của HĐBCQG” (tương tự như Tòa
án và Kiểm toán nhà nước).


<i>Thứ tư, </i>quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG


Bổ sung, quy định một số nhiệm vụ, quyền hạn cho HĐBCQG trên cơ sở chuyển giao
các nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH và Chính phủ theo quy định của các luật bầu cử hiện
hành, nhằm tạo sự thống nhất, tập trung thẩm quyền giải quyết các công việc liên quan đến
bầu cử và đại biểu về HĐBCQG.


Theo đó, cần sửa đổi bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG theo
hướng mở rộng hơn, đặc biệt đối với việc chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu HĐND các
cấp, cụ thể:



<i>“1. Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức, quản lý, giám sát, kiểm tra các cuộc </i>
<i>bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp. </i>


<i>2. Trong cuộc bầu cử đại biểu HĐND các cấp, Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ, </i>
<i>quyền hạn chung sau đây: </i>


<i>a, Quyết định tư cách bỏ phiếu của cử tri; </i>
<i>b, Tiếp nhận và phê duyết danh sách ứng cử; </i>
<i>c, Tổ chức bỏ phiếu; </i>


<i>d, Kiểm phiếu, thống kê phiếu; </i>


<i>đ, Giải quyết các khiếu nại, tranh chấp về bầu cử; </i>
<i>e, Tuyên bố kết quả bầu cử; </i>


<i>g, Các nhiệm vụ, quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết. </i>


<i>3. Quyết định và công bố bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội, tổ chức bầu cử bổ sung </i>
<i>đại biểu HĐND; quyết định và công bố bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, </i>
<i>chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. </i>


<i>4. Hội đồng bầu cử quốc gia có quyền thơng qua Nghị quyết, ban hành quyết định, quy </i>
<i>chế, hướng dẫn để tổ chức, quản lý các cuộc bầu cử phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. </i>
<i>Các văn bản do Hội đồng bầu cử quốc gia ban hành có hiệu lực thi hành bắt buộc.” </i>


<i>“Các nhiệm vụ, quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết”</i> có thể bao gồm: Ban hành các


chính sách bầu cử quốc gia; Lập kế hoạch phục vụ bầu cử; Đào tạo các nhân viên bầu cử;
Tổ chức giáo dục và tuyên truyền cho cử tri và nhân dân; Phân định các đơn vị bầu cử; Lập
kế hoạch và triển khai các phần mềm bầu cử; Xác minh và đăng ký cử tri; Phát triển và tổ


chức đăng ký bầu cử quốc gia; Tổ chức đăng ký ứng cử viên của Đảng và ứng cử viên tự
do; Tham gia vào quá trình hiệp thương bầu cử; Đào tạo các giám sát viên kiểm phiếu; Quy
định và công nhận về sự tham gia của các nhóm xã hội dân sự, truyền thơng, các quan sát
viên bầu cử...276


Ngồi ra có thể nghiên cứu về việc trao quyền tổ chức trưng cầu ý dân cho HĐBCQG


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

theo quyết định của Quốc hội. Bởi lẽ, về bản chất các trình tự, thủ tục tổ chức trưng cầu ý
dân được quy định có nhiều điểm tương đồng với trình tự, thủ tục tổ chức bầu cử Quốc hội
và hai hoạt động này đều là hoạt động chính trị - pháp lý, là hình thức dân chủ trực tiếp. Hoạt
động trưng cầu dân ý là một hoạt động phức tạp, quan trọng và cần đươc thực hiện một cách
đồng bộ trên phạm vi cả nước và theo quy định của pháp luật hiện hành, UBTVQH là cơ
quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện theo quyết định của Quốc hội. Tuy nhiên, xu thế hiện
nay, HĐBCQG là cơ quan hoạt động thường xuyên, chuyên trách, có vai trị bảo đảm cho
hình thức dân chủ trực tiếp là bầu cử được thực hiện. Vì vậy cơ quan này có đủ điều kiện về
tổ chức, nhân sự và kinh nghiệm triển khai một cách đồng bộ trên phạm vi cả nước như hoạt
động tổ chức bầu cử. Đồng thời, việc trao thẩm quyền tổ chức trưng cầu ý dân cho
HĐBCQG cũng góp phần giảm thiểu bớt khối lượng công việc cho UBTVQH, giúp cơ quan
này tập trung hơn trong công tác thường trực cho Quốc hội. Tuy nhiên, đây chỉ là phương án
lâu dài bởi để làm được điều này cần phải sửa đổi Hiến pháp năm 2013.277


<i>Thứ năm, </i>quy định về nhiệm kỳ của HĐBCQG


Hiện nay pháp luật quy định về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của HĐBCQG, tuy nhiên
quy định này chỉ phù hợp khi HĐBCQG hoạt động mang tính lâm thời. Còn đối với
HĐBCQG là cơ quan Hiến định như hiện nay, theo tác giả cần nghiên cứu xem xét
HĐBCQG hoạt động thường xuyên, theo nhiệm kỳ để có thể chuẩn bị cẩn trọng, chu đáo,
chuyên nghiệp cho cuộc bầu cử cũng như kịp thời giải quyết các công việc phát sinh liên
quan đến các đại biểu trong suốt nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp. Song
nếu quy định nhiệm kỳ của HĐBCQG trùng với nhiệm kỳ của Quốc hội sẽ gây khó khăn trên


thực tế bởi công tác bầu cử được tiến hành từ cuối nhiệm kỳ của Quốc hội khóa cũ đến khi
HĐBCQG báo cáo kết quả cuộc bầu cử tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa mới nên rất
khó để xác định thời điểm bắt đầu, chấm dứt nhiệm vụ của HĐBCQG cũng như giải quyết
những vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của các đại biểu như có khiếu nại, khiếu
kiện, tố cáo về quá trình bầu cử trước đó; hay bầu cử bổ sung... Ngược lại, nếu quy định
nhiệm kỳ của HĐBCQG lệch với nhiệm kỳ của Quốc hội sẽ dẫn đến tình trạng khó khăn
trong công tác quản lý cán bộ cũng như giảm tính khách quan khi Quốc hội khóa trước thành
lập ra HĐBCQG để tổ chức bầu cử, quản lý đại biểu Quốc hội khóa sau.


Để khắc phục được những hạn chế trên, theo tác giả cần quy định nhiệm kỳ của
HĐBCQG theo nhiệm kỳ của Quốc hội nhằm bảo đảm tính thống nhất của các cơ quan Hiến
định trong bộ máy nhà nước nhưng đồng thời cần nghiên cứu thêm quy định về thời hạn bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại đối với các thành viên của HĐBCQG. Mỗi thành viên có thể được bổ
nhiệm với thời hạn là 5 đến 10 năm, có thể được bổ nhiệm lại, tuy nhiên, để đảm bảo hoạt
động bình thường và liên tục của Hội đồng bầu cử, 1/3 số thành viên được thay thế 3 năm
một lần.278<sub> Việc đan xen nhiệm kỳ giữa các thành viên hỗ trợ rất lớn cho việc duy trì kinh </sub>
nghiệm tổ chức bầu cử cũng như sự chuyển giao trơn tru về lãnh đạo.279


<b>4. Kết luận </b>


Những quy định của Hiến pháp về HĐBCQG đã được thực thi, cụ thể hóa bằng các văn
bản luật, dưới luật và thực tế đã được vận dụng để tổ chức bầu cử Quốc hội khóa XIV và
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Dù các cuộc bầu cử đã được tổ chức thành công, tuy
nhiên, nội dung các luật, văn bản dưới luật cụ thể hóa Hiến pháp 2013 về chế định HĐBCQG
được cho là làm suy giảm vị trí của HĐBCQG với tư cách là một thiết chế hiến định độc lập.


277<sub> Khoản 13 Điều 74 Hiến pháp năm 2013 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH: Tổ chức trưng cầu ý </sub>
dân theo quyết định của Quốc hội.


278<sub> Xem Viện Nghiên cứu lập pháp, Mơ hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia một số nước trên </sub>


thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Hà Nội, năm 2013, tr. 95.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12></div>

<!--links-->

×