Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hoai Thanh Nha li luan van hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.13 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Hồi Thanh – nhà lí luận văn học đầu tiên </b>


<b>khẳng định bản chất thẩm mĩ của văn học </b>



<b>Bài viết của GS.TS. Trần Đình Sử </b>


<i>Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm Hà Nội </i>


Do ảnh hưởng của <i>Thi nhân Việt Nam</i> quá lớn, người ta thường chỉ nói đến nhà phê bình văn
học lỗi lạc Hồi Thanh mà qn rằng ơng cịn là nhà lí luận văn học xuất sắc bậc nhất của thế kỉ XX.


Hoạt động lí luận của Hoài Thanh chủ yếu diễn ra trong khoảng bốn, năm năm từ 1935
đến1939, thời gian tuy không nhiều nhưng đã để lại một ấn tượng và thành tựu đáng nhớ của thế kỉ.
Ơng khơng chỉ là người khởi xướng và tham gia vào cuộc tranh luận nghệ thuật có tầm vóc to lớn
nhất trong thế kỉ, mà còn là đề xướng nhiều tư tưởng văn học tiến bộ để lại những trang văn sâu sắc
và tinh tế có tính chất cổ điển.


Là một nhà văn, cuộc đời của Hoài Thanh gắn bó sâu sắc với tiến trình văn học Việt Nam trong
q trình hiện đại hố đầu thế kỉ XX, là nhân vật xuyên qua hai giai đoạn văn học hiện đại Việt Nam
và ở giai đoạn nào ơng cũng có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp văn học của đất nước.
Trong bài phát biểu ngắn này tơi chỉ xin nói một điều, đó là: Hoài Thanh là người đầu tiên khẳng
định bản chất thẩm mĩ của văn học, một yêu cầu hàng đầu của tính hiện đại.


Trước khi trở thành nhà phê bình văn học nổi tiếng với <i>Thi nhân Việt Nam</i> (1941), Hoài Thanh
đã xuất hiện trên văn đàn như một nhà lí luận văn học, một người viết tiểu luận về nghệ thuật. Những
tiểu luận lí luận văn học được ông viết đều đặn từ năm 1935 (12 bài), năm 1936 (cuốn Văn chương
và hành động, 8 bài báo). Từ năm 1939 ông chuyển dần sang viết phê bình văn học. Nhưng đáng tiếc
là cho đến nay nhắc đến Hoài Thanh trước 1945, ngoài nhà phê bình lỗi lạc, tinh tế, hầu như ít người
nghĩ rằng ơng là nhà lí luận văn học, bởi họ vẫn còn ám ảnh định kiến xem ông chỉ là người chủ
trương một lí thuyết sai lầm là thuyết “nghệ thuật vị nghệ thuật”, một đối tượng đáng phê phán của
nhà văn cách mạng Hải Triều! Cách nhìn nhận có tính chất áp đặt như thế đã xảy ra từ lâu và mặc dù
Hoài Thanh đã phản đối, nhưng vì một lối phê bình dựa theo cơng thức hơn là xuất phát từ tình hình


thực tế, người ta vẫn cứ quy ơng vào phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” trong cuộc đối đầu mang nội
hàm ý thức hệ. Ngày nay nhìn lại, ta cần từ bỏ lối phê bình xuất phát từ các cơng thức có sẵn, mà
xuất phát từ từng trường hợp cụ thể, phân tích thấu đáo, nhìn nhận cho đúng mức thực chất tư tưởng
của từng người, trong đó có Hồi Thanh trước Cách mạng tháng Tám. Trên thực tế Hoài Thanh
không phải là người chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, mà chỉ là người đi tìm đặc trưng của nghệ
thuật, phân biệt nó với các loại hoạt động xã hội khác mà thôi. Và ở đây vai trị đóng góp của Hồi
Thanh về lí luận lớn hơn nhiều so với người ta tưởng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

quan niệm văn dĩ tải đạo và thực dụng cũ kĩ, nhưng còn thiếu hệ thống và về sau lại chuyển sang bàn
về đặc trưng của thể loại tiểu thuyết. Hồi Thanh trái lại, khơng trích dẫn, nhưng ông đưa ra một
quan niệm văn chương đã được suy nghĩ có hệ thống. Ơng bắt đầu từ mối quan hệ thẩm mĩ giữa văn
học và đời sống để lí giải văn học. Theo ông cuộc mưu sinh theo đuổi những lợi ích vật chất, như
tấm màn đen che mất tri giác con người với Thâm chân mà ơng hình dung như là thế giới của cái thật
và cái đẹp, vì thế, nhiệm vụ tối cao của nghệ thuật là “tìm những cái hay, cái đẹp, cái lạ trong cảnh trí
thiên nhiên và trong tâm linh người ta, rồi mượn câu văn, tấm đá, bức tranh, làm cho người ta cùng
nghe, cùng thấy, cùng cảm”. Nghệ thuật không chỉ đi tìm mà cịn sáng tạo: “tạo ra sự sống, tạo ra
những thế giới khác, những người, những vật khác”. Sáng tạo một thế giới sống khác khơng có trong
đời thực mới là thiên chức của nghệ sĩ. Mà muốn thế nhà văn trước hết phải có tài. “Vì nếu khơng
sẵn sàng có tài, có tính do thiên nhiên phú bẩm thì khơng sao tìm được những lời có âm hưởng trong
lịng người ta”. Ông tỏ ý “muốn cho cái tài một địa vị danh dự” và cực lực chống lại sự “khinh
thường”, “kiềm chế và vùi dập cái điều đáng quý nhất ở đời là cái tài”. Đã thừa nhận tài năng thì phải
thừa nhận vai trị của cá nhân và cá tính của nhà văn. Giống như Montaigne, ơng nói: “Cây trên rừng
mn ngàn lá khơng có hai lá giống nhau. Trong rừng người cũng vậy, chưa từng thấy hai người
hình dung giống hệt như nhau”. “Nhà văn khơng có phép thần thơng để vượt ra ngồi thế giới này,
nhưng thế giới này trong mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng”. Phải có cái hình sắc riêng thì mới
có nghệ thuật phong phú. Hồi Thanh đã khẳng định một cách mạnh mẽ: “Một dân tộc khinh miệt cá
nhân, không biết đến cá nhân, khơng thể có được một nền văn chương phong phú là sự tất nhiên
vậy”. Mà muốn cho các yếu tố ấy được phát huy thì phải đề cao <i>tự do và thành thực</i>. Hồi Thanh đã
nói một cách dứt khoát: “<i>Tự do và thành thực, hai điều kiện cốt yếu để dựng nên một nền văn </i>
<i>chương phong phú</i>”. Đúng như vậy, có tự do mới có thành thực, mà có thành thực thì mới phát hiện


được điều gì khả dĩ thực sự mới mẻ. Vì vậy ơng nói: “Hai chữ thành thực, ta sẽ cho nó một địa vị
danh dự trong quan niệm văn chương”. Văn chương mà không thành thực thì khơng cịn gì để nói cả.
Ơng quan niệm: “Nếu bây giờ ta muốn cho văn chương ta ngày một thêm phong phú, cần nhất phải
để cho nhà văn đuợc tự do”. “Chúng tôi muốn dư luận hết sức rộng rãi với nhà văn… Rộng rãi nghĩa
là khơng bắt buộc nhà văn phải bó mình trong một đạo đức, một tôn giáo hay một đảng phái”. Điều
này ngày nay có vẻ khó được chấp nhận, song xét riêng về phương diện đặc trưng nghệ thuật thì nó
rất cần thiết. Tìm hiểu đặc trưng văn chương, Hoài Thanh muốn xây dựng cơ sở cho phê bình,
thưởng thức văn học đúng theo đặc trưng của nó. Ơng viết: “Khi thưởng thức một tác phẩm của nghệ
thuật, lẽ cố nhiên phải để nghệ thuật lên trên”. Hoài Thanh có quan niệm rõ ràng về tác dụng thẩm mĩ
của nghệ thuật đối với tinh thần con người và ơng khẳng định: “Nhà nghệ sĩ có thể có ảnh hưởng lớn
lắm vậy”. Có thể nói vào thời điểm của những năm ba mươi thế kỉ XX, khi xã hội Việt Nam chưa
thoát khỏi quan niệm văn học phong kiến, xu hướng bảo thủ còn nặng nề, thì đó là một quan niệm
văn học khá sâu sắc và tồn diện. Nó có tính chất khai sáng, có tính phản phong, phản đế, nó tiếp thu
bao nhiêu tinh hoa tiến bộ của lí luận văn nghệ dân tộc và thế giới đương thời. Quan niệm văn học
của Hoài Thanh tiêu biểu cho tư tưởng hiện đại hoá văn học đương thời, là phát biểu sáng tỏ nhất cho


<i>tính hiện đại của văn học</i> đương thời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Hoan. Phải nói ngay rằng khẩu hiệu văn học vị nhân sinh gắn liền với nội dung văn học bình dân, với
chủ nghĩa hiện thực. Có thể nói Hải Triều đã tổng hợp các tư tưởng đó để nêu ra khẩu hiệu nghệ
thuật vị nhân sinh của ông. Nghệ thuật vị nhân sinh mà Hải Triều nêu ra cũng là một yêu cầu thiết
yếu của tính hiện đại, song đáng tiếc cuộc đấu tranh ý thức hệ đã đem đối lập hai nội dung hiện đại
ấy với nhau, tạo thành những tính hiện đại phiến diện mà phải hơn nửa thế kỉ sau chúng ta mới thấy
rõ là cần thống nhất chúng lại với nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

khi có người lấy tiếng chim, suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời
ấy tưởng khơng có gì q đáng” Kẻ nói đây thiết nghĩ là Oscar Wild. Chúng ta cịn có thể trích ra
nhiều câu như thế nữa. Phân biệt tính cách văn chương và tác dụng thẩm mĩ của văn học là một ý
tưởng lí luận quan trọng của Hoài Thanh trước năm 1945. Và các nhận thức của ơng về đặc trưng
văn học như tính cách đẹp, hình thức đặc thù, sự thể hiện của tài năng, tinh thần sáng tạo, tính cá


nhân, cá tính, địi hỏi một sự thành thực và mơi trường tự do, phân biệt văn học với báo chí (thơng
tấn) phải nói là những nhận thức đúng đắn về lí thuyết. Sự phát triển tiếp theo của lí luận văn học
phương Tây những năm 60, 70 thế kỉ XX về tính văn học, về hình thức độc lập (như hình thức trần
thuật), khép kín (hệ thống kí hiệu riêng), tính sáng tạo của nghệ thuật… đều đã xác nhận tính đúng
đắn của những tiên liệu đi trước thời gian của Hoài Thanh. Ngày nay chúng ta có thể và cần lấy đó
làm một điểm xuất phát để phát triển lí luận văn học hiện đại của chúng ta. Đó là những điểm thiết
nghĩ không nên quy vào cái ô nghệ thuật vị nghệ thuật để phủ nhận, tự làm nghèo truyền thống lí
luận văn học Việt Nam vốn khơng lấy gì làm phong phú.


Xét từ phương diện này, cuộc tranh luận giữa Hồi Thanh và Hải Triều có phần khơng phải là sự
đối đầu giữa nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, mà trước hết là sự đối lập giữa hai
cách tiếp cận trong phê bình: một bên nhấn mạnh tính đặc thù, một bên nhấn mạnh sự phụ thuộc của
văn học vào xã hội, chức năng xã hội, chính trị của văn học. Nếu tỉnh táo nhìn nhận thì đó sẽ là hai
quan niệm bổ sung cho nhau, tạo thành một quan niệm toàn diện về nghệ thuật. Sự thắng thế của Hải
Triều tuy đáp ứng nhu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh xã hội, song tiềm ẩn một nguy cơ nghiêm trọng
là chủ nghĩa công lợi thực dụng, chủ yếu chỉ coi trọng nội dung xã hội, chính trị, coi nhẹ hình thức và
đặc trưng nội dung của văn nghệ, một khuynh hướng tồn tại kéo dài trên nửa thế kỉ và cho đến ngày
nay chưa thể nói là đã được giải quyết hài hồ. Nguy cơ ấy khơng thể nói là khơng có ảnh hưởng tiêu
cực tới chất lượng nghệ thuật của sáng tác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhà văn không làm văn nữa mà “chỉ làm cái phận sự một người cầm bút mà thôi”. Vậy biết bao thơ
của Đỗ Phủ, của Nguyễn Du chỉ là thơ của người cầm bút hay sao? Thơ văn đâu chỉ “khiến cho
khách giang hồ quên những nỗi nhọc nhằn mà trong chốc lát hưởng những phút say sưa” mà cịn hun
đúc chí khí, tâm hồn con người, giúp họ cảm được những nỗi đau thương thành thực của lồi người
như chính Hồi Thanh đã khơng ít lần nhắc đến. Cái quan niệm xem mối quan hệ chính trị, đạo đức,
tơn giáo với nghệ thuật chỉ là quan hệ “tình cờ” cũng không phù hợp với thực tế văn học xưa nay.
Mặc dù đây đó cịn phiến diện, ảo tưởng và mâu thuẫn, song Hoài Thanh vẫn là nhà lí luận Việt Nam
đầu tiên nêu ra một cách sâu sắc vấn đề đặc trưng, bản chất thẩm mĩ của văn học, một vấn đề cốt tử
của lí luận văn nghệ mà đời sau vẫn phải còn tốn nhiều công sức và tâm huyết mới mong giải quyết.
Cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật với nghệ thuật vị nhân sinh” tất nhiên vẫn còn trong lịch


sử văn học như một cuộc biểu dương quan niệm Mác xít trong văn nghệ, chuẩn bị cho những bước
phát triển về sau của quan niệm văn nghệ cách mạng, và Hồi Thanh vẫn có những điểm để người ta
liên hệ ông với chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, song xét về thực chất, sự mâu thuẫn của Hoài
Thanh với Hải Triều qua những bài tranh luận đương thời chủ yếu chỉ là mâu thuẫn của hai cách tiếp
cận đối với văn học. Lịch sử hiện đại đã cho thấy nhiều cuộc tranh luận văn học đã bị chính trị hố,
làm che lấp mất hạt nhân học thuật của nó, phải một thời gian rất lâu sau người ta mới nhận ra. Nếu
nhìn kĩ về mặt học thuật ta sẽ thấy cả hai khẩu hiệu đều có ưu điểm và khuyết điểm. Quan điểm vị
nhân sinh thấy được mối liên hệ khăng khít giữa văn học với cuộc sống, song nó dễ dàng rơi vào chủ
nghĩa thực dụng, coi nhẹ đặc trưng văn nghệ. Ngược lại quan điểm vị nghệ thuật tuy nhận rõ đặc
trưng văn nghệ, coi trọng tính độc lập của văn nghệ, song nó lại dễ dàng thốt li hiện thực. Vì thế
không nên xem quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh là quan niệm tuyệt đối đúng và hoàn toàn khoa
học. Bởi vì suy cho cùng cái gì mà chẳng vị nhân sinh? Hồi Thanh là người có khuynh hướng học
thuật. Trong bài báo <i>Vấn đề học thuật nước ta chỉ là một vấn đề tâm lí</i> viết năm 1936 Hoài Thanh đã
nêu rất cao vấn đề học thuật, tuy có phần cực đoan. Ơng viết: “Nếu dân tộc này khơng bao giờ tự
mình dựng lên được nền học thuật thì chẳng nói hai mươi triệu, có đơng đến hai trăm triệu cũng là
một dân tộc bỏ đi, một dân tộc khơng có tên trong pho lịch sử văn minh loài người”. Điều kiện để có
một nền học thuật ơng viết: “Về học thuật cũng vậy. Nếu ta đặt cho học thuật một cái mục đích ngồi
học thuật thì chẳng nên mong gì chuyện thành đạt”.Có thể xem đó như một lời nhắn lại cho những ai
còn tha thiết với nền học thuật nước nhà, rằng nếu đồng nhất học thuật với những vấn đề chính trị, ý
thức hệ thì sẽ làm mất đi khả năng giải quyết và đánh giá đúng các vấn đề học thuật.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×