Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Đánh giá hiệu quả phục hồi rừng làm cơ sở đề xuất kỹ thuật xử lý rừng sau khoanh nuôi tại huyện sơn động tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

-----------------------

PHAN THỊ HỒNG NHUNG

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHỤC HỒI RỪNG LÀM CƠ SỞ ĐỀ
XUẤT KỸ THUẬT XỬ LÝ RỪNG SAU KHOANH NUÔI TẠI
HUYỆN SƠN ĐỘNG - TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội - 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

-----------------------

SỐ LIỆU GỐC

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHỤC HỒI RỪNG LÀM CƠ SỞ ĐỀ
XUẤT KỸ THUẬT XỬ LÝ RỪNG SAU KHOANH NUÔI TẠI


TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP


Hà Nội - 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam với những đặc điểm thuận lợi về địa hình, khí hậu như nằm
trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều... đã làm cho tính đa
dạng sinh học ở Việt Nam tương đối cao. Trong đó phải kể tới sự đa dạng của
các hệ sinh thái rừng.
Theo số liệu thống kê của ngành Lâm nghiệp cho thấy, năm 1943 diện
tích rừng nước ta vào khoảng 14 triệu ha (độ che phủ 43%), tính đến năm
1993 diện tích rừng chỉ cịn 9,3 triệu ha (trong đó có khoảng 8,25 triệu ha
rừng tự nhiên và 1,05 triệu ha rừng trồng tương ứng với độ che phủ là 28%).
Như vậy, trong vịng 50 năm diện tích rừng đã bị giảm khoảng 5 triệu ha.
Trong khi đó, theo báo cáo của Cục Kiểm lâm năm 2008, có tới trên 60% diện
tích rừng tự nhiên nước ta là rừng thứ sinh nghèo. Trong thời gian qua đã có
rất nhiều chương trình và dự án như: 661, dự án 327, PAM.... nhằm phục hồi
và phát triển rừng. Tính trung bình, giai đoạn 2000 – 2007 hàng năm có trên 2
triệu ha rừng (cả 3 loại rừng) được đưa vào khoanh ni phục hồi và khốn
bảo vệ, đạt bình qn 140% so với kế hoạch (Cục Lâm nghiệp, 2009).
Mặc dù đã có những thành tựu nhất định về khoanh ni phục hồi rừng
nhưng số lượng và chất lượng rừng vẫn còn kém do chưa có sự hiểu biết đúng
đắn về đối tượng tác động và các quy luật tự nhiên của chúng. Bởi lẽ, không
phải bất cứ đối tượng nào đưa vào khoanh nuôi đều mang lại kết quả cao.

Bắc Giang là một tỉnh miền núi với diện tích rừng tương đối lớn do
khơng có kế hoạch khai thác hợp lý cho nên có rất nhiều khu rừng bị suy
thối, trở thành rừng thứ sinh nghèo. Đề tài: “Đánh giá hiệu quả phục hồi
rừng làm cở sở đề xuất kỹ thuật xử lý rừng sau khoanh nuôi tại huyện
Sơn Động - tỉnh Bắc Giang” được thực hiện nhằm góp phần làm sáng tỏ
hiệu quả của công tác khoanh nuôi phục hồi rừng tại địa phương.


2

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Ở nước ngồi
1.1.1. Phục hồi rừng thứ sinh nghèo bằng khoanh ni
1.1.1.1. Quan điểm về rừng thứ sinh nghèo và phục hồi rừng thứ sinh nghèo
Tuy có khác nhau về ngơn từ hay cách diễn đạt, nhưng cho đến nay
thuật ngữ rừng thứ sinh nghèo đã được nhận thức thống nhất trên phạm vi
toàn thế giới. Rừng thứ sinh nghèo là rừng nằm trong loạt diễn thế thứ sinh,
tiềm năng và các chức năng có lợi của rừng đã bị suy giảm dưới tác động của
các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, đặc biệt là tác động của con người (A.G.
Iatxenko,1976; P.D.Iasenko,1969; V.N. Sukasov, 1957, 1960, 1964; ITTO,
2002) [12].
Theo ITTO (2002), phục hồi rừng bằng khoanh ni là q trình thúc
đẩy diễn thế đi lên của hệ sinh thái rừng, nâng cao mức độ đa dạng sinh học,
điều chỉnh cấu trúc, sản lượng của chúng thông qua việc bảo vệ không tác
động hoặc sử dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh như: xúc tiến tái sinh; xúc
tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung, làm giàu rừng…
David Lam (2003)[11] đã phân tích quan điểm về phục hồi rừng thơng
qua sơ đồ dưới đây:
Cấu
trúc


sản
lượng
của
hệ sinh
thái
Đa dạng sinh học

Hình 1.1: Sơ đồ quá trình phục hồi rừng (David Lamb, 2003)
A: Giai đoạn nguyên sinh

B,C: Giai đoạn suy thoái


3

Theo David Lamb q trình phục hồi rừng có thể đưa cấu trúc và sản
lượng của hệ sinh thái tương đương với hệ sinh thái nguyên thủy. Tuy nhiên,
mức độ đa dạng sinh học của chúng không thể đạt được mức độ đó (điểm E).
Cùng với thời gian, một hệ sinh thái mới (tại điểm D và E) có thể đưa số
lượng các loài cây hướng tới điểm A dưới ảnh hưởng của sự xâm nhập của
một số loài từ lâm phần lân cận. Như vậy, để xúc tiến quá trình phục hồi rừng
con người có thể sử dụng các biện pháp kỹ thuật tác động thông qua xúc tiến
tái sinh cũng như xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung hoặc nuôi dưỡng rừng.
Quan điểm hiện nay về phục hồi rừng thứ sinh nghèo được chia thành 3
nhóm chính như sau [11]:
Một là, phục hồi rừng là đưa rừng đến trạng thái hoàn chỉnh, tiếp cận
trạng thái trước khi bị tác động. Cairns (1995), Jordan (1995) và Egan
(1996)[19] là những người đại diện điển hình của quan điểm này.
Hai là, nhấn mạnh hệ sinh thái rừng được phục hồi tới mức độ bền

vững nào đó bằng con đường tự nhiên hoặc nhân tạo mà không nhất thiết
giống như hệ sinh thái ban đầu. Đây cũng là quan điểm nhận được nhiều sự
tán đồng nhất. Điển hình của quan điểm này là: Harrington (1999); Kumar
(1999); Bradshaw (2002); IUCN (2003); David Lamb (2003)
Ba là, tập trung vào việc xác định các nguyên tố và yếu tố rào cản của
quá trình phục hồi rừng. Điển hình là nghiên cứu của ITTO (2002) khi nhấn
mạnh, những khu vực đất rừng bị thối hóa, hàm lượng chất dinh dưỡng trong
đất thấp, kết cấu không tốt, nhiều mầm bệnh, xói mịn mạnh và lửa rừng. Để
phục hồi rừng cần phải xác định ảnh hưởng của các nhân tố tới sự mất rừng,
từ đó cố gắng hạn chế hoặc loại bỏ chúng. Đây được coi như là một quan
điểm, một sự nhìn nhận mới về phục hồi rừng, vì nó đã bước đầu gắn kết phục
hồi rừng với các yếu tố xã hội, khi nguyên nhân chính gây nên mất rừng tại
các nước nhiệt đới chính là con người.


4

1.1.1.2. Thành tựu nghiên cứu phục hồi rừng thứ sinh nghèo
- Về tái sinh và phục hồi rừng
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng
tới tái sinh, phục hồi rừng tự nhiên và chia chúng thành 2 nhóm:
+ Nhóm nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh và phục hồi rừng
khơng có sự can thiệp của con người (Baur G.N, (1962) [14]; Anden.S (1981)
+ Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới tái sinh và phục hồi rừng có sự can
thiệp của con người. Các nhà lâm học như: Gorxenhin (1972, 1976); Bêlốp
(1982) đã xây dựng thành công nhiều phương thức tái sinh và phục hồi rừng
nghèo kiệt. Đáng chú ý là một số cơng trình nghiên cứu của Maslacop E.L
(1981) “về phục hồi rừng trên các khu khai thác”; Mêlêkhốp I.C (1966) về
“ảnh hưởng của cháy rừng tới quá trình phục hồi rừng”; Pabedinxkion (1966)
về “phương pháp nghiên cứu quá trình phục hồi rừng”. Myiawaki (1993), Yu

cùng các cộng sự (1994). Goosem và Tucker (1995); Sun và cộng sự (1995);
Kooyman (1996) [11] cũng đã đưa ra nhiều hướng tiếp cận nhằm phục hồi hệ
sinh thái rừng đã bị tác động ở vùng nhiệt đới. Kết quả ban đầu của những
nghiên cứu này đã tạo nên những khu rừng có cấu trúc và làm tăng mức độ đa
dạng về loài. Tuy nhiên hạn chế của chúng là không thể áp dụng trên quy mô
rộng, bởi các yếu tố về nhân công và các nguồn lực khác trong quá trình thực
hiện.
- Về phân loại rừng nghèo
Hiện nay có 2 quan điểm về phân loại rừng nghèo được nhất trí cao
trong giới khoa học quốc tế [11].
+ Dựa vào đặc điểm hiện trạng thảm thực vật che phủ. Điển hình cho
quan điểm này là E.F. Bruenig (1998). Tác giả phân chia hệ sinh thái rừng bị
suy thoái thành 5 loại chính và các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm phục hồi
chúng. Đó là các lâm phần rừng hỗn loài tự nhiên bị khai thác quá mức, các


5

lâm phần rừng thứ sinh ở các giai đoạn phát triển khác nhau, các đám cây gỗ
thứ sinh, trảng cỏ và các dạng thảm thực vật khác trên các loại hình thổ
nhưỡng khác nhau.
+ Dựa vào đặc điểm của sự tác động: Quan điểm này được thể hiện rõ
trong hướng dẫn phục hồi rừng của tổ chức cây gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO,
2002), theo đó rừng thứ sinh nghèo được phân chia làm 3 loại phụ đó là:
Rừng nguyên sinh bị suy thoái (Degraded primary forest); rừng thứ sinh
(Secondary forest); đất rừng bị thoái hoá (Degraded forest land)
- Về phân loại đối tượng rừng để tác động
Phân loại đối tượng rừng thứ sinh làm cơ sở cho việc đề xuất các giải
pháp phục hồi và phát triển rừng là việc làm có ý nghĩa thiết thực. Theo IUCN
(2001), Dư Thân Hiểu (2001), để phân chia loại hình kinh doanh rừng thứ

sinh, trước tiên cần xem xét đến loài cây ưu thế hoặc một số lồi cây mục đích
chủ yếu và tình hình điều kiện lập địa, sau đó quy nạp chúng vào những biện
pháp kinh doanh tương ứng.
- Về phương thức lâm sinh áp dụng cho rừng thứ sinh nghèo
Cho đến nay, các phương thức lâm sinh (PTLS) cho phục hồi và phát
triển rừng tự nhiên có hai dạng chính:
+ Duy trì cấu trúc rừng tự nhiên khơng đều tuổi bằng cách lợi dụng lớp
thảm thực vật tự nhiên hiện có và sự thuận lợi về điều kiện tự nhiên để thực
hiện tái sinh tự nhiên, xúc tiến tái sinh tự nhiên, hoặc trồng bổ sung. Ngồi ra
cịn có thể sử dụng phương thức chặt chọn từng cây hay từng đám, phương
thức cải thiện quần thể và chặt nuôi dưỡng rừng tự nhiên để dẫn dắt rừng có
cấu trúc gần với cấu trúc của rừng tự nhiên nguyên sinh.
+ Dẫn dắt rừng theo hướng đều tuổi, có một hoặc một số loài cây bằng
phương thức chủ yếu là cải biến tổ thành rừng tự nhiên, tạo lập rừng đều tuổi
bằng tái sinh tự nhiên đều tuổi, như các phương thức chặt dần tái sinh dưới


6

tán rừng nhiệt đới (TSS); phương thức cải tạo rừng bằng chặt trắng trồng lại;
phương thức trồng rừng kết hợp với nơng nghiệp (Taungya)
Về trình tự xử lý, các phương thức lâm sinh cịn có thể được chia ra:
+ Các PTLS lấy cải thiện làm mục tiêu trước mắt, như phương thức
đồng nhất hoá tầng trên.
+ Các PTLS nhằm tạo lập tái sinh làm mục tiêu chủ yếu, còn cải thiện
chỉ là một phần của biện pháp tái sinh, như phương thức rừng đồng tuổi của
Malaixia (MUS), phương thức chặt dần nhiệt đới ở Nijêria và Trinidat.
+ Các phương thức lâm sinh nhằm đạt cả hai mục tiêu song song, tức là
vừa cải thiện, vừa thức đẩy tái sinh ở nơi cần thiết, mà dạng tổng quát của nó
có liên hệ với hình thức của phương pháp khai thác chọn.

- Về khía cạnh kinh tế - xã hội của phục hồi rừng thứ sinh nghèo
Các nghiên cứu đều khẳng định hiện tượng mất rừng tập trung chủ yếu
tại các nước đang phát triển vùng nhiệt đới. Bên cạnh các lý do khách quan
như chiến tranh, núi lửa...mất rừng có liên quan mật thiết với tỷ lệ tăng trưởng
dân số. Dân số đơng, đói nghèo và sự lạc hậu đã làm cho người dân chỉ nghĩ
đến cái lợi trước mắt của việc tàn phá tài ngun rừng mà khơng hề có sự suy
tính để gìn giữ cho các thế hệ tương lai, trong khi đó các thể chế chính sách
của các nước này lại không đủ sức để hạn chế, vận động hay hướng mọi
người đến các hoạt động giữ gìn tài nguyên rừng. Hàng loạt các khu rừng
nguyên sinh, thứ sinh vẫn đang tiếp tục bị tàn phá, thay thế vào đó là những
diện tích đất trống hay những khu rừng thứ sinh nghèo kiệt đến mức tưởng
chừng khó có thể phục hồi.
Điển hình cho hướng nghiên cứu về khía cạnh kinh tế - xã hội của phục
hồi rừng thứ sinh nghèo là Lamb, Tomlinson (1994); Banerjee (1996);
Ramakrishnan và cộng sự (1994); Chokkalingamand Ravindranath (2001);
David Lam và Dongilmour (2003)[21]; IUCN, WWF (2003).


7

1.1.1.3. Tồn tại của nghiên cứu phục hồi rừng thứ sinh nghèo
Nghiên cứu ở các nước đang phát triển cho thấy, vì thiếu biện pháp
kinh tế - xã hội thích hợp mà những biện pháp kỹ thuật lâm sinh thường
không được áp dụng hoặc được áp dụng một cách hình thức và không đạt
được hiệu quả như mong muốn. Những vấn đề kinh tế - xã hội nhạy cảm nhất
với tiến trình phục hồi rừng thường liên quan đến chính sách về quyền sở hữu
và sử dụng rừng, chia sẻ lợi ích từ rừng, thuế tài nguyên, sự tham gia của
cộng đồng trong quản lý rừng. Đôi khi các vấn đề kinh tế - xã hội liên quan cả
với những vấn đề nhận thức và kiến thức, về tôn giáo và tín ngưỡng, phong
tục và tập quán…trong một số trường hợp, người ta đã coi những giải pháp

kinh tế xã hội là “quan trọng hơn”. Vì vậy, phần lớn những nghiên cứu đã
khẳng định, để phục hồi rừng thì cùng với việc áp dụng các biện pháp kỹ
thuật lâm sinh đúng đắn, cần xây dựng và thực hiện những biện pháp kinh tế
xã hội. Thậm chí phải đưa chúng vào các chương trình, hành động của mỗi
quốc gia.
1.1.2. Xử lý lâm sinh cho rừng tự nhiên sau khoanh ni
Diện tích đất toàn cầu là 130x108 ha, đất bị băng tuyết phủ là 10%, đất
nông nghịêp không thể canh tác được do lạnh là 15%, do khô hạn là 17%, đất
quá dốc là 18%, đất mỏng 9%, đất ẩm ướt 4% và đất nghèo 5%, chỉ còn lại
22% được chia ra đất sản xuất ở mức độ nhẹ 13%, vừa 6% và cao 3%. Do dân
số tăng lên, nhu cầu tài ngun thiên nhiên cũng tăng lên, ơ nhiễm mơi
trường, thối hố đất, thiếu tài ngun nước, biến đổi khí hậu, mất tính đa
dạng sinh vật… uy hiếp nghiêm trọng đến sinh thái tự nhiên, sự thoái hoá hệ
sinh thái ngày càng nặng nề hơn. Theo thống kê, tổng diện tích đất bị thoái
hoá trên trái đất là 0,2x108 km2 chiếm 15% tổng diện tích đất tồn cầu, trong
đó xói mịn do nước chiếm 55%, xói mịn do gió chiếm 28%, đất nghèo hoá
chiếm 7%, mặn hoá chiếm 4%, đầm lầy chiếm 2%, đất bị ô nhiễm chiếm 1%.


8

Hằng năm đất bị xói mịn làm mất đi 700x104 ha. Theo thống kê của FAO
năm 2000[20] đất sản xuất nông nghiệp bị mất đi 20%, do sự can thiệp của
con người trên 50x108 ha đất có thực bì bị thoái hoá, làm cho chức năng phục
vụ hệ sinh thái thực bì lục địa bị ảnh hưởng tới 43%, trong đất có độ che phủ
thực bì có 20x108 ha bị thối hố (chiếm 17% diện tích có thực bì trên địa cầu,
kể cả thực bì nhân tạo), trong đó bị thối hố nhẹ (sản lượng nơng nghiệp hơi
bị giảm xuống) là 7,5x108 ha, bị thoái hoá vừa (sản lượng giảm nhiều phải
đầu tư mới khôi phục) là 9,1x108 ha và bị thối hố nặng (khơng thể tiến hành
sản xuất nơng nghiệp, phải thông qua viện trợ quốc tế mới cải tạo được) là

3x108 ha và thối hố cực nặng (khơng thể sản xuất và cải tạo được) là
0,09x108 ha. Đất hoang mạc hố tồn cầu là 36x108 ha. Diện tích rừng mưa
nhiệt đới bị thoái hoá là 4,27x108 ha. Hàng năm chi phí đầu tư cho khơi phục
sinh thái là 10 – 20 tỷ USD, hàng năm tốc độ sa mạc hoá đạt đến một con số
kinh khủng 5x104 – 7x104 km2. Do sự can thiệp quá mức của con người đất
có rừng che phủ đang bị thối hố trên diện tích lớn.
Khơi phục và xây dựng lại hệ sinh thái bị thối hố phải tơn trọng quy
luật tự nhiên, thơng qua tác động của con người. Kỹ thuật thích hợp, kinh tế
phù hợp, xã hội tiếp thu làm cho hệ sinh thái khoẻ mạnh hơn, có ích cho sự
sống của con người. Điều kiện kỹ thuật, kinh tế, xã hội là hậu thuẫn và chỗ
dựa cho sự khôi phục. Nguyên tắc khôi phục hệ sinh thái bao gồm nguyên tắc
tự nhiên, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc kỹ thuật kinh tế xã hội và nguyên
tắc thẩm mỹ.
1.1.2.1. Phân chia đối tượng rừng sau khoanh nuôi để xử lý kỹ thuật lâm sinh
Ở các nước như châu Á, như ở Trung Quốc, Malayxia, Indonexia rừng
sau khoanh nuôi được phân chia thành các đối tượng kèm theo các giải pháp
tác động dưới đây[8]:
- Khoanh nuôi thành công


9

+ Rừng cây lá rộng gỗ mềm dưới 10 tuổi, rừng cây lá rộng gỗ cứng
dưới 20 tuổi, rừng sào, rừng trung niên có tương đối nhiều cây ưu việt mà độ
tàn che dưới 0,7 đều phân chia vào loại hình ni dưỡng.
+ Đối với những lâm phần sau khi hoanh nuôi, nếu số lượng cây lưu
giữ lại đạt đến hoặc vượt quá tiêu chuẩn số lượng cây cần lưu giữ trong chặt
trung gian (chặt nuôi dưỡng) rừng thứ sinh, thì phân chia vào loại hình chăm
sóc ni dưỡng.
+ Những lâm phần mà cây lưu giữ lại được từ 300 cây/ha trở lên có

đường kính ngang ngực 6 ÷ 8 cm, hoặc từ 225 cây/ha trở lên có đường kính
ngang ngực 10 ÷ 14 cm, hoặc từ 150 cây/ha trở lên có đường kính ngang ngực
lớn hơn 16 cm, thì phân chia vào loại hình cải tạo chặt chọn. Phương thức cải
tạo chặt chọn có nghĩa là, sau khi chặt chọn sẽ trồng thêm cây lá kim chịu
bóng dưới tán các cây rừng còn lưu giữ lại, để tác động thành một rừng hỗn
giao cây lá kim cây lá rộng.
- Khoanh nuôi không thành công
+ Nếu sau khoanh nuôi, lâm phần có số lượng cây tốt, có triển vọng
tương đối ít, sau khi chặt trung gian (chặt nuôi dưỡng) không thể duy trì được
ngoại hình hồn chỉnh, hoặc đối với rừng thưa (độ tàn che nhỏ hơn 0,3) thì
phân chia vào loại hình cải tạo.
+ Đối với những lâm phần hoặc các trảng cây bụi trên đất rừng có độ
dốc dưới 300 được phân chia vào loại hình cải tạo. Căn cứ vào số lượng cây
mạ, cây con của cây mục đích nhiều ít, có thể áp dụng các phương pháp tái
sinh nhân tạo, tái sinh tự nhiên hoặc xúc tiến tái sinh tự nhiên để cải tạo chúng
thành rừng lá kim thuần loại, hoặc rừng lá rộng thuần loại, hoặc rừng hỗn giao
cây lá kim cây cây lá rộng.
+ Đối với những lâm phần hoặc trảng cây bụi trên đất rừng có độ dốc
lớn hơn 300 được phân chia vào loại hình tái sinh trước khi chặt hoặc loại


10

hình cải tạo theo dải (theo băng). Phương thức tác nghiệp tái sinh trước khi
chặt nghĩa là, đầu tiên tiến hành trồng rừng dưới tán rừng cũ, rồi đợi cho cây
con có triển vọng thành rừng mới tiến hành chặt rừng cũ. Cải tạo theo dải
(theo băng) nghĩa là, chia rừng thành các dải (băng) ngang qua núi có chiều
rộng xác định, cứ cách một dải chặt một dải, chặt xong tiến hành trồng rừng
(nhân tạo), khi chắc chắn thành rừng sẽ chặt các dải còn chừa lại và tiếp tục
trồng rừng (hoặc tái sinh nhân tạo).

+ Trên một lô rừng mà có 2 loại hình cải tạo lâm phần, được phân chia
vào loại hình cải tạo tổng hợp.
1.1.2.2. Nguyên tắc và kỹ thuật tác động
a) Rừng thứ sinh nghèo là một phần hợp nhất của hệ thống sử dụng đất
Rừng thứ sinh nghèo cần được xem như là một phần hợp nhất trong
tồn bộ cảnh quan nơng thơn nhiệt đới. Nó chịu ảnh hưởng của điều kiện bên
ngồi lập địa ở đây. Rừng thứ sinh được quản lý, đất rừng nghèo được phục
hồi có thể đem lại nhiều lợi nhuận và dịch vụ cho xã hội, chúng thực hiện
chức năng bảo vệ và sản xuất, do đó cần phải nhìn nhận những đối tượng này
như là một yếu tố sử dụng đất quan trọng. Trong bất kỳ cảnh quan nhất định
nào, một vài khu rừng thứ sinh nghèo cần được chuyển thành kiểu sử dụng
đất khác, nhưng sự chuyển đổi này phải nằm trong toàn bộ kế hoạch sử dụng
đất tổng thể.
b) Kiến thức địa phương và kiến thức truyền thống là một nguồn có giá
trị, nó phải được đánh giá ngang tầm với các hệ thống kiến thức khác.
Có những kiến thức địa phương rất đáng được quan tâm và có giá trị
kinh tế về quản lý và sử dụng rừng thứ sinh nhiệt đới. Những kiến thức này
cần phải được đánh giá một cách đầy đủ trong chiến lược phục hồi, quản lý và
tái tạo rừng thứ sinh nghèo.


11

c) Rừng thứ sinh nghèo cần phải được quản lý dưới một biện pháp quản
lý thích hợp và sử dụng đa dạng về lợi ích.
Rừng thứ sinh nghèo nên được quản lý dưới một nguyên tắc chung về
quản lý cho nhiều mục đích, cụ thể là tối ưu hố lợi nhuận từ nguồn tài
nguyên này.
Việc lập kế hoạch cần phải được quan tâm hai mục đích. Thứ nhất:
quản lý cần phải nâng cao năng suất các sản phẩm đã được xác định trước.

Thứ hai: phải phục hồi lại chức năng bảo vệ của rừng.
Những kế hoạch quản lý cần phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu cho những
người tham gia vào cơng việc, nó phải được hiểu một cách thống nhất và có
hiệu quả cao cho q trình thực thi.
Những kế hoạch quản lý cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với
từng điều kiện của mỗi khu rừng và cần phải có sự đánh giá cẩn thận về các
đặc điểm chính về tự nhiên và kinh tế - xã hội của khu vực tiến hành các hoạt
động.
d) Mục đích của quản lý rừng thứ sinh nghèo phụ thuộc vào những mục
tiêu kinh tế - xã hội và các giá trị văn hoá.
Mục tiêu ban đầu của quản lý và tái tạo rừng thứ sinh nghèo là phục hồi
lại trạng thái và năng suất của rừng trước khi bị suy thối và đảm bảo rằng hệ
sinh thái rừng có thể tiến hố một cách tự nhiên thơng qua thời gian dài và tự
biến đổi về điều kiện môi trường của nó.
Tuy nhiên trong các chiến lược phục hồi rừng thứ sinh nghèo, cần phải
nắm được các quan điểm kinh tế - xã hội về chiến lược này bởi vì chính yếu
tố kinh tế - xã hội sẽ là động lực cho các hoạt động này. Nếu rừng thứ sinh
nghèo được quản lý cho hoạt động sản xuất thì các bên liên quan phải có được
những lợi ích cao hơn lợi ích hà họ thu được từ hoạt động sử dụng đất hiện
tại. Khi đề xuất các chiến lược cho rừng thứ sinh nghèo cần có một sự hiểu


12

biết về chức năng của rừng thứ sinh nghèo trong hệ thống sản xuất trang trại
và những yếu tố tác động đến việc đưa ra quyết định của người nông dân để
họ quan tâm đến rừng thứ sinh nghèo.
Bất luận mục tiêu chính của chiến lược tái tạo rừng là thế nào thì mục
tiêu của nó khơng chỉ là các chức năng đơn giản và là sức khoẻ của hệ sinh
thái rừng mà còn phải là việc thực hiện các chức năng khác nữa.

e) Quản lý rừng thứ sinh nghèo phải dựa vào sự phân tích và kiến thức
về mặt lâm sinh học và sinh thái học.
Những lâm phần còn sót lại của rừng nguyên sinh nghèo hoặc rừng thứ
sinh cần phải được phân tích một cách cẩn thận và cụ thể trước khi đưa ra các
biện pháp lâm sinh hợp lý cho nó và góp phần hạ giá thành của hoạt động.
Những lồi cây khơng có giá trị thương mại hoặc cây bụi có thể có
chức năng quan trọng về mặt sinh thái, chúng có thể đóng vai trị quan trọng
trong các mối quan hệ cộng sinh, cải thiện điều kiện bề mặt đất, góp phần tạo
ra nơi cư trú cho các loài động vật. Trong chiến lược tái tạo rừng cần phải chú
ý tạo ra sự cân bằng sinh thái trong các khu rừng cịn sót lại.
f) Rừng thứ sinh nghèo phải được tái tạo và phục hồi ở bất cứ nơi nào
có thể thơng qua con đường diễn thế tự nhiên.
Hỗ trợ và thúc đẩy diễn thế tự nhiên là chiến luợc khả thi và phổ biến
nhất cho hoạt động tái tạo rừng thứ sinh và phục hồi đất rừng nghèo.
Nếu quá trình diễn thế tự nhiên khơng đạt được mục đích trong một
thời gian nhất định thì mới cần thiết phải trồng.
g) Quản lý, phục hồi và tái tạo rừng thứ sinh nghèo có thể bị cản trở bởi
các rào cản từ môi trường tự nhiên và kinh tế.
Không nên cố gắng thực hiện các chiến lược này ở những nơi khơng có
sự ủng hộ lâu dài, bởi vì có thể các chiến lược này khơng được ủng hộ, do các
tác động của việc sử dụng đất. Để chống lại những mối đe dọa có thể trong


13

tương lai, đảm bảo cho sự toàn vẹn của những khu rừng được phục hồi, cần
phải giảm thiểu các sự tác động này bằng các cơ chế cần thiết như quy hoạch
cảnh quan, hoặc thoả hiệp với chủ sở hữu đất ở gần.
h) Bảo tồn và tái tạo đa dạng sinh vật bao gồm nguồn gen là một phần
liên quan đặc biệt trong toàn bộ chiến lược phục hồi, quản lý và tái tạo rừng

thứ sinh nghèo.
Cho dù mục tiêu đầu tiên của các chiến lược phục hồi, quản lý hay tái
tạo rừng thứ sinh nghèo là gì đi chăng nữa thì tính đa dạng sinh vật và nguồn
gen cần phải được bảo tồn. Mục tiêu cuối cùng của những chiến lược phục
hồi, quản lý và tái tạo rừng thứ sinh nghèo là tạo ra những khu rừng có mức
độ đa dạng loài cao và cấu trúc quần xã đa dạng.
Những loài được liệt kê vào sách đỏ thế giới (CITES), đó là bản danh
sách của những lồi gặp nguy hiểm, cần phải được bảo vệ. Trong đó có liệt kê
một số lồi cây có rất ít ở các cảnh quan.
i) Các tính chất của đất cần được duy trì và cải thiện để đem lại hiệu
quả của phục hồi và tái tạo lâm phần.
Các đặc điểm hoá học, sinh học và vật lý cần phải được đánh giá, tái
tạo và duy trì để đảm bảo khả năng tái sinh tốt của các loài cây mong muốn và
làm tăng các dịch vụ từ môi trường.
j) Hiệu quả về kinh tế và tài chính cần thiết cho các chiến lược quản lý,
phục hồi và tái tạo rừng thứ sinh nghèo.
Những nỗ lực tái tạo rừng nguyên sinh nghèo, quản lý rừng thứ sinh và
phục hồi đất rừng nghèo chỉ có thể thành cơng nếu chúng đem lại hiệu quả tài
chính và kinh tế lâu dài. Nếu nguồn tài chính đầu tư cao, kết quả đem lại
không chắc chắn và thời gian thu lại quá lâu dẫn tới quá trình đầu tư này
không thể chứng tỏ được hiệu quả.


14

k) Bất cứ nơi nào có thể, cần phải sử dụng các biện pháp lâm sinh đơn
giản.
Những biện pháp lâm sinh đơn giản và rõ ràng có thể đem lại kết quả
nhanh, giảm giá thành, công sức và thúc đẩy quá trình tham gia.
l) Các yếu tố cản trở trong điều kiện lập địa cần phải được nhận ra

trước khi tiến hành thực hiện các chiến lược phục hồi, quản lý và tái tạo rừng
thứ sinh nghèo, đặc biệt là đất rừng nghèo.
m) Trong chiến lược phục hồi đất rừng nghèo phải xác định một cách
cẩn thận các loài cây thiết yếu.
Đất rừng nghèo thường tồn tại ở cảnh quan rừng bị tàn phá, ở đây
nguồn hạt của các loài cây rừng và khả năng phát tán hạt thường không tồn
tại. Nhiều lồi cây thiết yếu có thể là cây gỗ, cây bụi, cây thuốc và động vật
cần phải đưa trở lại hoặc tăng số lượng quần thể của chúng lên.
n) Q trình lựa chọn lồi cho các biện pháp kỹ thuật lâm sinh cần phải
tốt nhất ở mức có thể.
Việc lựa chọn lồi cây cần phải thực hiện thơng qua quá trình đánh giá
nhu cầu và mong muốn của những đối tượng sử dụng rừng chính thức, đặc
biệt là những người mà sinh kế của họ phụ thuộc hầu hết vào rừng.
o) Động thái tự nhiên của lâm phần là nền tảng cơ bản của phục hồi, tái
tạo rừng.
Không được coi nhẹ các yếu tố như khả năng phát triển lệch của tán
trong các tầng bị phá huỷ và quá trình phát triển thẳng lên của tái sinh tự
nhiên từ mặt đất.
Những lồi và những kiểu gen cịn sót lại của rừng nguyên thuỷ và
những loài xâm lấn lập địa phải được lựa chọn để cho thích hợp với điều kiện
của địa phương và khả năng sống sót tốt. Hơn nữa chúng thường là những
loài chất lượng cao.


15

p) Các biện pháp lâm sinh cần phải tạo ra được điều kiện thuận lợi
thông qua việc mô phỏng quá trình diễn thế tự nhiên.
Khả năng phục hồi của rừng nhiệt đới thường được đánh giá thấp. Một
nguyên tắc để làm giảm mức độ tác động của các biện pháp lâm sinh là bắt

chước quá trình tự nhiên để tối ưu hố hiệu quả thơng qua q trình tự phục
hồi của rừng.
Tất cả các khu rừng bị suy thoái thường có đặc điểm cấu trúc hỗn tạp,
vì sự phát triển quá nhiều tre nứa và dây leo như Merremia spp và bên dưới
cây bụi như Chromolaene spp và Eugeissonia spp. Có nhiều trường hợp khi
phát dọn cây dây leo thường làm cho chúng phát triển mạnh hơn.
Một điều quan trọng là lựa chọn các giải pháp lâm sinh như thế nào cho
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế? Để giải quyết vấn đề này có thể
thực hiện theo bốn câu hỏi lâm sinh dưới đây:
1. Hoàn cảnh của lâm phần và điều
kiện lập địa đang tồn tại?
2. Lịch sử lâm phần là gì?
3. Lập địa sẽ phát triển thế nào khi
thiếu sự tác động quản lý đã được
lập?
4. Chiến lược quản lý gì cần thiết để
đạt được một kết quả đặc biệt?

- Lâm phần
- Điều kiện lập địa
- Điều kiện kinh tế - xã hội
- Nguyên nhân hình thành rừng thứ
sinh nghèo
- Quá trình sinh thái
- Thay đổi kiểu sử dụng đất
- Kế hoạch quản lý cho từng lâm
phần bị suy thoái:
- Các lựa chọn về mặt lâm sinh, quản
lý sử dụng đa mục đích
- Xác định mục tiêu, phương pháp sử

dụng
- Giám sát

Tác động chặt nuôi dưỡng (chặt trung gian) có thể được thực hiện
quanh năm, nhưng thích hợp nhất là vào vụ thu đơng hoặc những lúc nơng
nhàn. Việc lựa chọn cây đối với các lồi cây rụng lá tốt nhất nên thực hiện


16

vào mùa sinh trưởng của cây, nếu không sẽ rất khó phán đốn tình hình sinh
trưởng của cây.
Trước khi tiến hành chặt trung gian, cần tổ chức cho các nhân viên thực
thi cơng việc học tập quy trình kỹ thuật, xác định rõ nhiệm vụ, đồng thời phân
chia khu vực đất rừng chặt trung gian. Cần lập thêm một khu tiêu chuẩn, tiến
hành điều tra từng cây, tính tốn cường độ chặt tỉa thưa và sản lượng gỗ sẽ
chặt ra, biên soạn kế hoạch thi công chặt trung gian và báo cáo lên cấp trên
phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn cần tổ chức cho những nhân viên có kinh
nghiệm tiến hành xác định, chọn cây chặt bỏ để đánh dấu, những cây sẽ chặt
bỏ này được gọi là “cây đánh dấu”. Đồng thời phải bố trí sắp xếp tốt các nhân
viên thi công và các việc chuẩn bị về vật chất.
Nói chung, trình tự chặt trung gian có những bước sau đây:
- Chặt đổ cây: Nhất định phải chặt theo sự đánh dấu trước, để kiên trì
nguyên tắc “3 chặt bỏ 3 giữ lại” trong khi chặt, cần phải thực hiện tốt “3
nhìn”: một nhìn tán cây, đảm bảo cho độ tàn che vừa phải; hai nhìn thân cây,
đảm bảo chặt đi cây xấu giữ lại cây tốt; ba nhìn lồi cây, để đảm bảo chọn cây
chặt chính xác. Cũng cần chú ý đến hướng đổ của cây chặt, tránh tổn thương
cho cây lưu giữ lại; khi chặt cần chặt thật sát gốc.
- Chặt cành, tạo gỗ: Sau khi chặt cây đổ xuống đất, tiến hành chặt cành
từ gốc lên ngọn, khi chặt cành cần chặt phẳng, trơn tru, không làm tổn thương

đến thân cây. Tạo gỗ cần phải tiến hành theo nguyên tắc lợi dụng hợp lý, tiết
kiệm gỗ, bất cứ đoạn thân nào có giá trị sử dụng đều cần phải tạo gỗ theo quy
cách.
- Tập trung gỗ, xử lý đất rừng (dọn rừng): Tập trung gỗ là đem các cây
gỗ chặt hạ được vận chuyển ra ngoài xếp thành khối, xếp ngay ngắn theo từng
quy cách khác nhau, để tiện đo kích thước và bốc lên xe. Chặt tỉa thưa xong
phải kịp thời xử lý đất rừng (dọn rừng); đem cành nhánh bỏ lại mang ra bên


17

ngồi rừng, có thể đưa vào sử dụng được, hơn nữa có tác dụng phịng tránh
phát sinh lửa rừng và sâu bệnh hại lan tràn phá hoại.
- Kiểm tra chất lượng trong khi thi công và nghiệm thu kết thúc. Sau
khi thi công xong cần ghi chép vào các tờ phiếu lơ, khoảnh, kiện tồn hồ sơ
kỹ thuật sản xuất, đồng thời định kỳ quan sát ghi chép tài liệu theo quy định.
1.2. Ở trong nước
1.2.1. Phục hồi rừng thứ sinh nghèo bằng khoanh nuôi
1.2.1.1. Quan điểm về rừng thứ sinh nghèo và phục hồi rừng thứ sinh nghèo
Rừng thứ sinh nghèo được dùng khi diễn tả một quần xã thực vật hình
thành bởi quá trình phục hồi lại sau khi bị gián đoạn trong chuỗi diễn thế
nguyên sinh (Phạm Xn Hồn, 2003)[12]. Những khu rừng thứ sinh nghèo
được hình thành có sự tác động ở mức độ trực tiếp và cả gián tiếp của con
người (Thái Văn Trừng, 1970,1978) [17], Trần Ngũ Phương (1970)[15]. Đặc
trưng của rừng thứ sinh nghèo là tính quy luật trong kết cấu của lâm phần
không rõ ràng, đặc biệt là cấu trúc tổ thành, cấu trúc tầng thứ, độ tàn che, cấu
trúc mật độ và tuổi cây trong quần xã; làm cho cây bụi và dây leo phát triển
cực kì mạnh. Rừng thứ sinh nói chung và rừng thứ sinh nghèo nói riêng đều
có sản lượng và giá trị kinh tế kém. Mật độ thiếu đặc biệt mật độ những lồi
cây mục đích cũng là một đặc điểm dễ nhận thấy ở rừng thứ sinh (Phạm Xuân

Hoàn, 2003)[12].
Phục hồi rừng trước hết là phục hồi lại thành phần chủ yếu của rừng là
thảm thực vật cây gỗ. Phục hồi rừng là một quá trình sinh học gồm nhiều giai
đoạn và kết thúc bằng sự xuất hiện một thế hệ mới thảm cây gỗ bắt đầu khép
tán. Quá trình phục hồi rừng sẽ tạo điều kiện cho sự cân bằng sinh học xuất
hiện, đảm bảo cho sự cân bằng này tồn tại liên tục và cũng vì thế mà chúng ta
có thể sử dụng chúng liên tục được (Võ Đại Hải và cộng sự, 2003)[9].


18

1.2.1.2. Thành tựu nghiên cứu phục hồi rừng thứ sinh nghèo
a. Hệ thống phân chia các kiểu trạng thái rừng
Hệ thống phân chia các kiểu trạng thái rừng được xây dựng dựa trên cơ
sở hệ thống phân loại trạng thái rừng của Loeichau (1963). Đây là hệ thống
phân loại đứng trên quan điểm đánh giá tài nguyên rừng. Sau năm 1975, Viện
Điều tra – Quy hoạch rừng đã đưa ra hệ thống phân loại mới, có sự cải tiến
cho phù hợp với thực tiễn kinh doanh.
b. Phân loại đối tượng rừng thứ sinh nghèo để áp dụng biện pháp phục
hồi.
Phân loại đối tượng để từ đó áp dụng các biện pháp kỹ thuật tác động
phù hợp là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, nó đóng vai trị quyết
định đến sự thành công của hoạt động phục hồi rừng thứ sinh nghèo. Chính vì
vậy, các nghiên cứu đã tập trung vào vấn đề này, trong đó có phân loại rừng
của Nguyễn Văn Thơng (2001), Phạm Xn Hồn (2003), Vũ Tiến Hinh và
Phạm Văn Điển (2005)[10].
Hai văn bản được đánh giá là tiêu biểu cho việc phân loại đối tượng tác
động, và được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn kinh doanh rừng ở nước ta
trong một thời gian dài, đó là quy phạm các giải pháp kỹ thuật lâm sinh áp
dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa (QPN 14 – 92)[1] được Bộ Lâm nghiệp

nay là Bộ NN&PTNT ban hành ngày 31 tháng 3 năm 1993, và quy phạm
phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung (QPN
21 – 98)[5] ban hành ngày 04 tháng 11 năm 1998.
1.2.1.3. Tồn tại nghiên cứu phục hồi rừng thứ sinh nghèo
Mặc dù nghiên cứu về phục hồi hệ sinh thái rừng đã phát triển mạnh
hơn 10 năm qua, nhưng đến nay vẫn còn rất nhiều vấn đề cần được giải quyết.
Có thể xếp chúng thành hai nhóm (Nguyễn Xuân Quát và cộng sự, 2001)[11].


19

- Một là, những gì liên quan đến chất lượng rừng khoanh ni như cần
chọn đối tượng nào để chóng thành rừng sớm phát huy tác dụng, lấy rừng
nuôi rừng cho cả trước mắt và lâu dài; cần chọn biện pháp nào cho từng đối
tượng vừa dễ làm, vừa rẻ tiền mà rừng vẫn phát triển ổn định và bền vững.
- Hai là, những gì liên quan đến quyền lợi của những người làm rừng
đặc biệt là các hộ nông dân, làm sao thu hút được họ gắn bó với rừng khoanh
nuôi như quyền lợi sử dụng đất và rừng lâu dài, quyền hưởng lợi ích từ các
sản phẩm hàng hố của rừng ngồi các giá trị về phịng hộ và mơi sinh, vv...
Trong các tồn tại đó, bức xúc nhất là làm sao thu hút được đông đảo
người dân thực hiện khoanh nuôi phục hồi rừng, không thể chờ đợi sự đầu tư
của Nhà nước. Hơn nữa, ngay cả sự đầu tư ít ỏi đó Nhà nước cũng khơng thể
coi đó có đủ để đầu tư mãi cho phục hồi rừng bằng xúc tiến khoanh nuôi tái
sinh với quy mơ hàng triệu ha.
Ngồi những vấn đề cần giải quyết về mặt kỹ thuật, hiện nay ở nước ta
và khu vực triển khai đề tài vẫn tồn tại nhiều bất cập như một rào cản về cả
phương diện xã hội lẫn kinh tế, trong đó có nhận thức chưa đầy đủ của xã hội
về giá trị của rừng, chính sách hưởng lợi tài nguyên rừng, chính sách đầu tư
xây dựng cơ bản vốn rừng, chính sách tín dụng ngân hàng, chính sách khuyến
nơng, khuyến lâm, chính sách thuế sử dụng tài ngun rừng và mơi trường,

chính sách cuốn hút người dân và cộng đồng tham gia quản lý bảo vệ rừng...
Gây khó khăn cho hoạt động phục hồi và phát triển bền vững rừng tự nhiên.
Những vấn đề nêu trên cho thấy, cần có giải pháp tổng thể tác động hợp
lý cho từng đối tượng, mới có hy vọng phục hồi và phát triển bền vững rừng
tự nhiên.
1.2.2. Xử lý lâm sinh cho rừng tự nhiên sau khoanh nuôi
Vấn đề này trước đây ít có người quan tâm. Song, do gỗ rừng tự nhiên
khơng có khả năng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Hơn


20

nữa các trạng thái rừng hiện nay chủ yếu là những cánh rừng đã bị khai thác
kiệt khả năng tái sinh phục hồi thành rừng ở mức độ thấp, những khu rừng
này khơng có giá trị kinh tế, nghèo về đa dạng sinh học loài. Hầu hết rừng tự
nhiên Việt Nam là rừng nghèo là chính, một số địa phương đã áp dụng các
biện pháp kỹ thuật khoanh nuôi phục hồi rừng đến nay đã kết thúc giai đoạn
phục hồi rừng. Vì vậy, áp dụng các biện pháp kỹ thuật xử lý rừng sau khoanh
nuôi đã trở thành xu thế phổ biến trong sản xuất lâm nghiệp hiện nay, những
khu rừng này kết thúc thời gian khoanh nuôi chuyển sang nuôi dưỡng và kinh
doanh rừng.
Xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh xử lý rừng tự nhiên sau
khoanh nuôi nhằm phát triển kinh doanh rừng theo hướng ổn định, lâu dài,
bền vững là giải pháp khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng của rừng và nâng cao hiệu quả kinh doanh rừng. Kỹ thuật xử lý rừng tự
nhiên sau khoanh nuôi hiện nay là xây dựng rừng đảm bảo được các yếu tố về
mặt kinh tế, sinh thái và môi trường đồng thời làm giảm áp lực về kinh tế cho
các hộ gia đình kinh doanh rừng.
Rừng sau khoanh nuôi là rừng đã kết thúc thời gian khoanh nuôi bước
sang thời kỳ nuôi dưỡng rừng.

1.2.2.1. Phân chia đối tượng rừng sau khoanh nuôi để xử lý lâm sinh
Quyết định số 46/2007/QĐ – BNN ngày 28 tháng 5 năm 2007 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn [3], đã quy định rõ:
a) Đối với rừng phòng hộ, đặc dụng
- Rừng cây gỗ: sau thời gian khoanh ni có ít nhất 400 cây gỗ mục
đích/ha, độ che phủ của cây bụi, thảm tươi và cây gỗ lớn hơn hoặc bằng 50%,
tổng diện tích của các đám trống nhỏ hơn hoặc bằng 1000m2/ha.


21

- Rừng tre nứa, le, giang, vầu, diễn, lồ ô...(gọi chung là rừng tre nứa):
sau thời gian khoanh nuôi độ che phủ của tre nứa lớn hơn hoặc bằng 60%,
tổng diện tích các đám trống nhỏ hơn hoặc bằng 1000m2/ha.
b) Đối với rừng sản xuất
- Rừng cây gỗ: sau thời gian khoanh ni có ít nhất 500 cây gỗ mục
đích/ha, phân bố tương đối đều trên tồn bộ diện tích, chiều cao trung bình
lớn hơn hoặc bằng 4m, tổng diện tích các đám trống nhỏ hơn hoặc bằng
1000m2/ha
- Rừng tre nứa: sau thời gian khoanh nuôi độ che phủ của tre nứa đạt
lớn hơn hoặc bằng 70%, số cây đạt tiêu chuẩn khai thác lớn hơn hoặc bằng
20%, tổng diện tích các đám trống nhỏ hơn hoặc bằng 1000m2/ha.
c) Đối với những loại rừng không thuộc quy định ở mục a, b, tuỳ theo
điều kiện cụ thể của từng địa phương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn xây dựng tiêu chí để thực hiện.
1.2.2.2. Kỹ thuật xử lý lâm sinh


22


Bảng 1.1: Phân loại đối tượng tác động trong quy phạm lâm sinh
( theo QPN 14-92 và QPN 21-98)
Tiêu chí
Gỗ lớn

Gỗ nhỏ

Rừng trồng, rừng tự nhiên tương đối đều tuổi sau khép tán. Rừng phục
hồi trên đất nương rẫy. Rừng hỗn lồi tự nhiên khơng đều tuổi sau
Giải pháp
khai thác chọn không đúng kỹ thuật.
Cây cao phẩm
chất tốt (cây/ha).
Nuôi
dưỡng
rừng.

≥ 150 – 200

Cây tái sinh có
triển vọng
(cây/ha).
≥ 500 – 600

Cây cao
phẩm chất
tốt (cây/ha).

Cây tái sinh có
triển vọng (cây/

ha)

≥500– 600

≥ 1000 – 1200

Làm giàu
rừng.

Khơng có triển vọng xúc tiến tái sinh thành cơng

Xúc tiến
tái sinh.

Có triển vọng xúc tiến tái sinh thành công

< 150
< 150

< 500
> 500

< 500
< 500

< 1000
> 1000

Khoanh
nuôi bảo

vệ.

Đất chưa có rừng, nương rẫy cũ, bãi phù sa mới bồi lấp mà quá trình
tái sinh diễn thế tự nhiên đáp ứng được nhu cầu kinh tế xã hội và mơi
trường.

Khoanh
ni xúc
tiến tái
sinh có
trồng bổ
sung.

Đất đã mất rừng do khai thác kiệt. Nương rẫy bỏ hố cịn tính chất đất
rừng. Trảng cỏ cây bụi xen cây gỗ, tầng đất dày trên 30 cm.
Rừng Tre nứa phục hồi sau khai thác, nương rẫy, có độ che phủ trên
20% diện tích và phân bố đều.
Rừng phòng hộ ở khu vực xung yếu và rất xung yếu có độ che phủ
trên 40% và có khả năng tự phục hồi.
Cây con tái sinh
Gốc mẹ có khả năng tái sinh
mục đích (cây/ha). chồi (cây/ha).

≥ 300 + h > 50cm
Trồng
rừng.

> 150

Cây mẹ gieo

giống tại chỗ
(có nguồn gieo
giống lân cận).
> 25

Đất lâm nghiệp chưa có rừng, đất rừng sau khai thác trắng. Rừng đã áp
dụng các biện pháp kỹ thuật trên nhưng không thành công.


×