Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Đánh giá quản lý rừng, chuỗi hành trình sản phẩm và lập kế hoạch quản lý tiến tới chứng chỉ rừng tại công ty lâm nghiệp bến hải, tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 119 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Phát triển bền vững là khái niệm đánh dấu sự nhận thức của con người bắt đầu
chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn mà những lo ngại về sự suy kiệt các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự xuống cấp của mơi trường tồn cầu ngày càng tăng
trong khi những mong muốn về sự tồn tại và phát triển lâu dài của nhân loại lại
cũng không hề giảm xuống.
Rừng là tài nguyên quý báu của quốc gia, là bộ phận quan trọng của mơi
trường sống, có giá trị lớn đối với nền kinh tế đất nước, gắn liền với đời sống nhân
dân và sự sống còn của dân tộc ta. Trong suốt nhiều thập kỷ qua, rừng đã có những
đóng góp đáng kể vào cơng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giúp đồng bào
khắc phục hậu quả của chiến tranh và hơn hết là cung cấp sản phẩm cho phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, các tác động của con người đã và đang làm suy giảm số lượng
và chất lượng rừng rõ rệt. Suy thoái tài ngun rừng đã làm cho đất đai bị xói mịn,
lũ lụt xảy ra với tần suất cao, mơi trường khí hậu biến đổi và diễn biến phức tạp đe
dọa tính mạng, tài sản và sự phát triển bền vững của đất nước. Thực tế đã cho thấy
nếu chỉ bảo vệ rừng bằng các biện pháp truyền thống như dùng hệ thống pháp luật,
các chương trình, dự án… thì hiệu quả của việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng
hầu như không cao. Do vậy, một trong các biện pháp quan trọng hiện nay đang
được cả cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia đặc biệt quan tâm là cần phải
thiết lập quản lý rừng bền vững (QLRBV) và chứng chỉ rừng (CCR) trong bảo vệ,
duy trì và phát triển rừng.
Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề QLRBV, nhưng tựu chung đều có ý
nghĩa như sau: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý rừng để đạt được một
hay nhiều mục tiêu cụ thể đồng thời xem xét đến việc phát triển sản xuất dịch vụ và
sản phẩm lâm nghiệp, đồng thời không làm giảm giá trị hiện có và ảnh hưởng đến
năng suất sau này, cũng như không gây ra các tác động xấu đến môi trường tự
nhiên và xã hội”.[1]



2

QLRBV phải đạt được sự bền vững trên cả ba phương diện kinh tế, xã hội và
môi trường. Đối với mỗi quốc gia, đó là nhận thức về các giải pháp bảo vệ mà vẫn
sử dụng tối đa các lợi ích từ rừng. Đối với chủ rừng đó cịn là nhận thức về quyền
xuất khẩu lâm sản của mình vào mọi thị trường quốc tế với giá bán cao. CCR chính
là sự xác nhận bằng văn bản cho chủ rừng đáp ứng được các tiêu chuẩn và tiêu chí
QLRBV. CCR hỗ trợ rất nhiều cho vấn đề quản lý rừng bền vững và đảm bảo rằng
tất cả các hoạt động lâm nghiệp cần được thực hiện dưới sự đồng thuận của các
nhóm dâm tộc hoặc cộng đồng địa phương. Chứng chỉ do Hội đồng quản trị rừng
thế giới (FSC) cấp là một trong những CCR rất được quan tâm hiện nay.
FSC chứng nhận quản lý rừng cho chủ rừng chủ yếu qua Bộ tiêu chuẩn
QLRBV gồm 10 nguyên tắc và 56 tiêu chí. QLRBV địi hỏi chủ rừng phải lập kế
hoạch quản lý rừng (KHQLR) chi tiết, rõ ràng và giám sát chặt chẽ các hoạt động
lâm nghiệp. Tất cả các hoạt động từ xây dựng, phát triển rừng đều tuân theo kế
hoạch đã được lập đặc biệt là kế hoạch khai thác.
Người tiêu dùng thể hiện thái độ tích cực với rừng thông qua việc sử dụng các
sản phẩm từ gỗ có CCR và tẩy chay các mặt hàng khơng có nguồn gốc xuất xứ. Q
trình sản xuất các sản phẩm trên từ khâu khai thác đến sản phẩm và tiêu thụ cần trải
qua nhiều bước bao gồm khai thác, chế biến, phân phối và tiêu thụ được gọi là
chuỗi hành trình sản phẩm (Chain of Custody-CoC). Bằng cách kiểm định từng
bước trong quá trình này, chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm đảm bảo với khách
hàng rằng các sản phẩm đã được chứng chỉ mà họ mua thực sự có nguồn gốc từ khu
rừng đã được chứng chỉ. Sản phẩm của các công ty đã được chứng chỉ chuỗi hành
trình sản phẩm được mang nhãn FSC.
Trên thế giới, nhiều nước đã khá thành công trong việc cấp CCR, hiện nay có
hơn 8.000 sản phẩm có mang biểu trưng của chứng chỉ rừng FSC. Tuy nhiên, đại đa
số các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức được thấu đáo giá trị của
QLRBV và CCR. Tính tới tháng 5/2010, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ

mới chỉ được cấp gần 205 chứng chỉ CoC, nhưng chỉ có Cơng ty TNHH rừng trồng
Quy Nhơn đạt được chứng chỉ FSC về QLRBV. Phần lớn các hoạt động sản xuất


3

kinh doanh của các đơn vị kinh doanh lâm nghiệp vẫn chưa đạt được các tiêu chuẩn
tối thiểu theo quy định để được FSC cấp chứng chỉ. Bên cạnh đó các đơn vị chưa
nhận được một hướng dẫn cụ thể về việc tiến hành đánh giá các tiêu chuẩn QLR và
tiêu chuẩn CoC.
Công ty lâm nghiệp Bến Hải là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực lâm nghiệp, do nhìn nhận được yêu cầu cấp thiết của việc quản lý rừng
theo hướng tiên tiến cũng như hoạt động đánh giá quản lý rừng và chuỗi hành trình
sản phẩm tiến tới CCR, công ty đang cần được đánh giá để xác định được những
tiêu chuẩn chưa đạt, điều chỉnh hoạt động để đáp ứng các tiêu chuẩn và tiêu chí
QLRBV. Để góp phần giải quyết những tồn tại trên và đưa ra định hướng hoạt động
cho công ty lâm nghiệp Bến Hải tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá quản lý
rừng, chuỗi hành trình sản phẩm và lập kế hoạch quản lý tiến tới chứng chỉ
rừng tại Công ty lâm nghiệp Bến Hải, tỉnh Quảng Trị”.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung về phát triển bền vững và quản lý rừng bền vững trên
thế giới
1.1.1. Phát triển bền vững
Đầu thập niên 80, thuật ngữ “phát triển bền vững” lần đầu tiên được sử dụng
trong chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên

thiên nhiên quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và Chương trình mơi trường
Liên hiệp quốc đề xuất, cùng sự trợ giúp của UNESCO và FAO với nội dung rất
đơn giản "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế
mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái học".[26]
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland
(còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế
giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững
là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng,
tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..."[27]. Nói
cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã
hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các
thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau
thực hiện nhằm mục đích dung hịa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.
Phát triển kinh tế (quan trọng nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (quan
trọng nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo và giải quyết
việc làm) và bảo vệ môi trường (quan trọng nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục
hồi cải thiện chất lượng mơi trường, phịng chống cháy rừng và chặt phá rừng, khai
thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
Khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó khơng chỉ dừng lại ở
nhân tố sinh thái mà còn đi vào các nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình


5

đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm chí nó cịn bao hàm
sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn
tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững.
1.1.2. Quản lý rừng bền vững và các tổ chức quản lý rừng bền vững
Nỗ lực đầu tiên trong quản lý rừng bền vững được thực hiện là thành lập hệ

thống rừng trang trại tại Hoa Kỳ (ATFS) năm 1941, là một chương trình của Trung
tâm rừng hộ gia đình của Tổ chức Lâm nghiệp Hoa Kỳ, được cam kết duy trì các
khu rừng, khu vực đầu nguồn và nơi cư trú phù hợp thông qua năng lực của đơn vị
quản lý tư nhân. ATFS đã xây dựng các hướng dẫn và các tiêu chuẩn cho các chủ sở
hữu để đáp ứng nhu cầu trở thành trang trại có rừng được chứng nhận. Theo các tiêu
chuẩn và hướng dẫn này, các chủ sở hữu tư nhân phải xây dựng kế hoạch quản lý
dựa trên các tiêu chuẩn môi trường chặt chẽ và phải thông qua xét duyệt của cán bộ
lâm nghiệp tình nguyện của ATFS năm năm một lần. ATFS đã công nhận 24 triệu
mẫu Anh đất rừng thuộc sở hữu tư nhân và 90473 chủ sở hữu rừng từ nhân, những
người cam kết quản lý tốt rừng của mình, tại 46 bang. [5]
Tiếp đó là Hội đồng Quản trị rừng (FSC) được thành lập năm 1993, bởi một
nhóm gồm 130 thành viên khác nhau từ 25 quốc gia, bao gồm đại diện của các cơ
quan môi trường, các thương gia, các cộng đồng dân bản xứ, ngành công nghiệp và
các cơ quan cấp chứng chỉ. Nhiệm vụ của FSC là thúc đẩy việc quản lý rừng trên
thế giới một cách hợp lý về mặt mơi trường, có ích về mặt xã hội và có thể thực
hiện được về mặt kinh tế. FSC đã đẩy mạnh việc áp dụng những Nguyên tắc và
Tiêu chí về Quản lý rừng đối với tất cả các loại rừng trên Thế giới thơng qua một
chương trình ủy nhiệm tình nguyện cho các cơ quan cấp chứng chỉ. Cùng với sự ra
đời của FSC, một loạt các tổ chức khác cũng được thành lập: PAN-EUROPEAN
cho rừng tự nhiên toàn châu Âu (Helsinki); CIFOR (Trung tâm nghiên cứu lâm
nghiệp quốc tế) cho rừng tự nhiên nói chung; ITTO (tổ chức quốc tế về gỗ nhiệt
đới) cho rừng tự nhiên nhiệt đới... Cộng đồng quốc tế đã tổ chức nhiều hội nghị, đề
xuất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng: Chiến lược bảo tồn quốc
tế (1980); Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (UNCED,


6

Riodejaneiro, 1992); Công ước buôn bán động thực vật quý hiếm (CITES); Công
ước đa dạng sinh học (CBD)... Nhiều định nghĩa QLRBV được đưa ra, tuy nhiên

hai định nghĩa phổ biến và được công nhận rộng rãi nhất là của ITTO và trong tiến
trình Hensinki.
Theo ITTO: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những lâm phần ổn
định nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu quản lý đề ra một cách rõ ràng như
đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong muốn mà không
làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng và không
gây ra những tác động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội”
Theo tiến trình Hensinki: “Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất
rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất,
khả năng tái sinh, sức sống của rừng trong quá trình thực hiện và trong tương lai,
các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, cấp quốc gia
và tồn cầu và khơng gây ra những tác hại đối với hệ sinh thái khác”.
Các định nghĩa trên đều tập trung vào các vấn đề chính là: quản lý rừng ổn
định bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra, bảo đảm bền vững
về kinh tế, môi trường và xã hội. Các yếu tố của QLRBV là: (i) Có khn khổ chính
sách và pháp lý; (ii) Sản xuất lâm sản bền vững; (iii) Bảo vệ được mơi trường; (iv)
Đảm bảo lợi ích con người; (v) Đối với rừng trồng, có các cân nhắc áp dụng cụ thể
phù hợp.[7]
Trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc gia (Canada,
Malaysia, Indonexia...) và cấp quốc tế của tiến trình Helsinki, tiến trình Montreal.
FSC và ITTO đã có bộ tiêu chuẩn của quản lý rừng được vận dụng rất rộng rãi để
đánh giá quản lý rừng ở nhiều nước.
Tuy nhiên, theo bản báo cáo của ITTO đã thừa nhận FSC “Gần như là chương
trình duy nhất về gắn nhãn hiệu và ủy quyền đối với lâm phần trên toàn thế giới”.
Số lượng ít ỏi các cơ quan được cấp chứng chỉ rừng do FSC ủy quyền trước đây đã
là một hạn chế trong việc phát triển vấn đề cấp chứng chỉ gỗ, và ngày nay đã được
FSC khắc phục hiệu quả bằng việc gia tăng ủy quyền cho các tổ chức cấp chứng chỉ


7


rừng [4]. Hiện nay có 18 tổ chức độc lập được FSC ủy quyền cấp chứng chỉ FSC,
thời hạn chứng chỉ mỗi lần cấp có hiệu lực 5 năm và luôn kiểm tra chất lượng. Tiêu
chuẩn quản lý rừng bền vững của FSC có 10 ngun tắc, 56 tiêu chí. Các tiêu chí
vẫn ln được xem xét, cân nhắc để chỉnh sửa thông qua đề đạt của các thành viên
FSC và lấy biểu quyết trong các kỳ đại hội.[9]
Hội đồng PEFC (Chương trình chứng nhận các tổ chức chứng chỉ rừng) là một
tổ chức độc lập, phi lợi nhuận, phi chính phủ, được thành lập năm 1999, hoạt động
thúc đẩy quản lý rừng bền vững thông qua việc chứng nhận độc lập bởi bên thứ ba.
PEFC đưa ra cơ chế đảm bảo với những người thu mua sản phẩm gỗ và giấy rằng
họ đang xúc tiến công tác quản lý rừng bền vững. PEFC là chương trình quy mơ
tồn cầu về đánh giá và công nhận lẫn nhau của các tổ chức chứng chỉ rừng quốc
gia đã được phát triển trong q trình có các bên tham gia.[5]
1.1.3. Chứng chỉ rừng và chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm
Vấn đề cấp chứng chỉ rừng là một biện pháp để đảm bảo quản lý rừng bền
vững và hợp lý về mặt mơi trường tuy nhiên nó cũng khơng thể thay thế hồn tồn
cho các cơng cụ khác như pháp luật, giáo dục và tuyên truyền. Chứng chỉ rừng tác
động vào đơn vị quản lý rừng, do đó khơng ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch sử
dụng đất và chính sách quốc gia. Việc sử dụng các công cụ kinh tế để bảo vệ môi
trường được các chuyên gia kinh tế và các tổ chức như Tổ chức Hợp tác Phát triển
Kinh tế (OECD) và Ngân hàng Thế giới khuyến khích trong hai thập kỷ vừa qua.
Chứng chỉ rừng đảm bảo rằng tất cả các hoạt động lâm nghiệp cần được thực
hiện với sự đồng thuận của các nhóm dân tộc hoặc cộng đồng địa phương. Về kinh
tế, chủ rừng cần phải cố gắng đạt được việc sử dụng tối ưu và chế biến tại chỗ các
sản phẩm đa dạng của rừng, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường nơi
khai thác và chế biến. Sản phẩm khi có dấu chứng nhận hợp chuẩn chứng chỉ rừng
sẽ được cộng đồng tiêu thụ đánh giá tốt hơn, chấp nhận mua với giá cao hơn.
Chứng chỉ rừng không chỉ làm thay đổi giá trị của hàng hóa mà trong nhiều trường
hợp nó còn làm thay đổi thái độ của doanh nghiệp với rừng nói riêng và mơi
trường nói chung.



8

Chứng chỉ rừng hỗ trợ rất nhiều cho vấn đề quản lý rừng bền vững. Ví dụ, khi
chứng nhận nguyên liệu gỗ hợp chuẩn người ta sẽ lưu ý đến việc khai thác gỗ có
làm ảnh hưởng xấu đến các phương thức sử dụng rừng truyền thống như thu lượm
hoa, quả, củi, vật liệu xây dựng hoặc cây thuốc của những người dân sống trong
vùng đó khơng, đặc biệt là những nhóm người dân tộc thiểu số. Chứng chỉ rừng
khơng chỉ đem lợi ích đến cho doanh nghiệp chế biến lâm sản mà cả những đơn vị
trồng rừng cũng được hưởng nhiều lợi ích khi có được chứng nhận này [6].
Tính đến năm 2008 đã có 940 chứng chỉ rừng từ 81 quốc gia với hơn 102 triệu
ha rừng [nguồn WWF]. Tuy nhiên diện tích rừng đạt chứng chỉ FSC chủ yếu là ở
Châu Âu và Bắc Mỹ và đang có xu thế mở rộng ở Châu Á, Châu Phi và Châu Úc.
Hội đồng chứng nhận gỗ Malaysia (MTCS), sử dụng phương pháp theo từng
giai đoạn khi ngày càng nhiều thách thức lớn trong quản lý các khu rừng nhiệt đới
phức tạp. Ban đầu, tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá các đơn vị quản lý rừng
cho các mục tiêu chứng chỉ, các tiêu chí, các hoạt động và các tiêu chuẩn phục vụ
cho chứng chỉ quản lý rừng, dựa theo tiêu chuẩn của ITTO năm 1998 và những tiêu
chí của quản lý rừng bền vững. Cuối năm 2005 MTCS sử dụng tiêu chuẩn của
Malaysia và các tiêu chí cho chứng chỉ quản lý rừng bao gồm 9 quy tắc, 47 tiêu
chuẩn và 6 tiêu chí. MTCS có 10 thành viên, chỉ hoạt động trong phạm vi lãnh thổ
Malaysia với diện tích rừng được chứng nhận là 4,8 triệu ha[5].
Tổ chức Lembaga Ekolanbel Indonesia (LEI) được thành lập năm 1994 là một
tổ chức khơng được chính thức cơng nhận bởi FSC vì LEI khơng phải là cơ quan
cấp chứng chỉ, song LEI là một cơ quan thừa nhận một cách chính thức các cơ quan
cấp chứng chỉ ở Indonesia. Hiện nay đơn vị này đã cung cấp 5 chứng chỉ đối với
885.000 ha rừng tự nhiên và 1 chứng chỉ đối với 159.000 ha rừng trồng.[5]
FSC là tổ chức uy tín nhất và chứng chỉ FSC được mọi thị trường chấp nhận,
kể các Bắc Mỹ, và Tây Âu[9]. FSC được thành lập vào tháng 10/1993 tại Toronto –

Canada bởi một nhóm gồm 130 thành viên khác nhau từ 26 quốc gia, bao gồm đại
diện của các cơ quan môi trường, các thương gia, các cộng đồng dân bản xứ, đại
diện các ngành công nghiệp và các cơ quan cấp chứng chỉ[5]. FSC cấp chứng chỉ


9

QLRBV cho rừng ôn đới, nhiệt đới, rừng tự nhiên, rừng trồng và đang mở rộng ra
rừng sản xuất lâm sản ngồi gỗ[9]. Tổ chức này có trụ sở chính đặt tại thành phố
Bonn – Đức có cấu trúc quản trị duy nhất dựa trên các nguyên tắc sự tham gia, dân
chủ, công bằng. Năm 1994 các nguyên tắc và tiêu chí FSC cùng với Quy định FSC
(hiện tại gọi là Quy chế) đã được các thành viên sáng lập phê duyệt[5].
FSC có đại diện tại hơn 50 quốc gia. Thành viên FSC được chia thành nhóm
xã hội, nhóm mơi trường và nhóm kinh tế, mỗi nhóm lại được chia ra thành nhóm
Bắc (các nước cơng nghiệp) và nhóm Nam (các nước đang phát triển). Bất kỳ ai hỗ
trợ cải thiện quản lý rừng trên thế giới đều có thể trở thành thành viên của FSC.
FSC ủy quyền cho 10 cơ quan trên thế giới cấp chứng chỉ có trụ sở tại Anh,
Mỹ, Hà Lan, Đức, Canada, Nam Phi, Thụy Sĩ. Tại Châu Á – Thái Bình Dương,
Cơng ty SmartWood/Rainforest Allliance và SGS Forestry thực hiện phần lớn việc
đánh giá và cấp CCR.
Các lợi ích FSC mang đến:
- Lợi ích về môi trường: Đảm bảo cho tất cả mọi người tham gia vào thương
mại lâm sản rằng các đóng góp của họ sẽ giúp đỡ việc bảo tồn hơn là hủy diệt
rừng, con người và cuộc sống thông qua các hoạt động: (1) Bảo tồn đa dạng sinh
học và các giá trị khác như nước, đất.....; (2) Duy trì các chức năng sinh thái và thể
thống nhất của rừng; (3) Bảo vệ các loại động, thực vật quý hiếm và mơi trường
sống của chúng.
- Lợi ích về xã hội: Đảm bảo quyền con người được tơn trọng. Nhiệm vụ chính
là yêu cầu có sự tham gia của nhiều thành phần có liên quan khi xây dựng bộ tiêu
chuẩn quốc gia hay khu vực.

- Lợi ích về kinh tế: Đó là chủ rừng cần phải cố gắng đạt được cách sử dụng
tối ưu và chế biến tại chỗ các sản phẩm đa dạng của rừng, giảm thiểu các tác động
tiêu cực đến môi trường nơi khai thác và chế biến.
FSC xây dựng 10 nguyên tắc cho QLRBV. Từ các tiêu chuẩn đó, các quốc gia,
khu vực tham gia vào tiến trình QLRBV và CCR sẽ xây dựng các bộ tiêu chuẩn
quốc gia riêng để đánh giá và phù hợp với các điều kiện cụ thể của mình. Các bộ


10

tiêu chuẩn này cần phải được sự phê chuẩn của FSC trước khi được sử dụng để
đánh giá cấp chứng chỉ tại quốc gia hoặc khu vực đó.
CCR là chứng nhận theo dõi sản phẩm gỗ từ khi còn là ngun liệu thơ đến
khi trở thành sản phẩm. Nó đảm bảo với người tiêu dùng và tất cả những ai quan
tâm đến bảo vệ rừng và môi trường rằng sản phẩm gỗ có chứng chỉ được sản xuất
trên cơ sở rừng được tái tạo lâu dài khơng giảm tính đa dạng sinh học rừng và
không làm ảnh hưởng đến môi trường. CCR được áp dụng cho tất cả các đơn vị
quản lý rừng với các quy mô lớn nhỏ bất kể là sở hữu nhà nước hay tư nhân. Đây là
một q trình hồn tồn tự nguyện của các chủ rừng. Tuy nhiên, đánh giá cấp CCR
chỉ được áp dụng cho các đơn vị đang quản lý rừng sản xuất và đang hoạt động
quản lý kinh doanh. Để được cấp CCR của FSC, chủ rừng phải chứng minh họ đã
đáp ứng tất cả các quy tắc, tiêu chuẩn trên. Thực chất CCR chính là chứng chỉ chất
lượng ISO, là hiệu quả cuối cùng của QLRBV, được FSC đề cập như là một “công
cụ hữu hiệu, giúp cải thiện quản lý rừng của thế giới” và “là cơng cụ chính sách
mạnh mẽ nhất” trong quản lý rừng. Khi được cấp CCR, chủ rừng sẽ được: xuất
khẩu lâm sản vào mọi thị trường khắt khe trên thế giới kể cả Tây Âu và Bắc Mỹ với
giá bán cao hơn; rừng cùng với mơi trường sinh thái và xã hội có liên quan đến rừng
sẽ được giữ gìn, bảo vệ và phát triển tốt hơn. Bên cạnh đó, các đánh giá định kỳ của
cơ quan cấp chứng chỉ sẽ giúp chủ rừng tìm ra các điểm mạnh, yếu trong hoạt động
kinh doanh của mình.

CCR của FSC giúp bảo vệ thương hiệu và uy tín của chủ rừng với đối tác kinh
doanh, các tổ chức tài chính và các tổ chức cơ quan giám sát. Các tiêu chuẩn FSC
hợp lệ trên toàn thế giới, là tiêu chuẩn duy nhất khơng có rào cản đối với tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).
FSC có hệ thống chứng nhận duy nhất được hỗ trợ bởi tất cả các nhóm mơi
trường. Các nước Mỹ, Úc chỉ chấp nhận CCR của FSC bởi chỉ có FSC quy định:
1) Cấm chuyển đổi rừng tự nhiên hoặc môi trường sống khác
2) Nghiêm cấm việc sử dụng thuốc trừ sâu rất độc hại trên toàn thế giới
3) Nghiêm cấm việc trồng cây biến đổi gen


11

4) Tôn trọng quyền của người dân bản địa trên khắp thế giới
5) Kiểm soát từng hoạt động chứng nhận ít nhất một năm một lần - và nếu bị
được phát hiện là khơng phù hợp thì giấy chứng nhận bị thu hồi.
FSC cấp 02 loại chứng chỉ dưới đây:
- Chứng chỉ quản lý rừng FSC/FM (FSC forest management certification)
- Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm FSC/CoC (FSC chain of custody
certification )
Trong quá trình đánh giá cấp chứng chỉ sẽ có hoạt động kiểm sốt gỗ (FSC
Controlled Wood)
Hiện nay có 18 tổ chức độc lập được FSC ủy quyền cấp chứng chỉ FSC, thời
hạn chứng chỉ mỗi lần cấp có hiệu lực 5 năm và ln kiểm tra chất lượng.
Đến tháng 3/2010 hơn 125 triệu ha rừng của hơn 80 quốc gia được chứng nhận
đạt các tiêu chuẩn của FSC, với gần 16.000 chứng chỉ CoC. Canada đang dẫn đầu
thế giới với hơn 23 triệu ha rừng có chứng chỉ, sau đó đến Nga hơn 21 triệu ha
rừng. Ước tính giá trị của sản phẩm dán nhãn FSC đạt trên 20 tỷ USD (2008) [32].
Diện tích rừng được FSC cấp chứng chỉ chủ yếu tại Châu Âu (47%), Bắc Mỹ
(35%), sau đó là Nam Mỹ (11%), trong đó Châu Á, Châu Phi và Châu Đại Dương

tổng chỉ được 7%. Tuy nhiên trong tương lai, Châu Á, Châu Phi và Châu Đại
Dương sẽ là khu vực rộng lớn đề FSC đánh giá cấp CCR. [5]
1.1.4. Chứng chỉ quản lý rừng FSC/FM
Quá trình đánh giá để cấp chứng chỉ FSC được thực hiện bởi tổ chức độc lập
gọi là cơ quan đánh giá quản lý rừng. Tổ chức này đánh giá quản lý rừng đối với
các nguyên tắc và tiêu chuẩn FSC cũng như các tiêu chuẩn quốc gia. Do FSC không
đánh giá cấp chứng chỉ nên điều này cho phép FSC vẫn độc lập với quá trình đánh
giá và hỗ trợ tính tồn vẹn của hệ thống chứng nhận FSC.
Các Nguyên tắc của FSC:
Nguyên tắc 1: Phù hợp với tất cả điều luật và công ước quốc tế
Nguyên tắc 2: Quyền và trách nhiệm sử dụng đất
Nguyên tắc 3: Quyền người dân sở tại


12

Nguyên tắc 4: Quan hệ công đồng và quyền của cơng nhân.
Ngun tắc 5: Những lợi ích từ rừng
Ngun tắc 6: Tác động môi trường
Nguyên tắc 7: Kế hoạch quản lý
Nguyên tắc 8: Giám sát và đánh giá
Nguyên tắc 9: Duy trì những rừng có giá trị bảo tồn cao
Ngun tắc 10: Rừng trồng
Các nguyên tắc về xã hội: nguyên tắc 2, 3, 4, 5
Các nguyên tắc về môi trường: nguyên tắc 6, 7, 9
Các nguyên tắc về tuân thủ luật pháp: nguyên tắc 1 và 2
Các quá trình giám sát và quản lý là nguyên tắc 8, nguyên tắc này cũng liên
quan đến chuỗi hành trình sản phẩm.
Các khu rừng trồng: nguyên tắc 10
Các nguyên tắc liên quan đến kinh tế: tiêu chí và chỉ số của nguyên tắc được

thể hiện rõ ở hai nội dung đầu nhưng nguyên tắc kinh tế của nó lại khơng được thể
hiện rõ: giá chuyển đổi, giá cố định, hoạt động xã hội và mơi trường có thể bị ảnh
hưởng bởi giá chuyển đổi trong ngành. Các nguyên tắc có liên quan: 5, 7 và 8.
Nếu chủ rừng tuân thủ đầy đủ các yêu cầu FSC, FSC sẽ trao chứng chỉ.
Nếu chủ rừng cịn thiếu một số điều kiện, chủ rừng phải hồn thành chúng
trong một thời gian cụ thể trước khi nhận chứng chỉ.
FM cũng được cấp cho rừng trồng thể hiện ở tiêu chuẩn 10.
Để thương mại lâm sản với logo FSC và yêu cầu bồi thường, người quản lý
rừng phải có chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm. Nó đảm bảo rằng sản phẩm có
nguồn gốc từ một khu rừng đã được cấp chứng chỉ cho người tiêu dùng.
* Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm FSC/CoC.
Với bất kỳ một chương trình cấp CCR nào việc xem xét mối liên hệ của một
sản phẩm gỗ từ một khu rừng được cấp chứng chỉ đến khi được chế biến thành sản
phẩm cuối cùng và được đem tiêu thụ tại thị trường là một việc rất cần thiết vì nó


13

cung cấp các cơ sở cho việc dán nhãn sản phẩm. Khái niệm này được gọi là chuỗi
hành trình sản phẩm (Chain of Custody) - CoC.
Theo quy định của đánh giá CoC thì việc kiểm sốt nguồn gốc gỗ phải thông
suốt liên kết nhau thành một chuỗi thành các công đoạn cơ bản: từ rừng, đến vận
chuyển gỗ về nhà máy, cưa xẻ, sấy, lắp ráp, lưu kho và phân phối. Hệ thống CoC sẽ
hỗ trợ đơn vị kinh doanh lâm nghiệp:
- Bảo đảm về các sản phẩm gỗ bán ra và nguồn gốc của gỗ.
- Cải thiện các hệ thống tài liệu nội bộ của đơn vị và giúp đơn vị chuẩn bị để
đạt được chứng chỉ ISO hoặc chứng nhận khác.
- Nếu là Công ty chế biến gỗ, hệ thống CoC có thể giúp cải thiện hiệu quả sản
xuất của nhà máy và giúp cho việc sử dụng số vốn đầu tư vào gỗ nguyên liệu hiệu
quả hơn.

- Đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng về hệ thống CoC
- Hệ thống CoC đã hoặc sẽ là yêu cầu bắt buộc đối với các sản phẩm gỗ xuất
khẩu sang Châu Âu, Anh và các quốc gia khác.
- Hệ thống CoC là yêu cầu cần thiết đối với việc dán nhãn và bán sản phẩm
làm từ gỗ được chứng chỉ.
Có thể nói chứng chỉ CoC được coi là công cụ chủ yếu đấu tranh với việc khai
thác gỗ bất hợp pháp và buôn bán gỗ lậu.
Các tiêu chuẩn FSC áp dụng chứng nhận FSC-CoC hiện đang áp dụng:


Tiêu chuẩn: FSC-STD-40-004 (Ver. 02) - Tiêu chuẩn chuỗi hành trình sản

phẩm đối với các Công ty cung cấp và chế biến sản phẩm có chứng nhận FSC.


Tiêu chuẩn: FSC-STD-40-005 (Ver. 02) - Tiêu chuẩn FSC dành cho các

Công ty đánh giá nguồn gỗ có kiểm sốt FSC.


Tiêu chuẩn: FSC-STD-30-010 (Ver. 02) - Tiêu chuẩn gỗ có kiểm sốt FSC

dành cho các tổ chức quản lý rừng.


Tiêu chuẩn: FSC-STD-40-201(Ver. 02) - Các yêu cầu dán nhãn FSC trên sản phẩm.

Liên minh Châu Âu EU gần đây giới thiệu 1 hệ thống giấy phép là một phần
của công tác tăng cường hiệu lực luật rừng. Dây chuyền cung cấp sản phẩm gỗ từ



14

rừng thông qua việc vận chuyển, lưu kho và chế biến được công khai và kiểm tra tới
tận biên giới của EU. Còn với các nước nhiệt đới, hệ thống theo dõi hành trình dựa
trên giấy tờ thơng thường với các nhãn vật lý trên sản phầm gỗ, gần đây các hệ
thống thuận lợi hơn đã được phát triển chứng tỏ tính hiệu quả và đáng tin cậy của
dây chuyền cung cấp.
Một hệ thống CoC được cấp chứng chỉ của FSC phải đáp ứng 5 yêu cầu:
1) Yêu cầu về hệ thống chất lượng
2) Yêu cầu về nguồn cung cấp nguyên liệu
3) Yêu cầu về kiểm tra sản xuất nội bộ; và ghi chép tư liệu
4) Yêu cầu về sản phẩm và dán nhãn sản phẩm
5) Yêu cầu về lưu trữ tài liệu thơng tin.
Trên thị trường có một số hình thức CoC, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu
mà doanh nghiệp sở hữu (mua vào và xuất ra). Hình thức CoC được lựa chọn sẽ
quyết định việc xây dựng và thực hiện hệ thống CoC cho doanh nghiệp đó. Quy
trình FSC có hai hình thức chính là:
- Doanh nghiệp sử dụng 100 % nguyên liệu có đã được chứng chỉ.
- Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có sử dụng một tỷ lệ % nguyên liệu chưa
có chứng chỉ FSC trộn lẫn với nguyên liệu đã có chứng chỉ.
Tuy nhiên, cho dù đơn vị sản xuất 100% gỗ đã được chứng chỉ và sản xuất
riêng gỗ chưa có chứng chỉ thì việc xác nhận và truy tìm nguồn gốc (identification
and traceability) vẫn phải bắt buộc được thực hiện.
Ở Brazil hệ thống kiểm tra của Chính phủ sử dụng để thầm tra tính hợp pháp
và nguồn gốc gỗ, sản phẩm gỗ dựa 2 văn bản chính thức và bắt buộc sau:
+ Giấy phép của Cơ quan khai thác (AUTEX): Văn bản này xác định thể tích
gỗ trịn, theo loại cây mà một doanh nghiệp khai thác gỗ được phép lấy ra từ 1 đơn
vị sản xuất. [32]
+ Giấy phép của cơ quan vận chuyển lâm sản (ATPF): ATPF được phát hành

từng kỳ có đánh số để cấp cho việc vận chuyển gỗ và sản phẩm gỗ. Mỗi chuyến


15

hàng phải được kèm theo 1 ATPF, được áp dụng cho gỗ sơ chế được vận chuyển tới
nơi tinh chế hoặc tới người tiêu thụ cuối cùng.
Ở Cameroon việc kiểm tra trước khi khai thác là nền tảng thành lập hệ thống
chuỗi hành trình của Chính phủ. Cơng ty khai thác hoàn thành bản đăng ký khai
thác DF10 nêu tên Công ty, đơn vị quản lý rừng và dữ liệu về gỗ riêng lẻ như loại
cây, đường kính (ngọn, gốc, trung bình), chiều dài, thể tích và giá trị.
Ở Malaysia: Tất cả các rừng bảo tồn ở Peninsular Malaysia và một vài khu
rừng trồng ở Sabah và Sarawak đã được cấp chứng chỉ, chủ yếu bởi Hội đồng
chứng chỉ gỗ Malaysia. Với các khu vực được chứng chỉ, rất dễ theo dõi gỗ tròn tới
tận gốc đốn, ở các rừng khác, gỗ trịn có thể được theo dõi tới vùng được chứng chỉ,
tại đó gỗ đã được khai thác.
Các vùng được cấp chứng chỉ để khai thác đều được phân ranh giới rõ ràng
trên mặt đất (để tránh khai thác vượt phạm vi) và đã tiến hành kiểm tra để xác định
trữ lượng và sự phân bố loài cây. Cây bị đổ và để lại được đánh dấu và gắn thẻ để
cung cấp các phương thức khác kiểm tra đầu ra. Ở vùng được cấp chứng chỉ, gốc
cây được đánh số vì vậy gỗ trịn có thể theo dõi đến tận gốc.
Hiện nay, ITTO đang tiếp tục hỗ trợ các nước sản xuất tìm kiếm các phương
pháp cải tiến phù hợp luật pháp. Các Cơng ty gỗ được khuyến khích giới thiệu các
hệ thống kiểm tra chuỗi hành trình của riêng mình, nhưng điều này cịn địi hỏi
chính phủ thiết lập hoặc cải tiến cơ cấu kiểm tra và giám sát.
Tóm lại, nhờ sáng kiến của những người sử dụng và kinh doanh gỗ về việc chỉ
buôn bán, tiêu thụ và sử dụng các loại gỗ có nguồn gốc từ những khu rừng đã được
quản lý bền vững, hàng loạt các tổ chức Quản lý rừng bền vững đã ra đời và có các
phạm vi hoạt động khác nhau trên thế giới và đề xuất các tiêu chuẩn quản lý rừng
với các tiêu chí khác nhau, song mọi tiêu chuẩn đều được đề xuất địi hỏi tính bền

vững của 3 lĩnh vực: Kinh tế, Xã hội, Mơi trường. Trong đó, FSC là tổ chức được
đánh giá là có uy tín nhất và chứng chỉ FSC được mọi thị trường chấp nhận. Ngoài
ra, QLRBV đã trở thành cao trào, được hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến và
hàng loạt quốc gia đang phát triển có rừng tự nguyện tham gia. Trong khi phần lớn


16

diện tích rừng được cấp ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Nam Mỹ thì CCR ở khu vực Nam
Mỹ, Châu Á – Thái Bình Dương và Châu Phi tiến rất chậm. Trình độ quản lý rừng
thấp, nguồn lực cải thiện quản lý, thêm đó là chi phí cho CCR khá cao là một trong
những hạn chế để các chủ rừng ở các lục địa này tiến tới cấp chứng chỉ.
1.2. Phát triển bền vững và Quản lý rừng bền vững tại Việt Nam
1.2.1. Nhận thức về phát triển bền vững và QLRBV
Khái niệm “bền vững” được thế giới sử dụng từ những năm đầu thế kỷ 18 là
tiền đề cho QLRBV sau này, thì đến mãi cuối thế kỷ 20 Việt Nam mới dùng khái
niệm “điều chế rừng” để quản lý, kinh doanh lâm nghiệp. Đến nay, khái niệm này
vẫn được coi là công cụ truyền thống để quản lý rừng theo phương án điều chế thực
hiện theo những quy định trong Quyết định 40/2005/QĐ-BNN ngày 7/7/2005 của
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về Quy chế khai thác gỗ và lâm sản
khác.[14]
Tháng 2/1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng 3 tổ chức quốc tế
phát động 1 phong trào QLRBV và CCR rộng rãi trong cả nước, thông qua hội thảo
quốc gia ngày 10-12/02/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ Cơng tác Quốc gia về
chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) đã được thành lập gồm 12 thành viên thực hiện
chương trình hành động, đồng thời xây dựng tổ chức để hoạt động lâu dài trong hệ
thống thành viên của FSC nhằm thúc đẩy tiến trình QLRBV và CCR tại Việt Nam.
Ban đầu NWG trực thuộc Cục lâm nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông
thôn. Từ năm 2001, theo quy chế của FSC, NWG trở thành một tổ chức độc lập, phi
chính phủ, phi lợi nhuận thuộc Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (nay là Viện Quản

lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng).
Các hoạt động chủ yếu của NWG là:
- Dựa trên cơ sở 10 nguyên tắc và 56 tiêu chí của FSC, hoàn thành dự thảo tiêu
chuẩn quốc gia với 160 chỉ số phản ánh các đặc thù của Việt Nam, song vẫn đảm
bảo các tiêu chuẩn chất lượng của FSC. Đây là dự thảo lần 9 đã lấy ý kiến nhiều chủ
rừng, các cơ quan tổ chức liên quan, đã 2 lần mời chuyên gia FSC sang dự hội thảo
góp ý. Đang chờ ý kiến FSC thẩm định.


17

- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho chủ rừng, các bên liên quan
và cộng đồng dân cứ sống trong rừng, gần rừng.
- Nâng cao năng lực quản lý cho chủ rừng, năng lực hoạt động cho chuyên gia
Viện QLRBV và cán bộ lâm nghiệp.
- Đánh giá chất lượng quản lý rừng khu rừng.
- Tổ chức mạng lưới các mơ hình QLRBV tự nguyện.
Năm 2001, Chiến lược lâm nghiệp quốc gia (NFS) giai đoạn 2001-2010 đã xác
định quản lý và phát triển rừng theo hướng bền vững là hướng đi chủ chốt. Vào đầu
năm 2007, Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 đã được ban
hành, trong đó quy định theo hướng phát triển rừng quốc gia với năm chương trình
lớn. Một lần nữa QLRBV là một trong ba chương trình trọng điểm của chiến lược
với mục tiêu 30% (8,4 triệu ha) diện tích rừng trồng sản xuất đến năm 2020 được
cấp chứng chỉ.
Như vậy, các vấn đề về QLRBV là một yếu tố chủ chốt trong các chính sách,
chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam. Điều này được thể hiện trong các
văn bản pháp quy dưới đây:
+ Luật Đất đai, năm 2003 quy định: Việc sử dụng đất phải tôn trọng các
nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ mơi trường và khơng làm tổn hại
đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh. (Điều 11).

+ Luật Bảo vệ và phát triển rừng, năm 2004: Điều 9 đã quy định các hoạt
động để đảm bảo QLRBV: Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm bảo
PTBV về kinh tế, xã hội, mơi trường, quốc phịng, an ninh; phù hợp với chiến lược
phát triển KTXH, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch, kế hoạch bảo
vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế quản lý rừng do
Thủ tướng Chính phủ quy định.
+ Luật Bảo vệ mơi trường, năm 2005; trong Chương IV: Bảo tồn và sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 điều (từ Điều 28 đến Điều 34) đã đưa ra những
quy định liên quan tới QLRBV thuộc các lĩnh vực: điều tra, đánh giá, lập quy hoạch
sử dụng tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học; bảo vệ


18

và phát triển cảnh quan thiên nhiên; bảo vệ môi trường trong khảo sát, thăm dò,
khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch.
+ Quyết định số 18/2007/QĐ- TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính phủ
đã phê duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020, có một
Chương trình ưu tiên phát triển được đặt lên hàng đầu là “Chương trình quản lý và
phát triển rừng bền vững” với mục tiêu “đến năm 2020, thiết lập, quản lý, bảo vệ,
phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu hecta đất qui hoạch cho Lâm nghiệp...”.
Đây là một mục tiêu đầy tham vọng và để đạt được mục tiêu này cần thiết phải xác
lập được những định hướng mới trong phát triển nguồn lực trong QLRBV thơng
qua các chương trình đào tạo, hợp tác và nghiên cứu 5 chương trình trọng điểm của
Chiến lược là:
(1) Quản lý và phát triển rừng bền vững (QLRBV)
(2) Bảo vệ rừng, bảo tồn ĐDSH và phát triển dịch vụ môi trường.
(3) Chế biến thương mại lâm sản.
(4) Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm.
(5) Đổi mới thể chế chính sách, kế hoạch, giám sát ngành

1.2.2. Hoạt động QLRBV
- Tuyên truyền tập huấn đào tạo về QLRBV do NWG thực hiện với sự hỗ trợ
Quỹ rừng nhiệt đới (TFT), Dự án cải cách hành chính của GTZ, WWG Đơng
Dương tại các hội nghị, hội thảo quốc gia, vùng, tỉnh.
- Xây dựng kế hoạch chiến lược và các hoạt động QLRBV thể hiện trong
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2010.
- Xây dựng lộ trình thực hiện QLRBV theo hai giai đoạn 2006-2010 và sau
năm 2010.
- Xây dựng các điều kiện QLRBV và CCR với các hoạt động trong giai đoạn
2006-2010 gồm: tiếp tục dự án 661; rà soát và quy hoạch lại 3 loại rừng; quy hoạch
sử dụng đất vĩ mô.


19

Dựa trên thực tiễn, NWG tiến hành các khảo sát nhằm xem xét tính khả thi của
bộ tiêu chuẩn quốc gia đang dự thảo, đồng thời đánh giá trình độ quản lý của các
đơn vị. Hiện nay một số chương trình dự án về CCR đã và đang được thực hiện:
+ Dự án điều tra xây dựng kế hoạch QLRBV tại huyện Kon-Plong (Kontum)
2000- 2002 do JICA tài trợ.
+ Dự án hỗ trợ lâm trường Hà Nừng, Lâm trường Sơ pai (Gia Lai) do WWF
Đơng Dương tài trợ.
+ Chương trình lâm nghiệp của GTZ, hợp phần QLRBV đang hỗ trợ 5 lâm
trường quốc doanh quản lý rừng tự nhiên là Ma-Drak và Nam Nung (Đắc Lắk) đã
mở rộng ra 3 lâm trường khác tại Quảng Bình, Ninh Thuận, Yên Bái từ 2007-2009.
+ Kế hoạch hỗ trợ CCR và tiếp thị của TFT tại Việt Nam không công bố thành
một chương trình mà chỉ hỗ trợ từng phần và cho từng đơn vị quản lý rừng như tại
Lâm trường Trường Sơn (Long Đại, Quảng Bình), Cơng ty Lâm nghiệp và dịch vụ
Hương sơn (Hà Tĩnh), hành lang vùng đệm 2 VQG Kông Ka Kinh và Kông Cha
Răng.

+ Tổ chức QLRBV và CCR theo nhóm hộ gia đình thuộc dự án trồng rừng
WB3 tại 4 tỉnh miền Trung, từ năm 2008.
Đặc biệt đối với vùng trọng điểm 4 tỉnh Tây Nguyên, nơi còn khai thác nhiều
gỗ nhất từ rừng tự nhiên, cũng là nơi diện tích và chất lượng rừng bị suy giảm nhiều
nhất ở Việt nam, NWG, Cục Lâm nghiệp cùng WWF và Vụ chính sách đã có các
hội thảo để từng tỉnh tự đánh giá hiện trạng quản lý rừng của các lâm trường theo
các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn QLRBV (Buôn Ma Thuột 2001), và hội thảo xây
dựng chương trình cải cách tổ chức quản lý lâm trường theo Quyết định 187/TTg
của Thủ Tướng Chính phủ (Pleiku 2002) và chọn ra 4 Công ty lâm nghiệp quản lý
tốt từ mỗi tỉnh đưa vào mạng lưới mơ hình QLRBV là CTLN Kong Plong, Lâm
trường Hà Nừng, Lâm trường Dak N’tao, Lâm trường Bảo Lâm.
CCR đang là cơ hội và thách thức cho ngành Lâm nghiệp Việt Nam trong việc
xuất khẩu các mặt hàng gỗ. Gần đây, hàng loạt đơn vị quản lý rừng tự nhiên và
trồng rừng sản xuất, rất nhiều Cơng ty, xí nghiệp chế biến xuất khẩu lâm sản đang


20

có nhu cầu tự thân tham gia q trình QLRBV cần hướng dẫn, hỗ trợ, tư vấn để tự
đánh giá năng lực quản lý rừng, năng lực giám sát chuỗi hành trình, song mới chỉ
nhận được 1 chứng chỉ FSC về QLR. Đó là Cơng ty TNHH rừng trồng Quy Nhơn
(QPFT) với 9781 ha đất lâm nghiệp phân bố tại 8 huyện của tỉnh Bình Định. Hiện
tại Cơng ty QPFL khai thác gỗ từ rừng trồng mỗi năm 60.000 m3, chủ yếu là gỗ Keo
lá tràm, Keo tai tượng, Keo lai và Bạch đàn trắng. Trong tương lai, dự kiến khối
lượng gỗ khai thác ổn định vào khoảng 120.000 m3, chủ yếu là gỗ Keo lai. QPFL
đồng sở hữu Nhà máy dăm gỗ quy mơ trung bình (Tập đồn dăm gỗ Bình Định BDC) đặt tại thành phố Quy Nhơn. Sản lượng khai thác gỗ hàng năm như trên được
cung cấp cho BDC để chế biến thành dăm gỗ và xuất khẩu dựa trên kế hoạch quản
lý rừng được lập. Bên cạnh việc bán gỗ với giá cao doanh nghiệp cũng đã thay đổi
thái độ với rừng và môi trường.
Theo Nguyễn Ngọc Lung, chứng chỉ rừng là hệ quả cuối cùng của Quản lý

rừng bền vững, vì nếu Quản lý rừng chưa đạt được các tiêu chuẩn bền vững thì
khơng có Chứng chỉ rừng. Trong điều kiện ở Việt Nam khi diện tích đất chưa ổn
định, độ che phủ chưa đủ, chất lượng và năng suất rừng còn thấp so với tiềm năng,
quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp chưa đủ tầm nhìn nên ln phải điều chỉnh. Vì
vậy trong chương trình quản lý rừng bền vững cần thiết kế thêm một giai đoạn là
“xây dựng các điều kiện cần và đủ” để tiến hành quản lý bền vững hai đối tượng
rừng tự nhiên và rừng trồng. Phải song song vừa xây dựng điều kiện, vừa tiến hành
quản lý rừng bền vững theo các tiêu chí tiên tiến quốc tế lại phù hợp với pháp luật
và truyền thống quốc gia.
Theo Lê Khắc Côi, chứng chỉ rừng là thách thức và cơ hội cho ngành Lâm
nghiệp Việt Nam khi Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu nội thất quan
trọng trên thị trường thế giới và ngành chế biến gỗ Việt Nam trở thành một nhà
nhập khẩu lớn gỗ được chứng nhận từ bền ngoài. Tiếp theo do trữ lượng và diện
tích rừng của các đơn vị quản lý rừng khơng cao, chi phí chứng nhận cho từng đơn
vị m3 gỗ hay ha rừng thường ở mức cao vượt quá khả năng của các đơn vị quản lý


21

rừng. Tất cả những lý do trên khiến cho quá trình chứng nhận của các đơn vị quản
lý rừng khó khả thi về mặt kinh tế.
Ngoài ra, tại Việt Nam đã có rất nhiều những nghiên cứu về các hoạt động
quản lý rừng bền vững áp dụng cho các vùng khác nhau và trên những đối tượng
quản lý khác nhau, và cũng đạt được những kết quả đáng quan tâm. Ví dụ nghiên
cứu về “Sự tham gia của người dân trong quản lý rừng bền vững: Trường hợp quản
lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng tại tỉnh Bắc Kạn” của Nguyễn Bá Ngãi, báo
cáo tại Hội thảo quốc gia về Quản lý rừng bền vững, diễn ra tháng 3/2009 tại trường
Đại học Lâm nghiệp, tác giả đã đưa ra được một số kinh nghiệm và thực tiễn tốt
trong quản lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng tại tỉnh Bắc Kạn.
Các nghiên cứu về xác định và xây dựng mơ hình cấu trúc rừng ổn định được

Cục Lâm nghiệp, thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT tiến hành trong chương trình
“Dự án thí điểm lâm nghiệp cộng đồng 2006-2007. Theo công văn số 815/CV-QLR
ngày 12 tháng 6 năm 2007 của Cục Lâm nghiệp hướng dẫn xây dựng mơ hình rừng
mong muốn cho rừng gỗ tự nhiên của cộng đồng.
Nguyễn Văn Điển và cộng sự đã có những nghiên cứu và đề xuất một số mơ
hình cấu trúc rừng hợp lý cho rừng nứa xen tre gỗ và rừng phòng hộ đầu nguồn tại
tỉnh Hịa Bình.
Trên thực tiễn hiện đã có một công ty điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh
doanh lâm nghiệp của mình phù hợp với yêu cầu của các tiêu chí trong quản lý rừng
bền vững và đã được cấp chứng chỉ rừng đó là Cơng ty trách nhiệm hữu hạn trồng
rừng Quy Nhơn, bên cạnh đó Tổng cơng ty Giấy Việt Nam cũng đang trong q
trình hoàn thiện các hoạt động quản lý rừng theo tiêu chuẩn của FSC để tiến tới
được cấp chứng chỉ rừng.
Năm 2008, Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng cũng thực hiện
đánh giá rừng độc lập về quản lý rừng trồng của mơ hình chứng chỉ rừng “theo
nhóm” của huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Ở đây, các hộ trồng rừng cùng góp
chung diện tích rừng trồng hợp thành Chi hội trồng rừng Yên Bái và xin cấp CCR.
Qua đánh giá, kết quả cho thấy: các hộ trồng rừng thuộc Chi hội đã đáp ứng được


22

các tiêu chuẩn QLRBV của Việt Nam ở các mức độ khác nhau. Các khiếm khuyết
trong quản lý rừng có thể khắc phục được, tuy nhiên một số tiêu chí và chỉ số trong
quản lý chưa phù hợp, nên việc sử dụng nó để đánh giá cịn có chênh lệch.
Trong những năm 2008 - 2010, Viện Quản lý rừng bền vững và CCR đã hỗ trợ
Tổng Công ty Giấy Bãi Bằng Việt Nam đánh giá QLRBV cho 11 công ty lâm
nghiệp để tiến tới được FSC chứng chỉ rừng theo nhóm. Đến nay (2011) FSC đã ủy
quyền cho Smartwood bước đầu tiến hành đánh giá rừng, chuỗi hành trình sản phẩm
(FM/CoC) cho 02 công ty lâm nghiệp: CTLN Đoan Hùng và Xuân Đài thuộc Tổng

Công ty giấy Việt Nam, sau đó kết nạp dần các cơng ty khác thực hiện CCR theo
nhóm. Theo thơng báo ban đầu của Smartwood, hai CTLN Đoan Hùng và Xuân Đài
về cơ bản đã đáp ứng được 10 nguyên tắc QLRBV và 09 yêu cầu của quản lý chuỗi
hành trình sản phẩm và sắp tới được FSC cấp chứng chỉ rừng.
Để lấy được chứng chỉ FSC cần một q trình lâu dài. Việc kiểm sốt gỗ của
FSC được coi là một giải pháp để hộ trỡ các chủ rừng, đặc biệt là CTLN, các đơn vị
sản xuất kinh doanh nhỏ đạt được một phần kết quả của quá trình cấp chứng chỉ
trong thời gian ngắn. Đối chiếu với tình hình thực tiễn của Việt Nam, chủ rừng cần
thực hiện 9 yêu cầu để được xem xét cấp chứng chỉ CoC:
1) Các quy định về duy trì riêng rẽ gỗ trịn có chứng chỉ FSC
2) Quy định về ghi chép, theo dõi khối lượng gỗ có FSC và bán hàng
3) Quy định về viết hóa đơn xuất gỗ FSC
4) Các thơng tin trên hóa đơn
5) Nhân viên phụ trách quản lý và bán gỗ FSC
6) Biểu mẫu sử dụng theo dõi và bán gỗ FSC
7) Các quy định về duy trì chứng từ liên quan đến CCR
8) Các tài liệu cần lưu trữ
9) Tập huấn
Tính đến ngày 14/5/2010, số doanh nghiệp Việt Nam được cấp chứng chỉ theo
các dạng khác nhau tăng dần, cả nước đã có 205 doanh nghiệp, đã chứng tỏ rằng các


23

doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của CCR và đang chủ động thích
ứng với những đạo luật mới về xuất khẩu gỗ vào thị trường Mỹ và EU.
Kế hoạch quản lý rừng bao gồm nhiều nội dung nhưng vấn đề quản lý khai
thác giữ vai trò quan trọng nhất. Tiêu chuẩn 7 yêu cầu chủ rừng phải xây dựng
KHQLR và kế hoạch phải thể hiện được những nội dung chính sau:
+ Những mục tiêu của KHQLR.

+ Mơ tả những tài nguyên được quản lý, những hạn chế về môi trường, hiện
trạng sở hữu sử dụng đất, điều kiện KTXH và tình hình vùng xung quanh.
+ Mơ tả hệ thống quản lý lâm sinh hoặc những hệ thống khác trên cơ sở sinh
thái của khu rừng và thu thập thông tin thông qua điều tra tài nguyên.
+ Cơ sở của việc định mức khai thác rừng hàng năm và việc chọn loài.
+ Các nội dung quan sát về sinh trưởng và động thái của rừng.
+ Sự an toàn môi trường trên cơ sở những đánh giá về môi trường.
+ Những kế hoạch bảo vệ các loài quý hiếm đang có nguy cơ.
+ Những bản đồ mơ tả tài nguyên rừng kể cả rừng bảo vệ, những hoạt động
trong kế hoạch, và sở hữu đất.
+ Mô tả và biện luận về kỹ thuật khai thác và những thiết bị sử dụng.
1.2.3. Lập kế hoạch QLRBV tại Viêṭ Nam
Ngày 19/7/1989 Bộ Lâm nghiệp đã ban hành Chỉ thị 15-LSCNR về công tác
xây dựng phương án điều chế rừng đơn giản cho các lâm trường, trong đó hướng
dẫn việc xây dựng phương án và quy định kể từ 1991 việc khai thác, quản lý khai
thác phải căn cứ vào phương án điều chế. Sở dĩ chỉ xây dựng phương án điều chế
rừng đơn giản là do thiếu kinh phí, khơng có điều kiện xác định chính xác tài
nguyên rừng, các cơ sở khoa học để xác định các chỉ tiêu liên quan đến khai thác
còn chưa được nghiên cứu đầy đủ mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Trong phương
án của một lâm trường đã thể hiện được 3 nội dung chủ yếu sau:
Phần hiện trạng
- Vị trí địa lý.
- Hiện trạng tài nguyên rừng, đất đai.


24

- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.
- Tình hình quản lý kinh doanh rừng 5 năm trước đây.
Phần quy hoạch

- Phân chia các tiểu khu theo rừng phòng hộ và rừng sản xuất
- Phân chia thành các phân trường hoặc đội sản xuất.
- Xác định các biện pháp tác động: khai thác, trồng rừng, nuôi dưỡng rừng,
làm giầu rừng, nông lâm kết hợp cho từng đối tượng...
- Xác định mạng lưới đường.
Phần kế hoạch tác nghiệp
- Kế hoạch khai thác cho một luân kỳ 35 năm
- Kế hoạch tác nghiệp cho 5 năm trước mắt
- Trong kế hoạch khai thác tính tốn diện tích, sản lượng được phép khai thác
hàng năm, xác định tiểu khu đưa vào khai thác trong 5 năm đầu.
- Sau 5 năm thực hiện sẽ được phúc tra lại về tài nguyên, đánh giá tình hình
thực hiện và xây dựng lại kế hoạch cho giai đoạn 5 năm tiếp theo.
Ưu điểm của phương án là cơ sở tốt để quản lý rừng, đặc biệt là khai thác, nó
trả lời được 5 câu hỏi cho người quản lý là làm gì (khai thác, trồng rừng, chăm sóc,
xây dựng hạ tầng…); ở đâu (ở lơ, khoảnh, tiểu khu nào); bao nhiêu (khối lượng
công việc); vào thời điểm nào (thời gian thực hiện) và làm như thế nào (biện pháp
kỹ thuật, kinh tế, tài chính, nhân lực…)
Tuy nhiên vẫn tồn tại những khiếm khuyết trong việc lập và thực hiện kế
hoạch khai thác như: mới chú trọng nhiều đến QLRBV về mặt kinh tế, còn bền
vững về mặt xã hội và môi trường chưa được quan tâm đầy đủ; về mặt kỹ thuật, các
chỉ tiêu kỹ thuật khai thác mới chỉ được xác định dựa vào kinh nghiệm trong và
ngồi nước, chưa được nghiên cứu để có một cơ sở khoa hoặc chắc chắn; chưa xác
định chính xác lượng tăng trưởng rừng và không đủ điều kiện để xác định chính xác
trữ lượng rừng, dẫn đến khơng xác định được chính xác lượng khai thác (yếu tố
quan trọng bảo đảm khai thác rừng bền vững).


25

Đặc biệt trong lập kế hoạch chưa chú ý đến xác định các khu vực loại trừ,

chưa xác địa hệ thống đường cho toàn bộ các khu khai thác, mặc dầu đã được quy
định trong hướng dẫn xây dựng phương án điều chế. Các phương án bảo vệ hệ sinh
thái đặc thù, bảo vệ đa dạng sinh học…được xác định rõ ràng.
Ở Việt Nam, khi chuyển đổi các phương thức quản lý thơng thường sang
phương thức QLRBV địi hỏi sẽ phải thay đổi một loạt khn khổ chính sách ở cấp
trung ương; thái độ, quan điểm và sự đồng thuận của các sơ sở sản xuất kinh doanh
lâm nghiệp và ngay cả người dân địa phương. Tính phức tạp khơng chỉ thể hiện trên
khía cạnh chính sách, cơng nghệ mà còn về sinh thái, kinh tế, xã hội, đặc biệt là
nhận thức về CCR. Việc xác định các tiêu chuẩn QLRBV cho mỗi hệ sinh thái của
Việt Nam gặp khó khăn do tính đa dạng phức tạp của nó. Các lợi ích từ quản lý và
bảo vệ rừng chưa hấp dẫn người dân sống trong vùng rừng nên sự tham gia của họ
còn rất hạn chế. Nguồn vốn cho các hoạt động còn thiếu, thiếu cả cơ chế đảm bảo
tham gia của các đối tượng hữu quan vào quản lý rừng. Chi phí để đạt tiêu chuẩn
CCR lại quá cao, cao hơn so với giá bán gỗ đã được cấp chứng chỉ.
Nhưng cần nhìn vào lợi ích trong tương lai, QLRBV là xu thế tất yếu đối với
đơn vị kinh doanh lâm nghiệp. Kinh nghiệm của Công ty TNHH rừng trồng Quy
Nhơn cho thấy có việc được chứng nhận FSC, khi có chứng nhận FSC thì việc kinh
doanh của ho ̣ đã có thêm nhiề u thuận lợi, đă ̣c biê ̣t là được khách hàng chú ý nhiều
hơn. Chứng chỉ rừng không chỉ làm thay đổi giá trị của hàng hố đem lợi ích đến
khơng chỉ cho doanh nghiệp chế biến lâm sản mà cả những đơn vị trồng rừng cũng
được hưởng nhiều quyền lợi khi có được chứng nhận này. Những khó khăn trở ngại
nêu trên trở thành những thách thức đối với các nhà lâm nghiệp trong quá trình
chuyển đổi quản lý rừng theo hướng bền vững mà trong đó nghiên cứu để tìm tịi
một phương pháp lập kế hoạch QLRBV là bước ban đầu rất quan trọng.
Đánh giá quản lý rừng phải căn cứ vào các tiêu chuẩn QLRBV, nhưng vận
dụng các tiêu chuẩn này cho các đơn vị cần linh hoạt, theo điều kiện thực tế đang
có. Mục tiêu của CTLN Bến Hải là quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững
nhưng Công ty chưa có đánh giá nào về quản lý rừng của mình theo bộ tiêu chuẩn



×