Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Nghiên cứu các tác động đến sử dụng đất lâm nghiệp và phương hướng quản lý rừng dựa vào cộng đồng dân tộc thiểu số êđê tại xã cư dăm krông bông đăk lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 94 trang )

Đặt vấn đề
Sử dụng đất lâm nghiệp là một vấn đề quan trọng và nổi lên cần phải giải
quyết trong thực tiễn nông thôn miền núi trong giai đoạn hiện nay và tương lai, đồng
thời đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số thì phương thức quản lý tài nguyên dựa
vào kinh nghiệm, truyền thống là một hướng nghiên cứu cần được phát triển để tạo
lập phương thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng một cách bền vững, đáp ứng được
nhu cầu thực tiễn cũng như phát triển bền vững.
Suy giảm tài nguyên rừng ngày nay không chỉ còn là mối quan tâm của riêng
một tổ chức, một vùng hay một quốc gia mà tình trạng này đà được xác định là vấn
đề lớn của toàn cầu. Trước thực tế đó, mỗi quốc gia đều đà và đang cố gắng tìm
những giải pháp thích hợp nhất để có thể quản lý một cách có hiệu quả nguồn tài
nguyên rừng. Nhiều giải pháp đà được chính phủ các nước thùc hiƯn song cµng
ngµy ng­êi ta cµng nhËn thøc râ ràng việc quản lý rừng sẽ không đem đến thành
công nếu như không có sự tham gia của cộng đồng cư dân sống gần rừng - những
người mà cuộc sống của họ gắn bó và phụ thuộc vào rừng.
Đăk Lăk được xem là một tỉnh có diện tích rừng còn lại nhiều nhất nước ta
hiện nay (khoảng 1 triệu ha), ®ång thêi cịng lµ mét tØnh cã tû lƯ ®ång bào dân tộc
thiểu số chiếm khá cao. Song trong những năm qua, hàng ngàn hec-ta rừng đà bị
thay thế bởi diện tích đất nông nghiệp vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước thực
trạng đó, cùng với những nổ lực của Nhà nước, chính quyền tại địa phương đà thực
hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm quản lý ngày càng tốt hơn nguồn tài nguyên
rừng còn lại của tỉnh nhà.
Với truyền thống quản lý rừng của cộng đồng cùng với những tác động của
các chủ trương chính sách, cũng như sự hỗ trợ của các dự án nước ngoài là những
nhân tố đà đóng góp vào sự nghiệp quản lý và bảo vệ rừng của nhà nước và nhân
dân, song không thể nói là hiệu quả và phù hợp nhất vì trong quá khứ cũng như hiện
tại rừng vẫn bị khai phá với mức độ và quy mô khác nhau.
Để lập kế hoạch sử dụng đất và quản lý nguồn tài nguyên, nhu cầu về những
thông tin, bản đồ sử dụng đất và hiện trạng tài nguyên rừng đang ngày càng trở nên
rất quan trọng. Nếu chỉ dựa vào những phương pháp điều tra trên mặt đất thì rất tốn


3


kém về thời gian và nguồn nhân vật lực. Trong thực tế việc nghiên cứu tài nguyên
thiên nhiên ngày nay không chỉ đơn thuần dựa trên các công nghệ truyền thống mà
bắt đầu thực hiện bằng các hệ thống quan sát từ xa hay còn gọi là viễn thám. Với
các hệ thống thu thập thông tin đa phổ, đa thời gian, kü tht viƠn th¸m cho phÐp
chóng ta thùc hiƯn các công việc thu thập và tổng hợp dữ liệu một cách nhanh chóng
và hiệu quả hơn. Đối với công tác điều tra giám sát tài nguyên rừng, kỹ thuật này
càng có ý nghĩa đặc biệt, bởi lẽ rừng là đối tượng biến đổi rất mạnh không chỉ về
khía cạnh sinh thái mà phần lớn là do tác động cơ học do con người hoặc thiên nhiên
gây ra. Hơn nữa nguồn tài nguyên rừng lại thường phân bố ở những vùng núi cao,
có độ dốc lớn...Vì thế càng gây khó khăn cho việc tiếp cận trực tiếp trên mặt đất.
Kết hợp nguồn thông tin từ ảnh viễn thám cùng với sự tham gia của cộng
đồng địa phương là một cách làm mới, sẽ cho phép chúng ta tái hiện lại sự tồn tại
của thực thể trong không gian đồng thời hiểu rõ hơn những nguyên nhân của sự biến
đổi của tài nguyên làm cơ sở cho việc định hướng tổ chức quản lý. Một kỹ thuật hỗ
trợ đắc lực trong tiến trình này là sử dụng GIS (Geographic Information System - hệ
thống thông tin địa lý). Kỹ thuật GIS sẽ giúp cho việc trực quan hoá các đối tượng
một cách cụ thể đồng thời nó là một công cụ phân tích sự thay đổi về mặt định
lượng.
Với tiềm năng của những kỹ thuật đà nêu trên đồng thời nhằm đưa ra một
phương pháp mới liên quan trong nghiên cứu, chúng tôi quyết định kết hợp sử dụng
ảnh vệ tinh và kỹ thuật GIS cùng với các điều tra đánh giá nông thôn có sự tham gia.
Việc phối hợp này có ý nghĩa bổ sung lẫn nhau về hai mặt định tính và định lượng.
Chính vì lẽ đó, nhằm tìm hiểu diễn biến trong sử dụng đất lâm nghiệp cũng
như những tác động của các chương trình, dự án, từ đó có thể đưa ra một phương
hướng quản lý rừng cụ thể tại địa phương, chúng tôi tiến hành thực hiện luận văn
nghiên cứu "Nghiên cứu các tác động đến sử dụng đất lâm nghiệp và phương
hướng quản lý rừng dựa vào cộng đồng dân tộc thiểu số Ê Đê tại xà Cư Drăm,

huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk".

4


chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Ngày nay các nghiên cứu liên quan đến quản lý tài nguyên dựa vào cộng
đồng đang là một đề tài lớn được rất nhiều nước quan tâm.
Các nghiªn cøu cđa viƯn nghiªn cøu x· héi - tr­êng Đại học Chiang Mai,
Thái Lan - chỉ ra thực tế rõ ràng cho thấy trong khi các diện tích rừng dự trữ của
quốc gia do chính phủ quản lý ngày càng bị mất đi nhanh chóng mà chủ yếu là do
mở rộng đất canh tác và khai thác (hợp pháp và bất hợp pháp) thì hầu hết các khu
rừng gần các thôn buôn vẫn ổn định [39].
Kết luận nghiên cứu cđa An Drew [20] cịng cho biÕt trong mét vµi trường
hợp, chính sách hiện tại thực sự đà làm dễ dàng cho việc huỷ hoại môi trường. Để
đảm bảo chấm dứt sự tấn công dữ dội vào hệ sinh thái rừng, các chính sách hỗ trợ
vai trò của cộng đồng địa phương trong quản lý rừng bền vững nên thiết lập càng
sớm càng tốt.
Nghiên cứu của Prodyot [22] cũng cho thấy sự thành công của việc bảo vệ
rừng dựa vào cộng đồng tại xà Kudad. Tác giả cho rằng, việc bảo vệ rừng dựa vào
cộng đồng là rất hiệu quả thậm chí ngay khi có sự gia tăng dân số và áp lực thị
trường lên nguồn tài nguyên rừng. Từ kết quả nghiên cứu của mình, Niti [40] cho
rằng: có hai bước chính để thiết lập việc quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Đó là xác
định và khoanh vẽ ranh giới rừng cộng đồng có sự tham gia và diện tích rừng cộng
đồng phải được sự xác nhận và chấp nhận của cộng đồng.
Xu hướng quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng đang ngày càng thu hút sự
quan tâm của nhiều chính phủ, các tổ chức, các nhà nghiên cứu...Tuy vậy cách tiếp
cận không thể hoàn toàn giống nhau cho các quốc gia và càng không thể áp dụng

máy móc cho từng địa phương khác nhau.
Hội nghị lâm nghiƯp céng ®ång qc tÕ tỉ chøc ë Chiang Mai - Thái lan vào
tháng 11 năm 2001 cũng đà chỉ ra sự cần thiết công nhận quyền sử dụng và quản lý
rừng truyền thống và cần có các chính sách, thể chế địa phương để hỗ trợ cho tiến

5


trình phát triển phương thức quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng. Hội nghị
cũng khẳng định rằng để bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng phục vụ cho lợi ích
nhiều mặt của xà hội, nhất thiết phải có sự tham gia trực tiếp của các cộng đồng dân
tộc sống phụ thuộc vào rừng.
1.1.2. Sự cần thiết của kỹ thuật viễn thám trong quản lý tài nguyên
rừng, đất đai.
Một trong những đặc trưng của hệ sinh thái rừng là sự biến đổi, sự thay đổi
này có thể do tác động của tự nhiên hay của con người. Cùng víi sù tiÕn bé cđa
khoa häc kü tht vµ sù gia tăng dân số, sự thay đổi này diễn ra quy mô và nhanh
chóng hơn bao giờ hết. Sự thoái hoá đất và các tác động đến môi trường ngày càng
trở nên đáng lo ngại. Vì thế, những nhà quản lý tài nguyên và những người lập kế
hoạch cần một cơ chế thích hợp để đánh giá những ảnh hưởng này bằng cách phát
hiện, giám sát và phân tích sự biÕn ®ỉi cịng nh­ viƯc sư dơng ®Êt nãi chung một
cách nhanh chóng và có hiệu quả. Nhu cầu về một hệ thống phát hiện việc sử dụng
đất có hiệu quả vẫn còn là vấn đề đối với nhiều địa phương cũng như các tổ chức
34]. Một vấn đề chung trong việc lập kế hoạch phát triển là thiếu nguồn thông tin
chính xác về thảm phủ và nguồn tài nguyên hiện có. Không có nguồn thông tin
chính xác, những người làm chính sách thường thất bại khi ra các quyết định hoặc
đưa ra những quyết định không chính xác (Cummings,1977) 25. Theo Barry
Haack và Richard English [25]: Sự thay đổi nhanh chóng của nguồn tài nguyên rừng
như mức độ phá rừng ở nhiều nơi do áp lực của việc gia tăng dân số không thể phát
hiện kịp thời nếu chỉ dùng các phương pháp thu thập dữ liệu truyền thống.

Viễn thám là một công cụ hữu ích để có thể khắc phục được những hạn chế
như đà đề cập. Nó chính là kỹ thuật thu thập thông tin từ xa. Khoảng cách này có
thể hàng trăm mét, hàng trăm ki-lô-met hay xa hơn nữa. Dữ liệu được thu nhận từ
xa gọi là dữ liệu viễn thám. Hay có thể định nghĩa viễn thám như như một khoa học
và công nghệ mà nhờ nó các tính chất của vật thể quan sát được xác định, đo đạc
hoặc phân tích mà không cÇn tiÕp xóc trùc tiÕp víi chóng 25].

6


Các bản đồ tài nguyên thiên nhiên ngày nay đều sử dụng dữ liệu viễn thám.
Ví dụ hầu hết các bản đồ địa hình là sử dụng ảnh hàng không để vẽ, tương tự đối với
bản đồ rừng, bản đồ sử dụng đất, bản đồ đất, bản đồ địa chất, bản đồ quy hoạch
thành phố...Gần đây, các dữ liệu của ảnh vệ tinh cũng đang được dùng để thành lập
các loại bản đồ đó.
ảnh vệ tinh là một nguồn dữ liệu hiệu quả và thích hợp để thành lập bản đồ
hiện trạng cho quốc gia. Nguồn thông tin từ ảnh có thể so sánh đối chiếu với những
thông tin hiện trạng đà có trước đó để phát hiện ra những sự thay đổi chẳng hạn như
việc tăng lên hoặc giảm xuống của diện tích đất nông nghiệp hay diện tích rừng và
nó có thể là nguồn dữ liệu cơ sở cho việc theo dõi giám sát trong tương lai [25].
Nhiều nghiên cứu cũng đà chứng minh sự hữu dụng của viễn thám trong thành lập
bản đồ thảm phủ như nghiên cøu cña Hass and Waltz, 1983; Dottavio, 1984; Zhao,
1986; Ken, Sondheim and Yee, 1988)... [25]
Theo Gernot Brodnig23: Th«ng tin kh«ng gian chính xác đóng một vai trò
then chốt nếu không muốn nói là điều kiện tiên quyết trong tất cả các lĩnh vực về
quản lý môi trường và phát triển bền vững.
Nghiên cứu của Sithong Thongmavivong 42 cũng đà chỉ ra: dựa vào tư liệu
viễn thám có thể cung cấp những thông tin mang tính định lượng về diễn biến tài
nguyên rừng một cách liên tục. Theo tác giả các phương pháp giám sát cũng như
lập bản đồ hiện nay không thể đáp ứng được những yêu cầu của nhà quản lý rừng

cũng như quản lý môi trường. Nếu chỉ sử dụng đơn thuần phương pháp điều tra trên
mặt đất sẽ tốn rất nhiều nguồn nhân vật lực và thời gian, độ tin cậy thấp. Vì thế nếu
như sự kết hợp chặt chẽ phương pháp viễn thám với phương pháp ®iỊu tra trun
thèng th× cã thĨ sÏ ®iỊu tra mét cách chi tiết cũng như quản lý và giám sát nguồn tài
nguyên một cách có hiệu quả hơn. Theo FAO [30]: Kỹ thuật viễn thám giúp đẩy
mạnh việc quản lý và phát triển nguồn tài nguyên rừng. Sử dụng ảnh vệ tinh đa thời
gian có thể cung cấp thông tin một cách khái quát và luôn cập nhật thích hợp để lập
bản đồ, minh hoạ và mô hình hoá những sự kiện tự nhiên và những hoạt động của
con người liên quan đến nguồn tài nguyên. Kỹ thuật này giúp cho đẩy mạnh việc
quản lý và phát triển nguồn tài nguyên rừng. Hơn nữa, xây dựng cơ sở dữ liệu dùa

7


trên ảnh vệ tinh sẽ giúp cho phân tích về mặt thống kê và phân tích không gian từ đó
có thể cải thiện những hành động trong tương lai.
Từ đó có thể thấy việc trích thông tin về thảm phủ từ dữ liệu viễn thám là một
hoạt động nền tảng, cần thiết cho các ứng dụng khác nhau bao hàm bản đồ sử dụng
đất, giám sát rừng, giám sát nông nghiƯp...
ë cÊp ®é céng ®ång, Gavin H. Jordan [34] cho rằng nhu cầu ngày càng tăng
về thông tin nguồn tài nguyên rừng cộng đồng để cung cấp dữ liệu cơ sở về những
thay đổi trong nguồn tài nguyên cần phải được đánh giá. Đồng thời với phương tiện
viễn thám là các phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia để đánh giá thực
trạng quản lý sử dụng, kết hợp được cả hai phương pháp này sẽ là cơ sở tốt cho lập
kế hoạch phát triển phương thức quản lý rừng cộng đồng.
1.1.3. Kỹ thuật GIS và viễn thám trong tìm hiểu thay đổi sử dụng đất
Hệ thống thông tin địa lý - GIS là một hệ thống quản lý thông tin không gian
được phát triển dựa trên cơ sở công nghệ máy tính với mục đích lưu trữ, cập nhật,
quản lý, hợp nhất, mô hình hóa, phân tích và miêu tả được nhiều loại dữ liệu (Stan
Aronoff, 1989) 20].

Một trong những lợi ích chính của GIS là cải thiện được việc quản lý nguồn
lực và tổ chức. GIS có thể liên kết các dữ liệu với nhau và có thể giúp cho việc chia
sẻ dữ liệu giữa các cơ quan với nhau đồng thời tạo ra các dữ liệu có thể chia sẻ được.
Một cơ quan có thể hưởng lợi từ một cơ quan khác, điều này có nghĩa rằng dữ liệu
có thể chỉ thu thập một lần nhưng có khả năng sử dụng được nhiều lần cho các mục
đích khác nhau 17.
Cho đến nay, để hiển thị và lưu trữ dữ liệu địa lý, bản đồ được lập theo
phương thức truyền thống vẫn là dạng phổ biến. Song với sự phát triển nhanh chóng
của công nghệ thông tin, đặc biệt là từ khi xuất hiện ngành đồ hoạ vi tính cũng như
sự gia tăng vượt bậc những khả năng của phần cứng, GIS đà ra đời và phát triển
nhanh chóng cả về mặt công nghệ cũng như ứng dụng, đà ít nhiều tác động đến suy
nghĩ và khuynh hướng của những người làm công tác liên quan đến tài nguyên môi
trường nói riêng. GIS đà chứng tỏ khả năng ưu việt hơn hẳn các hệ thông tin bản đồ
truyền thống nhờ vào khả năng tích hợp dữ liệu mật độ cao, cập nhật thông tin dễ

8


dàng cũng như khả năng phân tích tính toán của nó. Do đó, GIS đà nhanh chóng trở
thành một công cụ trợ giúp quyết định cho các ngành từ quản lý, giám sát đến quy
hoạch tất cả các lĩnh vực từ tài nguyên thiên nhiên, môi trường, đất đai, kỹ thuật hạ
tầng đến kinh tế, xà hội, nhân văn.
Theo Carlo.Travaglia [43]: Việc sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên rừng
cần thiết phải dựa trên bản đồ hiện trạng và kết quả kiểm kê tài nguyên rừng. Bên
cạnh nguồn dữ liệu này thì những thay đổi của hiện trạng rừng (khai thác trái phép,
khai thác hợp pháp, tái sinh rừng, cháy rừng, canh tác nương rẫy...) cũng cần được
theo dõi. Tư liệu viễn thám và hệ thống thông tin địa lý là hai kỹ thuật tiềm năng để
theo dõi một cách thường xuyên nguồn tài nguyên rừng bằng cách dò đoán những
thay đổi và tổng hợp các kết quả vào trong dữ liệu cơ sở hiện có.
Ngày nay việc sử dụng dữ liệu viễn thám để thành lập các loại bản đồ đang

rất phổ biến. Để lượng hoá sự thay đổi phong cảnh ở cùng nông thôn Georgia,
Turner (1990) [31] đà sử dụng ảnh hàng không đen trắng như một nguồn dữ liệu
trong nghiên cứu của mình. Ông ta đà phát hoạ ranh giới của các loại thảm phủ trên
tờ giấy bóng mờ và các dữ liệu sau đó được số hoá bằng tay ở dạng raster(ô lưới).
Đây cũng là phương pháp H-J Stibig đề nghị [41]. Trong khi mô tả quá trình sử
dụng đất và thay đổi trong sử dụng đất, Roy (1991 [38]) và cộng sự đà dùng kính lập
thể để giải đoán ảnh hàng không sau đó dùng chức năng GIS để đánh giá sự thay
đổi. Trong nghiên cứu sự thay đổi trong sử dụng đất vùng đầu nguồn sông Ca, tỉnh
Xiềng Khoang, Lào, Sithong Thongmanvivong cũng đà sử dụng 2 ảnh Landsat TM
(chụp năm 1995 và 1997) như là nguồn dữ liệu chính trong nghiên cứu của mình.
Mỗi ảnh sau khi được chỉnh sữa hình học được giải đoán riêng biệt, các bản đồ này
sau đó được chồng lên nhau để so sánh những thay đổi. Các thông tin khác như
đường, sông suối...được trích từ bản đồ địa hình và số hoá thành dạng số trong GIS.
Kết quả phân loại sau đó được kiểm chứng trực quan ngoài thực địa [42].
Để phân tích sự thay đổi thảm phủ rừng, Rona A. Dennis và cộng sự cũng đÃ
sử dụng ảnh Landsat (MSS và TM) cùng với ảnh hàng không để tìm hiểu sự thay đổi
hiện trạng rừng từ năm 1973 cho đến năm 1994. Trong nghiên cứu này các tác giả
sử dụng phương pháp số hoá trực tiếp trên màn hình các loại thảm phủ vì nguồn d÷

9


liệu ảnh không tương đồng độ phân giải và chất lượng của các tấm ảnh cũng rất
khác nhau [26].
Nhiều tác giả đà sử dụng dữ liệu viễn thám để thành lập bản đồ và nghiên cứu
thay đổi trong sử dụng ®Êt víi sù trỵ gióp cđa GIS nh­ Kass Green, Dick Kempka,
Lisa Lackey [32]; Mayer, 1988; Skole vµ Tucker, 1993; Moran,1994; Skole và cộng
sự đà dùng tư liệu viễn thám như một nguồn dữ liệu chính cho các nghiên cứu về
thay đổi trong sử dụng đất/ thảm phủ [36].
Độ chính xác của kết quả giải đoán cũng đà được nhiều tác giả chứng minh.

Theo kết quả của Roy và cộng sự, độ chính xác đạt được là 87% khi giải đoán bằng
mắt và 97 % khi giải đoán bằng cách số hoá. Nghiên cứu của Brockhau và Khoram
cũng chỉ ra, độ chính xác khoảng 73% cho ảnh SPOT và 71% cho ảnh Land sat TM.
Benoit Mertens cũng cho biết độ chính xác phân loại khi sử dụng ảnh vệ tinh
Landsat năm 1973 là 90% và năm 1986 là 85% [36].
Nói chung việc thành lập bản đồ sử dụng đất và phân tích sự thay đổi dựa trên
ảnh vệ tinh hay ảnh hàng không với sự trợ giúp của GIS ngày nay rất phổ biến.
Phương pháp thường áp dụng là các dữ liệu không gian như ảnh viễn thám (vệ tinh,
hàng không), bản đồ địa hình...cần đưa về chung một hệ quy chiếu chuẩn nào đó
(thường là theo phép chiếu UTM), từ đó các dữ liệu này mới có thể chồng lớp
(overlay) lên nhau được. Tuỳ thuộc vào nguồn dữ liệu ảnh và chức năng của các
phần mềm GIS được sử dụng mà các đối tượng không gian như hiện trạng, sông
suối, đường... được số hoá tự động hay số hoá trực tiếp. Công tác đối chứng các
điểm mẫu trên thực địa với ảnh và thiết lập các điểm kiểm tra là công việc cần thiết
trước và sau giải đoán ảnh. Độ chính xác của kết quả giải đoán thường là phụ thuộc
vào chất lượng ảnh sử dụng.
1.2. Trong nước
1.2.1. Các nghiên cứu liên quan đến quản lý rừng dựa vào cộng đồng
và một số chính sách trong quản lý tài nguyên thiên nhiên
Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một trong những loại hình quản lý rừng
trên cơ sở tham gia và quyết định từ cộng đồng nhằm phát triển rừng bền vững.
Điều quan trọng là hệ thống quản lý phải dựa trên tình hình cụ thể ở mỗi ®Þa

10


phương. Việc quản lý rừng dựa vào cộng đồng phải được áp dụng và kết hợp hài
hoà với các thành phần liên quan khác (quản lý của nhà nước, của tập thể hay của tư
nhân)[27].
Rừng cộng đồng là một kiểu quản lý rừng thích hợp cho những vùng có điều

kiện như:
Vùng sâu vùng xa, cuộc sống người dân địa phương phần lớn phụ
thuộc vào rừng.
Vùng cao với cơ sở hạ tầng thấp kém. Việc quản lý đất rừng cũng nên
áp dụng một cách linh hoạt và thích hợp để phù hợp với nhu cầu và
điều kiện cụ thể ở từng địa phương.
Có kiến thức bản địa và trun thèng tỉ chøc céng ®ång cao.
 Cã sù quan tâm của cộng đồng trong quản lý nguồn tài nguyên vì lợi
ích chung và có thể được phát hoạ một cách rõ ràng.
ở các vùng đầu nguồn, nơi mà cộng đồng có truyền thống quản lý các
lưu vực.
Một số nghiên cứu về quản lý rừng dựa vào cộng đồng[12] [21] [24] [28]
[35][44] ®· cã chØ ra: khi céng ®ång tham gia bảo vệ rừng thì:
Rừng được bảo vệ bởi cộng đồng trong khi đó nhà nước không phải
chi trả cho việc bảo vệ.
Cộng đồng tiếp cận được với những sản phẩm thu được từ rừng với
mục đích chung song lại tiêu dùng riêng vì thế đảm bảo cho đời sống
của họ.
Lợi ích được chia sẻ công bằng trong cộng đồng.
Hỗ trợ cho việc phát triển các định chế địa phương.
Là tiềm năng để hỗ trợ cho những mục tiêu chung của địa phương
cũng như việc thực hiện các chương trình của chính phủ (như chương
trình trồng mới 5 triệu ha rừng...)
Khả năng của cộng đồng trong quản lý rừng đà được phản ánh ở nhiều góc
độ: tinh thần cộng đồng, tương trợ lẫn nhau, giải quyết những tranh chấp trong cộng

11


đồng, sự tham gia của người dân trong quản lý và việc thực hiện các luật tục của

làng bản trong quản lý và bảo vệ rừng.
Các nghiên cứu này cũng cho thấy sự thành công của việc quản lý rừng cộng
đồng ở một số địa phương, đặc biệt là quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Theo các tác
giả: các tổ chức truyền thống của cộng đồng dân tộc thiểu số ở một số địa điểm
nghiên cứu là rất tốt. Cộng đồng thôn bản đóng vai trò quan trọng trong sự khôi
phục và bảo vệ rừng. Các tổ chức thôn buôn đà thực sự mang lại lợi ích cho cộng
đồng của mình thông qua thực hiện một cách hiệu quả các luật lệ bảo vệ rừng ở thôn
buôn (Nguyễn Hải Nam và những người khác, 2000)[28]. Vì thế cần phải duy trì và
hỗ trợ cho các hình thức tổ chức và luật tục của cộng đồng trong quản lý rừng (Bảo
Huy, 1999)[12]. Hơn nữa rừng thực sự có khả năng phục hồi trong một chu kỳ
nương rẫy của dân tộc thiểu số. Điều này cho thấy kinh nghiệm của đồng bào trong
canh tác nương rẫy theo chu kỳ là rất quý báu, rừng và đất rừng được phục hồi tốt
trước khi trở lại chu kỳ sau, đảm bảo tính ổn định trong hệ sinh thái canh tác nương
rẫy, đất đai được sử dụng khép kín (Bảo Huy, 1998) [11].
Tuy vậy, các nghiên cứu trên cũng chỉ ra việc quản lý rừng cộng đồng cũng
bộc lộ những số hạn chế như:
Thiếu cơ sở pháp lý trong việc giao đất giao rừng cho cộng đồng
Không có sự quan tâm thỏa đáng cũng như những hỗ trợ của các nhà
quản lý và những người làm chính sách đối với việc quản lý rừng cộng
đồng.
Thiếu các chương trình quốc gia hỗ trợ cho sự phát triển rừng cộng đồng.
Năng lực tổ chức và quản lý của cộng đồng còn hạn chế.
Bên cạnh đó, thông qua các nghiên cứu này, một số tác giả cũng đà đề cập
đến các chính sách được thực thi tại địa phương. Theo Bùi Đình Toái và những
thành viên khác thì các chính sách quốc gia nên linh hoạt chứ không chỉ liên quan
đến rừng và sử dụng rừng [44]. Hơn nữa vấn đề chính sách ®ãng vai trß hÕt søc
quan träng, song trong thùc tÕ vẫn còn một số chính sách chưa thật sự phù hợp (Bảo
Huy, 1998)[11].

12



ở Tây Nguyên có một số tác giả nghiên cứu về Lâm nghiệp xà hội (LNXH)
trong đó Vũ Long (1995) có nêu: những chính sách hiện hành của nhà nước trong
lâm nghiệp và ở miền núi là tương đối toàn diện và là điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển LNXH. Tuy nhiên cần được cụ thể hoá cho sát với đặc điểm của từng
vùng. Đối với vùng cao, vùng đồng bào dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên tác giả đà có
một số kiến nghị: bảo vệ rừng, phát triển rừng là mục tiêu quan trọng ở Tây Nguyên.
Chính sách cần tác động đồng bộ đến các mặt sản xuất nông lâm nghiệp, kinh tế xÃ
hội, xây dựng dự án tổng hợp là hình thức thích hợp với LNXH ở phạm vi buôn
làng, chủ thể kinh tế thực hiện dự án là hộ nông dân, đối tượng chính sách của
LNXH là đồng bào thiểu số 14].
Trong thực tế mặc dù có rất nhiều chủ trương, chính sách của nhà nước nhằm
phát triển nông thôn miền núi, bảo vệ và phát triển rừng song vẫn còn nhiều vấn đề
cần được bổ sung sửa đổi. Riêng các nghiên cứu ảnh hưởng của các chủ trương
chính sách đến quản lý, sử dụng tài nguyên vẫn còn đề cập ở tầm vĩ mô mà chưa có
sự tìm hiểu kỹ lưỡng ở một cộng đồng thôn buôn cụ thể như ở Tây nguyên.
Các phương pháp được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu nói trên là:
-

Đối với thu thập thông tin, các tác giả đà sử dụng công cụ đánh giá nông
thôn có người dân tham gia như phỏng vấn bán cấu trúc, thảo luận nhóm,
lịch mùa vụ, quan sát trên thực tế , xem xét lịch sử sử dụng đất có sự tham
gia của người dân địa phương

-

Sử dụng khung phân tích, khung định vị trong việc đánh giá tình hình
quản lý và vai trò cộng đồng trong quản lý tài nguyên rừng.


1.2.2. Sự cần thiết của ảnh viễn thám trong quản lý tài nguyên, đất đai
ở Việt Nam
Công nghệ vũ trụ với các hệ thống thu thập thông tin đa phổ, đa thời gian sẽ
cho phép thực hiện các công việc thu thập và tổng hợp dữ liệu một cách nhanh
chóng hơn, hiệu quả hơn [3]. Vì thế, việc ứng dụng công nghệ vũ trụ sẽ mang lại
hiệu quả to lớn trong việc giữ gìn và phát triển bền vững trái đất. Sự phối hợp, bổ
sung thông tin giữa các tầng không gian từ phương pháp viễn thám sẽ tạo ra sù hiÓu

13


biết sâu sắc, chính xác và ngày càng toàn diện về tài nguyên môi trường nói chung
và tài nguyên rừng nói riêng [8].
ở Việt Nam kỹ thuật viễn thám được ứng dụng trong điều tra rừng hầu như
đồng thời với phương pháp điều tra mặt đất truyền thống. Từ năm 1958, đà sử dụng
ảnh máy bay đen trắng toàn sắc tỷ lệ 1/30 000 để phân khối rừng phục vụ điều tra
rừng gỗ mỏ khu Đông Bắc. Từ năm 1970-1975 ảnh máy bay đà được sử dụng rộng
rÃi để xây dựng các bản đồ đồ giải, bản đồ hiện trạng, bản đồ vận xuất vận chuyển
cho nhiều vùng thuộc miền Bắc. Sau năm 1975, kỹ thuật này còn được dùng phổ
biến trong điều tra rừng cả nước.
Về ứng dụng ảnh vệ tinh trong lâm nghiệp: đà thử nghiệm từ những năm
1976 với ảnh Landsat và đến năm 1979 đà xây dựng bản đồ rừng cả nước tỷ lệ
1/1.000.000 từ ảnh Landsat I và II. Từ 1981 ảnh máy bay đa phổ MKF-6 sau này là
các thế hệ ảnh vệ tinh Landsat III, Landsat TM, KATE-140, SPOT cũng lần lượt
được đưa vào sử dụng dụng để nghiên cứu diễn biến tài nguyên rừng và xây dựng
các bản đồ rừng cho địa phương [8].
Để thành lập bản đồ thảm phủ, Nguyễn Đình Dương và cộng sự[5], Lê Thắng
và Phan Tuấn Anh[18], Nguyễn Thị Thanh Hương[10], Trần An Phong cùng cộng
sự [15] đà sử dụng ảnh vệ tinh Landsat ở các thế hệ khác nhau để xây dựng các bản
đồ hiện trạng. Theo các tác giả nguồn thông tin không gian chính xác là rất cần

thiết và quan trọng cho các nhà quản lý cũng như cho những người làm chính sách
và ra các quyết định.
1.2.3. Kỹ thuật GIS và viễn thám trong tìm hiểu thay đổi sử dụng đất
Hiện nay, các phương pháp xử lý ảnh hàng không và ảnh vệ tinh là những
phương thức cung cấp thông tin hữu hiệu nhất cho cơ sở dữ liệu của GIS (Trần Đình
Trí)[19]. Song bản đồ biến động lớp phủ được thành lập từ tư liệu viễn thám đa thời
gian sẽ không đủ thông tin để trả lời nguyên nhân của những biến đổi. Để trả lời
cho câu hỏi này cần thiết phải chồng bản đồ biến động này lên bản đồ giao thông,
dân cư hay hiện trạng sử dụng đất. Hơn nữa trong một số bài toán phân loại tư liệu
viễn thám, chúng ta sẽ đạt được những kết quả chính xác hơn nếu như có được các
thông tin địa lý bổ trợ như các số liệu đai cao, độ dốc (Nguyễn Đình D­¬ng) [6].

14


Ngoài ra, sự hiểu biết về các loại hình sử dụng đất trước đây bị hạn chế bởi sự thiếu
hụt các các tài liệu khác nhau tại những thời điểm khác nhau (Đinh Thị Bảo Hoa,
1999)[9]. Vì vậy, để đạt được những điều này cần thiết phải có liên kết tư liệu trong
viễn thám và hệ thống thông tin địa lý thông qua các phần mềm chuyên dụng của
GIS.
Để thành lập bản đồ hiện trạng rừng và bản đồ biến động tài nguyên rừng,
Dương Tấn Phú [16], Đinh Thị Bảo Hoa [9] đà sử dụng tập hợp các bản đồ hiện
trạng rừng, các tư liệu liên quan đến rừng, các tập ảnh vệ tinh và ảnh máy bay để
phân tích ảnh. Các tư liệu liên quan đến tài nguyên rừng được xây dựng thành cơ sở
dữ liệu GIS ở dạng số. Dựa vào các cơ sở dữ liệu trong GIS để tiến hành phân tích
về rừng. Kết hợp ảnh sau khi phân tích với điều tra thực địa để thành lập các bản đồ
hiện trạng qua các thời kỳ khác nhau. Kết hợp bản đồ hiện trạng cùng những phân
tích được thực hiện trong môi trường GIS, từ đó đề xuất hướng sử dụng và quản lý
rừng[9].
Các nghiên cứu thay đổi sử dụng đất, thảm phủ cũng đà được một số tác giả

nghiên cứu đến như TrầnVăn Điện [7], Nguyễn Đình Dương và cộng sự[5],[29]. Để
lập bản đồ sử dụng đất và phân tích biến động sử dụng đất, Trần Văn Điện đà sử
dụng ảnh Landsat TM và số liệu khảo sát thực địa để thành lập bản đồ sử dụng đất.
Trên cơ sở nguồn dữ liệu này tác giả đà lập thành cơ sở dữ liệu của hệ thông tin địa
lý, sau đó dùng các hàm phân tích trong hệ thông tin địa lý để phân tích các biến
động của các loại hình sử dụng đất. Theo tác giả thì việc tạo ra một cơ sở dữ liệu hệ
thông tin địa lý là rất cần thiết cho việc quản lý tài nguyên và quản lý quy hoạch.
Cơ sở dữ liệu và các kết quả phân tích sẽ rất cần thiết cho quản lý, nó sẽ giúp cho
việc quy hoạch và quản lý để phát triển bền vững. Nguyễn Đình Dương và những
người khác cũng đà sử dụng phương pháp tổ hợp các gam màu giả khác nhau để
phân loại và số hóa các hiện trạng sử dụng đất, thảm phủ.
ảnh vệ tinh và ảnh hàng không được sử dụng giải đoán để thành lập các bản
đồ sử dụng đất. Các thông tin giải đoán sau đó được chuyển về hệ toạ độ UTM.
Tác giả cũng đà số hoá các mảnh bản đồ địa hình phủ trong khu vực nghiên cứu, các
thông tin về địa hình và các thông tin về hiện trạng lớp phủ được giải đoán từ ảnh vÖ

15


tinh và ảnh hàng không nói trên được xem như cơ sở dữ liệu để phục vụ cho việc
đánh giá các biến động. Theo tác giả không có kỹ thuật thích hợp như viễn thám,
GIS và cơ sở dữ liệu thì các vấn đề về môi trường có thể sẽ không được kiểm soát
và quản lý trong một cách thức đúng đắn[5].
Nguyễn Trần Cầu [2] cũng sử dụng ảnh vệ tinh Landsat, SPOT và ảnh hàng
không để xây dựng các loại bản đồ chuyên đề như bản đồ thảm thực vật, bản đồ sản
xuất nông nghiệp, bản đồ hiện trạng sử dụng đất...
Nói chung, ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực liên quan đến tài
nguyên của các nước phát triển đà bắt đầu từ những năm 60 và ngày càng phát triển
mạnh, song ở các nước nghèo như Việt Nam thì công nghệ này vẫn đang còn rất mới
mẻ. Một số nghiên cứu về lĩnh vực tài nguyên môi trường ở cấp vĩ mô đà tỏ ra khá

hữu hiệu khi áp dụng công nghệ viễn thám kết hợp với GIS.
Nhìn chung, các nghiên cứu kể trên đà ứng dụng công nghệ viễn thám, đặc
biệt là các loại ảnh vệ tinh vào trong việc thành lập các loại bản đồ, tuỳ theo từng
mục đích và khả năng ứng dụng mà các nghiên cứu kết hợp ảnh viễn thám với các
phần mềm GIS khác nhau như Mapinfo, PCI, Spans, Autocard, ARC/INFO, song
các nghiên cứu này được tiến hành trên quy mô ở cấp tỉnh hoặc cấp vùng, hay cho
cả một quốc gia, chưa có nghiên cứu được thực hiện ë cÊp nhá h¬n nh­ trong mét
hun, mét x· hay một thôn buôn. Trong thực tế việc quản lý tài nguyên và lập kế
hoạch cần được thực hiện từ dưới lên, từ cấp thôn bản, xÃ. Vì vậy với sự hỗ trợ của
hệ thống thông tin địa lý sẽ giúp cho việc quản lý tài nguyên trở nên đơn giản hơn, ít
tốn kém hơn. Cơ sở dữ liệu này được quản lý ở cấp tỉnh huyện và cung cấp cho các
cộng đồng thôn, xà để theo dõi diễn biến và có những giải pháp hành động cụ thể
mà không phải tốn nhiều công sức trong việc giám sát, đo đạc định kỳ.
Thảo luận:
Từ kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế giới cũng như trong nước về
các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu này đà cho thấy:
-

Với tốc độ thay đổi nhanh chóng nguồn tài nguyên thiên nhiên như tình
trạng hiện nay thì việc theo dõi giám sát, cập nhật những thông tin về hiện
trạng rừng kịp thời, chính xác là việc làm cần thiết. Để đạt được yêu cầu

16


này, việc sử dụng viễn thám để thực hiện sẽ mang lại hiệu quả cao, nguồn
dữ liệu cần thiết phải được tổng hợp trong dạng số để có thể chia sẻ, cập
nhật, lưu giữ và chỉnh sữa mà không tốn nhiều nguồn nhân vật lực như
trước đây. Ngay cả khi quản lý tài nguyên cấp vi mô, hệ thống thông tin
địa lý cũng là công cụ đắc lực. Nếu các cơ quan chuyên môn như địa

chính cấp huyện, tỉnh, các sở nông nghiệp và phát triển nông thôn có
phương án phát triển và quản lý tốt hệ thống dữ liệu này và cung cấp
thường xuyên cho địa phương, các nhà kỹ thuật, dự án, thì các kế hoạch
phát triển thôn bản trở nên thuận tiện và có hiệu quả hơn.
-

Ngày nay hầu hết các quốc gia đều thống nhất rằng, việc quản lý bảo vệ
và phát triển rừng sẽ không thành công nếu như chỉ tập trung vào chính
phủ, vai trò của cộng đồng với những phương thức quản lý rừng truyền
thống đà được xem là rất bền vững và đó cũng là cơ sở để nhà nước phân
cấp phân quyền quản lý rừng cho các cộng đồng địa phương. Bên cạnh
đó các chính sách quốc gia cần phải linh hoạt đồng thời phải được cụ thể
hoá cho từng địa phương.

-

Việc phối hợp nghiên cứu giữa đánh giá thực tế với cộng đồng và sự hỗ
trợ của công nghệ thông tin sẽ giúp rút ngắn thời gian và có hiệu quả cao
khi cùng cộng đồng đánh giá sử dụng đất lâm nghiệp và đưa ra các giải
pháp thích hợp.

Từ việc tổng quan tài liệu có liên quan đến chủ đề nghiên cứu cho thấy đặt
vấn đề nghiên cứu của đề tài này là cần thiết đối với người thực hiện cũng như đối
với cộng đồng và các cơ quan quản lý rừng. Từ phân tích những thay đổi và các tác
động trong lịch sử, mối quan hệ của các tác động đó đến hiện tại để xây dựng bức
tranh quản lý rừng cho tương lai trong một cộng đồng thôn bản cụ thể; đề tài sẽ là
một nghiên cứu điểm đồng thời cũng là nguồn thông tin bổ ích cho lÃnh đạo ở các
cấp cũng như các bên liên quan về phương pháp tiếp cận phối hợp giữa đánh giá
nông thôn có sự tham gia với việc hỗ trợ của công nghệ quản lý thông tin hiện đại,
giúp cho việc đưa ra kế hoạch quản lý rừng dựa vào cộng ®ång.


17


Từ các lý do nghiên cứu đặt ra, đề tài xác định các câu hỏi nghiên cứu chính
phục vụ cho việc định hướng nghiên cứu:
Những thay đổi nào là quan trọng trong quản lý sử dụng đất lâm nghiệp ở
cộng đồng dân tộc thiểu số Ê Đê sống phụ thuộc vào rừng? Làm thế nào
giám sát và đánh giá sự thay đổi trong sử dụng đất?
Những tác động diễn ra trong cộng đồng liên quan đến sử dụng tài
nguyên rừng và đất rừng, các mặt ảnh hưởng của nó như thế nào, mức độ
tác động và ảnh hưởng?
Cơ chế quản lý tài nguyên rừng nào là thích hợp với địa phương nghiên
cứu?

18


chương 2: mục tiêu, đối tượng và phương pháp nghiên
cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu và giới hạn của đề tài
2.1.1 Mục tiêu nghiên cứu
Về lý luận:
-

Góp phần đề xuất xây dựng một hệ thống giám sát và đánh giá nguồn
thông tin tài nguyên rừng ở cấp cộng đồng thôn buôn, dựa trên việc
phối hợp áp dụng công nghệ thông tin víi c¸ch tiÕp cËn cã sù tham gia
cđa céng đồng.


-

Phát hiện một số cơ sở để phát triển phương thức quản lý rừng dựa vào
cộng đồng.

Về thực tiễn:
-

Mô tả quá trình thay đổi sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng trong
cộng đồng trong giai đoạn 1975-2002.

-

Phân tích các tác động bên trong và bên ngoài đến sử dụng đất lâm
nghiệp

-

Đề xuất kế hoạch quản lý rừng dựa vào cộng đồng.

2.1.2 Giới hạn của đề tài
Trong phạm vi thời gian và tính chất của đề tài tốt nghiệp Cao học, phạm vi
nghiên cứu được giới hạn như sau:
Về không gian: tại một buôn, trên đối tượng là rừng và đất rừng
Về cộng đồng: tập trung về truyền thống sử dụng đất của cộng đồng dân
tộc thiểu số Ê Đê. Thuật ngữ "cộng đồng" được sử dụng trong đề tài dùng
để chỉ một cộng đồng dân tộc thiểu số Ê Đê tại buôn Chàm B, xÃ
CưD'răm, huyện Kr«ng B«ng.

19



Các nguyên nhân và tác động đến quản lý sử dụng đất lâm nghiệp được
nghiên cứu có tính chất vi mô, trực tiếp đến các hoạt động trong cộng
đồng nghiên cứu.
2.2 Giả định nghiên cứu
Để có thể đạt được mục tiêu, kết quả nghiên cứu, các giả định sau được đặt
ra:
Có sự thay đổi trong sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng theo các chiều
hướng khác nhau và cần có đánh giá, phân tích để làm sáng tỏ.
Các tác động đến sử dụng đất là tổng hợp và có mối quan hệ lẫn nhau, các
nghiên cứu đơn thuần về đất hoặc xà hội hoặc lâm sinh đều chưa thể đáp
ứng nhu cầu phản ảnh các tác động tổng hợp. Cần thiết có sự kết hợp giữa
hệ thống thông tin dữ liệu và các phân tích thực địa và đánh giá nông
thôn.
Truyền thống quản lý tài nguyên của cộng đồng dân tộc Ê Đê sẽ là cơ sở
quan trọng cho việc phân tích, đánh giá và thảo luận phương thức quản lý
rừng dựa vào cộng đồng.
Các chính sách hiện nay đi theo khuynh huớng hỗ trợ và thúc đẩy cho
phương thức quản lý tài nguyên rừng và đất rừng dựa vào cộng đồng.
2.3 Đối tượng, địa điểm nghiên cứu
2.3.1 Đối tượng, địa điểm nghiên cứu
Các nhóm đối tượng liên quan trong tiến trình nghiên cứu bao gồm:
-

Tài nguyên rừng và đất rừng trong khu vực nghiên cứu

-

Cộng đồng và các bên liên quan trong quá trình sử dụng tài nguyên

rừng

-

Thể chế cộng đồng, các chính sách liên quan đến sử dụng đất áp dụng
tại địa phương.

Địa điểm:

20


Tại buôn Chàm B, thuộc xà Cư Drăm, huyện Krông Bông, tỉnh Dăk Lăk.
Buôn nằm cách trung tâm xà khoảng 1.5 km và cách trung tâm huyện khoảng 30km
về phía tây. Ranh giới hành chính của buôn như sau: Phía bắc giáp ranh giới xÃ
Cưpui; phía nam giáp ranh giới xà Giang Mao; phía đông giáp thôn Giang Hanh
thuộc xà Cư D'răm; phía tây giáp buôn Chàm A, xà Cư D'răm.
2.3.2 Đặc điểm của địa điểm nghiên cứu
Địa hình, đất đai:
Buôn Chàm B nằm trong một thung lũng hẹp được bao quanh bởi các dÃy núi
cao và 2 con sông lớn là Ea Krông Tul và Ea Krông Boung.
Do những biến động lịch sử cũng như do tác động của các chương trình định
canh định cư, kinh tế mới...nên buôn chàm B có 2 khu vực: khu vực cộng ®ång ®ang
sinh sèng bao gåm ®Êt v­ên, ®Êt nµ (®Êt trũng ven sông suối) và một ít rẫy trên dốc
cao xung quanh buôn và khu giao đất giao rừng của cộng đồng (Giang Gri), ở đây
cũng có một số diện tích đất nương rẫy của bà con đang canh tác. Hai khu này
không liền nhau mà bị gián đoạn bởi thôn 5 và thôn 6 (được hình thành theo chương
trình kinh tế mới) và cách nhau khoảng 5km.
Địa hình cơ bản ở đây có hai dạng đặc trưng đó là đồi núi cao và đất trũng
ven sông suối (đất nà).

Đất đai gồm có hai loại đất chính: đất vàng nhạt bạc màu và đất phù sa ven
sông suối. Thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình, đất sét pha thịt.
Khí hậu thuỷ văn:
Khí hậu trong năm được chia làm hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu
từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau.
Lượng mưa trung bình trong năm khoảng 1.700mm 2.000mm. Lượng mưa
trong mùa mưa chiếm gần 90% tổng lượng mưa của cả năm. Hàng năm thường xảy
ra lũ lụt vào tháng 9 và tháng 10.
Nhiệt độ trung bình trong năm là 23oC.
Thảm thực vật:
Rừng trong khu vực thuộc loại rừng lá rộng thường xanh với các loài cây
chiếm ưu thế là các loại Dẻ (Lithcarpus sp.), Chò xót (Schima crenata), các loại

21


Trâm (Syzygium sp.), Lành ngạnh (Cratoxylon polyanthum), Bời lời (Litsea
glutinosa)... và rừng lồ ô tre nứa mọc xen với rừng gỗ và trên nương rẫy bỏ hoá.
Kinh tế, văn hoá, xà hội:
-

Dân số và thành phần dân tộc:

Tổng số hộ trong buôn là 44 hộ, trong đó có 42 hộ là đồng bào dân tộc Ê Đê,
còn lại là 2 hộ người kinh. Tổng nhân khẩu trong buôn là 289 khẩu; nam: 149,
nữ:140
Biểu 2.1 Thống kê dân số và thành phần dân tộc buôn Chàm B
Thành phần
dân tộc


Hộ
Số hộ

Nhân khẩu

%

Tổng

%

Trong đó phân ra
Nam

%

Nữ

%

Ê Đê

42

95.5

277

95.8


143

51.6

134

48.4

Kinh

2

4.5

12

4.2

6

50

6

50

Tổng

44


100

289

100

149

51.6

140

48.4

Hầu hết trong buôn là dân tộc Ê Đê, điều này cho thấy buôn Chàm B khá
thuần nhất về thành phần dân tộc. Đây cũng là một yếu tố thuận lợi trong việc đề
xuất phương hướng quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
-

Tình hình sản xuất, canh tác:

Tổng diện tích tự nhiên của buôn Chàm B: 812.0 ha (theo số liệu của phòng
NN&PTNT huyện, phương án GĐGR của lâm trường Krông Bông), phân thành 2
khu vực như sau:
+Khu vực cộng đồng đang sinh sống: 242.5 ha.
Đất thổ cư: 12.0 ha.
Đất sản xuất nông nghiệp: 65.5 ha.
Lúa nước 1 vụ: 2.2 ha.
Đất rẫy:


29.6 ha.

Cà phê:

20.0 ha.

Cây khác:

13.7 ha.

Đất rừng nghèo kiệt, cây bụi xen le, lồ ô: 165.0 ha.
+Khu vực giao đất lâm ngiệp (Giang Gri) 569.5 ha.
Đất có rừng tự nhiên: 377.7 ha.

22


Đất trảng cỏ cây bụi, nương rẫy cũ: 184.6 ha.
Đất nương rẫy: 7.2 ha.
Qua số liệu thu thập được kết hợp với phỏng vấn, quan sát ngoài thực địa,
nhận thấy tình hình sản xuất ở buôn Chàm B có những điểm nổi bật như sau:
+Về cơ bản buôn Chàm B đà định cư song trong canh tác vẫn còn duy trì
phương thức luân canh nương rẫy (tuy ở mức độ thấp hơn trước đây rất nhiều).
+Diện tích đất canh tác: buôn Chàm B hầu như không có ruộng nước, nên đất
canh tác chủ yếu ở đây là nương rẫy. Nương rẫy có 2 loại: đất ven suối (còn được
gọi là đất nà) và đất dốc.
+Cây trồng: lúa cạn và ngô lai là 2 loại cây trồng chính, ngoài ra còn có một
số cây nông nghiệp khác như mì (sắn), bí bầu các loại... cũng được trồng trong
vườn, trên nương rẫy song không đáng kể. Cây công nghiệp được trồng chủ yếu ở
đây là Cà phê. Tuy nhiên hiện nay diện tích cây Cà phê hầu như đà bị bỏ hoang do

giá cả giảm mạnh, người dân không có vốn để tiếp tục đầu tư chăm sóc. Ngoài Cà
phê ra, người dân ở đây cũng đà có trồng một số cây khác như Điều, Cacao, cây ăn
trái các loại, Cà ri (Điều nhuộm)... nhưng ở quy mô nhỏ hơn và cũng đang chịu
chung số phận như cây Cà phê.
+Vật nuôi: vật nuôi phổ biến ở đây bao gồm: trâu, bò, gà, lợn...trong đó trâu
và bò là 2 loài vật nuôi được các gia đình quan tâm nhất, bởi vì trâu bò cung cấp sức
kéo phục vụ trong sản xuất.... Nhìn chung, chăn nuôi ở đây chưa được chú trọng
phát triển do thiếu vốn để mua giống, chưa có kỹ thuật chăn nuôi tốt, chuồng trại
cũng như nơi chăn thả chưa được quan t©m.
+Ngn thu nhËp chđ u cđa ng­êi d©n hiƯn nay là từ sản xuất nông nghiệp,
mà cụ thể là từ lúa rẫy và ngô lai. Các nguồn thu nhập từ rừng, từ cây cà phê đà bị
giảm sút rõ rệt. Mặc dù diện tích rừng tự nhiên còn khá cao, mối quan hệ gắn bó
giữa cộng đồng với rừng còn chặt chẽ, song do chất lượng rừng đà bị cạn kiệt nên
nguồn thu từ rừng đà không còn như trước đây nữa.
-

Giáo dục - y tế:

Ngoại trừ thôn Giang Hanh, còn lại các thôn buôn khác trong xà đều có
trường tiểu học. Trường phổ thông trung học được xây dựng khá khang trang tại

23


trung tâm. Mạng lưới y tế cũng được chú trọng đầu tư nhưng do địa bàn rộng, dân
cư không tập trung nên chưa thể đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân
dân trong vùng, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
ở xà có một trạm y tế với 1 bác sĩ, 2 y tá đóng tại buôn Chàm A (trung tâm
xÃ). Buôn Chàm B nằm gần khu trung tâm (chỉ cách hơn 1km) nên việc cho con em
đi học, thăm khám chữa bệnh cũng có nhiều thuận lợi hơn so với những thôn buôn

khác.
-

Cơ sở hạ tầng thiết yếu khác:

Giao thông: Cách đây vài năm, việc đi lại của bà con gặp rất nhiều khó khăn,
đặc biệt là trong mùa mưa lũ, đường đất lầy lội, nước sông dâng cao có thể bị cô lập
với các buôn khác và không liên lạc được trong nhiều ngày. Gần đây với những nổ
lực to lớn của nhà nước cùng với các chương trình dự án của các tổ chức phi chính
phủ, cơ sở hạ tầng phục vụ giao thông đà có nhiều cải thiện đáng kể. Các tuyến
đường qua sông đà được bắt cầu treo, tuy tải trọng còn hạn chế song sự ra đời của
những cây cầu này đà giúp cho việc đi lại, làm ăn buôn bán, trao đổi hàng hóa, học
hành...của nhân dân trong vùng được thuận lợi hơn rất nhiều. Hiện nay tuyến đường
tỉnh lộ 12 (từ trung tâm huyện đi vào xÃ) đang được nâng cấp.
Nước sinh hoạt: sử dụng từ hệ thống nước do chính phủ Đan Mạch tài trợ.
Nguồn nước được dẫn từ trên núi cao về đến từng hộ trong buôn.
Nước phục vụ sản xuất: sử dụng nguồn nước tự nhiên từ các con sông lớn và
các khe, suối.
Thông tin liên lạc: tại trung tâm xà có một trạm bưu điện thực hiện dịch vụ
điện thoại công cộng, phòng đọc báo, trao đổi thư tín...
Ngoài ra ở đây còn có trung tâm chuyển giao công nghệ do Trung tâm
khuyến nông tỉnh Đăk Lăk xây dựng (bên cạnh trạm bưu điện với mục đích là nơi tổ
chức các đợt tập huấn cho nông dân trong vùng). Trung tâm có đủ cơ sở vật chất
phục vụ học tập, nơi ăn nghỉ cho khoảng 30-35 người/lượt.
Từ các thông tin cơ bản trên đây cho thấy so với nhiều xà vùng sâu vùng xa
khác, xà Cư D'răm có hệ thống cơ sở hạ tầng: y tế, giáo dục, giao thông, phương tiện
truyền thông và các dịch vụ khác tương đối hoàn chỉnh và đầy đủ, đáp ứng được nhu

24



cầu đời sống văn hoá xà hội cho địa phương. Đây chính là nhờ sự nổ lực của nhà
nước, của chính quyền địa phương các cấp cùng với những nỗ lực của người dân và
sự giúp đỡ từ bên ngoài.
2.4 Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu đặt ra về lý luận cũng như thực tiễn, đề tài tập trung
nghiên cứu theo các nội dung sau:
Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng tài nguyên rừng của cộng
đồng
Xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên rừng và đất rừng, bao gồm:
-

Cơ sở dữ liệu không gian và thuộc tính của hiện trạng sử dụng đất
trong các năm 1975, 1987, 1992, 2000.

-

Cơ sở dữ liệu về thay đổi trong sử dụng đất.

Phát hiện và phân tích tác động của các nhân tố liên quan đến quản
lý sử dụng đất lâm nghiệp và mối quan hệ giữa chúng trong bối cảnh
sử dụng đất của cộng đồng.
Phân tích hiện trạng quản lý rừng cộng đồng và xác định các nhân tố
cần thúc đẩy cải tiến
Xây dựng khung logic và lập kế hoạch định hướng theo mục tiêu phát
triển quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
2.5 Phương pháp nghiên cứu
2.5.1 Phương pháp luận tổng quát:
Sử dụng phối hợp kỹ thuật, công nghệ của hệ thống thông tin địa lý (GIS) và
phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân, các bên liên quan. Việc kết hợp

này nhằm mô tả hiện trạng và phân tích thay đổi trong sử dụng đất lâm nghiệp cả về
định tính và định lượng, làm cơ sở để thiết lập một cơ sở dữ liệu và hỗ trợ trong
phương hướng quản lý rừng dựa vào cộng đồng trong tương lai.

25


2.5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
2.5.2.1. Phương pháp tiếp cận có sự tham gia:

Sử dụng các công cụ PRA: các công cụ PRA được sử dụng bao gồm các
nhóm theo loại hình thông tin thu thập:
-

Nhóm thông tin kinh tế, xà hội: dòng lịch sử thôn buôn, phân loại kinh
tế hộ, phân tích kinh tế hộ...

-

Nhóm thông tin về tài nguyên thiên nhiên: biểu đồ hướng thời gian,
bản đồ nguồn tài nguyên đất lâm nghiệp, lát cắt, ma trận về chọn loại
cây trồng, số liệu thứ cấp....

-

Nhóm thông tin vỊ tỉ chøc: ma trËn vỊ c¸c tỉ chøc, giản đồ Venn,
quản lý làng buôn truyền thống, luật tục...

Các công cụ phân tích thông tin có sự tham gia:
-


Thảo luận nhóm, động nÃo, Phillips, phỏng vấn để phát hiện các nhân
tố bên trong và bên ngoài chủ yếu liên quan đến quá trình sử dụng đất
lâm nghiệp.

-

Các công cụ phân tích SWOT, 5Whys,... để phân tích mức độ tác
động, chiều hướng tác động của mỗi nhân tố và mối quan hệ giữa
chúng trong bối cảnh sử dụng đất của cộng đồng.

Công cụ phân tích định vị quản lý rừng cộng đồng của nhóm lâm
nghiệp cộng đồng quốc gia: bao gồm việc xác định các mức độ quản lý
rừng cộng đồng như: truyền thống còn lưu giữ, áp dụng, quản lý và thu lợi
từ rừng, các chính sách hỗ trợ,... Đây là cơ sở để đánh giá mức độ quản lý
rừng cộng đồng hiện hành và xem xét các nhân tố cần hỗ trợ.
Phương pháp ZOPP để lập kế hoạch hướng mục tiêu:
ZOPP là từ viết tắt của 04 chữ cái đầu tiếng Đức: Ziel: Các mục tiêu;
Orientierte: Định hướng; Projekt: Dự án; Planung: Lập kế hoạch. ZOPP là:
-

Một bộ các thủ tục và công cụ để lập kế hoạch. Các thủ tục được xử
lý theo các bước logic và được rà soát cẩn thận

26


-

Một phương pháp để tham gia phân tích tình huống và lập kế hoạch

định hướng theo mục tiêu.

-

Được thực hiện theo nhóm, tập thể.

Bản chất của nó là trên cơ sở lựa chọn, phân tích các vấn đề mà cộng đồng và
các bên cùng quan tâm, xác định ra mục tiêu của quản lý đất rừng; và dựa vào mục
tiêu mà các bên nhất trí để phân tích một chiến lược, kế hoạch hành động mang tính
thực tiễn bao gồm kết quả mong đợi, các hoạt động cũng như các nguồn lực và cách
tổ chức để đạt được mục tiêu.
Thành phần tham gia: tham gia vào tiến trình đánh giá và phân tích tình
hình và lập kế hoạch bao gồm:
-

Hơn 1/2 tổng số hộ trong thôn buôn tham gia thảo luận, cung cấp
thông tin.

-

Đại diện Ban lâm nghiệp xÃ, lÃnh đạo thôn, xÃ, địa chính xÃ.

-

Đại diện lâm trường Krông Bông.

-

Phòng Nông nghiệp & Địa chính huyện Krông Bông.


2.5.2.2. Phương pháp GIS.

Xây dựng cơ sở dữ liệu nền: hỗ trợ chủ yếu cho tiến trình này gồm có:
ảnh vệ tinh, bản đồ UTM 1: 50.000; phần mềm GIS là Acrview. Các dữ
liệu không gian đều được tham chiếu thèng nhÊt theo hƯ quy chiÕu chn
lµ UTM zone 48 Indian.
-

Bản đồ UTM được xem như là nguồn dữ liệu không gian về địa hình.
Địa điểm nghiên cứu với diện tích khoảng hơn 800 ha. Quét các mảnh
bản đồ này vào máy tính (máy quét có cấu hình cho khổ giấy A3) và
tham chiếu toạ độ nhờ phần mở rộng Mapscan chạy trong phần mềm
Arcview, sau đó ghép 2 mảnh này lại thành một lớp thông tin.

-

Tiến hành số hóa các hệ thống sông suối và đường giao thông theo
kiểu dữ liệu vector dựa trên nền bản đồ UTM. Các dữ liệu không gian
khác nhau được lưu giữ trong các tập tin (file) riêng biệt để có thể

27


×